Đề án Thực trạng công tác huy động vốn và sử dụng vốn của một số ngân hàng thương mại

Việt Nam đã chính thức gia nhập và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này không chỉ đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành ngân hàng nói riêng những vận hội to lớn mà còn cả những thách thức đòi hỏi hoàn thiện bản thân để đứng vững trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển. Dù chỉ là những ngân hàng có qui mô nhỏ & trung bình khi so sánh với các ngân hàng khác trong khu vực, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là khối các ngân hàng cổ phần đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Biết rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức của mình, các ngân hàng đã và đang có những biện pháp hữu hiệu để cải thiện tình hình hoạt động và chất lượng dịch vụ. Và chúng ta có quyền kì vọng thị trường tài chính Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, trở thành một nơi thu hút vốn đầu tư chủ yếu vào khu vực Đông Nam Á, giúp Việt Nam vươn vai thành một con hổ Châu Á như nhiều nhà kinh tế đã dự đoán.

doc38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng công tác huy động vốn và sử dụng vốn của một số ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh doanh ngân hàng thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng VCSH (đầu tiên là quĩ dự phòng rủi ro, sau đó là lợi nhuận tích luỹ và cuối cùng là vốn cổ phần). Trong trường hợp ngân hàng phá sản hoặc ngừng hoạt động, các khoản tiền gửi sẽ được hoàn trả trước, sau đó đến nghĩa vụ với chính phủ và người lao động, các khoản vay, cuối cùng mới đến chủ giấy nợ có khả năng chuyển đổi, cổ phần ưu đãi, cổ phần thường. Như vậy, nếu qui mô VCSH càng lớn, người gửi tiền và người cho vay càng cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng (với các điều kiện khác là như nhau). Khi cơ quan bảo hiểm tiền gửi được thành lập, VCSH góp phần giảm bớt rủi ro cho cơ quan bảo hiểm. - VCSH tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng. Để hoạt động, điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu (vốn pháp định). Số vốn này, trước hết để mua sắm (hoặc thuê) trang thiết bị, nhà cửa cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng như vay hoặc mua chứng khoán. - VCSH góp phần điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng. Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng của các nhà chức trách tiền tệ có liên quan chặt chẽ với VCSH. Ví dụ: Qui mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với VCSH, qui mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng, nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, mở chi nhánh, mua sắm tài sản cố định, thành lập công ty con... đều tính theo tỷ lệ với VCSH. Như vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo VCSH. Các nhân tố ảnh hưởng +) Chính sách của chính phủ Các chủ ngân hàng đều có xu hướng thích qui định VCSH ban đầu (pháp định) thấp để thuận tiện cho việc khai trương hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên điều này lại ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống, an toàn cho người gửi tiền và khiến các cấp quản lý vĩ mô lo ngại. Các vụ phá sản ngân hàng (đang ngày càng gia tăng) thường gây ra những hoảng loạn lớn trong dân chúng và các tổn thất khó lường hết được. Vốn của chủ ngân hàng được sử dụng để trả nợ cho người gửi tiền, giảm bớt khó khăn cho ngân sách, hoặc tổn thất của người gửi tiền. Việc quy định vốn pháp định lớn sẽ hạn chế gia tăng khối lượng các ngân hàng và cạnh tranh giữa các ngân hàng. Mặt khác với mục tiêu khuyến khích ngân hàng tư nhân hoặc ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ, Ngân hàng trung ương có thể quy định VCSH ban đầu thấp và ngược lại. Tuy nhiên ngân hàng qui mô nhỏ thường có phạm vi hoạt động hẹp, khả năng đa dạng không cao, vì vậy sức chống đỡ rủi ro kém các ngân hàng lớn. +) Chính sách và kết quả kinh doanh của ngân hàng Chính sách và kết quả kinh doanh của ngân hàng ảnh hưởng tới qui mô và cấu trúc của VCSH. Ngân hàng làm ăn phát đạt và có chính sách gia tăng sức mạnh, sẽ mở rộng VCSH và có khả năng mở rộng VCSH thông qua phát hành thêm cổ phiếu, hoặc tự tích luỹ. Những ngân hàng nhỏ, khả năng sinh lời thấp thì khả năng mở rộng VCSH cũng bị hạn chế. Vốn ngân hàng càng lớn càng tạo cho người gửi tâm lý an toàn. Họ hi vọng rằng, khi bỏ ra một số tiền lớn, những người sở hữu quan trọng của ngân hàng sẽ phải cố gắng hết sức để kinh doanh an toàn. Do vậy để tăng uy tín, thu hút nhiều tiền gửi, ngân hàng phải tăng qui mô VCSH. 2.2. Vốn nợ * Tiền gửi Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Bao gồm + Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch) Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều có được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiển gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khỏan tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi - chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. + Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyếnh khích dân cư thay đổi thói quen giữ tiền vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm một trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. + Tiền gửi của ngân hàng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác, tuy nhiên qui mô nguồn này thường không lớn. - Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu, ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng số nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. + Các nhân tố ảnh hưởng Lãi suất: Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm đến lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Thời vụ chi tiêu: ảnh hưởng đến qui mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp Tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Thu nhập: Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh (kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng... 2.3 Tiền vay Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể đi vay ở NHTƯ, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức ngoài nước... Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Các loại tiền vay + Vay Ngân hàng nhà nước. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiết hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định + Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. + Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định qui mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm. - Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Đặc điểm: Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các nguồn đi vay thường là với thời hạn và qui mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản vay Ngân hàng nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. + Các nhân tố ảnh hưởng Chính sách tiền tệ từng thời kì: Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ là mở rộng, việc vay Ngân hàng nhà nước sẽ trở nên dễ dàng hơn đối với các NHTM nhờ lãi suất tái chiết khấu thấp. Và ngược lại khi chính sách tiền tệ thắt chặt được triển khai, Ngân hàng nhà nước sẽ nâng mức lãi suất tái chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đến vay tiền. Thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô ảnh hưởng tới hoạt động vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn. Khi thu nhập của dân cư ở mức cao họ sẽ có xu hướng thích tiết kiệm & mua các giấy nợ. Đồng thời triển vọng về một nền kinh tế ổn định sẽ khiến các khách hàng yên tâm hơn khi nắm giữ giấy nợ. Kĩ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay cũng ảnh hưởng tới việc đi vay của ngân hàng. 2.4 Vốn nợ khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác + Tiền uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. + Tiền trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể trở thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay... + Tiền khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả * Đặc điểm: Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ... Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn (trừ một số ngân hàng có các dịch vụ uỷ thác cho nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách gia tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác. 3. Vai trò của NHTM trong các hoạt động kinh tế 3.1 Chức năng trung gian tài chính Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM .NHTM nhận tiền gửi và cho vay chính là đẫ thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư. Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải có sự trùng khớp về nhu cầu giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng, thời hạn... chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú chuyên môn hoá vào từng lĩnh vực NHTM đã thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. 3.2 Chức năng tạo tiền Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTƯ đặc biệt trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ thốngNHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức : D=m.MB D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng MB: khối lượng tiền cơ sở M=1/rd: hệ số nhân tiền rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc NHTƯ có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra . 3.3 Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng khoán có tính lỏng cao hơn và có rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp, công ty phát hành. Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng và phong phú : sec chuyển tiền, sec chuyển khoản, thẻ tín dụng... sự xuất hiện của các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao dịch thương mại, mua bán hàng hoá an toàn nhanh chóng, chi phí thấp. 3.4 NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ thanh toán, dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm... Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. chưa bao giờ các dịch vụ tài chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở các ngân hàng hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền. Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc đưa ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh tranh.Chính vì vậy mà các Ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động của mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy động vốn. PHẦN II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 1. Thực trạng Về lãi suất huy động Trong thời gian qua, với chính sách kiềm chế lạm phát trọn gói của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam. Lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng không ngừng thay đổi, thậm chí là từng giờ. Có một vấn đề là tâm lý của người gửi tiền không ổn định, sự thay đổi lãi suất đó kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng tăng giảm thất thường. Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người gửi tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền mặt được rút khỏi ngân hàng A và được gửi sang ngân hàng B. Khách hàng đi gửi tiền thường không hiểu rõ các điều kiện ràng buộc của các ngân hàng nên khi rút tiền không đúng kỳ hạn đó phải hưởng mức lãi suất thấp không như kỳ vọng, dẫn đến tâm lý thiếu lòng tin vào các ngân hàng. Tuy tiền lãi mất đi đối với một khách hàng không đáng kể nhưng tính đến toàn hệ thống ngân hàng thì việc này đó dẫn đến thiệt hại không nhỏ. Trong năm 2009 ngân hàng TMCP phát triển nhà TPHCM (HDBank) trong một thời gian dài duy trì “đỉnh” lãi suất huy động VND ở mức 10,3%/năm (chỉ còn thêm 0,2% là chạm trần lãi suất cơ bản), ngày 27/10 đã điều chỉnh giảm còn 9,99%/năm. Hay như Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) chỉ sau một ngày công bố lãi suất 6 tháng của sản phẩm “Tiền gửi siêu lãi suất” là 10,05%/năm, đã phải điều chỉnh giảm lãi suất này xuống dưới 10%/năm. Tương tự, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) điều chỉnh biểu lãi suất huy động đối với các loại tiền VND, USD và EUR. Đối với VND, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng thêm cao nhất là 1,2%/năm so với biểu lãi suất cũ, mức lãi suất cao nhất là 9,72%/năm. Có thể thấy rằng, hoạt động điểu chỉnh lãi suất huy động vốn tại các ngân hàng thương mại hiện nay tập trung ở các kỳ hạn ngắn, còn các kỳ hạn dài đã bị thu hẹp. Ngoài việc tăng lãi suất, nhiều ngân hàng cũng sử dụng các công cụ huy động là kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trong đó lãi suất được đẩy lên đỉnh điểm ở các kỳ hạn ngắn. Nhận xét : Các ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất cao cùng với nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn. Thế nhưng kỳ hạn ứng với mức lãi suất đưa ra đó thường là một năm. Nếu chia bình quân tháng và với một lượng tiền gửi không nhiều thì chi phí cơ hội sẽ cao hơn thu nhập từ tiền lãi. Bên cạnh đó, khách hàng thường không xem trọng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng gửi tiền - ngân hàng huy động, cho nên việc thay đổi đối tác trong giao dịch là điều tất yếu xảy ra. Đây cũng có thể xem như là một chi phí nữa mà khách hàng bỏ ra. Việc tạo dựng được mối quan hệ lâu dài của cả hai phía là một yếu tố mang đậm tính văn hoá kinh doanh, mà điều này thường cả hai phía đều không xem trọng. Qua thời gian biến động cho ta thấy rằng tính chuyên nghiệp cũng như văn hoá kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém khi giao dịch không được đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt. Chính vì sự mong manh đó nên lượng vốn trong dân còn rất lớn nhưng với mức lãi suất huy động cao như hiện nay vẫn không thu hút đáng kể. Và khi khối lượng lớn vốn ấy cứ nằm im thì chúng ta lại tăng chi phí cơ hội của mình một lần nữa. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản của NHNN sẽ tiếp tục gây áp lực cho hệ thống ngân hàng đối với việc huy động vốn trong bối cảnh thị trường hiện nay. Bởi trước khi quyết định trên được ban hành, các ngân hàng đã kiến nghị NHNN nên bỏ trần lãi suất huy động vốn đang áp dụng 10.5%/năm. Thực tế hiện nay, ngoài mức trần lãi suất huy động là 10.5%/năm, các ngân hàng phải gia tăng khuyến mãi, tặng tiền mặt cho khách hàng, với kỳ vọng thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Chẳng hạn, tại SCB áp dụng chương trình tặng tiền cho khách hàng là tổ chức gửi tiền bằng VND, với mức gửi tối thiểu 50 triệu đồng (kỳ hạn 3 tháng trở lên theo hình thức lĩnh lãi cuối kỳ). Theo đó, SCB tặng ngay tiền mặt bậc thang theo số dư lên đến 0,25%/năm, tặng tiền mặt 0,1%/năm khi gửi lại và tặng tiền mặt cho khách hàng tham gia gửi trước ngày 1/4 lên đến 0,2%/năm với mong muốn huy động được nhiều vốn. Năm 2010, chủ trương hỗ trợ lãi suất chỉ còn duy trì đối với các khoản vốn vay trung, dài hạn. Trong khi đó, vốn huy động về của ngân hàng hiện chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn ngày (dưới 6 tháng). Nhưng các ngân hàng cho biết, cái khó nhất trong triển khai tín dụng hiện nay vẫn là phải áp dụng trần lãi suất cho vay theo xu hướng lãi suất cơ bản của tháng 3/2010 (trần cho vay là 12%/năm), không đủ bù chi phí. Quản lý thanh khoản bất cập. Cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng có tới 80% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm, chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1 năm (trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Trong khi đó cơ cấu cho vay phổ biến tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là gần 60% tổng dư nợ cho vay với thời hạn cho vay trên 1 năm Trong những năm qua các ngân hàng đều có lợi nhuận khá nhờ doanh thu tăng mạnh và chênh lệch lãi suất cho vay/vay lớn. Tuy nhiên, lợi nhuận trong 18 tháng qua có sự biến động mạnh, trong đó lợi nhuận chính chủ yếu là nhờ tỷ lệ cho vay cao và lãi suất tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008. Lợi nhuận của các NHTM quốc doanh sẽ vẫn thấp hơn so với các ngân hàng có vốn nước ngoài. Đồng thời, môi trường cạnh tranh gay gắt và lãi suất giảm càng gây thêm sức ép tới lợi nhuận của các ngân hàng. Dự đoán chung, lợi nhuận của các ngân hàng Việt Nam trong những năm tới sẽ giảm do môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả hoạt động. Những yếu tố được dự báo sẽ tác động xấu đến