Thị trường tài chính là thị trường dẫn vốn từ những người có vốn dư thừa tới người thiếu vốn qua các kênh trực tiếp (việc trao đổi vốn không qua trung gian) hoặc gián tiếp (việc trao đổi vốn qua các tổ chức tài chính trung gian). Sự phát triển không ngừng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng cuả nền kinh tế càng làm cho kênh chuyển vốn qua các tổ chức tài chính trung gian ngày càng đóng vai trò quan trọng đặc biệt là hệ thống ngân hàng. Ở nước ta hệ thống NHTMNN đã và đang chi phối các hoạt động tài chính tiền tệ và có vị trí ảnh hưởng rất lớn tới thị trường tài chính cũng như sức khoẻ của nền kinh tế Việt Nam. Hơn hết trước yêu cầu cấp thiết hội nhập và toàn cầu hoá đòi hỏi các NH VN phải có nhứng cải cách và thay đổi phù hợp. Quá trình cổ phần hoá (CPH) NHTMNN là một trong những bước đi quan trọng góp phần phát huy vai trò nền tảng thúc đẩy nền kinh tế. Các NHTMNN VN đang trong quá trình thực hiện các đề án CPH do đó nhất thiết phải đưa ra giải pháp để thúc đẩy quá trình CPH NHTMNN đúng hướng, đúng tiến độ và đạt hiệu quả.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết dưới đây em chỉ đề cập đến giải pháp tài chính để CPH NHTMNN ở VN hiện nay.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CPH DNNN, CPH NHTMNN:
1. CPH DNNN ở Việt Nam
CPH doanh nghiệp là con đẻ của nền kinh tế thị trường và đã được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. CPH DNNN là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế nhà nước, nhất là trong điều kiện VN thiếu vốn, nợ nhiều, quản lý còn yếu kém, công nghệ lạc hậu…
Chủ trương CPH DNNN được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới theo Quyết định số 143/HĐBT ngày 15/10/1990 và thực hiện thí điểm từ năm 1992 theo Quyết định số 202/HĐBT ngày 8/6/1992 của Hội đồng Bộ trưởng.
Qua cổ phần, DN được cơ cấu theo hướng tập trung quy mô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; quy mô vốn của DNNN được tăng lên đáng kể năm 2001, vốn bình quân của DNNN khoảng 24 tỷ đồng, nay tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tài chính DN được lành mạnh hoá thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho, máy móc thiết bị cũ…
Qua thực tế hoạt động hơn 1 năm của 850 DN hoàn thành cổ phần cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện tăng 139,76%, nộp ngân sách tăng 24,9%, thu nhập người lao động tăng 12%, số lao động không những không giảm mà bình quân tăng 6,6%, đặc biệt cổ tức bình quân đạt 17,11%, trong đó 71,4% số DN có cổ tức cao hơn lãi tiền gửi ngân hàng.
Năm 2004, số DNNN còn lại là 4300, trong đó phải tiến hành đa dạng hoá hoặc CPH khoảng 2400 doanh nghiệp. Tính đến nay qua 15 năm thực hiện CPH DNNN, tổng giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại các DNNN đã CPH mới đạt xấp xỉ 15% tổng vốn nhà nước có được đến cuối năm 2005. Số DN tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước cho đến năm 2005 còn lại khoảng 1.200 DN. Toàn bộ các DN không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn (khoảng 1.460 DN) sẽ được sắp xếp theo hình thức CPH; trường hợp không cổ phần hoá thì chuyển sang lựa chọn các hình thức như giao, bán, giải thể, phá sản DN.
Xuất phát từ thực trạng này, Chính phủ đã chỉ đạo cần đẩy mạnh hơn nữa quá trình sắp xếp, CPH DNNN. Thể chế hoá các Nghị quyết Trung ương về đẩy nhanh, đẩy mạnh CPH DNNN, một loạt biện pháp đã được đề ra nhằm thực hiện bằng được mục tiêu hoàn thành sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006 – 2010, một giải pháp quyết liệt nhằm đẩy mạnh quá trình này là mở rộng (đối tượng) CPH, đây cũng chính là cơ sở của quá trình tăng tốc CPH DNNN
2.CPH NHTMNN:
CPH NHTMNN về thực chất là quá trình chuyển đổi các NHTMNN có một chủ sở hữu là Nhà nước, thành các NHTM có nhiều chủ sở hưu với nhiều cổ đông khác nhau. tính đến nửa đầu năm 2004,tổng giá trị tài sảncủa các NHTMNN chiếm tới hơn 73.80% tổng giá trị tài sản thể hiện trên cân đối kế toán của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và luôn là ngành kinh tế then chốt của bất kì một quốc gia nào. với xu thế hội nhập tất yếu như hiện nay, các ngân hàng phải không ngừng nỗ lực để giành thế chủ động trên thị trường nội địa, sẵn sàng tiến bước ra thị trường quốc tế. NHTMNN có thị phần hoạt động chiếm trên 70% trên toàn quốc vì vậy các NHTMNN phải tiến những bước vững chắc trước tiên để đưa cả hệ thống ngân hàng tiến bước trong điều kiện mới. Việc cổ phần hoá NHTMNN lá cần thiết
Hiện tại các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm: NH nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), NH công thương Việt Nam (ICB), NH ngoại thương Việt Nam( VCB), NH đầu tư và phát triển (BIDV), NH phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long( MHB)
Những năm trước đây các NHTMNN đóng vai trò chủ đạo trên các phương diện ngân hàng- tài chính: như thị phần huy động và cho vay, tài sản có. Từ năm 2000, các tỉ lệ này giảm đi không ít, tuy nhiên đến nay dư nợ cho vay của các NHTMNN vẫn chiếm trên 70% trên tổng dư nợ cho nền kinh tế. Về huy động vốn của các NHTMNN cũng chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Các NHTMNN hiện nay có rất nhiều chi nhánh từ tỉnh, thành phố, huyện, liên xã. Đó là lực lượng tài chính chủ đạo trong cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Nhìn chung NHTMNN ở Việt Nam đang đống vai trò chủ chốt trên thị trường ngân hàng song tình hình tài chính của các NHTMNN còn hạn chế, mức độ rủi ro cao, năng lực cạnh tranh thấp. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay: gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kì đã và đang tạo ra nhiều sức ép cho hệ thống NHTMNN. Đó là những thách thức: phải gia nhập vào “ sân chơi” cạnh tranh khốc liệt và công bằng với các ngân hàng nước ngoài có ưu thế về vốn, kinh nghiệm quản lí, công nghệ tiên tiến nhất
Đồng thời cũng mở ra những cơ hội phát triển cụ thể là:
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng tạo điều kiện cho các ngân hàng nhanh chóng tiếp cận với các kiến thức và kinh nghiệm quản lí từ các nước tiên tiến trên thế giới, tận dụng được nguồn vốn, công nghệ hiện đại của nước ngoài. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế làm cho hệ thống ngân hàng minh bạch, hoạt động có hiệu quả và an toàn hơn.
