Đề án Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp

Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước ta là chủ trương hoàn toán đúng đắn. Nó là một trong những biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Kết quản đạt được của việc thực hiện cổ phần hoá trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Nhưng hiện nay vẫn còn rất nhiều điều bức xúc cần giải quyết, đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa giữa các cấp, các ngành, từ Trung Ương đến địa phương và sự ủng hộ tích cực của nhân dân nói chung và người lao động trong doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, đề tài đã nêu rõ tính tất yếu phải thực hiện cổ phần hoá cùng với mục đích của nó. Mặt khác trên cơ sở thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã vạch ra những nguyên nhân gây cản trở trên tiến trình cổ phần hoá và từ đó đề xuất các giải pháp để giải quyết những nguyên nhân đó nhằm đẩy nhanh việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên với thời gian và trình độ có hạn mà cổ phần hoá mới chỉ ở nước ta ở trong những giai đoạn đầu nên khó tránh khỏi những mặt còn hạn chế. Do đó ngoài những kết quả đóng góp của đề án có những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu sâu thêm để góp phần thúc đẩy cổ phần hoá trên thực tế.

doc37 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và tạo ra sức bật mới. III. Mục tiêu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 đã nêu : 1. Mục tiêu trực tiếp của CPH DNNN. Một là, chuyển đổi sở hữu, thực hiện sở hữu hỗn hợp ở những doanh nghiệp cụ thể nào đó, giảm sở hữu của Nhà nước, tăng sở hữu tư nhân, cá thể trong các doanh nghiệp được CPH. Hiện nay, nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả. Nguyên nhân có rất nhiều, song nguyên nhân quan trọng là chế độ đại diện sở hữu nhiều cấp mà trách nhiệm vật chất không rõ ràng. Các DNNN ra đời trong cơ chế hành chính, tập trung bao cấp nên ngày càng bị quan liêu hoá, mất tính độc lập trong sản xuất - kinh doanh. Các DNNN thuộc sở hữu toàn dân, nhưng về phương diện kinh tế và quản lý, toàn dân không thể thực hiện được quyền sở hữu của mình, do vậy, phải uỷ quyền cho Nhà nước. Nhà nước gồm nhiều cấp, từ trung ương đến địa phương, cũng không thể thực hiện được quyền sở hữu do dân uỷ nhiệm, nên phải uỷ nhiệm cho các bộ hoặc UBND các tỉnh. Đến lượt mình, các bộ, hoặc UBND các tỉnh uỷ quyền cho các tổng công ty hoặc các sở, cứ như vậy, giám đốc các DNNN mới là người trực tiếp quản lý sử dụng tài sản. Giám đốc chỉ là người đại diện, chủ sở hữu đích thực là toàn dân. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các DNNN phải được đổi mới và chọn lọc lại theo nguyên tắc xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa Nhà nước và DNNN. Cùng với việc đánh giá, giao khoán vốn để xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa Nhà nước với doanh nghiệp mà trách nhiệm chính là giám đoóc, thì CPH là biện pháp quan trọng khắc phục tình trạng không có chủ sở hữu cụ thể của các DNNN. Nhờ sự phân định về quyền pháp nhân (thuộc thực thể kinh doanh) và quyền sở hữu (thuộc Nhà nước), các doanh nghiệp CPH trở thành chủ thể sản xuất - kinh doanh, không những có quyền mở rộng kinh doanh mà còn có quyền xử lý tài sản, chuyển đổi cơ chế kinh doanh. Hai là, CPH góp phần tách người sở hữu ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh, giúp cho chuyên nghiệp hoá chức năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần là tổ chức đại diện cho nhiều sở hữu cổ phần, tập trung vốn giao cho người được đào tạo chuyên môn, có năng lực quản lý và tổ chức kinh doanh. Do vậy, quản lý trở thành một nghề, có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Ba là, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn được làm chủ. CPH như một chất keo gắn người lao động với hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Họ không chỉ là người công nhân mà còn là chủ nhân của doanh nghiệp đó. Việc cho phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phần nội bộ khiến vai trò cổ đông và vai trò người lao động thống nhất với nhau. Người lao động sẽ là những người trực tiếp giám sát, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với ý nghĩa này, CPH biến doanh nghiệp thành liên hợp lợi ích của người lao động, là điểm mấu chốt làm cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNNN khi đã được CPH sẽ tránh được sự điều hành theo kiểu mệnh lệnh hành chính, ảnh hưởng đến tính tự chủ trong sản xuất - kinh doanh. Bốn là, tăng khả năng huy động và tập trung vốn mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều DNNN khi chuyển sang hoạt động trong cơ chế thị trường đều rơi vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Vốn Nhà nước giao coh bao gồm cả nợ khó đòi, sản phẩm, vật tư ứ đọng không có khả năng sử dụng được hoặc không thể sản xuất ra sản phẩm mà thị trường cần. Do vậy, bộ phận vốn lưu động dùng để kinh doanh thường xuyên thiếu. Năm là, góp phần đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Chuyển sang kinh tế thị trường, Nhà nước phải thay đổi căn bản cách thức quản lý đối với các DNNN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Sáu là, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Mục tiêu tổng quát của CPH DNNN. + CPH DNNN, một mặt giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đứng vững và phát triển trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Mặt khác, CPH còn là bước đi quan trọng để Nhà nước thực hiện những mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. + CPH góp phần quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các công ty cổ pohần và thị trường chứng khoán là điều kiện đầu tiên đảm bảo thị trường vận hành đồng bộ, xây dựng mới các công ty cổ phần, CPH các DNNN hình thành thị trường chứng khoán là một trong những biện pháp cấp bach. Chính vì vậy, có thể thấy mục tiêu bao trùm của CPH DNNN là góp phần chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế theo những nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đây là một mục tiêu tổng quát bao trùm và tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Quan trọng hơn, CPH còn tạo ra sự hợp tác về sở hữu, hình thành sở hữu hỗn hợp, tạo sự thống nhất, trên cơ sở đó thống nhất suy nghĩ và hành động của những chủ thể vốn trước đây đối lập nhau, tất cả hướng vào mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chương II Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. nguyên nhân cổ phần hoá còn chậm và một số phương hướng chủ yếu đẩy nhanh việc thực hiện CPH I. Thực trạng cổ phần hoá DNNN ở nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra chủ trương chính sách cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ngay từ đầu những năm 1990, từng bước thực hiện và đầu đổi mới cho phù hợp với từng giai đoạn của tiến trình cổ phần hoá. 1. Chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Thực hiện chủ trương đổi mới DNNN Đảng ta đã ra các nghị quyết chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sang Công ty cổ phần: + Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII (tháng 11 năm 1991) đã ghi "chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty cổ phần và thành lập một số Công ty quốc doanh cổ phần mới phải làm thí điểm, chỉ tạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp". + Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi : "Thí điểm việc cổ phần hoá 1 số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". + Nghị quyết hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII( tháng 1 - 1994) chỉ rõ cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn cho các doanh nghiệp. + Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước ( số 10 - NQ/TW) đã chỉ rõ : " ...Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp". + Thông báo số 63 - TB/TƯ ngày 4/4/1997 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. + Quyết định số 202/CT ngày 08/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Quyết định số 203KT ngày 08/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm vào giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. + Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính Phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đôí với các doanh nghiệp Nhà nước. + Nghị định số 28/ CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. + Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP (ngày7/5/1996). + Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính ph về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. + Nghị định số 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về "chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần". + Nghị định số 64/CP của Chính phủ ngày 19/9/2002 và các văn bản hướng dẫn về chuyển các DNNN thành Công ty cổ phần. 2. Thực trạng cổ phần hoá DNNN từ năm 1992 đến nay. 2.1. Đánh giá các giai đoạn phát triển cổ phần hoá DNNN. * Giai đoạn thí điểm (Từ 1992 - 1996). Từ năm 1992 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ, có quyết định số 202/CT về làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Căn cứ vào số lượng doanh nghiệp Nhà nước đăng ký cổ phần hoá, Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp để chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là : 1. Nhà máy xà phòng Việt Nam ( thuộc Bộ Công nghiệp). 2. Nhà máy diêm thống nhất ( Thuộc Bộ Công nghiệp). 3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Thuộc Bộ Công nghiệp). 4.Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình ( Bộ Công nghiệp). 5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng ( Bộ Thương Mại). 6. Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội ( Thành phố Hà Nội). 7. Xí nghiệp dệt may Legamex ( Thành phố Hà Nội). Sau một thời gian tiến hành làm thử, các doanh nghiệp Nhà nước được chọn lựa thí điểm đều xin rút hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Tiếp đến ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 84/TTg về việc tiếp xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó có hơn 3 0 doanh nghiệp đã đăng ký để thí điểm. Thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Qua 4 năm thực hiện quyết định 202/TCT(1992 -1996) và chỉ thị số 84/TTg trong toàn quốc có 5 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang Công ty cổ phần, gồm : 1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông). 2. Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( Thành phố Hồ Chí Minh). 3. Công ty cổ phần giấy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp). 4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An ( Tỉnh Long An). 5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc ( Bộ Công nghiệp). Theo một hướng khác, có 2 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ Thương Mại tổng hợp Quận Hồng Băng (Hải Phòng) và Công ty gạch bông Đức Tân (Thành Phố Hồ Chí Minh). * Giai đoạn mở (6/1996 - 6/1998). Sau 4 năm thực hiện, Chính phủ các ngành, các địa phương đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung, tổng hợp ghi nhận một số vấn đề vướng mắc nảy sinh mà trước đó chúng ta chưa hình dung được. Ngày 7/5/1996 số nghị định số 28/CP của Chính phủ đã ra đời để đáp ứng kịp thời cho những đòi hỏi của thực tiễn. Thực hiện nghị định 28/CP, công tác cổ phần hoá đã được các Bộ, ngành, các tỉnh quan tâm hơn và đã triển khai một số công việc sau : + Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá do Bộ trưởng Bộ tài chính làm trưởng ban có các thành viên là các cơ quan lớn như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ lao động thương binh và xã hội, Ban kinh tế Trung ương Đảng, Ban tổ chức Trung ương Đảng và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. + Có 16 Bộ, ngành, Tổng Công ty Nhà nước thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. + Có 31 tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá, các địa phương khác do Ban đổi mới doanh nghiệp kiêm nghiệm hoặc giao cho một tổ chuyên viên giúp việc. Trong quá trình triển khai công việc, một số Bộ và địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương chính sách về cổ phần hoá cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ xây dựng, Bộ Thuỷ sản, Bộ Công nghiệp và phát triển nông thôn, Tỉnh Lâm Đồng, Bình Định, Quảng Ninh.....Tuy nhiên còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Như vậy, sau khi có nghị định 28/CP đến cuối năm 1997 chúng ta tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp cổ phần lên 18, với tổng số vốn là : 121.384 triệu đồng gồm : + Nếu phần theo ngành : - Ngành giao thông vận tải : 4 doanh nghiệp - Ngành công nghiệp : 7 doanh nghiệp - Ngành xây dựng : 1 doanh nghiệp - Ngành chế biến nông lâm thuỷ sản : 3 doanh nghiệp - Ngành dịch vụ : 3 doanh nghiệp + Nếu phân theo lãnh thổ : - Thành phố Hồ Chí Minh : 10 doanh nghiệp - Thành phố Hà Nội : 1 doanh nghiệp - Thành phố Hải Phòng : 1 doanh nghiệp - Thành Phố Đà Nẵng : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Long An : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Ninh Bình : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Bình Định : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Cà Mau : 1 doanh nghiệp - Tỉnh An Giang : 1 doanh nghiệp Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp Nhà nước bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18% cao nhất là 5% cổ phần của Công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong Công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là Công ty cổ phần cơ điện lạnh, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp, vốn giảm dần như xí nghiệp Vifoco, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sưả chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định....Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức Công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển, có tiến bộ về mọi mặt, Nhà nước và doanh nghiệp, người lao động đều có lợi cụ thể như sau : + Đối với các doanh nghiệp ( số liệu của 18 doanh nghiệp) - Vốn tăng bình quân 45%/ năm - Doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm - Lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/ năm - Nộp ngân sách tăng bình quân 98%/ năm - Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/ năm - Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/ năm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 74,6/ năm + Đối với Nhà nước : Do sản xuất phát triển, doanh thu và lợi nhuận đều tăng nên tiền thuế của các Công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước còn thu được 32.724 triệu đồng từ các nguồn sau : - Tiền thu về bán cổ phần : 30207 triệu đồng - Phần lợi tức của Nhà nước từ các Công ty cổ phần : 6995 triệu đồng - Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của cán bộ công nhân viên 555 triệu đồng ( Chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các Công ty cổ phần mua chịu cổ phần là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả nhà nước). + Đối với người lao động và xã hội. Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22 - 24%/ năm. Ngoài số lao động cũ, các Công ty đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào việc làm. Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả, tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5 đến 2 lần (sau 1 đến 2 năm hoạt động ). Như vậy tính khả thi và hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá đã được thực tế chứng minh. Nhưng tốc độ cổ phần hoá vẫn chậm so với kế hoạch dự kiến của Bộ tài chính. * Giai đoạn chủ động (7/1998 - 7/2002). Năm 1998 lần đầu tiên trong chỉ thị của Thủ tướng chính phủ đã đề ra chỉ tiêu cụ thể cho nhiệm vụ cổ phần hóa. Đó là trong năm 1998 - 1999 thực hiện được mục tiêu cổ phần hoá 150 doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc triển khai rất chậm trễ, điều đó có nguyên nhân từ nhiều phía. Trước tình hình đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần thay thế Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và Nghị định 25/CP ngày 26/3/1997. Sự ra đời của Nghị định 44/CP đã thữ sự tạo ra một động lực mới, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN ở các Bộ, ngành, các địa phương và các Tổng Công ty trong giai đoạn vừa qua. Biểu hiện: Trong các năm 1999, 2000, 2001, bình quân mỗi năm hoàn thành chuyển đổi sở hữu trên 280 doanh nghiệp gấp 8 lần số doanh nghiệp được cổ phần hoá của 7 năm trước đó), đưa số doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp hoàn thành công tác cổ phần hoá tại thời điểm 31/12/2002 lên con số hơn 900. Kết quả điều tra trên 400 doanh nghiệp đã cổ phần hoá và đa dạng hoá từ 1 năm trở lên cho thấy hầu hết các doanh nghiệp này đều tốt, các chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, thu nhập và việc làm của người lao động trong doanh nghiệp đều tăng trưởng rõ rệt. Về phía Nhà nước, không chỉ được tăng thu ngân sách từ sự nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cổ phần hoá mà còn huy động được gần 2.500 tỷ vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để đổi mới, phát triển doanh nghiệp và giải quyết chính sách cho người lao động. Có thể nói, tiến trình cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn vừa qua đã có những chuyển biến tích cực, nhưng nếu so với mục tiêu được đặt ra là phải cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, và cơ cấu lại DNNN trong 5 năm 2001 - 2005 thì tiến độ như trên vẫn còn quá chậm (chỉ đạt khoảng 50% kế hoạch)... Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự chậm trễ trên vẫn chính là những bất cập trong cơ chế để thực hiện cổ phần hoá DNNN (bao gồm cả những qui định không còn phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan) như: + Sự chưa rõ ràng trong tiêu chí phân loại và lựa chọn doanh nghiệp. + Sự hạn chế về quyền mua cổ phần của các nhà đầu tư. + Những bất cập trong cơ chế xử lý tồn tại về tài chính, lao động dôi dư coh doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá cũng như cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp. + Sự trùng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện cổ phần hoá... + Vấn đề đặt ra là phải sớm thiết lập một hệ thống cơ chế mới mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn để có thể đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá DNNN trong thời gian tới. * Giai đoạn đẩy mạnh (từ tháng 7/2002 trở đi). Theo số liệu của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương, tính đến 30/6/2003, số DNNN được cổ phần hoá là 148 doanh nghiệp, bằng 16% so với kế hoạch năm (kế hoạch năm 2003 là CPH 927 doanh nghiệp). Riêng trong vòng 45 ngày (tính từ 18/5 đến 30/6) đã có gần 50 doanh nghiệp được CPH, bằng 50% số đơn vị CPH trong hơn 5 tháng trước đó (hơn 5 tháng đầu năm chỉ có 101 DNNN được CPH). Đây là kết quả đáng khích lệ bởi trong 6 tháng đầu năm 2002, cả nước chỉ có 79 DNNN được CPH. Nếu tốc độ CPH 6 tháng còn lại của năm 