lợi nhuận bao gồm chi phí đảm bảo chống thất thu vốn tăng lên, tăng trưởng tín dụng giảm do nhu cầu yếu, và tình trạng thắt chặt cho vay tín dụng và nguồn cung tín dụng giảm. Thanh khoản: đáp ứng đủ, nhưng sẽ thắt chặt dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chịu tác động hạn chế của cuộc khủng hoảng tín dụng một phần là nhờ thanh khoản dồi dào. Tuy nhiên, tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR) đang tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng trong tháng 6/2009 là 17% so với cuối năm 2008, cao hơn so với 16% của tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi. Các ngân hàng liên doanh nói chung thì có nền tảng thanh khoản tốt hơn các NHTM quốc doanh. Tiềm năng thu hút tín dụng trong nước của các ngân hàng rất lớn. Tuy nhiên, triển vọng này bị cản trở do tâm lý cố hữu của người dân từ trước đến nay thiếu tin tưởng vào hệ thống ngân hàng và nền kinh tế vẫn sử dụng nhiều tiền mặt, nơi phần lớn người dân vẫn không giữ tiền tiết kiệm trong ngân hàng. Ngoài ra, sự lên giá gần đây của thị trường bất động sản và chứng khoán càng khiến các ngân hàng phải cạnh tranh nhiều hơn để thu hút tín dụng trong dân. Mặc dù vậy, tiền gửi vẫn là nguồn tín dụng đầu vào chủ yếu cho các ngân hàng, chiếm 70-75% tổng vốn tín dụng. Đây là yếu tố tích cực cho triển vọng của các ngân hàng. Hiệu quả hoạt động chưa cao Hiệu suất hoạt động của các ngân hàng Việt Nam dao động trong khoảng 33-69%, tuỳ thuộc vào các yếu tố như cơ cấu chủ sở hữu, mô hình và chiến lược kinh doanh, cũng như chi phí hoạt động. Chẳng hạn, các ngân hàng cổ phần ở Việt Nam hoạt động với cơ chế tự động cao hơn và có đội ngũ nhân viên lương cao nhiều hơn. Hiệu suất hoạt động của họ đã giảm do quá trình phát triển hạ tầng, chi phí lương tăng, và các chi phí quản lý khác liên quan đến mở rộng mạng lưới và hoạt động bán lẻ. Chi phí nhân sự cao do sự khan hiếm chuyên gia trong lĩnh vực này, vì vậy các ngân hàng phải tăng lương để giữ chân nhân viên. Nhiều ngân hàng sẽ đối mặt với tình trạng chi phí tiếp tục gia tăng khi mở rộng hạ tầng công nghệ thông tin và phát triển mạng lưới. Nếu doanh thu giảm, dù là nhỏ, các ngân hàng sẽ phải điều chỉnh mạng lưới chi nhánh để nâng cao hiệu suất hoạt động. Có thể các ngân hàng sẽ áp dụng các chiến lược kinh doanh bảo thủ và thận trọng hơn, kèm theo các biện pháp cắt giảm chi phí. Huy động vốn đủ và cần tiếp tục củng cố. Các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa có tiềm năng vốn tương xứng và nói chung vẫn có vốn thấp so với tiêu chuẩn của thế giới. Vì vậy, nhiều NHTM quốc doanh sắp được cổ phần hoá sẽ đòi hỏi sự bơm vốn từ phía chính phủ hoặc/và các nhà đầu tư chiến lược để hỗ trợ tăng trưởng vốn. Vốn điều lệ còn thấp Theo hướng dẫn về vốn pháp định và các tiêu chuẩn quốc tế Basel 1, các ngân hàng của Việt Nam cần duy trì một hệ số vốn tối thiểu (CAR) là 8%. Đến cuối năm 2010, các ngân hàng Việt Nam sẽ buộc phải đăng ký vốn tối thiểu là 3.000 tỷ đồng.Tuy nhiên tính đến tháng 3/2010, trong số 39 ngân hàng thương mại cổ phần, nếu xét theo quy mô vốn điều lệ thì có 21/39 ngân hàng thương mại cổ phần dưới 2.000 tỷ đồng; 30/39 dưới 3.000 tỷ đồng và chỉ 9/39 có vốn trên 3.000 tỷ đồng. Đứng đầu “câu lạc bộ trên 3.000 tỷ đồng” là Vietcombank với 12.100 tỷ đồng (650 triệu USD) nhưng có thể bị VietinBank “qua mặt” vì vốn điều lệ của ngân hàng này đang là 11.252 tỷ đồng và dự kiến hết 2010, VietinBank sẽ phát hành thêm 3 đợt, nâng vốn điều lệ lên mức 18.731 tỷ đến 19.833 tỷ đồng. Tiếp theo là Eximbank (8.800 tỷ đồng), ACB (7.814 tỷ đồng), Sacombank (6.700 tỷ đồng), LienVietBank (3.300 tỷ đồng)...   Vì thế các ngân hàng yếu, tiềm lực tài chính có hạn sẽ chịu nhiều sức ép, việc này có thể dẫn đến tình trạng sáp nhập trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.Theo Moody’s nhận thấy có một sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ CAR của các ngân hàng cổ phần và các ngân hàng NHTM quốc doanh, từ 7% đến 14%, trong đó tỷ lệ của NHTM quốc doanh thấp hơn. Mặc dù tổng vốn huy động của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn đáp ứng đủ, song khả năng phát triển và mở rộng thị phần của họ trong một môi trường ngân hàng phát triển nhanh chóng chủ yếu phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của họ. Theo dự đoán chất lượng tài sản của các ngân hàng sẽ xấu đi, song mức độ thua lỗ tiểm ẩn này và tác động của nó tới khả năng huy động vốn vẫn chưa chắc chắn do tình trạng bi quan trong nền tài chính toàn cầu hiện nay và môi trương hoạt động trong nước dự báo sẽ xấu đi. Cho rằng các ngân hàng có nền tảng vốn yếu cần củng cố vị thế của họ nhằm triệt tiêu bớt những tổn thất không lường trước. Điều này đặc biệt quan trọng do khả năng huy động vốn của ngành đang suy yếu bởi khả năng dự phòng thấp của toàn bộ hệ thống và lo ngại gia tăng về tỷ lệ nợ khó đòi cũng như mức độ tập trung cao của hệ thống ngân hàng. Hoạt động huy động vốn trong năm 2010 được xác định sẽ khó khăn hơn so với năm trước, chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra tiếp tục co hẹp khi trần lãi suất chưa được bãi bỏ. Đồng thời, nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ… sẽ không còn đóng góp vào lợi nhuận, khi hoạt động sàn vàng phải đóng cửa. Vì thế, kế hoạch lợi nhuận năm nay dù được hầu hết ngân hàng "co kéo" để không thua kém năm qua, nhưng để đạt được con số này không hề