- Cạnh tranh là động lực để các ngân hàng nâng cao chất lượng hoạt động, mở rộng phạm vi, tăng cường khả năngthanh toán cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Do vậy, yêu cầu đối với các NHTMNN hiện nay là phải nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao nội lực. Cổ phần hoá được coi là giảI pháp giúp đẩy nhanh mục tiêu trên, là một bước đi đầu đảm bảo vừa tăng vốn để đạt chuẩn mực quốc tế vừa tạo dựng cơ chế quản lí kinh doanh ngân hàng hiện đại phù hợp với xu thế của thời đại. Sự lớn mạnh của các NHTMNN sau cổ phần hoá góp phần quan trọng vào việc xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, nhà nước cũng sẽ đảm bảo được quyền kiểm soát hay chi phối đến hoạt động của các ngân hàng với một tỉ lệ cổ phần nhất định
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CPH NHTMNN VN HIỆN NAY:
1. Điều kiện hiện nay của các NHTMNN VN:
Việt Nam đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với việc tích cực thực thi các cam kết về Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập thì một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và của hàng hoá, dịch vụ.
Nhận thức được tính cấp thiết và tầm quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ, Chính phủ đã có nhiều chủ trương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và chủ động hội nhập, trong đó: sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa (CPH) và mở rộng diện các doanh nghiệp Việt Nam cần CPH, kể cả một số doanh nghiệp lớn, trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN).
Ngân hàng là ngành kinh tế huyết mạch của đất nước, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, với tính chất hoạt động tương đối đặc thù. Vốn tự có của ngân hàng, ngoài chức năng thông thường, còn được coi là tài sản cầm cố bắt buộc để huy động vốn từ công chúng. Và muốn huy động được nhiều vốn từ công chúng một cách an toàn cho nền kinh tế, thì càng cần phải có nhiều vốn cầm cố. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, song song với tiến trình hội nhập quốc tế, trớc môi trường hoạt động ngày càng cạnh tranh quyết liệt, các NHTMNN Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn lớn trong quá trình tái cơ cấu hoạt động: Đó là, so với tiêu chuẩn quốc tế, quy mô vốn tự có của các NHTMNN Việt Nam còn thấp, hệ số an toàn vốn CAR (tính bằng tỷ lệ vốn tự có / tổng tích sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro) so với chuẩn mực quốc tế là 8% thì còn cách xa, theo thống kê gần đây, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN hiện chỉ đạt khoảng 4% (trong khi đó, tỷ lệ này ở hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần đã đạt 8%). Hơn nữa, các ngân hàng của ta đang có nhu cầu cấp thiết là phải duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng hợp lý để phục vụ tăng trưởng nền kinh tế, và với tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân như hiện nay, đến cuối năm 2005, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN chỉ đạt khoảng 3%, đến cuối 2010, tỷ lệ này chỉ còn xấp xỉ 1%... Để đảm bảo yêu cầu an toàn vốn theo chuẩn mực quốc tế, hằng năm ngân sách nhà nước phải cấp bổ sung vốn tự có cho các NHTMNN hàng chục nghìn tỷ đồng. Đây là điều rất khó thực hiện được và cũng không mang lại hiệu quả kinh tế thực... Về phương diện quản trị điều hành, tuy đã được tăng cường một bước, song vai trò của quản trị điều hành vẫn chưa tạo ra động lực mạnh thật sự. Phương thức quản lý còn nhiều bất cập, phân phối thu nhập cha gắn với hiệu quả lao động; chế độ khen thưởng, động viên lao động còn bị hạn chế bởi các ràng buộc theo quy định của Nhà nước. Vì vậy, lợi ích và trách nhiệm của các bên liên quan: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động chưa được phân định rõ ràng, chưa tạo dựng đựơc mối liên kết để cùng tồn tại và phát triển.
Chúng ta đã biết, Việt Nam vừa vượt qua vòng đàm phán thứ 8 để gia nhập WTO vào năm 2005. Một trong những yêu cầu của WTO đối với Việt Nam là cần đẩy mạnh, đẩy nhanh hơn nữa những cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Đây là một thách thức, nhưng đồng thời cũng là một động lực thúc đẩy chương trình tái cơ cấu lại các NHTM. Quá trình CPH cũng nằm trong nỗ lực nhằm tăng cường sự lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
2.CPH NHTMNN tạo điều kiện phát huy vai trò của thị trường tài chính
2.1.CPH NHTMNN kích thích tăng nguồn vốn tiết kiệm tài trợ cho nhu cầu mở rộng đầu tư, nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế .
CPH NHTMNN về thực chất là quá trình chuyển đổi các NHTMNN có một chủ sở hữu là Nhà nước, thành các NHTM có nhiều chủ sở hữu với nhiều cổ đông khác nhau. tính đến nửa đầu năm 2004,tổng giá trị tài sảncủa các NHTMNN chiếm tới hơn 73.80% tổng giá trị tài sản thể hiện trên cân đối kế toán của các tổ chức tín dụng. Rõ ràng, với tiềm lực tài chính và uy tín của mình, khi thực hiện CPH NHTMNN rất có lợi thế trong việc thu hút vốn từ các chủ thể khác nhau của nền kinh tế trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Trong vài năm trở lại đây, nhu cầu về vốn của nền kinh tế ngày càng lớn, trên thực tế , nhiều chương trình , dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia thuộc nhiều lĩnh vực, các công trình trọng tâm đã và đang được tài trợ với vốn đầu tư chủ yếu là từ các NHTMNN (các chương trình phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế miền núi Tây nguyên, phát triển đồng bằng sông Cửu Long của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển VN). Từ thực tế đó, việc CPH các NHTMNN trong thời gian tới sẽ giúp thị trường tài chính VN có một kênh huy động vốn rất hiệu quả, đáp ứng đầy đủ và kịp thời hơn nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế khác nhau, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của nền kinh tế.
2.2. CPH NHTMNN kích thích sự linh hoạt và đem đén thị trường tài chính VN một môi trường hoàn hảo hơn, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN.
Một đặc điểm quan trọng của TTTC, đó là đóng vai trò như một môI trường cho việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Việc CPH NHTMNN tất yếu sẽ dẫn đến sự gia tăng lượng giao dịch của các chứng khoán vốn (các cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãI) và các chứng khoán nợ (tín phiếu, tráI phiếu, chứng chỉ tiền gửi), cũng như đa dạng hoá các chủ thể tham gia, đây là yếu tố quan trọng nâng cao tính thanh khoản của hàng hoá trên thị trường thứ cấp. Đến lượt nó, thị trường thứ cấp phát triển sẽ có những tác động tích cực đến hoạt động của thị trường sơ cấp – là tiền đề quan trọng đem lại hiệu quả của chính sách tiền tệ, mà tiêu biểu là nghiệp vụ thị trường mở của NHNN. Kể từ khi được đưa vào hoạt động ở VN đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã ngày một phát triển về quy mô, tổ chức và chất lượng hoạt động. Tổng doanh số giao dịch năm 2004 tăng gấp 3 lần năm 2003 và bằng khoảng 16 lần so với năm 2001, khối lượng giao dịch từng phiên cũng tăng bình quân 82 tỉ đồng/phiên năm 2000 lên 725 tỷ đồng/phiên tính đến giữa năm 2005. Trong số các thành viên của thị trường mở (27 tổ chức tín dụng được công nhận là thành viên) thì các thành viên tham gia thường xuyên luôn là các NHTMNN với tỷ trọng giao dịch lớn. Trong thời gian tới, khi tiến trình CPH NHTMNN được xúc tiến mạnh mẽ, thì hoạt động của các NHTMNN trên các thị trường sơ cấp và thứ cấp sẽ ngày càng sôI động. Đây là môI trường thuận lợi để NHNN thực hiện chính sách tiền tệ tích cực đến nền kinh tế.
