Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi của nền kinh tế còn non yếu và đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam , trên đây là một số những nét cơ bản của vấn đề đô la hóa. Có thể nói , đây là vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm.Đô la hoá cũng giống như các vấn đề chính sách tiền tệ khác, không bao giờ có câu trả lời rõ ràng. Về vấn đề này tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2000 thống đốc NHNN Lê Đức Thuý nói:”tình trạng đô la hoá đang gia tăng , xử lý vấn đề này về hình thức có vẻ giản đơn nhưng nhưng trên thực tế thì rất khó. Đó là một cuộc chiến gay go và chắc chắn là chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều, bởi vì mỗi người có góc độ lợi ích riêng của mình, cho nên cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng sẽ còn nhiều giải pháp đụng đến thói quen ấy, nhất định sẽ có nhiều phản ứng. Mong được sự chia sẻ , đồng tình và hỗ trợ của Quốc hội.”
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng đô la hoá ở Việt Nam – Nguyên nhân - Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-La Tinh như Argentina, Bôlivia, Mêhicô, Peru, Trung mĩ và nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Turkey.
- Đô la hoá bán chính thức:
Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “đô la hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành chính thứ hai đồng tiền .Đối với các nước này đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng , nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương , thuế và những chi tiêu hàng ngày. Ví dụ như nứơc Bahamas ,Cambodia, Thailand, Liberia không giống như các nước có đô la hoá chính thức , các nước đô la hoá bán chính thức duy trì NHTƯ (một cơ quan tiền tệ) có quyền hạn tương tự để thực hiện chính sách tiền tệ của họ .
- Đô la hoá chính thức :
Hay còn được gọi là đô la hoá hoàn toàn xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành ;là trường hợp mà một quốc gia chính thức từ bỏ đồng bản tệ và sử dụng một đồng tiền (ngoại tệ ) ổn định hơn làm đồng tiền pháp định. Nghĩa là đồng tiền ngoại tệ này không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ . Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ đóng vai trò là thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ .
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp .Tuy nhiên , các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp , nhưng chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Pezota của Tây Ban Nha .Hỗu hết các nước đô la hoá chính thức ,các đối tác tư nhân được phép kí hợp đồng bằng bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý .
Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nước được xếp là các nước đô la hoá chính thức ;ví dụ như Palama, Ecuador. Trên thực tế, những nước này chỉ áp dụng đô la hoá hoàn toàn sau khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Điểm hấp dẫn chủ yếu của đô la hoá hoàn toàn là loại trừ rủi ro của việc phá giá tiền tệ đột ngột và phá giá mạnh .
Thứ ba là tỷ lệ cho vay bằng ngoại tệ ,bằng USD so với tổng các khoản vay, tổng dư lợ , khi mà đạt tới con số có ý nghĩa ,xảy ra ở nhiều nứơc thuộc Châu Mỹ- La Tinh . Cũng theo thông tin đã được công bố , thì tỉ lệ này ở Việt Nam vào khoảng20%, không thể không coi là có ý nghĩa .
4. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hoá .
Vậy thì tình trạng đô la hoá nền kinh tế do đâu?
Đô la hoá diễn ra tại mỗi nước rất khác nhau và được đánh giá qua các chỉ tiêu với mức độ khác nhau ,song tình trạng này tuỳ thuộc vào các yếu tố cốt lõi sau :
-Trình độ phát triển nền kinh tế cùng tính chất của nền kinh tế đó . Đô la hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp , các nước đang phát triển,đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ nhất là buôn lậu qua biên giới buôn bán kiểu ngạch ...
- Trình độ dân trí , cùng tâm lí của người dân . Các nước có trình độ chưa cao, người dân còn có thói quen nắm giữ vàng và đô la , thì thường là nền kinh tế có mức độ đô la hoá cao .
- Trình đô phát triển của hệ thống ngân hàng nhất là hoạt động thanh toán rõ ràng là khi hệ thống ngân hành còn non trẻ ,hoạt động thanh toán chưa phát triển công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng đô la hoá nền kinh tế.
- Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối , cùng mức độ bảo đảm tính nghiêm minh của cơ chế quản lý . Nếu như đồng nội tệ ổn định ,cơ chế quản lí ngoại hối chặt chẽ , thì tình trạng đô la hoá nền kinh tế rất khó xảy ra.
- Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ ,đồng tiền của quốc gia đó .
5. Đối chiếu với các yếu tố nói trên thì nhiều nước trên thế giới được IMF đánh giá là có tình trạng đô la hoá theo những mức độ khác là điều dễ hiểu .
Đô la hoá nền kinh tế có những mặt lợi và mặt hại nhất định của nó song chúng ta phải nhận rõ cái lợi và cái hại để từ đó khai thác những mặt có lợi cho đất nước và hạn chế những ảnh hưởng có hại đến nền kinh tế .