dễ dàng. Giảm thu từ dịch vụ… Năm 2009, hoạt động kinh doanh ngoại hối chỉ mang về cho Eximbank (EIB) 134 tỷ đồng, giảm đến 78,8% so với năm 2008 (634 tỷ đồng). Vì năm qua được xem là năm khó khăn đối với lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, cho dù EIB được biết đến là ngân hàng có thế mạnh về kinh doanh vàng và ngoại tệ. Đồng thời, trong quý IV/2009, EIB kinh doanh chứng khoán bị lỗ 43,5 tỷ đồng và lũy kế cả năm lỗ hơn 39,8 tỷ đồng. Như vậy, lợi nhuận sau thuế quý IV của Ngân hàng chỉ đạt 162 tỷ đồng, dù lũy kế cả năm EIB lãi 1.144 tỷ đồng, tăng 60,9% so với cùng kỳ. Con số lợi nhuận trước thuế năm 2009 đạt trên 5.688 tỷ đồng, tăng 342,76% so với cùng kỳ năm 2008 của Vietcombank (VCB) vừa được ngân hàng này công bố, đã gây bất ngờ lớn cho nhiều người. Vì trước đó, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế đưa ra đầu năm qua của VCB chỉ ở mức khiêm tốn 3.400 tỷ đồng. Đó là do trong năm qua tỷ lệ nợ xấu của VCB được xử lý ở mức thấp, dưới 3%. Điều này dẫn đến dự phòng rủi ro giảm xuống rất nhiều, đồng thời được hoàn nhập một phần dự phòng của năm trước đó. Cụ thể, theo báo cáo tài chính của VCB, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong quý cuối cùng của năm 2009 đạt trên 1.644 tỷ đồng, hoàn nhập dự phòng rủi ro tín dụng là hơn 249 tỷ đồng; trong khi cùng kỳ năm 2008, VCB phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lên đến 2.050 tỷ đồng. Còn thu nhập từ lãi và thu nhập tương tự của VCB đạt 3.964,24 tỷ đồng trong quý IV/2009, giảm 18,68% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi chi phí hoạt động lên tới 1.250 tỷ đồng, tăng 83% so với cùng kỳ. Lũy kế cả năm 2009, thu nhập từ lãi của VCB đạt 15.292 tỷ đồng, tăng 38,55% so với năm 2008; chi phí hoạt động lên tới 3.733,4 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần năm 2008, nhưng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chỉ có 191,43 tỷ đồng. Tại Sacombank (STB), lợi nhuận trước thuế quý IV/2009 đạt 614,9 tỷ đồng, tăng 17,5%; lợi nhuận sau thuế đạt 486,5 tỷ đồng, tăng 14% so với quý trước đó. Lũy kế cả năm, tổng thu của STB đạt 9.145,8 tỷ đồng; tổng chi là 6.995,3 tỷ đồng. Lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 2.150,4 tỷ đồng. So với chỉ tiêu kế hoạch năm 2009, lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng vượt 34,4% (chỉ tiêu 1.600 tỷ đồng). EPS 4 quý gần nhất theo tính toán của STB đạt 2.784 đồng. Tuy nhiên, chỉ tiêu lợi nhuận năm 2010 của STB ở mức 2.600 tỷ đồng được cho là áp lực không nhỏ đối với HĐQT và Ban điều hành Ngân hàng. Vì theo đại diện STB, trong năm nay do chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng phải xây dựng thấp hơn năm trước, nên Ngân hàng sẽ gia tăng nguồn thu từ dịch vụ, với tỷ trọng chiếm trên 30% trong tổng thu nhập đóng góp vào lợi nhuận (năm 2009, nguồn thu từ hoạt động dịch vụ đóng góp khoảng 25 - 30% tổng nguồn thu). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này cũng không dễ dàng, vì đến cuối tháng 3/2010 Sàn vàng Sacombank - SBJ từng là nơi có khối lượng giao dịch vàng hàng ngày rất lớn (đạt 500.000 - 600.000 lượng/ngày), sẽ phải đóng cửa. Các ngân hàng cho rằng, năm 2010 sẽ dễ thở hơn giai đoạn khủng hoảng và khó khăn năm 2008 - 2009, bởi về lý thuyết, khi nền kinh tế tăng trưởng cao hơn thì cơ hội với các ngân hàng cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, theo VCB, dù nền kinh tế chung sẽ khởi sắc, nhưng trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, sự cạnh tranh cả ngoại lẫn nội trên thị trường ngày càng gay gắt. Tính đến cuối năm 2009, tổng tài sản của EIB đạt 66.029 tỷ đồng, tăng 36,8% so với năm 2008; huy động vốn đạt 38.766 tỷ đồng, tăng 25,5%; dư nợ cho vay tính đến cuối năm qua là 38.381 tỷ đồng, tăng đến 80,7% so với cùng kỳ. Song với tín hiệu kiểm soát mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm nay ở mức 25%, chắc chắn kế hoạch tăng trưởng tín dụng của EIB sẽ phải xây dựng ở mức thấp hơn so với năm 2009. Nguồn thu đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng này cũng không thể kỳ vọng vào sự đóng góp từ dịch vụ sẽ gia tăng, vì sàn vàng trực thuộc sẽ phải đóng cửa, đồng thời việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài bị bãi bỏ kể từ ngày 6/1 vừa qua. Còn đối với kinh doanh ngoại tệ, thị trường năm 2010 cũng được dự báo chưa cải thiện nhiều so với năm 2009. Các quầy thu đổi ngoại tệ của Eximbank đã bị thu hẹp dần, hiện chỉ còn vài ba quầy tồn tại ở khu vực TP. HCM, thay vì con số hàng chục quầy trước đây. Các chỉ số và kết quả đạt được trong năm 2009 tương đối sát với mục tiêu đề ra của ACB. Năm 2009, lợi nhuận hợp nhất trước thuế của Tập đoàn ACB đạt trên 2.818 tỷ đồng, vượt 118 tỷ đồng so với kế hoạch. Trong đó, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm 20%; từ thu phí dịch vụ chiếm 26%; từ trái phiếu, chứng từ có giá chiếm 25%; từ hoạt động liên ngân hàng chiếm 4%; từ kinh doanh ngân quỹ và đầu tư chiếm 25%. Tính đến cuối năm qua, tổng huy động của ACB đạt 123.968 tỷ đồng, tăng 35,33% so với năm 2008. Còn dư nợ tín dụng tăng 80,59% so với đầu năm 2009. Năm 2010, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được ACB xây dựng cũng sẽ không bằng năm trước, theo chủ trương chung của ngành là khoảng 25%. Tuy nhiên, theo ACB, tín dụng vẫn là nguồn thu nhập đáng kể đóng góp vào lợi nhuận Ngân hàng năm nay và sẽ có tỷ trọng cao