2.3. CPH hệ thống NHTMNN tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa chỉ số chứng khoán và tình trạng “sức khoẻ” của nền kinh tế.
Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, nơI mà TTTC đạt đến sự hoàn hảo, mỗi một biến động dù là nhỏ về chỉ số chứng khoán (thực chất được xác định trên cơ sở giá cổ phiếu) đều phản ánh được thực trạng của nền kinh tế, thông qua chỉ số chứng khoán có thể biết được nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng hay trong xu hướng suy thoái. Điều này rất quan trọng vì nó giúp cho các chủ thể tham gia vào thị trường (người đI vay, người cho vay) điều chỉnh hành vi theo hướng có lợi cho mình. Đối với nhà đầu tư, nếu chỉ số chứng khoán biến động theo hướng không có lợi thì lợi tức dự tính trong tương lai về chứng khoán của tổ chức phát hành sẽ giảm và nhà đầu tư sẽ chuyển hướng đầu tư sang những loại chứng khoán hoặc những công cụ đầu tư của các chủ thể khác có lợi hơn cho mình, còn đối với nhà phát hành – người đi vay sẽ đưa ra các giải pháp cải tiện tình hình kinh doanh để có thể thay đổi chỉ số chứng khoán theo chiều hướng tốt hơn nhằm thu hút các nhà đầu tư. Điều này sẽ có những tác động tích cực tới nền kinh tế. Tuy nhiên, mối quan hệ này chỉ có được khi TTTC hội tụ đủ một số điều kiện : các chủ thể tham gia vào thị trường, đặc biệt là các tổ chức phát hành chứng khoán phảI có tiềm lực đủ mạnh; hàng hoá trên TTTC có tính lỏng cao, có thể dễ dàng chuyển hoá thành tiền
IV. NỘI DUNG CPH NHTMNN
1.Một số quan điểm để tiến hành CPH NHTMNN:
CPH NHTMNN là một nhu cầu cần thiết và thực tế, một xu hướng tất yếu khi mà định hướng chung của kinh tế nước ta là hội nhập với kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cần nắm được một số quan điểm sau để tiến hành CPH có hiệu quả:
Một là, CPH các NHTMNN phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là việc nâng vốn của các NHTMNN lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành CPH xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn mực quốc tế. Phấn đấu trong thời gian tới, các NHTMNN Việt Nam có thể đạt mức trung bình tiên tiến của khu vực. Và việc CPH thực chất là một giải pháp để có thể đạt được mục tiêu này.
Hai là, CPH các NHTMNN cần tiến hành từng bước thận trọng. Do tính chất tương đối đặc thù, ngân hàng vốn đợc coi là một ngành nhạy cảm, hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất to lớn đến hầu hết các ngành khác trong nền kinh tế. Do đó, CPH các NHTMNN cần hết sức thận trọng để đảm bảo độ an toàn và bền vững của không những hệ thống ngân hàng mà còn của toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với việc nâng cao năng lực điều hành, quản trị, ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tạo ra các sản phẩm ngân hàng mới, có sức cạnh tranh cao. Việc CPH cho phép tăng thêm năng lực cạnh tranh của các NHTMNN, thúc đẩy hiện đại hoá, nâng cao năng lực quản trị điều hành và trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên ngân hàng, thu hút nhân tài trong và ngoài nước vào làm việc. Chắc chắn nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm kiếm cơ hội mua cổ phần một số NHTMNN của Việt Nam. Theo đó, họ sẽ chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản trị điều hành tiên tiến, kiểm toán chặt chẽ theo chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, tăng thành phần sở hữu khác trong các NHTMNN cũng góp phần làm minh bạch hơn hoạt động, nhất là việc cấp tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiết kiệm chi phí trong chính các NHTM được CPH.
Bốn là, CPH các NHTMNN phải gắn liền với quá trình xử lý các yếu kém tồn tại, lành mạnh hoá tài chính, giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn. Vừa qua, Hội đồng Tài chính - Tiền tệ của Chính phủ đã góp ý thông qua đề án tăng thêm vốn cho các NHTM. Theo đó, giải pháp để tăng thêm vốn cho các NHTM sẽ bao gồm cả việc cho phép CPH một phần vốn của các doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức bán trái phiếu chuyển đổi cho ngân hàng để tăng vốn điều lệ. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước thực hiện tốt chính sách tỷ giá và kiểm soát lạm phát, nhưng việc cải cách ngân hàng còn chậm. Yêu cầu đặt ra là cần phải khắc phục triệt để trong năm 2004. Ngoài ra, trong quá trình tái cơ cấu NHTM, vấn đề phát triển bền vững tài chính được Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHTM đặc biệt quan tâm qua các biện pháp tăng vốn điều lệ, sáp nhập các NHTM cổ phần, xử lý nợ tồn đọng và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, cải thiện hệ thống kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới thì vẫn cha được như mong muốn. Năng lực tài chính của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của các NHTM đều thua kém ngân hàng trong khu vực. Nếu tính cả nợ khoanh và nợ khó đòi thì hoạt động của nhiều ngân hàng đang ở tình trạng thua lỗ, thu nhập thuần tuý thấp, khả năng thiết lập các quỹ dự trữ bị hạn chế và khả năng thanh toán rất nhỏ. CPH các NHTMNN phải giải quyết, khắc phục được các yếu kém đó.
Năm là, CPH các NHTMNN phải được tiến hành theo hướng công khai, minh bạch theo hướng đa sở hữu trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Tránh hiện tượng CPH khép kín. Hơn nữa, CPH NHTMNN không phải là bán tài sản hiện tại của Nhà nước cho khu vực tư nhân, mà là giữ nguyên tài sản của Nhà nước với mức tăng hằng năm do tái đầu tư bình thường, đồng thời huy động thêm vốn mới từ công chúng, nhằm nâng cao tiềm lực tài chính và quy mô hoạt động của các NHTMNN. Ngoài việc đảm bảo an toàn hoạt động cho cả hệ thống ngân hàng, cơ sở vốn bền vững còn là điều kiện cần thiết và là cơ hội để hiện đại hoá công nghệ và quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của hệ thống tài chính, ngân hàng Việt Nam, đồng thời có thể hỗ trợ đắc lực cho phát triển thị trường chứng khoán của nước ta.