2003 được duy trì như 6 tháng đầu năm, thì so với kế hoạch cả năm có thể chỉ đạt trên 30%, nhưng số DNNN được CPH năm 2003 (khoảng 300 doanh nghiệp) vẫn là con số kỷ lục so với những năm trước đó. Để đẩy mạnh quá trình CPH DNNN, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch sắp xếp DNNN giai đoạn 2003 - 2005 như sau: 2003 2004 2005 Tổng số 3 năm Số doanh nghiệp được sắp xếp 1.515 767 338 2.620 Cổ phần hoá 927 676 326 1.929 Sáp nhập 260 55 8 323 Giao bán 137 26 4 167 Giải thể 85 6 0 91 Phá sản 27 1 0 28 Chuyển thành đơn vị sự nghiệp 45 2 0 47 Chuyển thành cơ quan quản lý 34 1 0 35 Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã đặc cách tổ chức phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp và đổi mới DNNN giai đoạn 2002 - 2005 nhằm tạo điều kiện cho các Bộ, ngành, địa phương, TCT 91 thực hiện ngay việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, nhưng cho đến hết tháng 8/2003, tông số DNNN đã thực hiện CPH là 1094 doanh nghiệp, việc CPH DNNN mới thực hiện được 22% kế hoạch của năm 2003 mới được thực hiện. Cụ thể, trong 8 tháng vừa qua, mới có 337 trong số 1.500 DNNN theo kế hoạch đã hoàn thành sắp xếp lại, trong đó cổ phần hoá được 182 doanh nghiệp, giao, bán 33 doanh nghiệp còn lại là thực hiện theo các hình thức khác. Mặc dù vậy, ngoài những doanh nghiệp thực hiện thành công cổ phần hoá, chúng ta còn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ, kinh doanh kém hiệu quả. Tốc độ CPH của ta còn chậm chạp và thành công bước đầu của chúng ta còn rất nhỏ bé so với lượng công việc phải làm. Do đó, cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ CPH DNNN bằng những giải pháp hữu hiệu và thiết thực hơn. 2.2. Các kết luận chủ yếu. 2.2.1. Những kết quả đạt được. Qua hơn 10 năm thực hiện chuyển đổi DNNN thành Công ty cổ phần ở nước ta, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng kể . a. Tình hình CPH DNNN. Đến tháng 6/1998 cả nước đã CPH được 30 DNNN. Trong đó, 5 doanh nghiệp thực hiện thí điểm theo Quyết định 202 của Chủ tịch HĐBT, 25 doanh nghiệp thực hiện theo cơ chế qui định trong Nghị định 28/CP. Các DNNN đã CPH trong các năm 1992 - 1998 có những tiến bộ khác nhau về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44 đến ngày 31-12-1999 đã có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được chuyển thành CTCP. Riêng năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp, gấp 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Như vậy, về mặt số lượng, thì tốc độ CPH sau khi có Nghị định 44 được đẩy mạnh. Nhiều bộ, ngành, địa phương, tổng công ty Nhà nước đã tích cực thực hiện và có những kết quả khích lệ: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Nam Định, Bộ xây dựng, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các tổng Công ty Hàng Hải, Cà phê, Than... Một số bộ, địa phương và tổng Công ty 91 kết quả CPH còn hạn chế, như: Bộ Công nghiệp, Bộ Thuỷ sản, Cần Thơ, Khánh Hoà, Tổng Công ty hoá chất, thép... Đến hết 1999, còn 6/13 bộ, 7/17 tổng công ty 91 và 21-61 tỉnh chưa có DNNN nào được chuyển sang Công ty cổ phần. Đến tháng 8/2003 cả nước đã có 1094 DNNN chuyển thành Công ty cổ phần. b. Kết quả cụ thể. + Về hiệu quả sản xuất kinh doanh các DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn. Qua báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian hoạt động trên một năm, kể cả những doanh nghiệp trước đó bị thua lỗ cho thấy doanh thu bình quân tăng gần 2 lần. Công ty cổ phần Cơ điện lạnh năm 1999 đạt 178 tỷ đồng, gấp gần bốn lần so với trước khi CPH, Công ty bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ, gấp 1,5 lần so với trước khi CPH... Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng. Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài). Nổi bật là Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An, vốn tăng 5 lần, Công ty cổ phần Việt Pohng vốn tăng 2,4 lần. Nộp ngân sách tăng bình quân 2 lần so với trước khi CPH điển hình là Công ty cổ phần cơ điện lạnh TP. HCM tăng gần 3 lần, Công ty cổ phần sơn Bạch Tuyết tăng 2,7 lần.. + Về việc làm và thu nhập của DNNN được CPH bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động ổn định và có chiều hướng tăng lên. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp này tăng bình quân 12%. Thu nhập của người lao động làm việc tại các Công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm gần 20% (chưa kể thu nhập từ cổ tức). Điển hình trong năm 1999 Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 4 triệu đ/người/tháng bằng gần 3 lần so trước khi CPH, Công ty cổ phần Ong mật TP. HCM đã đạt 1,3 triệu đ/người/tháng, bằng 2 lần so trước khi CPH. Là chủ nhân thực sự trong Công ty cổ phần, người lao động đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân mình Công ty Nhà nước và xã hội. + Về huy động vốn tại thời điểm CPH, 370 DNNN CPH có giá trị phần vốn Nhà nước là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện CPH đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào Công ty cổ phần, đồng thời Nhà nước cũng đã thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH. + Hình thành một mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó chặt chẽ quyền lợi và trách nhiệm cổ đông và lao động trong doanh nghiệp. 2.2.2. Những hạn chế. Bên cạnh những ưu điểm việc chuyển đổi DNNN thành Công ty cổ phần và các Công ty cổ phần đã được chuyển đổi còn nhiều hạn chế. + Tốc độ cổ phần hoá còn chậm, thiếu kiên quyết, chưa hoàn thành kế hoạch đề ra. + Cơ cấu doanh nghiệp còn nhiều bất hợp lý. + Hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự trợ giúp của Nhà nước. + Công nợ còn nhiều + Công nghệ chậm đổi mới + Lao động dôi dư còn lớn; chưa thực sự chủ động trong kinh doanh, trình độ quản lý còn yếu kém. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc. Cải cách hành chính chậm; nhiều cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chưa tạo động lực mạnh cho các doanh nghiệp và người lao động, hạn chế quyền tự chủ của doanh nghiệp; tổ chức chỉ đạo thực hiện thiếu kiên quyết, kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu kiểm tra đôn đốc; một số bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của DNNN chưa đáp ứng nhu cầu, kém năng lực phẩm chất, thiếu trách nhiệm. II- Những nguyên nhân cổ phần hoá còn chậm. 1. Từ phía Nhà nước và địa phương Một là : Các ngành, các cấp ở Trung ương và địa phương chưa quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang Công ty cổ phần. Các địa phương, cơ sở không nhiệt tình làm hết trách nhiệm được giao, việc thành lập và đôn đốc các ban cổ phẩn hoá không được chú ý đúng mức. Một số lãnh đạo chính quyền cơ sở lo ngại cổ phần hoá làm mất chủ quyền của nhà nước, mất vai trò kinh tế của quốc doanh. Mặt khác cán bộ tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong ty mình một số doanh nghiệp nhà nước đáng kể để chi phối. Nếu cổ phần hoá thì không còn đối tượng để chi phối nữa, tức là mất quyền , mất “ lợi ích ”. Từ đó do dự, chần chừ, không kiên quyết hoặc chưa muốn cổ phần hoá. Hai là, Công tác chỉ đạo của Nhà nước còn chậm và lúng túng nhà nước chưa có các văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý như luật, pháp lệnh về cổ phần hoá. Các văn bản ban hành thiếu đồng bộ, trong thời gian trước đây chậm quy định phạm vi doanh nghiệp cho phép cổ phần. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo chưa rõ ràng thiếu cụ nhiều vấn đề chưa được khẳng định dứt khoát như : Trách nhiệm của cán bộ, ngành, địa phương trong việc chỉ đạo cổ phần hoá, việc bán cổ phần cho người nước ngoài có quy định nhưng chưa có văn bản hướng dẫn để thực hiện các ngành, các cấp ít quan tâm đến việc huy động vốn bằng hình thức này , còn lúng túng chưa dám làm. Quy trình cổ phần hoá rườm rà phức tạp nhiều thủ tục phiền phức tốn kém dễ gây nản chí cho cơ sở. Các hướng dẫn của ta còn thiếu tính thực tế không bao quát hết các vướng mắc muôn hình vạn trạng tại cơ sở nên khi gặp các trường hợp cụ thể địa phương không biết nên sử lý thế nào cho đúng, khá nhiều lúng túng đã xảy ra. Ba là , bộ phận chỉ đạo ở cả Trung Ương và địa phương đều kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước dẫn đến công việc bị chậm chễ kéo dài. Trong thời gian dài trước đây Ban chỉ đạo Cổ phần hoá Trung Ương không đủ thẩm quyền quyết định trực tiếp các đề án, kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc các bộ ngành địa phương thực hiện cổ phần hoá. Bốn là, một số chính sách chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp cổ phần hoá chưa đủ sức hấp dẫn, không lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành cổ phần hoá như : Các doanh nghiệp nhà nước còn được nhiều ưu đãi, cách tính giá trị doanh nghiệp bao gồm cả việc xác định lợi thế của doanh nghiệp chưa có căn cứ khoa học, chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá chỉ được giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm đầu ( bất kể có lãi hay không ) còn thấp hơn so với đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước.Đặc biệt, quy định về mức lệ phí đăng ký kinh đối với các công ty cổ phần hiện nay là 0,1% thực vốn lúc đăng ký là quá cao, không thích hợp đối với công ty cổ phần khi đi vào hoạt động. 2. Từ phía người lao động Mặc dù với kết quả khả quan bước đầu ở các doanh nghiệp đã cổ phần hoá nhưng người lao động vẫn còn nhiều băn khoăn lo ngại và đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tiến trình cổ phần hoá còn chậm chạp. Thứ nhất là, tệ tham nhũng trong các hoạt động kinh tế vẫn thường xuyên xảy ra và ngày càng gia tăng gây thất thoát tiền của tài sản cho nhà nước của doanh nghiệp làm cho người lao động chưa thực sự tin tưởng vào hệ thống lãnh đạo của doanh nghiệp khi chuyển sang doanh nghiệp cổ phần Thứ hai là, người lao động không biết lấy tiền đâu để mua cổ phần. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế đời sống của đa số người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước được nâng cao, nhưng khá nhiều người chỉ đủ ăn chưa có tích luỹ về tiền và tài sản. Nhất là những người làm việc trong các doanh nghiệp không có lãi hoặc lãi ít, khi cổ phần hoá họ lo ngại vì không có tiền để mua cổ phần. Nghị định 44/ CP ngày 29 – 06 – 1998 của Chính phủ về “ Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần ” đã tháo gỡ từng bước khó khăn đó như : Người lao động trong doanh nghiệp được mua cổ phần với giá ưu đãi thấp hơn 30% so với các đối tượng khác . Mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần. Riêng đối với người lao động nghèo trong phạm vi được mua cổ phần ưu đãi, được hoãn trả tiền trả lãi suất trong 3 năm và trả dần tối đa 10 năm không phài trả lãi suất. Tuy nhiên vẫn còn 70% giá trị cổ phần người lao động phải lo liệu để mua đủ, nếu họ không thuộc diện người lao động nghèo và với quy định hiện nay, có thể nói hầu như không ai thuộc diện nghèo vì rất ít gia đình có thu nhập bình quân dưới 144.000 đ/ tháng. Thứ ba là, do người lao động lo lắng về việc làm của họ sau cổ phần hoá. Liệu sau cổ phần hoá việc làm của họ còn được tiếp tục hơn ? Doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá tất yếu phải sắp xếp lại lao động để nâng cao hiệu quả hoạt động. Những người đáp ứng yêu cầu sẽ tiếp tục công việc cũ, còn người không đạt yêu cầu sẽ phải đào tạo bồi dưỡng hoặc làm công việc khác…Người lao động trực tiếp không biết họ nằm trong diện nào, làm công việc mới là công việc gì ? Tuy quy định mới đã ghi : Tiền bán cổ phần được sử dụng để đào tạo, đào tạo lại và giải quyết việc làm mới cho người lao động, song câu hỏi đặt ra là đào tạo, bồi dưỡng bao lâu ? phụ cấp ( để ) đi đào tạo thế nào có đủ không ? Nếu không làm công việc cũ và không đi đào tạo, bồi dưỡng họ sẽ làm gì ? Với người lao động gián tiếp, người giữ cương vị lãnh đạo thì còn lo lắng nhiều hơn về chức vụ họ đang đảm nhận. Họ có nằm trong tinh giảm lao động gián tiếp không ? Chức vụ lãnh đạo đang đảm nhiệm nếu chuyển giao cho người khác thì họ làm công việc gì. Thứ tư là , do người lao động lo lắng đến vấn đề thu nhập sau khi thực hiện cổ phần hoá người lao động rất lo lắng đến việc này bởi nó ảnh hưởng đến đời sống của họ và gia đình. Những tấm gương về các doanh nghiệp sau cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả, thu nhập tăng gấp hai lần so với trước khi cổ phần hoá chưa làm người lao động yên lòng vì hầu hết số đó là những doanh nghiệp trước lúc cổ phần hoá là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hoặc được sự quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành, không có cạnh tranh lớn. Còn doanh nghiệp của họ mặt hàng sản xuất, trình độ tổ chức quản