Vậy đâu là những tích cực của quá trình đô la hoá ?
Một là, việc sử dụng đồng đô la sẽ giúp cho nền kinh tế giảm nhẹ sức ép của những mất cân đối ,kết quả của tính không hiệu quả dưới cơ chế kế hoạch tập trung(đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như ở Việt Nam ) , đồng thời cung cấp cho các tác nhân kinh tế tự bảo vệ để chống lại lạm phát , và phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức
Hai là, chi phí giao dịch :
+ Đối với chi phí do chênh lệch tỉ giá :
Đối với những nước đô la hoá chính thức các chi phí như chênh lệch giữa tỉ giá mua và bán khi chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác bị xoá bỏ .Đô la hoá chính thức cũng loại bỏ những giao dịch với các nước khác .
+ Chi phí dự phòng cho rủi ro tỉ giá :
Chi phí này cũng không cần thiết, điều này giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư giũa các nước làm cho các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng hơn khi đầu tư vào nước đó .Ví dụ thông qua việc dùng đồng USD Mêhicô đã giảm được khối lượng đáng kể chi phí giao dịch thương mại với Nhật Bản.
+ Chi phí kinh doanh của các ngân hàng:
Các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ vì thế mà giảm đưọc chi phí kinh doanh việc tồn tại của hai đồng tiền buộc các ngân hàng phải tiến hành danh mục đầu tư tách biệt giữa nội tệ và ngoại tệ . Những nghiên cứu của Moreno năm1999 cho thấy , thông qua các đô la hoá chính thức các ngân hàng Palamas hạ thấp được mức dự trữ tương đương 5% GDP so với việc lưu hành hai đồng tiền .
- Hạ thấp lạm phát hiện tại và rủi ro về lạm phát trong tương lai cũng thấp hơn . Với việc sử dụng đồng ngoại tệ , các nước đô la hoá chính thức luôn được duy trì tỉ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp ở các nứơc phát hành đồng ngoại tệ Lạm phát thấp tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân , khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn . Lạm phát thấp cũng giúp cho người nghỉ hưu , những người có thu nhập cố định và những người nghèo có các tài khoản tại ngân hàng và bảo đảm rằng khoản tiết kiệm của họ được duy trì giá trị .
- Lãi suất thấp hơn khuyến khích nền kinh tế tăng trưởng: ở các nước đô la hoá chính thức người ta sẽ thực hiện so sánh và tiếp nhận những đồng tiền nào có giá trị hơn đồng nghĩa với có mặt bằng lãi suất thấp hơn . Mặt bằng lãi suất thấp sẽ cho phép tăng trưởng kinh tế cao hơn và sẽ tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài cũng thấp hơn nên các khoản vay nợ được trả dễ dàng .Do đó mà những người ủng hộ việc đô la hoá cho rằng lãi suất thấp sẽ tạo điều kiện để kinh tế tăng trưởng cao hơn .
- Đô la hoá ở mức độ rộng sẽ rút ngắn chênh lệch tỉ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức ngay trong nước . Khi đó tỉ giá chính thức càng sát với tỉ giá trên thị trường phi chính thức , các hoạt động càng có động cơ chuyển từ thị trường phi chính thức “bất hợp pháp” sang thị trường chính thức “hợp pháp” .
- Mức độ hội nhập quốc tế ngày một rộng hơn – tạo uy tín lớn trên thế giới . Các nước thực hiện quá trình đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ , khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế . Hơn nữa khi một nền kinh tế bị đô la hoá hoàn toàn thì NHTƯ sẽ không còn có khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát , đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt , kỉ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt . Do vậy các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn . Bên cạnh đó, với một lượng lớn ngoại tệ gửi tại ngân hàng ,các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ , qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài và tăng cường khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với luồng ngoại tệ . Đồng thời các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại , thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế . Tuy nhiên thực tiễn cho thấy tất cả những lợi thế trên chỉ có ý nghĩa nhất định đối với một quốc gia rất nhỏ , mà phần lớn các giao dịch vãng lai và giao dịch tài khoản vốn phụ thuộc vào quốc gia có đồng đô la .
Đô la hoá cũng bao hàm nhiều tác động tiêu cực:
Trong một nền kinh tế bị đô la hoá (chính thức hay không chính thức) thì việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ sẽ không thể độc lập .
- Đối với chính sách tài khoá:
+ Đô la hoá làm yếu kém hoat động và hiệu quả của chính sách tài khoá:
Nó hạ thấp doanh thu từ phát hành tiền và làm trầm trọng hơn tác động lạm phát tới việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua hệ thống ngân hàng (ví du như ở Argentina, những năm sau khi tiến hành đô la hoá ,doanh thu từ phát hành tiền giảm 0,3% GDP) .Đô la hoá cũng cho phép một bộ phận nhất định các hoạt đông kinh tế chốn thuế .Đô la hoá cũng làm yếu kém hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước xét về cả khả năng của nhà nước tạo lợi nhuận cũng như đóng góp cho ngân sách.