hơn năm 2009. Mảng thứ hai là dịch vụ, ACB cũng có điều kiện tốt hơn để thu hút các nguồn cũng như hoạt động dịch vụ tài chính cá nhân. Thực tế, hiện hoạt động của các NHTM, nhất là NHTM cổ phần nhỏ, nguồn thu chính vẫn từ hoạt động tín dụng. Chính vì lẽ đó, một số ngân hàng trong năm qua đã đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng lên mức khá cao (trong đó, có đơn vị ở khu vực TP. HCM năm 2009 có tốc độ tăng trưởng tín dụng lên đến 145% so với cuối năm 2008). Điều này không những tạo áp lực về vốn mà còn chứa đựng nhiều rủi ro do tăng trưởng nóng, vượt khả năng về nguồn vốn cũng như khả năng quản lý, quản trị tại ngân hàng. Thực tế tháng đầu năm cho thấy, nguồn vốn huy động tiền gửi từ dân cư và tổ chức kinh tế trong năm 2010 có khả năng sẽ khó khăn hơn quý II và quý III/2009, dẫn đến áp lực lợi nhuận sẽ gia tăng lên các ngân hàng trong năm 2010. Vì lãi suất đầu vào so với đầu ra hiện nay là khá mỏng, trong khi đó nguồn thu chủ yếu của ngân hàng lại là từ hoạt động cho vay, cho dù các nhà băng đã nỗ lực lớn trong việc gia tăng nguồn thu từ dịch vụ. Nhận định về thị trường tài chính năm 2010, tăng trưởng bình quân chung của ngành là tăng trưởng trong điều kiện chính sách tiền tệ thắt chặt đầu năm, không loại trừ khả năng sẽ có một sự nới lỏng nhất định vào cuối năm. Song trên bình diện chung, chính sách tiền tệ năm nay sẽ thận trọng hơn năm 2009. Vì vậy, tăng trưởng bình quân chung của ngành và lượng tiền đưa ra lưu thông sẽ không quá 25%. Thứ hai là các biện pháp kích cầu sẽ được dần dỡ bỏ. Do đó, diễn biến của nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng sẽ trở lại môi trường hoạt động bình thường. Vì vậy, tín dụng sẽ trở thành nguồn thu nhập đáng kể và sẽ có tỷ trọng cao hơn năm 2009. Mảng thứ hai là dịch vụ, năm nay các ngân hàng sẽ có điều kiện tốt hơn để thu hút các DN và cá nhân sử dụng dịch vụ ngân hàng. 2. Các giải pháp Qua nghiên cứu ta có thể thấy trong những năm qua hoạt động của của các ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế do ảnh hưởng của những nhân tố chủ quan và khách quan. Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra và đồng thời khắc phục những hạn chế của những năm trước các Ngân hàng có thể thực hiên các giải pháp sau: 2.1 Giải pháp trực tiếp 2.1.1 Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động vốn , tăng nhanh nguồn vốn kinh doanh Đối với hoạt động huy động vốn của ngân hàng đa dạng hóa hình thức huy động vốn sẽ giúp ngân hàng tăng cường hiệu quả huy động vốn vì mỗi công cụ tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của các tổ chức kinh tế và dân cư trong việc tiết kiệm và thanh toán. Khi có ít công cụ khách hàng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận vì nó chưa đem lại thuận lợi hay tiện ích cho khách hàng. Những sản phẩm mới của ngân hàng lại có những đặc điểm riêng phù hợp với một nhóm khách hàng nhất định, làm tăng khả năng lựa chọn của khách ra những sản phẩm mới hàng qua đó ngân hàng có thể tăng nguồn vốn huy động. Để có thể huy động được nguồn vốn có chất lượng cao và có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao ngân hàng nên xem xét đưa ra những sản phẩm mới phù hợp hơn với khách hàng trên địa bàn. a) Đa dạng hoá hình thức huy động vốn - Ngân hàng có thể xem xét đưa ra hình thức nhận tiền gửi bằng vàng để huy động vốn. Biện pháp này có thể sẽ rất hiệu quả vì thói quen của người dân Việt Nam là thường giữ thu nhập dư thừa bằng vàng vì họ cho rằng vàng không bị mất giá và đây là hình thức tiết kiệm an toàn nhất. Hiện nay lượng vàng do dân chúng nắm giữ rất lớn . Đây là nguồn vốn lớn nhưng chưa được các ngân hàng khai thác. Ngân hàng có thể nhận tiền gửi bằng vàng và trả gốc bằng vàng khi hết hạn. Hình thức tiết kiệm này giúp nhân dân an tâm hơn, không sợ tiền bị mất giá. - Chứng khóan hoặc các khoản tiền gửi cho phép khách hàng có thể chuyển nhượng chúng. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn. Với hình thức này ngân hàng có thể phát hành các thẻ tiết kiệm vô danh có thời hạn từ 1 - 5 năm với lãi suất luỹ tiến theo thời hạn gửi tiền. Ngân hàng không phát hành đồng loạt như phát hành giấy tờ có giá mà sẽ phát hành thể khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng. Công cụ này sẽ đem lại thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng: - Ngân hàng có thể áp dụmg hình thức tiết kiệm bằng tài khoản mà khách hàng có thể gửi đều đặn đến khi rút. Lãi suất của hình thức này được tính theo lãi suất kép, mức lãi suất hợp lý sẽ kích thích người dân gửi tiền. Hình thức này phù hợp với công nhân viên, người có thu nhập đều đặn... - Ngân hàng có thể sử dụng mức lãi suất luỹ tiến theo số lượng tiền gửi. Cùng một kỳ hạn nhưng nếu khách hàng nào gửi tiền với số lượng lớn hơn sẽ được hưởng mức lãi suất cao hơn. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay ngân hàng chỉ áp dụng lãi suất luỹ tiến cho khách hàng gửi tiền cío kỳ hạn dài. Điều này sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với số lượng lớn hơn. - Ngân hàng cũng có thể xem xét đưa ra hình thức gửi tiền một lần và được rút một phần trước hạn mà không phải rút toàn bộ số tiền đã gửi. Phần rút trước hạn sẽ được tính theo lãi suất không kỳ hạn, phần còn lại vẫn được tính theo lãi suất bình thường. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay nếu muốn rút trước hạn khách hàng phải rút toàn bộ số tiền đã gửi và tính lãi không kỳ hạn khiến người gửi tiền chia nhỏ số tiền muốn gửi ra làm nhiều kỳ hạn để đề phòng phải rút trước hạn một phần, điều này gây khó khăn cho cả khách hàng và ngân hàng: tốn kém thủ tục, giấy tờ, lãi suất không cao, ngân hàng không huy động được khối lượng vốn lớn nhất... Vì thế hình thức này sẽ giúp ngân hàng tăng được lượng tiền gửi có kỳ hạn dài hơn. b) Đa dạng hoá khách hàng Bên cạnh việc đa dạng hoá hình thức huy động vốn ngân hàng cần mở rộng và đa dạng hoá khách hàng. Đa dạng hoá khách hàng có tác dụng: - Giúp ngân hàng có thể giảm rủi ro vỡ mỗi một nhóm khách hàng có một số đặc điểm chung về nguồn vốn do đó khi có những biến động nhóm khỏch hàng này có phản ứng như nhau do đó nếu duy trì một tỷ trọng quá cao nguồn vốn của một nhóm khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro. - Giúp ngân hàng có cơ cấu vốn hợp lý hơn vì mỗi nhóm khách hàng có những đặc điểm riêng về vốn. Nếu ngân hàng chỉ tập trung vào một loại khách hàng thì cơ cấu nguồn vốn sẽ kém linh hoạt và bất hợp lý. 2.1.2 Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chính sách lãi suất là một bộ phận quan trọng. Lãi suất là một bộ phận cấu thành trong phần lớn thu nhập và chi phí. Vì vậy mọi biến động về lãi suất có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Do tầm quan trọng của lãi suất mà việc xây dựng chính sách lãi suất được đặt lên hàng đầu. Hiện nay các nhà quả lý đang phải đối mặt với cá khó khăn trong việc định giá các dịch vụ có liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Một mặt ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất đủ lớn để có thể thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng . Mặt khác phải cố gắng hết sức không trả lãi quá cao để đảm bảolợi nhuận cho ngân hàng. Ngày nay sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịc vụ tài chính càng làm cho vấn đề nêu trên phức tạp hơn vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi, trong khi làm giảm thu nhập dự kiến của ngân hàng. Thực tế trong một thị trường cạnh tranh như hiện nay không một ngân hàng nào có thể kiểm soát được lãi suất do đó giá cả do thị trường quyết định lãi suất. Các NHTM dựa vào những đặc điểm về nguồn vốn và khách hàng của mình để dưa ra mức lãi suất nhưng mức lãi suất này không chênh lệch với mức lãi suất của các ngân hàng khác là mấy. Trong trường hợp này các nhà quản lý cần xem xét có nên nâng cao mặt bằng lãi suất nhằm tăng khả năng huy động vốn hay nên chấp nhận tổn thất về quy mô tiền gửi do duy trì một mức lãi suất thấp hơn mức bình quân trên thị trường. Các nhà quản lý luôn phải lựa chọn giữa hai mục tiêu là tăng trưởng và sinh lời. Trả lãi cao hơn cho các khoản tiền gửi và nguồn vốn giúp ngân hàng có thể tăng nguồn vốn nhưng lại làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Một chính sách lãi suất được coi là hợp lý khi nó thoả mãn các yêu cầu sau: - Có thể giúp ngân hàng huy động được đủ nguồn vốn cho hoạt động và đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý. - Đảm bảo tính cạnh tranh - Đảm bảo lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng - Phù hợp với chính sach lãi suất của NHTƯ và xu hướng thay đổi lãi suất trên thị trường. 2.2 Giải pháp hỗ trợ Để giải quyết những khó khăn và tồn tại, ngoài việc áp dụng các giải pháp trực tiếp, Ngân hàng nên áp dụng một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động của chi nhánh. Những giải pháp trực tiếp giúp ngân hàng có thể đạt được kết quả như mong muốn một cáh nhanh chóng nhưng phải có các giải pháp hỗ trợ thì kết quả đạt được mới lâu dài và ổn định bền vững. Sau đây là một số giải pháp hỗ trợ. 2.2.1 Nâng cao chất lượng sử dụng vốn. Để khai thác và sử dụng tối đa nguồn vốn huy động thì ngân hàng cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vì nó là yếu tố quyết định đến hoạt động huy động vốn. Sử dụng vốn có hiệu quả thì mới kích thích hoạt động huy động vốn, có tạo được vốn thì mới có thể sử dụng vốn và ngược lại. Vì vậy ngân hàng chỉ có thể hoạt động tốt trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng là một biện pháp để nuôi dưỡng nguồn vốn cho tương lai. Ngân hàng không chỉ quan tâm đến việc hiện nay thu hút được bao nhiêu nguồn vốn mà còn phải tìm cách nuôi dưỡng nguồn vốn cho tương lai. Để đảm bảo nuôi dưỡng nguồn vốn cho tương lai ngân hàng cần làm tốt công tác tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro, đảm bảo thu hồi vốn đúng thời hạn để tiếp tục cho vay. Những thông tin về nhu cầu mở rộng tín dụng cần chính xác để trên cơ sở đó ngân hàng luôn có đủ vốn cho kinh doanh, tránh tác động xấu của việc ứ đọng vốn hoặc thiếu vốn. Để thực hiện được yêu cầu đó chất lượng của công tác thẩm định cũng phải không ngừng được nâng cao . 