lý còn yếu kém, sau cổ phần hoá kết quả sản xuất kinh doanh sẽ ra sao ? Tỷ suất sinh lời của đồng vốn bỏ vào mua cổ phần hoá có cao hơn lãi suất ngân hàng không ? Thu nhập của họ sẽ thế nào. Tất cả những lo lắng trên của người lao động là chính đáng bởi nó gần gũi, thiết thực với người lao động. Người lao động luôn mong muốn có việc làm , thu nhập ổn định để đảm bảo cho cuộc sống gia đình của họ. Bởi vậy họ lo khi thực hiện cổ phần hoá công ăn việc làm của họ sẽ không được ổn định, đảm bảo. Do đó cần phải tích cực tuyên truyền, phân tích vận động họ tham gia vào cổ phần hoá. Những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay rất lớn, và họ chính là những cổ động chủ yếu của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu người lao động không hưởng ứng nhiệt tình thì chắc chắn việc triển khai cổ phần hoá sẽ không thể đạt được kết quả mong muốn 3. Từ phía doanh nghiệp Thứ nhất là , vấn đề tài sản và nợ của các doanh nghiệp nhà nước. Việc xác định giá trị doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn xung quanh vốn đề này. Trong tổng số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì có tới 90 – 95% được tín dụng nhà nước bao cấp. Nhưng có tới 40 – 45% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và từ 20 – 25% sóo doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Số doanh nghiệp còn lại tuy hiệu quả sản xuất kinh doanh dần dần được nâng lên nhưng sự tăng trưởng của các doanh nghiệp này vẫn không đáp ứng được yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế. Điều này là do hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp thấp, phần lớn trông chờ vào ngân sách nhà nước. Do đó hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn. Để tiếp tục sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải vay vốn, vì thế mà đến nay xảy ra tình trạng đa số các doanh nghiệp nhà nước đều có nợ tồn đọng. Do vậy, khi lập phương án chuyển sang cổ phần hoá việc đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất để xử lý các món nợ cho các doanh nghiệp thường gặp phải vấn đề nan giải là phải làm trong sạch tình hình tài chính nghĩa là phải định được hướng thanh toán nợ. Đối với nợ ngân hàng thì thế nào ? Đối với nợ doanh nghiệp khác, cá nhân khác thì thế nào ? Mặt khác việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp gặp nhiều rắc rối. Nhiều tài sản vật tư bị mất mát thiếu hụt, nhiều cái không có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu sử dụng do thay đổi qua nhiều đời giám đốc. Nhiều doanh nghiệp đi thuê nhà cửa, kho bãi của các đơn vị khác, sau đó xây các công trình kiến trúc, hoặ cải tạo, sửa chữa đối với số tiền không nhỏ, do vậy trước khi tiến hành cổ phần cũng phải giải quyết vấn đề này. Một số doanh nghiệp khác khi tiến hành cổ phần lại nằm trong diện phải di dời do đóng tại vùng quy hoạch của địa phương hoặc theo quy hoặch môi trường. Do đó kế hoạch sản xuất không ổn định rất khó cho việc định giá bán cổ phần. Thứ hai là , do một số doanh nghiệp chưa nhận thức rõ tầm quan trọng và mục tiêu cổ phần hoá thiếu thống nhất trong chỉ đạo của cấp uỷ, công đoàn, ban giám đốc, và cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Do đó việc xây dựng phương án cổ phần hoá tiến hành chậm. Đặc biệt là việc lập luận chứng nhu cầu tăng vốn đầu tư dài hạn hoặc bổ sung nguồn vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh, chứng minh hiệu quả kinh tế nghiên cứu thị trường và dự kiến doanh thu, kế hoạch chi phí giá thành và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế. Thứ ba là, nhiều doanh nghiệp chưa hình dung hết quy trình cổ phần hoá, các thủ tục còn quá mới mẻ với họ. Hơn thế nữa, một số lãnh đạo doanh nghiệp chưa thực sự nhiệt tình với công tác cổ phần hoá, vì họ cho rằng lãnh đạo doanh nghiệp thì nhẹ nhàng hơn, trách nhiệm không nặng đồng thời quyền lợi về mọi được đảm bảo, mặt khác họ lo ngại khi thực hiện cổ phần sẽ mất địa vị. Thứ tư là, các doanh nghiệp lo ngại sau khi cổ phần hoá bị “ phân biệt đối xử ” mặc dù chủ trương của nhà nước là quyền lợi các thành phần kinh tế ngang nhau. Do luật pháp còn có sự phân biệt luật doanh nghiệp nhà nước và luật công ty. Nhiều cán bộ công nhân sợ rằng khi thực hiện cổ phần hoá sẽ khó kiếm việc làm, khó giữ chân các khách hàng xưa nay chỉ giao dịch với doanh nghiệp Nhà nước. 4. Những nguyên nhân khác Một là, đất nước ta còn nghèo, lượng tiền tích lũy trong dân cư còn ít các doanh nghiệp nhà nước phần lớn làm ăn còn kém hiệu quả. Người dân chưa có thói quen chịu rủi ro bằng cách đầu tư mua cổ phiếu Hai là, thị trường vốn chưa phát , thị trường chứng khoán chưa được hình thành nên chưa có phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu và từ đó chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy cổ phần hoá. Ba là, huy động vốn của toàn xã hội là một mục tiêu chủ yếu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhưng tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài còn quá thấp. Việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương của đảng và nhà nước chưa được tiến hành sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp dự định tiến hành cổ phần hoá. Do vậy rất nhiều chưa quan tâm hoặc không hiểu được ý nghĩa vai trò cổ phần hoá nên gặp khó khăn trong quá trình triển khai. Bốn là, do cổ phần hoá là công việc mới rất nhạy cảm trong khi đó chúng ta lại chưa có kinh nghiệm để triển khai cổ phần hoá vừa mang tăng trưởng kinh tế vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. III- Những phương hướng chủ yếu đẩy nhanh việc thực hiện CPH DNNN và việc quản lý các Công ty cổ phần. 1. Về phía Nhà nước. 1.1. Cần phải xác định rõ những doanh nghiệp loại nào thì tiến hành cổ phần hoá và tỷ lệ phần trăm vốn của Nhà nước cần giữ lại ở từng nhóm doanh nghiệp cụ thể. Quyết định số 202/CT của thủ tướng chính phủ qui định các điều kiện lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá, trong đó có điều kiện "không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết phải giữ 100% vốn đầu tư của Nhà nước". Hiểu như thế nào về điều kiện này, hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Nếu quan niệm rằng DNNN được thành lập và hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận hoặc trước hết là không phải vì lợi nhuận trực tiếp, thì chỉ cần giữ lại