+ Chi phí lớn trong việc thu hồi nội tệ và đưa ngoại tệ vào lưu thông :
Các nước thực hiện đô la hoá chính thức cần phải có lượng ngoại tệ đủ để thay thế số nội tệ đang lưu thông . Nghiên cứu cuả Fisher năm1982 cho thấy chi phí trung bình đối với các nước tiến hành đô la hoá chính thức vào nhưngx năm 1970 khoảng 4-5% GDP.
- Đối với chính sách tiền tệ :
+ Đô la hoá làm giảm hiệu quả kiểm soát tiền tệ .
Đô la hoá không chính thức có thể khiến cho cầu về nội tệ không ổn định . Giả sử một nguyên nhân nào đó tác động đến tâm lý khiến mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể lamf cho dồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát . Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ , những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (chính là hoạt động đầu cơ tỷ giá) . Những thay đổi này sẽ gặp khó khăn cho NHTƯ trong việc đặt mục tiêu cung ứng tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng . Cụ thể là , trong điều kiện đô la hoá sẽ rất khó khăn cho việc dự báo tổng phương tiện thanh toán . Qua đó , việc quyết định tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời .
Những cố gắng của NHTƯ trong việc khuyến khích(kìm hãm) tổng cầu thông qua tăng (giảm) tín dụng cũng sẽ ít hiệu quả,do sự thay đổi về lãi suất nước ngoài sẽ trực tiếp tác động đến các quyết định phân bổ tài sản cuả những người giữ USD . Nói cách khác những thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ tác động đến tổng cầu nội địa vì khi lãi suất nước ngoài tăng (giảm) người giữ đô la sẽ có xu hướng thu hẹp (mở rộng ) tiêu dùng và đầu tư . Như vậy việc thi hành chính sách lãi suất thấp trong trường hợp kinh tế suy thái không nhất thiết khuyến khích đầu tư mà có thể làm nảy sinh tâm lý chuyển đổi sang USD nhằm bảo tồn gía trị .
Đặc biệt đối với những nước đô la hoá chính thức thì chính sách tiền tệvà chính sách lãi suất của đồng tiền lúc này sẽ được quyết định ở Mỹ , trong khi một nước đang phát triển bị đô la hoá chính thức với một nước phát triển như Mỹ lại không có những chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau . Do đó nếu có xảy ra một quá trình điều chỉnh cho phù hợp thì quá trình này cũng phải kéo dài rất nhiều năm . Sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.
Cuối cùng, với doanh thu thuế lạm phát thấp hơn và những tác động bất lợi của đô la hoá đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước khiến cho chính sách tiền tệ, ở một mức độ nào đó phải cung cấp những nhu cầu tài chính lớn hơn cần thiết cho khu vực nhà nước.
+ Đô la hóa cũng làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá:
Đô la hoá tác động đến cơ chế truỷền dẫn của tỷ giá hối đoái . Tác động khuyếch đại của phá giá tiền tệ sẽ trở nên yếu kém do phá giá tiền tệ chỉ tác động đến một bộ phận nhỏ hơn tài sản có tính thanh khoản. Sự yếu kém của chính sách tỷ giá xuất hiện bất kể có tồn tại hay không chênh lệch trên thị trường phi chính thức so với thị trường chính thức.
Bên cạnh đó, nếu mặt bằng giá cả trong nước tăng nhanh hơn ở Mỹ thì hệ quả đồng đô la sẽ tăng giá trị thực, khả năng cạnh tranh so với Mỹ (và các nước còn lại trên thế giới giảm sút). Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế thực hiện phá giá đồng tiền thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Điều này đã xảy ra trong năm 1999 , khi Brazin thực hiện phá giá mạnh đồng Real và hệ quả là hàng xuất khẩu của Achentina sang Brazin đã giảm đáng kể và hàng hoá của Brazin lại có khả năng cạnh tranh hơn một cách rõ rệt tại Achentina.
Rõ ràng lợi thế của việc tiếp nhận đồng đô la là có giá trị ổn định chỉ thực có nếu như Mỹ là đối tác thương mại quan trọng nhất . Chừng nào không có được điều kiện này thì luôn luôn xuất hiện nguy cơ sự lên giá của đồng đô la so với đồng EURO, đồng JPYvà các đồng tiền khác sẽ làm giảm sút khả năng cạnh tranh của xuất khẩu trong nước.
+Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi NHTƯ và chức năng của nó là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng.
Ví dụ, mặc dù hiện nay các ngân hàng Việt Nam chỉ có vốn tự có thấp , song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối với các khoản tiền gửi này. Điều này có thể làm được với VND nhưng không thể áp dụng được với USD. Khu vực ngân hàng trở nên bất ổn hơn với những trường hợp NHTM bị phá sản và đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của NHTƯ bị mất.