Thực tế, CPH NHTMNN là rất cần thiết, đúng đắn, song phải đi vào thực chất. Cần tránh hiện tượng mang danh là CPH, nhưung thực chất vốn của Nhà nước lại được điều chuyển từ doanh nghiệp thành viên này sang doanh nghiệp thành viên khác, hoặc số cổ phiếu bán đến người lao động rất ít. Cuối cùng mục tiêu của CPH là bổ sung thêm nguồn vốn tự có, người lao động khi bỏ vốn vào ngân hàng họ phải đợc giám sát mọi hoạt động, được thấy đồng vốn của họ sinh sôi nảy nở ra sao? Tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”.
Sáu là, mô hình quản lý sau CPH: Mô hình quản lý ở đây bao hàm cả mô hình tổ chức và phương thức quản lý. Cần phải có sự thay đổi mô hình tổ chức khi tiến hành CPH để quản trị tốt hơn. Một điều đáng chú ý là khi tiến hành chương trình CPH phải tính tới vai trò, mô hình của Hội đồng quản trị bởi khi đó, Hội đồng quản trị bao gồm các cổ đông khác nữa chứ không chỉ đơn thuần là đại diện cổ đông Nhà nước thôi. Từ đó, cần đặt ra quy chế quản lý theo phương thức mới dưới hình thức là một doanh nghiệp cổ phần.
2. Mục tiêu CPH NHTMNN:
Từ những quan điểm nêu trên, thực hiện chương trình CPH các NHTMNN, chúng ta sẽ đạt được các mục tiêu sau:
Thứ nhất, đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các NHTMNN, để từ đó thực hiện tốt các cam kết của các hiệp định song phương và đa phương.
Thứ hai, đảm bảo năng lực hoạt động của bản thân ngân hàng (tỷ lệ an toàn vốn tự có), lành mạnh hoá tài chính các NHTM và cả hệ thống ngân hàng. Giải pháp CPH NHTMNN trước hết sẽ cho phép huy động một khối lượng vốn rất lớn trong và ngoài nước để tăng vốn điều lệ của các ngân hàng này, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% theo thông lệ quốc tế trong khi việc trông chờ cấp bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước đang hết sức khó khăn. Điều đó cũng có nghĩa là giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, không những thế còn tạo điều kiện tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thúc đẩy quá trình đổi mới, sắp xếp các DNNN gắn với xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng.
Thứ tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và thị trờng các dịch vụ tài chính. Thị trường vốn, mà trực tiếp là thị trường chứng khoán Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển lên một bước mới, với hàng chục loại cổ phiếu, giá trị hàng chục nghìn tỷ động của cả các NHTM cổ phần và cả các NHTMNN được giao dịch và niêm yết. Chiều hướng này sẽ gia tăng sự sôi động khi có các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính cũng đợc niêm yết và giao dịch cổ phiếu. Niêm yết cổ phiếu của các NHTM cổ phần và CPH một bộ phận NHTMNN sẽ được coi là cuộc cách mạng lần thứ hai trong quá trình tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng ở Việt Nam, được thực hiện sau một thời gian chấn chỉnh và củng cố sắp xếp lại mỗi khối ngân hàng này. Nền kinh tế phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, thì yêu cầu xây dựng hệ thống trung gian tài chính vững mạnh là tất yếu khách quan.
Thứ năm, đảm bảo tính đúng, tính đủ giá trị các tài sản của NHTMNN, chú ý các tài sản cố định đặc biệt và tài sản cố định vô hình. Một NHTMNN với quy mô tích sản hàng tỷ USD, khi CPH sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định giá trị ngân hàng. Bởi vì giá trị này bao gồm cả quy mô và chất lượng tài sản, thương hiệu ngân hàng, lợi thế cạnh tranh và vị thế thị trường… Về mặt kỹ thuật, việc định giá tài sản nhìn chung là một công đoạn khá phức tạp. Về lý thuyết, việc định giá cổ phiếu phát hành phải dựa vào chỉ số lợi nhuận trên vốn (ROE) để từ đó nhà đầu tư mới có thể định hình được mức lợi tức khi họ đầu tư vào trên cơ sở so sánh với các loại cổ phiếu, các loại hình đầu tư khác đồng thời phải xác định giá trị thương hiệu của ngân hàng. Giá trị đó rất lớn và mang tính chất định tính. Tất cả các giá trị này đều rất khó xác định chính xác, bởi hiện nay, các định chế tài chính trong nước còn thiếu kỹ năng, kinh nghiệm trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Công việc định giá các NHTM để thực hiện CPH phải rất cần nhiều ý kiến chuyên gia của các Bộ, ban ngành, nhất thiết phải thuê các định chế tài chính quốc tế có uy tín thực hiện, tư vấn cả trước, trong và sau CPH. Việc này tuy khó, nhưng vẫn có thể làm tốt được. Vấn đề là phải chuẩn bị thật kỹ.
Thứ sáu, nghiên cứu đảm bảo tỷ lệ nắm giữ cổ phần hợp lý đối với các tổ chức và cá nhân ngoài Nhà nước. Ngân hàng vốn được coi là một ngành nhạy cảm, một ngành then chốt liên quan đến an ninh quốc gia, nên bắt buộc Nhà nước phải nắm quyền kiểm soát. Nên chăng để Nhà nước chi phối trong khoảng từ 51 - 75% cổ phần, còn lại để các tổ chức và cá nhân ngoài Nhà nước nắm giữ. Lẽ đương nhiên, Nhà nớc phải kiểm soát ngành ngân hàng nhng không phải là khống chế các hoạt động trao đổi hằng ngày của các ngân hàng. Thay vì thế, Chính phủ nên có hệ thống hỗ trợ giúp ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn. Một ví dụ là các ngân hàng ở Hồng Kông, qua số liệu nghiên cứu thì ở đây không có một ngân hàng Nhà nước nào, nhưng lại là nơi có những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất trên thế giới. Do đó, vai trò của Nhà nớc là quản lý vốn và nợ, cũng nh tình hình hoạt động chung của các ngân hàng. Nếu Nhà nước can thiệp quá nhiều thì sẽ rất khó khăn trong việc đánh giá ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không, liệu có “nợ xấu” hay “nợ khó đòi” không. Trường hợp có nợ xấu hay nợ khó đòi chính là lúc cần đến sự can thiệp của Nhà nước, Nhà nước sẽ giải quyết nợ đó bằng những chính sách tài khoá thích hợp. Trở lại với việc nắm giữ cổ phần của các cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước, trước hết, cổ phiếu phải sớm được niêm yết, chỉ nên bán một phần nhất định cho cán bộ công nhân viên của bản thân NHTM được CPH, như thế mới có thể thay đổi được một cách căn bản mô hình cũng như phương thức quản lý. Trong thời gian tới, nên nghiên cứu và tính tới việc niêm yết cổ phiếu của các NHTM Việt Nam trên thị trường chứng khoán nước ngoài, chứ không chỉ đơn thuần là thị trường chứng khoán trong nước.
3. CPH NHTMNN hiện nay như thế nào?
Muốn có thể CPH NH thì việc đầu tiên cực kì quan trọng là xác định tài sản thực có của các NH, bao gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình (giá trị thương hiệu,uy tín của NH,truyền thống kinh doanh..). Để làm được điều này thì bản thân một mình không thể đảm đương nổi (cũng không khách quan), mà phải kết hợp với các cơ quan chuyên môn có chức năng thẩm định giá trị, đặc biệt là từ các tổ chức kiểm toán quốc tế có uy tín, có như vậy thì giá trị của mỗi cổ phiếu của các NH phát ra mới phản ánh đúng giá nội tại của bản thân nó.