các doanh nghiệp thực kết cấu hạ tầng và tạo nên môi trường kinh doanh cho các thành phần kinh tế khác hoạt động. còn lại đa phần các doanh nghiệp khác phải được chuyển đổi hình thức sở hữu hoặc đan xen giữa sở hữu Nhà nước, tập thể tư nhân cá thể... bằng các giải pháp khác nhau trong đó có cổ phần hoá. Nếu xuất phát từ quan điểm cho rằng DNNN phải nắm vị trí chủ đạo trong hầu hết các ngành kinh tế, kể cả sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Từ đó chỉ chủ trương chuyển đổi sở hữu, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ thua lỗ. Trường hợp nếu một số doanh nghiệp tương đối lớn được đưa vào CPH thì Nhà nước phải nắm tỷ lệ cổ phần đa số để giữ vai trò quản lý của doanh nghiệp. Nếu giải quyết theo quan điểm này thì sẽ dẫn tới hậu quả là về cơ bản không thể xử lý được tình trạng trì trệ, kinh doanh kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước. Nhưng điều đáng quan tâm là hiện nay khá nhiều các giám đốc DNNN ủng hộ chủ trương này. Vì họ sẽ đạt được cả hai mục đích: Một là được đánh giá cao về quan điểm chỉ đạo DNNN; hai là, nếu được tiếp tục và hầu như chắc chắn giữ được vị trí quản lý doanh nghiệp thì trong một chừng mực nhất định thì họ sẽ có lợi hơn trong kinh doanh. Do đó, vấn đề bức bách đặt ra là Nhà nước nên sớm ban hành văn bản qui định rõ ràng những doanh nghiệp nào Nhà nước cần giữ lại 100% vốn, và tỷ lệ cổ phần của Nhà nước trong từng nhóm doanh nghiệp nhất định phụ thuộc vào vị trí, vai trò của các ngành đó, để vừa đảm bảo thúc đẩy quá trình CPH, vừa đảm bảo vai trò chủ đạo của Nhà nước trong những ngành then chốt. 1.2. Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành CPH thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của Ban giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản của Nhà nước phân loại doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện CPH. Về cơ bản có thể sắp xếp các doanh nghiệp thành ba loại. * Loại doanh nghiệp không chuyển thành Công ty cổ phần vì ở những ngành, những lĩnh vực Nhà nước cần có sự kiểm soát và độc quyền. * Loại doanh nghiệp có thể chuyển thành Công ty cổ phần, nhưng trong vài năm tới các điều kiện chủ quan và khách quan chưa thuận lợi. Chẳng hạn những doanh nghiệp qui mô quá lớn, lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn để có thể bán được cổ phiếu. * Loại doanh nghiệp cần được ưu tiên chuyển thành công ty cổ phần, loại doanh nghiệp này sẽ được lựa chọn để CPH trong thời kỳ càng sớm càng tốt. Do đó Nhà nước cần phải có những chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào quá trình cổ phần hoá. 1.4. Dựa vào bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. Có thể phân loại ba nhóm doanh nghiệp với ba mục tiêu khác nhau sau: * Thứ nhất: Nếu nhằm mục đích thu hồi vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác thì mục tiêu doanh lợi ít được chú ý, thực chất cổ phần hoá lại doanh nghiệp này là Nhà nước không hướng vào mục tiêu huy động vốn để tiếp tục kinh doanh mà là bán doanh nghiệp với tình trạng pháp lý đầy đủ để tư nhân muốn kinh doanh làm vốn "mua lại pháp nhân để huy động". * Thứ hai: Nếu nhằm mục tiêu huy động vốn để Nhà nước tiếp tục kinh doanh điều kiện về lợi nhuận và nhất là điều kiện kinh doanh cần được nhấn mạnh hơn. * Thứ ba: Nếu CPH nhằm mục tiêu nâng cao vai trò của công nhân, tạo điều kiện cho họ thực sự làm chủ doanh nghiệp thì Nhà nước cần chú ý tới điều kiện mức thu nhập của công nhân, và khả năng mua cổ phần dưới dạng trả góp cũng như tỷ trọng vốn pháp định của doanh nghiệp. Việc xây dựng mục tiêu rõ ràng cho từng doanh nghiệp tạo điều kiện cho các DNNN chủ động tiến hành CPH theo mục tiêu nhất định và nó cũng góp phần thúc đẩy tiến trình CPH ở các doanh nghiệp này. 1.4. Phương pháp bán cổ phiếu của doanh nghiệp cần được thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản dễ hiểu đối với mọi người, tạo điều kiện thuận lợi để tất cả các nhà đầu tư thông qua cổ phần đều có thể mua được một lượng cổ phiếu nhất định. Về cơ bản có thể vận dụng một trong ba phương pháp sau: Bán cho các đối tượng được xác định trước, áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém, các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò là những cổ phần chủ lực để tạo lập cơ sở cho viẹec tiếp tục cổ phần rộng rãi sau này. Bán rộng rãi cho mọi đối tượng, áp dụng cho doanh nghiệp có thành ti chs kinh doanh khả quan, mức độ lợi nhuận đảm bảo. Bán một nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ và họ có khả năng mua lại đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp. Việc áp dụng phương pháp bán cổ phiếu phù hợp với từng loại doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn một cách nhanh chóng và rút ngắn quá trình chuyển sang Công ty cổ phần. 1.5. Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ cho sự ra đời và hoạt động của Công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh tế đều phải chịu sự định chế của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật . Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý hoàn thiện tạo điều kiện cho các Công ty cổ phần sớm đi vào hoạt động ổn định, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. ở nước ta, trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế và xác lập nền kinh tế thị trường nói chung, cũng như để tiến hành CPH DNNN nói riêng, ngoài việc phải sửa đổi bổ sung những luật cần sớm ban hành và bổ sung những bộ luật quan trọng khác như: luật đầu tư trong nước, luật phá sản doanh nghiệp, luật về thị trường chứng khoán và sở giao dịch... để từng bước xác lập ra môi trường pháp lý cho sự hoạt động của các Công ty cổ phần sẽ được hình thành. Trong vấn đề này để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư cổ phiếu. Nhà nước nên có tự nghiên cứu và ban hành một bộ luật đặc biệt làm cơ sở căn bản cho quá trình CPH DNNN. Đó là luật "Chuyển đổi sở hữu Nhà nước". Vì ta cần quan niệm rằng quá trình CPH DNNN không phải chỉ có tính chất tạm thời trong một giai đoạn nhất định mà là chiến lược lâu dài, cũng như sẽ không xảy ra quá trình quốc hữu hoá trở lại đối với các doanh nghiệp CPH tư nhân. Luật chuyển đổi sở hữu Nhà nước ban hành sẽ khẳng định sự cam kết của Nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện pháp lý cần thiết cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công