II-THựC TRạNG ĐÔ LA HóA ở VIệT NAM – NGUYÊN NHÂN
Và GIảI PHáP:
1. Đôi nét khái quát về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay:
Trên đây là những lý luận chung nhất về đô la hoá nền kinh tế , bây giờ chúng ta sẽ vận dụng những lý luận chung đó để đối chiếu vào thực tiễn ở Việt Nam xem tình trạng này ở Việt Nam là do đâu, tác động như thế nào đến nền kinh tế, đến việc đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời.
Trước tiên,ta thấy một đặc điểm nổi bật của thị trường ngoại hối Việt Nam là sự tồn tại của thị trường ngoại hối không chính thức và hiện tượng đô la hoá ngày càng gia tăng. Để đưa ra những nhận xét chung nhất này ta xét đôi nét khái quát nhất về quá trình đô la hoá ở nước ta từ những năm 80 trở lại đây.
Việc lưu hành và sử dụng đô la Mỹ đã xuất hiện ngay từ những năm 80, đô la Mỹ đã được sử dụng rộng rãi gần như một đồng tiền pháp định thứ hai . Nguyên nhân cơ bản nhất trong thời gian này do những yếu kém của nền kinh tế và sự bất ổn của đồng Việt Nam(lạm phát phi mãn như năm 1986 lạm phát 774,7%, 1987: 231,8%, 1988: 293,8%), việc thực hiện cải cách giá-lương-tiền bị thất bại(năm 1985), sự đổ vỡ của một số tổ chức tín dụng, chính sách đa tỷ giá,... đã làm cho tình trạng đô la hoá tăng lên. Tuy nhiên cho đến nay khi mà Việt Nam đã đạt được những thành tựu về kinh tế vĩ mô, đã thành công trong việc duy trì một đồng tiền tương đối ổn định về giá trị cả đối nội cũng như đối ngoại, thế nhưng tình trạng đô la hoá vẫn tiếp tục tăng? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta nên xem xét nền kinh tế nước ta hiện tượng đô la hoá là đô la hoá tiền gửi hay tiền vay hoặc cả hai. Từ đó đưa ra những nhận định góp phần làm sáng tỏ thêm mức độ đô la hoá ở nước ta đang ở tầm nào.
2. Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào?
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đô la hóa tiền gửi
Đô la hóa diễn ra được đánh giá qua các chỉ tiêu tiền gửi bằng ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán , hoặc tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ so với tổng tiền gửi của hệ thống ngân hàng... Có thể nói, dư âm của lạm phát cao trong thời gian cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư nên những người sở hữu khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ không dại gì mà chuyển đổi sang tiết kiệm bằng VND, giá trị của đồng nội tệ giảm theo xu hướng thời gian khiến cho người tiết kiệm có khuynh hướng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng cách lựa chọn hình thức tiết kiệm bằng ngoại tệ đặc biệt là đô la Mỹ. Thêm vào đó , lãi suất tiết kiệm USD tăng cao trong năm 2000 càng gia tăng mức độ đô la hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, tỷ lệ lợi tức trên 1 đồng ngoại tệ gửi tại ngân hàng lớn hơn nhiều so với 1 đồng nội tệ đã làm thay đổi việc lựa chọn tài sản tiết kiệm.
a - Bảng 1:
Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng
Đơn vị:%
1994
1995
1996
1997
1998
1999
10/2000
1.Ngoại tệ
39,2
33,5
31,7
33,2
33,6
39,1
45,3
2.VND
60,8
66,5
68,3
66,8
66,4
60,9
54,7
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN các năm, và thời báo ngân hàng số 78, năm 2000
Nhận xét:
- Nhìn vào bảng 1 nhận thấy mức độ đô la hóa đã trở lại năm 1999, sau khi giảm bớt trong giai đoạn 1995-1998, thực sự bùng nổ trở lại năm 2000.
b - Bảng cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên M2.
Đơn vị %
12/1991
3/1995
30/9/2001
1.Ngoại tệ
41,15
19,65
33,63
2.VND
58,85
80,35
66,37
Tổng
100
100
100
Nhận xét:
Tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ /M2 đạt mức cao nhất 12/1991 rồi giảm dần vào tháng 3/1995 sau đó có xu hướng tăng dần vào30/9/2001
- Đô la hoá không chỉ diễn ra ở khu vực tiền gửi tiết kiệm của dân cư , mà còn xuất hiện ở các tổ chức kinh tế xã hội . Tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội tăng mạnh không phải là do lãi suất huy động USD trong năm 2000 tăng cao,bởi lãi suất USD ngân hàng trả cho các tổ chức kinh tế gửi tại ngân hàng mình bị ràng buộc bởi trần lãi suất quy định của NHNN(theo quyết định số309/1999/QD-NHNN quy định chi tiết trần lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế xã hội tại các ngân hàng với không kì hạn là 0,5%/1năm; kỳ hạn từ 6 tháng trở xuống là 2,5%/1năm ;và kỳ hạn trên 6 tháng không quá 3%/1năm).