Ở VN hệ thống NHTMNN đóng vai trò quan trọng trong trên tổng số dư tiền gửi của toàn hệ thống NHTM, chính vì vậy khi thực hiện CPH, hệ thống NHTMNN sẽ tạo môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. với tiền đề này, hy vọng rằng trong thời gian tới chỉ số giá cổ phiếu của các NHTMNN sẽ góp phần đích thực vào chỉ số chứng khoán chung, như “hàn thử biểu” của nền kinh tế.
Đối với việc CPH NHTMNN VN, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định về việc thí điểm CPH Vietcombank trong năm 2006 và mới đây Thống đốc NHNN đã quyết định cho phép Vietcombank phát hành trái phiếu tăng vốn bằng VNĐ, với tổng mệnh giá là 1.200 tỷ đồng để tăng vốn điều lệ. trái phiếu này có thời hạn là 7 năm, người mua được quyền sử dụng 100% giá trị trái phiếu để mua cổ phiếu của Vietcombank khi tiến hành CPH.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã có quyết định CPH NH Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. tiến trình CPH này cũng đang có những thuận lợi. công việc kiểm toán, xác định giá trị doanh nghiệp đã được quyết định thực hiện được bằng việc thuê một công ty nước ngoài và đang tiến hành những bước cơ bản. theo dự kiến NH này cũng sẽ bán cổ phần theo hướng chọn một cổ đông chiến lược là NH nước ngoài…
Khi CPH hệ thống NHTMNN được triển khai hiệu quả, không những các mục tiêu chương trình CPH được thực hiện tót, mà TTCK nói riêng và TTTC ở VN nói chung cũng có điều kiện để phát triển một cách vững chắc và phát huy được vai trò của mình.nền kinh tế và vẫn chiếm được lòng tin của đại bộ phận dân chúng, thể hiện trên số dư tiền gửi vượt trội
CPH NHTMNN cũng mang nội dung cơ bản trên, tuy nhiên NHTMNN mang trong mình những đặc thù riêng biệt và có vai trò là “bà đỡ” của nền kinh tế nên việc CPH này cũng có nhiều điểm khác biệt. Việc thực hiện các đề án chuyển quyền sở hữu duy nhất của nhà nước thành đa chủ sở hữu nhất thiết cần phải thực hiện theo lộ trình cụ thể, không thể làm ồ ạt mà thực hiện từng bước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CPH NHTMNN VIỆT NAM
1. Đề án CPH Vietcombank
Thủ tướng xác định đây là một yêu cầu cấp bách trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới các ngân hàng thương mại nhà nước trước yêu cầu về mở cửa thị trường và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Theo đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính phủ đã quyết định để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.
Ngày 4/10 vừa qua, Vietcombank cũng đã tiến hành hợp tác với Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) nhằm đẩy nhanh quá trình xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng, một bước đi cần thiết cho quá trình cổ phần hóa kế tiếp.
Ông Đinh Văn Mười, Phó tổng giám đốc Vietcombank, cũng hy vọng rằng trong tháng 12 tới Vietcombank sẽ lựa chọn được đơn vị tư vấn chính thức và sớm thực hiện cổ phần hóa ngân hàng trong quý I/2007.
Thủ tướng cũng đã chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa đối với ba ngân hàng thương mại còn lại, bao gồm Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).
Lộ trình cổ phần hóa ba ngân hàng trên sẽ qua hai bước. Bước 1: Nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với BIDV, Incombank; và cuối năm 2007 đối với Agribank.
Bước 2: Từ năm 2007 tiến hành cổ phần hóa BIDV, Incombank; từ năm 2008, cổ phần hóa Agribank.
Ngoài ra Thủ tướng cũng yêu cầu khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và hình thành Tập đoàn tài chính bảo hiểm Việt Nam mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.
2. BIDV với chiến lược CPH
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là một trong 4 NHTM lớn nhất ở Việt Nam, trong những năm gần đây BIDV đã có bước chuyển mình cơ bản, định hướng kinh doanh mạnh mẽ theo hướng một NHTM đa năng, hoạt động đa ngành, kinh doanh đa lĩnh vực vì mục tiêu lợi nhuận. BIDV luôn hoàn thành đầy đủ và kịp thời nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Hiện nay, BIDV đang khẩn trương hoàn thành đề án cổ phàn hoá dự kiến sẽ trình NHNN và chính phủ vào quý I/2007, tiến hành định giá vào quý III/2007 và tổ chức bán cổ phần vào đầu quý IV/2007.
* Những thành tựu của BIDV đảm bảo thực hiện thành công đề án cổ phần hoá là:
- BIDV thực hiện thành công đề án cơ cấu lại, BIDV đã nỗ lực tăng cường năng lực phục vụ nền kinh tế thông qua đẩy mạnh công tác huy động vốn, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế. Năm 2005, tổng tài sản của BIDV đạt 121403 tỷ đồng, huy động vốn đạt 87025 tỷ đồng, dư nợ đạt 82717 tỷ đồng.
- BIDV chú trọng đẩy mạnh đổi mới cơ cấu sản phẩm dịch vụ, tạo lập cơ cấu hoạt động đa dạng: tỷ lệ vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư trên tổng tài sản 72% (năm 2005). Các sản phẩm dịch vụ ngày càng được đa dạng hoá và có bước phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng. BIDV đã xây dựng được một hệ thống danh mục các sản phẩm dịch vụ thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, đặc biệt là cấc dịch vụ trên nền công nghệ mới như ATM, dịch vụ quản lí tiền tự động smart @ acount, các loại hình tiết kiệm linh hoạt, home banking, phone banking.
- BIDV đã tích cực tự huy động vốn trên thị trường để tài trợ cho phát triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn 1996-2005 BIDV đã thực hiện cho vay thương mại đối với nền kinh tế với doanh số lên tới trên 550000 tỷ đồng, góp phần tích cực cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Tổng dư nợ 82717 tỷ đồng, tập trung chủ yếu cho đầu tư các dự án lớn trọng điểm của quốc gia như điện, dầu khí, sắt thép, xi măng. BIDV đã xây dựng và triển khai các định hướng, chính sách tín dụng phù hợp các vùng kinh tế trọng điểm, thực hiện các chương trình kinh tế thuộc các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng Bằng Sông Cửu Long, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp chế biến, vùng nguyên liệu, nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại.