2.2.2 Mở rộng và cải tiến các dịch vụ Ngày nay các ngân hàng luôn chú ý phát triển các dịch vụ và tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng ngày càng tăng trong tổng thu nhập của ngân hàng. Các dịch vụ của ngân hàng luôn được đổi mới do áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, thông qua hoạt động cung ứng các dịch vụ cho khách hàng ngân hàng sẽ nắm bắt được những thông tin về khách hàng, nguồn vốn của khách hàng, biết được lúc nào khách hàng thừa hay thiếu vốn để có biện pháp giúp đỡ. Trong thời gian tới có thể đưa ra các dịch vụ sau - Phát triển và hoàn thiện dịch vụ thanh toán, chuyển tiền - Dịch vụ tư vấn - Dịch vụ bảo lãnh - Dịch vụ bảo quản giấy tờ, tài sản cho khách hàng.... 2.2.3 Nâng cao chất lượng phục vụ, củng cố uy tín của ngân hàng. Đối với mỗi NHTM uy tín quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi ngân hàng thực sự có uy tín, tạo được lòng tin với khách hàng thì khách hàng mới biết đến và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng một cách thường xuyên và liên tục. Muốn có được uy tín cao trên thị trường ngân hàng nên làm các việc sau: - Luôn giữ chữ tín với khách hàng, đảm bảo đủ khả năng thanh toán khi khách hàng có yêu cầu. - Thực hiện tốt quy trình nghiệp vụ, giảm thiểu sai sót, nếu có sai sót phải xử lý kịp thời và bồi thường thoả đáng nếu sai sót gây thiệt hại cho khách hàng. - Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ: Để có thể phát triển kinh doanh, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn, thì ngân hàng phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có tinh thần trách nhiệm, có nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp… Để có được điều này ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược con người phù hợp bắt đầu từ khâu tuyển dụng, sắp xếp và bố trí công tác đến việc đào tạo cán bộ, cử cán bộ đi học, tập huấn. Thường xuyên mở các cuộc hội thảo, mời chuyên gia đến giảng dậy... - Mở rộng mạng lưới và tăng thời gian giao dịch với khách hàng. Các ngân hang có thể mở rộng mạng lưới đến các xó để có thể huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo cho người dân có thói quen gửi tiền vào ngân và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng.... Mặt khác ngân hàng cần tăng thời gian giao dịch với khách hàng bằng cách làm việc ngoài giờ hành chính và vào ngày thứ bảy, chủ nhật vì hiện nay giờ giao dịch của ngân hàng trùng với giờ làm việc của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nên gây khó khăn cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng vì thế tăng thời gian giao dịch sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. - Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo: Để có được hình ảnh tốt trong tâm trí của khách hàng, trước hết ngân hàng phải được khách hàng biết đến. Một trong những giải pháp cần làm là tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo. Thông qua hoạt động tuyên truyền quảng cáo khách hàng có thể lựa chọn, so sánh, thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. 2.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Trong thời đại ngày nay việc áp dụng công nghệ, khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực ngân hàng đã trở thành vấn đề sống còn và đã làm cho bộ mặt các NHTM thay đổi. Đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng hiệu quả kinh doanh của khách hàng, qua đó nâng cao uy tín của ngân hàng. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện tốt sẽ thu hút các tổ chức kinh tế, các thành phần dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua ngân hàng. Ngân hàng làm tốt công tác thanh toán sẽ tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng và mặt khác thu hút được ngày càng nhiều vốn để tiến hành cho vay phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế ngày càng có hiệu quả và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Như vậy hiện đại hoá một mặt có thể thu hút được nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế mặt khác nâng cao uy tín của ngân hàng với khách hàng. LỜI KẾT Việt Nam đã chính thức gia nhập và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này không chỉ đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành ngân hàng nói riêng những vận hội to lớn mà còn cả những thách thức đòi hỏi hoàn thiện bản thân để đứng vững trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển. Dù chỉ là những ngân hàng có qui mô nhỏ & trung bình khi so sánh với các ngân hàng khác trong khu vực, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là khối các ngân hàng cổ phần đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Biết rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức của mình, các ngân hàng đã và đang có những biện pháp hữu hiệu để cải thiện tình hình hoạt động và chất lượng dịch vụ. Và chúng ta có quyền kì vọng thị trường tài chính Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới, trở thành một nơi thu hút vốn đầu tư chủ yếu vào khu vực Đông Nam Á, giúp Việt Nam vươn vai thành một con hổ Châu Á như nhiều nhà kinh tế đã dự đoán. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (Chủ biên), 2006, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê. 2/ GS.TS. Lê Văn Tư (Chủ biên), 2000, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. 3/ TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lí thuyết Tài chính tiền tệ, NXB Thống kê. Tài liệu từ Internet: - Diễn đàn Doanh nghiệp điện tử - www.DDDN.com - Báo điện tử - thời báo kinh tế Việt Nam – www.vneconomy.com - Tin tức kiểm toán – www.kiemtoan.com.vn - Tạp chí kế toán – www.tapchiketoan.info - Đầu tư chứng khoán – www.vir.vom.vn - Tài chính doanh nghiệp – www.businessedge.com.vn - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – www.Vietcombank.com.vn - Ngân hàng Đầu tư và phát triển – www.BIDV.com.vn - Công ty chứng khoán ngân hàng Đầu tư – www.bsc.com.vn - Thị trường 24h – www.thitruong24h.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26845.doc
Tài liệu liên quan