Nguyên nhân chính làm tăng tiền gửi của các tổ chức kinh tế là do các công ty có nguồn ngoại tệ chưa giải ngân cho các dự án tạm thời gửi tại ngân hàng hay ngoại tệ thu được từ xuất khẩu tăng trong năm 2000 nhưng công ty lại không bán mà giữ lại do tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng cao . Như vậy lãi suất ngoại tệ doanh nghiệp thực sự được hưởng sau khi điều chỉnh sự biến đổi tỷ giá sẽ hấp dẫn hơn gửi bằngVND.Còn trong trường hợp thiếu vốnVND,doanh nghiệp sẽ vay của nhân hàng với lãi suất thật hấp dẫn vì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một khốc liệt hơn .
Đứng trước tình trạng đô la hoá chưa có dấu hiệu thuyên giảm đáng kể NHNN đã can thiệp bằng một số công cụ . Sự can thiệp này một phần đã ngăn chặn làn sóng tăng lãi suất huy động tiết kiệm USD của các NHTM. Một yếu tố khách quan bên ngoài cũng làm giảm bớt tình hình là việc lãi suất USD trên thị trường quốc tế bắt đầu giảm từ cuối tháng 11/2000 do dự báo nền kinh tế Mỹ suy yếu.
Công cụ can thiệp đầu tiên của NHNN là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc(GTDB) bằng ngoại tệ từ 5% lên 8% cho kỳ dự trữ tháng 11/2000 . Tuy nhiên sự can thiệp lần này chỉ tác động đến một số ngân hàng và mức lãi suất giảm cũng không đáng kể (tại thời điểm tháng 11/2000 các NHTM vẫn duy trì mức lãi suất huy động tiết kiệm cao , cụ thể cho kỳ hạn 6 tháng ,12 tháng của NHĐT là 5,3%/năm và5,7%/năm; NH á châu:5,4%/năm và5,8%/năm”duy chỉ có NHNT phản ứng nhiều nhất đối với sự can thiệp của NHNN”. Đến thời diểm cuối tháng3/2000, mức huy động các kỳ hạn trên của hai ngân hàng tương ứng là 3,8%/năm và 4,25%/năm; 3,85%/năm và 4,25%/ năm). Can thiệp lần thứ hai vào tháng 12/2000 tăng từ 8% lên tới 12% , đã thực sự gây cú sốc cho các NHTM, kết quả, đồng loạt các ngân hàng hạ lãi suất huy động tiết kiệm USD. Tuy nhiên, sự can thiệp lần thứ hai thực sự mới hữu hiệu khi mà cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất chủ đạo xuống 6% vào ngày 3/1/2001, đến 31/1/2001 giảm tiếp 0,5%. Tại phiên họp của uỷ ban tiền tệ ngày 20/3/2001, Fed cắt giảm tiếp lãi suất chủ đạo xuống mức 5%. Can thiệp lần thứ ba vào tháng 4/2001, tăng tỉ lệ DTBB từ 12%lên 15%. Ngày 18/4và 15/5 vừa qua , Fed đã 2 lần nữa giảm mức lãi suất chủ đạo (mỗi lần 0,5%)xuống mức 4%. Như vậy, hàng loạt chuỗi biến cố xảy ra tác động tới hành vi điều chỉnh lãi suất của các NHTM. Đến thời điểm cuối quý I/2001, lãi suất huy động tiết kiệm bằng USD chỉ ở mức 4,15-4,25%/năm.
Kết hợp với biện pháp tăng tỉ lệ DTBB nhằm điều chỉnh lãi xuất huy động tiết kiệm USD của các ngân hàng thương mại, ngày 28/3/2001, NHNN đã giáng một đòn mạnh vào các doanh nghiệp thiếu vốn quay vòng nhưng lại không muốn bán ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu hoặc có ý đồ đầu cơ ngoại tệ. Theo quyết định số 238/2001/QD-NHNN, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của pháp nhân tại ngân hàng là 0,1%/năm, kỳ hạn đến 6 tháng là 1,5%/năm , kỳ hạn trên 6 tháng là 2%/ năm . Với các mức lãi suất này, kết hợp với tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian đầu 2001 sẽ khuyến khích các doanh nghiệp kết hối ngoại tệ nhiều hơn tại ngân hàng, kết quả, khan hiếm ngoại tệ giảm theo. Một vấn đề khác có thể nhận thấy rằng trong môi trường tỷ giá tương đối ổn định, lãi suất VND tương đối cao, việc hạ lãi suất tiền gửi bằng USD của tổ chức kinh tế –xã hội tại NHTM nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giải toả nguồn ngoại tệ đang găm giữ.