cuộc CPH với qui mô rộng lớn khó khăn và lâu dài của Nhà nước. 1.6. Thành lập một cơ quan Nhà nước có quyền lực để thực hiện chương trình CPH DNNN. Thực tiễn quá trình CPH DNNN ở nước ta hơn 6 năm đã cho thấy sự cần thiết phải có một cơ quan được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để giải quyết các vấn đề đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó chuyên trách theo dõi, chỉ đạo và có đầy đủ thẩm quyền quyết định các vấn đề có liên quan đến công việc CPH DNNN. Tổ chức này có nhiệm vụ là quản lý và thực hiện sự chuyển đổi và đa dạng hoá sở hữu đúng với pháp luật trong các doanh nghiệp Nhà nước, chống lại sự trục lợi tham nhũng tẩu tán tài sản của Nhà nước. Vì vậy ở nước ta cần gấp rút thành lập một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm quyền, với sự tập hợp của các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tài chính ngân hàng, quản trị kinh doanh, luật pháp ... để chỉ đạo và và điều hành có kết quả chương trình CPH đầy khó khăn và phức tạp này. Sự tồn tại và hoạt động của cơ quan này trong thời gian bao lâu là tuỳ thuộc vào mục tiêu và kết quả cuả quá trình đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phạm vi và mức độ cho phép chuyển DNNN sang hình thức Công ty cổ phần. 1.7. Từng bước phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các Công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho Công ty và công chúng. Trên thực tế thị trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các Công ty cổ phần. Vì vậy cùng với sự ra đời và hoạt động của các Công ty cổ phần theo luật Công ty và quá trình CPH các DNNN, Nhà nước cần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán vốn vẫn còn rất non trẻ như ở nước ta. ở nước ta, tuy hệ thống ngân hàng đã chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, nhưng phương thức và phương pháp hoạt động còn chưa kịp đổi mới với những đòi hỏi củatt vốn trong xã hội. Hệ thống các quĩ tín dụng và ngân hàng cổ phần chưa đủ thực lực và kinh nghiệm để làm điều kiện cho các Công ty cổ phần ra đời và hoạt động. Để hoạt động của thị trường chứng khoán thực sự đem lại hiệu quả cũng như góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, cần phải thực hiện tốt một số điều kiện nhất định sau: + Nhà nước cần đưa ra được một bộ luật hoàn chỉnh về thị trường chứng khoán, những qui định, chính sách làm cơ sở pháp lý cho sự hoạt động và phát triển của thị trường này. + Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập. Đẩy nhanh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các Công ty bảo hiểm như là một tổ chức tài chính quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán... 1.8. Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện cổ phần hoá như miễn thuế lợi tức… trong thời gian đầu và có chính sách giúp đỡ công nhân viên chức có tiền mua cổ phần như cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi, thời gian dài. 2. Về phía doanh nghiệp. + Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm cổ phần hoá giữa các ngành, các địa phương trong cả nước từ đó đề xuất kiến nghị bổ sung, sửa đổi chính sách cổ phần hoá cho phù hợp với yêu cầu thực tế. + Đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện, thông tin đại chúng để người dân và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước hiểu được ý nghĩa vai trò của cổ phần hoá và tham gia hưởng ứng một cách tích cực. + Duy trì chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất của ban quản lý đổi mới doanh nghiệp ở các bộ, các địa phương để kịp thời xử lý vướng mắc xảy ra trong quá trình cổ phần hoá. Trên đây là một số phương hướng chủ yếu thúc đẩy quá trình CPH DNNN ở nước ta, làm tốt các phương hướng nói trên sẽ giúp cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được đẩy nhanh hơn nữa, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết luận Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước ta là chủ trương hoàn toán đúng đắn. Nó là một trong những biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Kết quản đạt được của việc thực hiện cổ phần hoá trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Nhưng hiện nay vẫn còn rất nhiều điều bức xúc cần giải quyết, đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa giữa các cấp, các ngành, từ Trung Ương đến địa phương và sự ủng hộ tích cực của nhân dân nói chung và người lao động trong doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, đề tài đã nêu rõ tính tất yếu phải thực hiện cổ phần hoá cùng với mục đích của nó. Mặt khác trên cơ sở thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã vạch ra những nguyên nhân gây cản trở trên tiến trình cổ phần hoá và từ đó đề xuất các giải pháp để giải quyết những nguyên nhân đó nhằm đẩy nhanh việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên với thời gian và trình độ có hạn mà cổ phần hoá mới chỉ ở nước ta ở trong những giai đoạn đầu nên khó tránh khỏi những mặt còn hạn chế. Do đó ngoài những kết quả đóng góp của đề án có những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu sâu thêm để góp phần thúc đẩy cổ phần hoá trên thực tế. Tài liệu tham khảo Đảng cộng sản Việt Nam “ Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ” Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội – 1991 “ Công ty cổ phần ở các nước phát triển – Quá trình thành lập và tổ chức quản lý ” Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 1991 “ Thông tin tài chính ” số 13 tháng 7 – 1998 “ Tạp chí xây dựng ” số 10 – 1998 “ Tạp chí tài chính ” số tháng 4 – 1998 ‘ Tạp chí tài chính ” số tháng 8 – 1998 “ Tạp chí Thương mại ” số 19 – 1998 “ Tạp chí Lao động và xã hội ” số tháng 8 – 1998 “ Tài chính doanh nghiệp ” sóo tháng 1 – 1998 Đoàn Văn Trường “ Thành lập tổ chức và điều hành hoạt động công ty cổ phần ” Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, HN – 1996 Nguyễn Ngọc Quang “ Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn ” Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội - 1996. Tạp chí chứng khoán Việt Nam - số tháng 1và tháng 9/2003. Tạp chí đầu tư chứng khoán số 182 ra ngày 2/6/2003 và số 196 ra ngày 8/9/2003 Tạp chí quản lý Nhà nước Tạp chí kinh tế và dự báo số tháng 8/2000 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35466.doc
Tài liệu liên quan