- Cùng với các nỗ lực kinh doanh, BIDV còn nâng cao tính minh bạch về các báo cáo tài chính. BIDV luôn thực hiện chế độ kiểm toán theo chế độ kế toán Viêt Nam(VAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế( IFRS). BIDV đã tạo dựng được uy tín với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các đối tác kinh doanh trong và ngoài nước. Tháng 4/2006, BIDV trở thành doanh nghiệp đầu tiên tại Việt Nam tiến hành đánh giá và xếp hạng tín nhiệm theo tiêu chuẩn quốc tế do tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín toàn cầu Moodys thực hiện. Kết quả của Moodys đã khẳng định năng lực tài chính và độ tín nhiệm của ngân hàng với chỉ số xếp hạng tín nhiệm tiền gửi và xếp hạng tín nhiệm nhà phát hành đều đạt mức trần xếp hạng quốc gia
* Bên cạnh những thành tựu đó, BIDV còn bộc lộ một số hạn chế trong hoạt động, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, nhất là trong hội nhập kinh tế quốc tế ngành ngân hàng, nưng lực tài chính còn hạn chế, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu còn thấp và chưa đạt yêu cầu theo thông lệ quốc tế. tính theo toán học, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có rủi ro của BIDV tính đến 31/12/2005 là 6,68%, trong đó chất lượng tín dụng còn thấp. Tổng số nợ xấu là 10392, chiếm 12,47% tổng dư nợ, nguồn nhân lực còn hạn chế, năng lực quản trị điều hành còn nhiều bất cập.
* Đề án cổ phần hoá NHTMNN BIDV trong năm 2007:
Để BIDV đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (8%) theo quy định của NHNN thì BIDV đã xây dựng phương án bổ sung vốn điều lệ và đảm bảo nguồn để thực hiện giải pháp cổ phần hoá trình NHNN. Theo phương án này, với mục tiêu thực hiện cổ phần hoá vào năm 2007, BIDV phải lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính trước thời điểm 31/12/2006. Quá trình chuẩn bị các điều kiện cho cổ phần hoá đã được hội đồng quản trị, ban điều hànhchủ động tiến hành từ năm 2005 đến nay, theo dự kiến của NHNN tại văn bản số 768/NHNN-CLPT ngày 6/9/2006 trình chính phủ, sau khi trải qua các bước tăng cường năng lực theo tiêu chuẩn quốc tế vào năm 2006, BIDV sẽ được phép cổ phần hoá từ năm 2007
- Nội dung của đề án cổ phần hoá BIDV gồm 4 bứơc:
Bước 1: chuẩn bị ( đến hết năm 2006): hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược giai đoạn 2006-2010, triển khai các đề án xử lí nợ, tăng vốn theo kế hoạch, trình NHNNvà chính phủ phê duyệt chủ trương cổ phần hoá. Sau khi được chính phủ chấp nhận chủ trương cổ phần hoá, BIDV tiến hành thuê tư vấn quốc tế và chuẩn bị hồ sơ pháp lí của doanh nghiệp tài sản, công nợ, đồng thời tiến hành xây dựng đề án cổ phần hoá chi tiết để trình lên NHNN
Bước 2: xây dựng phương án cổ phần hoá: BIDV dự kiến sẽ trình NHNN, chính phủ đề án cổ phần hoá chi tiết vào quý I/2007. Sau khi có quyết định cổ phần hoá, BIDV sẽ tiến hành những thủ tục theo chỉ đạo của ban chỉ đạo cổ phần hoá. Hoàn tất hồ sơ tài liệu để cổ phần hoá theo quy định, kiểm kê, xử lí những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị của BIDV (vào quý III/2007). Sau khi có quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp, hoàn tất phương án cổ phần hoá: kế hoạch kinh doanh sau cổ phần, dự thảo điều lệ, phương án lao động, phương án cổ phần hoá ( gồm cả việc lựa chọn cổ đông chiến lựơc…)
Bước 3: tổ chức bán cổ phần lần đầu: lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định, tổ chức bán cổ phần lần đầu ( dự kiện quý IV/2007), tổng hợp kết quả bán cổ phần báo cáo cơ quan quyết định cổ phần hoá và điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của BIDV ( nếu có).
Bước 4: hoàn tất việc chuyển BIDV thành NHTM cổ phần: BIDV có kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi phát hành cổ phần lần đầu và tích cực hoàn thiện các điều kiện để đăng kí niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore
Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCTVN) đang đẩy mạnh nâng cao năng lực tài chính để chuẩn bị cổ phần hoá trong giai đoạn tiếp sau:
* NHCTVN đã thành công trong cơ cấu lại tài chính. Năm 2005, NHCTVN đã giảm tỷ lệ không sinh lời ở dưới mức 5%, xử lí dứt điểm các khoản cho vay chính sách và nợ phi thương mại, tăng vốn điều lệ, xử lí đối với từng nhóm nợ thông qua ban chỉ đạo xử lí nợ tồn đọng, cụ thể: tỉ lệ nợ xấu 3% trên tổng dư nợ, tỉ lệ nợ quá hạn 2,5%/ tổng dư nợ. Về quy mô và khả năng huy động vốn của NHCTVN lớn, tăng trưởng cao và ổn định, tương ứng với tốc độ tăng tài sản có năm 2005 gấp 2 lần năm 2001, đạt 101803 tỷ đồng, chiếm 1/3 tổng nguồn vốn huy động của khối NHTMNN. Ngân hàng đã khẳng định được uy tín, mạng lưới chi nhánh rộng khắp, chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp, khả năng marketing ngân hàng tốt..
Về khả năng thanh toán đảm bảo chất lượng cao. NHCTVN đã xây dựng chiến lược quản lí rủi ro thanh khoản hiệu quả
* Tuy nhiên bên cạnh đó cũng tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như: về vốn tự có đạt 3994 tỷ đồng tườg đương 26 triệu USD (năm 2005) mặc dù so với các NHTM khác trong nước thì không thấp nhưng so với nước ngoài thì còn quá nhỏ bé. ví dụ như: Citibank là 45 tỷ USD, HSBC là 39 tỷ USD. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu năm 2005 là 5,12%<8%. Như vậy, khả năng chống đỡ rủi ro của NHCTVN là thấp. Khả năng sinh lời mới đạt 10,74%
* Xét về sản phẩm dịch vụ NHCTVN đã thực hiện tốt mục tiêu đa dạng hoá, đa phương thức sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Đó là dịch vụ thanh toán, dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ thẻ ngoài ra còn có các dịch vụ ngân hàng điện tử: Home Banking, Mobile Banking, phone banking, internet banking, thanh toán online, ATM đã và đang được mở rộng, phát triển. Đặc biêt năm 2005 NHCTVN đã có quan hệ đại lí với 735 ngân hàng, có thể chuyển tiền đi bằng điện SWIFTcó mã khoá tới 11915 ngân hàng trên toàn cầu, phục vụ cho các dịch vụ tài trợ thương mại, chuyển tiền thanh toán ra nước ngoài, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư vốn ở nước ngoài, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch
NHCTVN được coi là 1 ngân hàng đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ tin học vào ngân hàng, hoàn thành giai đoạn 1 dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán (INCAS).
3. Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long:
Theo kế hoạch định hướng cổ phần hoá đó là lựa chọn cổ đông lớn từ các tập đoàn tài chính- ngân hàng có uy tín trên thế giới để mua một tỉ lệ cổ phần khống chế. Mục tiêu là cơ cấu lại toàn diện ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long theo tiêu chuẩn quốc tế, từ quản trị điều hành, công nghệ, sản phẩm dịch vụ… cổ phiếu của ngân hàng sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Dự kiến công việc định giá và kiểm toán của ngân hàng này phải hoàn thành sớm, đầu năm 2007 .