Trên cơ sở sự ngang bằng lãi suất, một điều dễ nhận thấy lãi suất VNDvà USD đã được điều chỉnh cân bằng, đặc biệt sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng thì phần lợi nghiêng về VND. Cụ thể , với tỷ giá VND/USD chỉ tăng 0,225%trong quý I/2001, thì chênh giữa lãi suất VND so với USD sau khi có điều chỉnh tỷ giá là + 0,47%. Gỉa sử tỷ giá của quý II/2001 tăng tương đương quý I/2001 , lãi suất tiền gửiVND không biến động , thì chênh lệch được nới rộng tới + 0,72%(giả sử , khi ngân hàng huy động tiền gửi của TCKT cho kỳ hạn đến 6 tháng bằng VND ở mức 0,45%/ tháng , dựa vào cách tínhlãi suất đơn và trên cơ sở phương trình lãi suất ngang bằng :i(vnd)=i(usd)+z , chúng ta nhận được kết quả sau :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*2,5%/năm – 0,255%= 0,47%. Theo quy định mới về lãi suất tiền gửi của pháp nhân bằng USD thì chênh lệch này được nới rộng ra là :0,45%/tháng*3 tháng –1/4*1,5%/năm – 0,255%= 0,72%).Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp có lợi hơn khi giữ bằng VND. Với chiều hướng này , các doanh nghiệp sẽ kết hối ngoại tệ nhiều hơn. Cũng xem trên mức ngang giá giữa lãi suất tiết kiệm VND và USD sau khi điều chỉnh tỉ giá thì thấy rằng công chúng đổ xô chuyển đổi tiết kiệm sang VND trong năm 2000 là quyết định đúng đắn, bởi tỷ lệ lợi tức nếu đầu tư bằng USD cao hơn nhiều so với bằng VND. Nhưng trong năm 2001 , hiện tượng này sẽ ngừng lại bởi NHNN sẵn sàng can thiệp sâu hơn nếu xu hướng đô la hoá lại tăng cao.
Đánh giá viếc ngân hàng trung ương sử dụng hai công cụ can thiệp , NHNN đã ngăn chặn được làn sóng công chúng chuyển đổi hình thức tiết kiệm cũng như giảm bớt hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Mặt khác, các giải pháp này không tạo ra tác động ngược đối với việc khuýến khích lượng kiều hối chuyển về nước, nhưng lại có lợi là ngăn chặn được thị trường ngoại tệ ngầm có cơ hội phát triển và gây lũng đoạn... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định; lãi suất tiết kiệm bằng USD thấp , lạm phát ở mức thấp cũng vẫn chưa làm chuyển biến thực sự hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ của công chúng trong thời gian qua .
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đô la hoá cho vay:
Trong hệ thống ngân hàng về cơ bản ,các NHTMcó thể sử dụng khối lượng USD huy động được để :cấp tín dụng trong nước bằng USD ; bán USD lấy nội tệ, gửi USD tại các ngân hàng nước ngoài. Khi tỷ lệ USD trong tổng nguồn vốn (bên nợ ) của ngân hàng tăng lên thì thông thường bên sử dụng vốn (bên có ) của các ngân hàng, tỷ lệ USD cũng tăng lên ; do vậy , cũng có thể nhận thấy hiện tượng đô la hóa xảy ra ở bên tài sản Có của hệ thống ngân hàng.
Có một thực tế là ở các quốc gia mà người dân được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ và ngân hàng được cung ứng tín dụng bằng số ngoại tệ huy động được thì hiện tượng đô la hoá càng bị khuyếch đại. Vì song song với đồng bản tệ , hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc mở rộng khối lượng ngoại tệ có trong nền kinh tế thông qua khả năng tạo tiền của mình.
Xu hướng chung của nền kinh tế đô la hóa, các ngân hàng cho vay bằng USD nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn ; ngược lại tín dụng bằng nội tệ tăng cao. Trên cơ sở lý thuyết là thế, vậy trường hợp đô la hoá ở Việt Nam có nằm ngoài phạm vi này hay không?
a- Bảng 3:
Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng
Đơn vị:%
1994
1995
1995
1997
1998
1999
10/2000
1.ngoại tệ
38,6
38,7
36,6
31,2
25,2
22,6
18,6
2. VND
61,4
61,3
63,4
68,8
74,8
77,4
81,4
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 1+2/2000
Nhận xét:
Nhìn vào bảng 3 thấy rằng cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đầy 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Có thể nói đô la hoá các khoản vay ở mức trung bình.