CHƯƠNG III
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
I. KIẾN NGHỊ
Để quá trình cổ phần hoá được thành công,BIDV kiến nghị chính phủ giao cho BIDV,được chủ động xây dựng phương án cổ phần hoá báo cáo NHNN, để NHNN phối hợp với các cán bộ nghành và chính phủ xem xét, quyết định phương án cổ phần hoá, giao cho BIDV được chủ động xây dựng phương án lựa chọn đối tác nước ngoài có uy tín, kinh nghiệm theo hình thức chỉ định thầu, báo cáo trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện tư vấn quá trình cổ phần hoá cho BIDV như tư vấn về quy trình và xây dựng phương án cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn đối tác chiến lược và bán cổ phần lần đầu;cho phép BIDV được áp dụng quy trình cổ phần hoá theo quy định và có xét đến đặc thù của tổ chức tín dụng, của BIDV và có tham khảo, vận dụng chuẩn mực và thông lệ quốc tế nhằm đáp ứng tính minh bạch và cạnh tranh cao nhất, mang lại giá trị tốt nhất cho cổ phần hoá.
II. GIẢI PHÁP
Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, sự ổn định và phát triển của hệ thống NH có ý nghĩa hết sức quan trọng để thúc đẩy và duy trì sự phát triển của ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh do đó một bước đi của NH mà cụ thể là của các NHTMNN sẽ ảnh hưởng mạnh đến “sức khoẻ” của nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay CPH NHTMNN là con đường đúng đắn để VN đủ khả năng hoà mình vào điều kiện mới để phát triển. Tuy nhiên CPH NHTMNN thành công không chỉ là đảm bảo đúng tiến trình mà điều quan trọng nhất là CPH NHTMNN để nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động phát triển không bị sức mạnh của các đối tác trong yêu cầu hội nhập đẩy nền kinh tế VN xuống dốc và mất thị phần. Vì vậy các giải pháp CPH NHTMNN phải bao trùm nhiều khía cạnh như hiện đại hoá NHTMNN, nâng cao năng lục cạnh tranh… tuy nhiên dưới đây em chỉ xin đề cập đến một số giải pháp gắn liền đến yêu cầu CPH hiện nay.
1. Giải pháp về môi trường pháp lý và quản lý giám sát
Một là, cần sớm xây dựng và ban hành những quy định pháp lý và mô hình tổ chức, quản lý hoạt động của NHTMNN sau CPH.
Hai là, cần phải thực thi các thông lệ quốc tế một cách phù hợp, hoàn thiện hệ thống các văn bản luật bổ trợ và tác động đến các hpạt động của NH như: luật Cạnh tranh, luật Doanh nghiệp… theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với thực tế CPH hiện nay.
Ba là, giữa các cơ quan quản ly như: Uỷ ban Chứng khoán, NHNN, BTC, Thanh tra Nhà nước…cần phải có sự phối hợp với nhau thường xuyên, trên cơ sở cùng một chuẩn mực đánh giá để giúp quá trình đánh giá gía trị tài sản CPH diễn ra chính xác và không tốn nhiều thời gian, chi phí...
2. Giải pháp về tài chính nội lực của các NHTMNN VN:
2.1.Giải pháp tài chính CPH DNNN ở Trung Quốc:
Để tìm ra giải pháp CPH NHTMNN Việt Nam chúng ta tham khảo quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc:
Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc được khởi xướng từ 1985và nó được quy định bằng văn kiện ban hành tháng 12/1986, Quốc vụ viện đã cho phép “ các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hoá”. Thực tế, DNcổ phần hoá đầu tiên được ra đời vào năm 1984: công ty cổ phần hữu hạn bách hoá Thiên Kiều (Bắc Kinh). Đến nay tiến trình cổ phần hoá DNNN của Trung Quốc đang ở giai cuối cùng, chỉ còn giữ lại một số doanh nghiệp đặc biệt không thể cổ phần hoá vì mục đích an toàn quốc gia
Xác định và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của doanh nghiệp như “luật phá sản doanh nghiệp”, luật DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, các nguyên tắc tài chính của doanh nghiệp “ luật công ty”, “điều lệ tạm thời về quản lí phát hành và giao dịch cổ phiếu”, “ luật NH người dân Trung Quốc”, “ luật thương nghiệp” và nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn để các bộ luật này đi vào cuộc sống của doanh nghiệp cũng như từng người dân, cụ thể:
+ Trung Quốc tiến hành đẩy mạnh cổ phần hoá bằng hàng loạt các chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước từ đó khẳng định tên tuổi, uy tín nổi trội của nhiều công ty cổ phần Trung Quốc trên thương trường tiền gửi tham gia vào thị trường chứng khoán thế giới
+ Công ty cổ phần được hình thành theo 3 cách: bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên trong cục bộ doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội hoặc là công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp
Năm 1997, tại hội nghị TW4 khoá XV của ĐCS TQ đã đưa ra luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế. Đối với các doanh nghiệp ban đầu tiến hành cổ phần hoá, chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hoá việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các doanh nghiệp cải tạo kĩ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, chính phủ đã tạo điều kiện hưởng một số ưu đã như được giảm thuế TNDN và một số loại thuế khác trong nhiều năm. Đối với các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá hiệu quả không cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì được tạo điều kiện tham gia thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như giành 10% cổ phần doanh nghiệp đẻ thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và cán bộ công nhân viên
Mục đích căn bản là phát triển chế độ sở hữu tài sản mà trước đây nhà nước luôn tham gia giữ vai trò độc quyền để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ư hoá kết cấu quản trị doanh nghiệp
2.2. Mở rộng chiến lược huy động vốn ra nước ngoài:
Thực hiện các chiến lược huy động vốn đầu tư “khơi trong hút ngoài”. muốn CPH NHTMNN thành công thực sự về chất lượng thì tất yếu phải tạo ra một nội lực mạnh về tài chính, tức là phải tăng vốn chủ sở hữu. CPH NHTMNN thì làm tăng vốn chủ tức là tăng nguồn đầu tư không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. đặc biệt trong điều kiện hiện nay thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại vốn mà còn có vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường vốn phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng qui mô và tăng tính minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp… tạo ra tấm đệm kinh tế vững trắc cho nền kinh tế tăng trưởng.
Tuy nhiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài như thế nào và sử dụng ra sao, luôn tiềm ẩn những rủi ro hơn so với huy động vốn trong nước. lựa chọn kênh huy động vốn và giải pháp thích ứng để thu hút từng loại vốn đầu tư nước ngoài là thúc đẩy thu hút vốn ngoài nước ổn định và tương xứng với tiềm năng, góp phần tạo động lưc phát triển thị trường vốn và nền kinh tế VN. NHTMNN là phải đảm bảo là một kênh huy động vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả.
Muốn vậy, trước hết các NHTMNN khi tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài dưới bất cứ hình thức nào cũng phải dặc biệt quan tâm đến những đặc trưng của vốn nước ngoài.
NHTMNN cần có các cơ chế chính sách nghiệp vụ tiếp nhận vốn thích hợp khi tiến hành CPH như phát hành cổ phiếu, trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế.
2.3. Cơ cấu lại tài chính:
Về việc sáp nhập và hợp nhất những ngân hàng với nhau hay giữa ngân hàng với tổ chức tín dụng cần có sự cân nhắc về việc chọn đối tượng sáp nhập. Có thể nói đây là phương pháp hữu hiệu, thiết thực giúp làm tăng quy môvốn nhanh chóng, làm tăng khả năng thực hiện một cách đa năng chuyên nghiệp các nghiệp vụ tài chính –ngân hàng khác nhau
Về việc điều hành và thực hiện các nghiệp vụ theo hoạch định cần phải cải tiến đảm bảo thống nhất định hướng, điều hành kịp thời đến các chi nhánh thông qua hệ thống truyền thông e-mail, fax, đường truyền dữ liệu
Theo thông lệ quốc tế các NHTM lớn trên thế giới đều có uỷ ban quản lí tài sản nợ, tài sản có với các chức năng và quyền hạn cụ thể, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị điều hành của ngân hàng. Kèm theo đó trong tổ chức, trong điều hành của NHTM hình thành hai bộ phận tương đối rõ ràng, đó là front office ( chuyên giao dịch trực tiếp với khách hàng), bộ phận office chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và hậu cần phục vụ. Trong điều hành cũng như phân định rõ trách nhiệm , xây dựng tại chi nhánh có giám đốc điều hành, nhân sự, tài chính, kinh doanh. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng người. Ở nước ta một số NHTMNN do đang thực hiện thí điểm cổ phần hoá nên cần phải xem xét vận dụng mô hình tổ chức cho phù hợp, tránh rợp khuôn không nên xây dựng mở quá nhiều các uỷ ban, phòng ban không cần thiết mà phải phân tích kĩ lưỡng cần tổ chức như thế nào cho phù hợp và xác thực
Do yêu cầu phải minh bạch và mô hình tổ chức bởi người chủ sở hữu NHTM khi cổ phần hoà không phải chỉ là của nhà nước nên tất yếu muốn cổ phần hoá thành công phải rõ ràng trong tổ chức tức thực hiện cơ cấu lại mô hình tổ chức đúng đắn.
Để nâng cao nội lực nhằm CPH NHTMNN thành công thì phải:
2.4.Nâng cao năng lực tài chính:
-Dùng nguồn vay nợ nước ngoài của chính phủ để tài trợ làm tăng vốn điều lệ ngân hàng: đây là biện pháp đặc biệt. Đã có nhiều chuyên gia, trong điều kiện hiện nay , nếu chính phủ có trong tay 1 tỷ USD cho việc này thì thì chắc chắn hệ thống NHTMNN có đủ sức về tài sản để đảm bảo cổ phần hoá thành công và đủ sức cạnh tranh với ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên cần phảI có sự tính toán kĩ lưỡng, đáp ứng yêu cầu cân đối vĩ mô của nền kinh tế , từ cán cân thanh toán , ngoại tệ, tỉ giá, cân đối ngan sách nhà nước
- Phải tiến hành cổ phần hoá NHTMNN trên cơ sở giữ nguyên một phần vốn hiện có của nhà nước tại thời điểm cổ phần hoá, đồng thời huy động thêm số vốn còn thiếu để tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% từ việc bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên ngân hàng, cho các cổ đông chiến lược là các doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín
- Xử lí nợ tồn đọng, lành mạnh hoá tình hình tài chính. Tuy quyết định 493 được ban hành và các NHTMNN bước đầu đã thống kê nợ xấu theo cách chia các khoản nợ thành 5 loại .Với nợ từ loại 3 đến 5 là loại nợ xấu nhưng do mối quan hệ truyền thống, cùng hình thức sở hữu, nhu cầu vay lớn và có nhà nước xử lí nếu gặp rủi ro nên các NHTMNN vẫn cho DNNN vay lớn nhất mặc dù khă năng trả của các DNNN này là thấp và cả các khoản cho vay “theo chỉ thị” cần phải được xử lí ngay và phải đảm bảo kỉ luật tín dụng. CPH NHTMNN đặt ra yêu cầu xử lí tốt các khoản nợ xấu.
Sổ tay tín dụng do WB tài trợ và được biên soạn theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cần được thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam nếu máy móc, cứng nhắc sẽ trở nên kém hiệu quả. Hội đồng tín dụng tại các chi nhánh NHTMNN cần đảm bảo thực chất hơn tránh tình trạng như tại 1 số chi nhánh NHTMNN, hội đồng tín dụng còn mang tính hình thức, các quyết định cho vay đều do giám đốc hoặc cán bộ chuyên môn, phòng chuyên môn không có bản lĩnh bảo vệ quan điểm của mình
3. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ NH
Để đẩy nhanh tiến độ CPH NHTMNN cần phải hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ NH. Xây dụng hệ thống thông tin quản lí, hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống giao dịch điện tử trên cơ sở ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin hiện đại. Bên cạnh đó cần chú trọng phát triển hệ thống dịch vụ NH đa dạng, đa tiện ích nhằm khai thác có hiệu quả các công nghệ hiện đại, đồng thời tiếp cận và phát triển các loại hình dịch vụ mới có hàm lượng công nghệ cao theo nhu cầu cảu nền kinh tế. Việc phát triểnđa dạng hoá sản phẩm dịch vụ NH sẽ làm giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Chú trọng công tác Mảketing, xây dựng chiến lược khách hàng, mở rộng mạng lưới, tranh thủ quảng bá hình ảnh, thương hiệu của NH.Cải tiến các quy trình giao dịch nhằm đơn giản hoá các thủ tục hành chính.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên NH
Thực hiện công tác đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ và công nghệ mới của NH hiện đại. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trang bị cho nhân viên NH các kiến thức ngoại ngữ, xã hội, nghiệp vụ , văn hoá kinh doanh, giao thiệp NH.
KẾT LUẬN
Thách thức được vượt qua nó sẽ trở thành thời cơ, song thời cơ không nắm bắt được thì tất yếu trở thành thách thức. Nếu Việt Nam vượt qua thách thức cổ phần hoá các NHTM thành công cả về tiến trình và chất lượng cổ phần hoá thì hệ thống NHNN Việt Nam mới có nền để thực sự đủ sức hội nhập cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế. Song Việt Nam có thực sự biến các thách thức của quá trình cạnh tranh, hội nhập toàn cầu hoá nền kinh tế thành cơ hội hay không?
Do thời gian và điều điện giới hạn ở đề án môn học nên em xin được tiếp tục bàn luận ở các đề án tiếp theo.
Bài viêt của em còn nhiều sơ xuất và thiếu sót về số liệu kính mong thầy chỉnh sửa.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tài chính tiền tệ
2. Thời báo ngân hàng
3. Tài chính doanh nghiệp
4. Tạp chí ngân hàng các số năm2006
5. Báo thị trường tài chính tiền tệ các số năm2006
6. Giáo trình ngân hàng thương mại
7. Trang web các NHTMNN Việt Nam
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA-46.docx