Tại sao các doanh nghiệp lại không mặn mà với việc sử dụng vốn ngoại tệ? Như trên ta đã phân tích , doanh nghiệp vay bằng ngoại tệ vừa phải chịu lãi suất USD khá cao so với VND vừa phải gánh thêm phần giảm giá của đồng nội tệ. Nừu trong năm 2000 , khách hàng vay ngoại tệ với lãi suất cực kỳ ưu đãi mức 5,8%-6,6%/năm thì lãi suất sau điều chỉnh mức độ giảm giá của VND so với USD đã lên đến 9,2-9,4%/năm . Trong khi đó, vay bằng VND các doanh nghiệp chỉ phải trả ở mức 8-8,5%/năm. Hơn nữa, doanh nghiệp vay ngoại tệ chủ yếu cho mục đích nhập khẩu, nguồn thu lại chủ yếu bằng VND.Trên cơ sở đã phân tích , doanh nghiệp thấy vay bằng VND sau đó chuyển sang mua ngoại tệ nhập khẩu sẽ có lợi hơn. Ngoại trừ doanh nghiệp có nguồn ngoại tệ để cân đối cho khoản vay bằng ngoại tệ.
Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi tăng lên không phù hợp với tỷ trọng gia tăng của tín dụng bằng ngoại tệ trong tổng tín dụng ngân hàng,do đó , chênh lệch giữa lượng vốn huyđộng được và cho vay khách hàng được nới rộng ra.Đáng ra thì một lượng lớn đô la Mỹ được gửi trong hệ thống ngân hàng, tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế , hạn chế việc phải đi vay nước ngoài.Song, do trong điều kiện cho vay gặp khó khăn ,để sử dụng phần vốn ngoại tệ dư thừa, mà lãi suất trên thị trường quố tế lại tăng cao, các ngân hàng chỉ còn cách lựa chọn danh mục vốn đầu tư là mua trái phiếu chính phủ của các nước phát hành bằng ngoại tệ hay gửi trên thị trường tiền tệ quốc tế.Đây là nguyên nhân giải thích tại sao tiền gửi tại nước ngoài cảu các ngân hàng tăng lên. Trong chuyện này , rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà,còn các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi . Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. Theo IMF, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện nay là 3.297 triệu USD, tương đương với 9,7 tuần nhập khẩu ,có thêm nguồn ngoại tệ khác là gần 2,5 tỷ USD của các ngân hàng ở nước ngoài. Còn theo số liệu công bố của ADB, thì năm 2000 dự trữ ngoại tệ chính thức củaViệt Nam là 3.9 tỷ USD, tương đương với 13,9 tuần nhập khẩu(năm 1999 là 2,95 tỷ USD ,tương đương 12,5 tuần nhập khẩu)ADB cũng dự đoán,đến hết năm 2001 , con số này của Việt Nam sẽ tăng lên là 4,66 tỷ USD và 14 tuần nhập khẩu.
Qua phân tích ta phải thấy rằng :đó chỉ là những cái lợi trước mắt, bởi vì trong nền kinh tế của ta khi mà còn phải vay ngoại tệ để phát triển kinh tế-xã hội thì một nghịch lý lại xảy ra là bơm ngoại tệ ra nước ngoài , nhưng nhìn nhận vấn đề thì ta thấy một điều , sự đào hối không phải là do các ngân hàng muốn đầu tư vào trong nước mà chính khách hàng từ chối vay bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn 1994-1997 cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động vốn các ngân hàng, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các ngân hàng kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
b - Bảng 4:
Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống ngân hàng
Đơn vị:%
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷtrọng
135
148
141
104
73
47
33
Qua phân tích ở trên ta có thể khái quát lên một vài những điểm lớn sau về tình trạng đô la hoá ở nước ta:
Những nguyên nhân cơ bản nhất gây ra hiện tượng đô la hoá:
+ Nguyên nhân sâu xa: là do tính ổn định của đồng tiền chưa cao, năng lực kinh tế Việt Nam chưa phát triển , hệ thống tài chính yếu kém và rủi ro tài chính cao.
+ Nguyên nhân trực tiếp:
* Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng trong những năm qua đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của các tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990, sự tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế Mỹ đã làm cho đồng đô la Mỹ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm gía trị của đồng Việt Nam và ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế trong nước.
* Tình trạng buôn lậu , nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế ,các cửa hàng kinh doanh, cửa hiệu vàng bạc... bán hàng thu bằng ngoại tệ, còn tuỳ tiện , diễn ra phổ biến
* Thu nhập của tầng lớp dân cư còn thấp , tâm lý tiết kiệm và để giành , lo xa cho cuộc sống tĩnh dưỡng tuổi già, lo nơi ăn chốn ở, lo cho con cái học hành còn lớn , nhất là thói quen cất giữ vàng trong thời bao cấp vẫn còn in đậm trong mọi người dân cho đến ngaỳ nay. Do đó, trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế hiện nay vàng giảm giá và không được ưa chuộng , cộng với những lo sợ về biến động tỷ giá, mức độ mất giá của đồng Việt Nam... nên người dân chỉ còn cách lựa chọn tối ưu là đô la Mỹ.
* Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài, người đi xuất khẩu lao động hay đi học tập,tiền kiều hối gưỉ về , tiền của người Việt Nam đi hội thảo, học tập và làm việc ngắn ngày ở nước ngoài mang về. Thực trạng này ở nước ta được thể hiện qua các con số thống kê đầy ý nghĩa sau:
Hiện nay có tới hơn 2 triệu khách quốc tế vào Việt Nam mỗi năm (ước tính năm 2001), trên 2,5 triệu Việt kiều (theo uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì hiện đang có trên 3 triệu người Việt Nam ở các nước trên thế giới , mỗi năm chuyển về nước không dưới 2 tỷ USD) . Điều hiển nhiên là chỉ riêng con số kiều hối theo thống kê của hải quan, các công ty dịch vụ kiều hối và các ngân hàng được nêu dưới đây chắc chắn không thể là số lượng đầy đủ. Số liệu thống kê của NHNNcho hay, lượng kiều hối chuyển về nước các năm gần đây như sau:
Đơn vị: triệu USD
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
35
136,6
140,9
249,4
284,9
468,9
400
950
1200
1757
Trong cơ cấu các nguồn kiều hối năm 2000 thì chuyể qua các ngân hàng là 950 triệu USD, chiếm 54,6% , chuyển qua các doanh nghiệp :165 triệu USD , chiếm 9,3%, chuyển qua bưu điện :32 triệu USD ,mang trực tiếp có khai báo cho hải quan:610 triệu USD, chiếm 34,7%. Hiện nay, trong cả nước có 62 ngân hàng và 43 tổ chức kinh tế làm dịch vụ kiều hối.
* Đô la Mỹ lên giá so với đồng tiền Việt Nam , lãi suất tiền gửi đô la Mỹ tăng cao, còn lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam giảm thấp, trong nhiều tháng của năm 2000, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam kỳ hạn 12 tháng là 7,2%/năm , còn lãi suất tiền gửi đô la Mỹ cùng kỳ hạn là 5,6-5,8%. Nhưng trong cả 12 tháng của năm 2000 ,đồng Việt Nam đã giảm giá tới gần 4%so với đồng đô la Mỹ . Như vậy, nếu như gửi USDvẫn có lợi hơn tới 3,4%/năm.
* Người Việt Nam đi du lich nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong hơn một năm qua . Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo giá các tour du lịch bằng đô la Mỹ, do đó muốn đi du lịch phải có ngoại tệ , phải có tích trữ đô la Mỹ. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài phải đặt cọc một khoản bằng đô la Mỹ trong tài khoản ngân hàng, mà số lượng người này cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua . Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du lịch nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu đi học tự túc cũng tăng gấp bội . Muốn được chấp nhận vào học các trường ở nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được năng lực tài chính của mình , thể hiện bằng số dư tiền gửi đô la Mỹ trong các ngân hàng ở Việt Nam. Tiếp đến, trong quá trình học , gia đình ở trong nước thường xuyên phải chuyển tiền cho con em mình học, bằng USD, thông qua các ngân hàng. Do đó, phải có số dư tiền gửi đô la Mỹ tại các ngân hàng để chuyển ra nước ngoài cho con em ăn học.
* Cơ chế quản lý ngoại hối:
Tình trạng đô la hoá nền kinh tế hiện nay còn dođô la Mỹ được sử dụng khá tự do. Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối không cho phép đô la Mỹ được sử dụng ngoài hệ thống ngân hàng nhưng lại cho phép người dân được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được gửi ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các ngân hàng và được rút cả gốc lẫn lãi bằng ngoại tệ, cụ thể :
Quyết định số 08 NH/QĐ ngày 14/1/1991 cho phép các đối tượng có ngoại tệ tự do chuyển đổi không kể nguồn gốc đều có thể gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại cac TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ .
Thông tư số 02/2000/NHNN 7 ngày 24/2/2000 hướng dẫn thi hành quyết định số 170/1999/QĐ-TTG ngày19/8/1999 của thủ tướng Chính phủ về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước thì người thụ hưởng có quyền nhận ngoại tệ hay bằng đồng Việt Nam, trong đó bãi bỏ thuế thu nhập cá nhân đánh trên kiều hối . Có thể nói rằng, chính sách này hoàn toàn phù hợp để thu hút ngoại tệ về cho đất nước .Từ năm 1997-1999, khi xuất khẩu không có khả năng tăng trưởng , cán cân thương mại thâm hụt nặng thì Việt Nam lại thu hút được lượng ngoại tệ vào nhiều qua con đường chuyển tiền cá nhân và kiều hối mà không phải mất chi phí. Qua đó, đã tạo khả năng cân bằng cán cân thanh toán, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất –kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của một bộ phận trong dân cư trong xã hội. Kiều hối đã trở thành nguồn nội lực không thể không xem xét khi đánh giá sự tăng trưởng chung của nền kinh tế . Tuy nhiên , việc nhận kiều hối bằng ngoại tệ với một thị trường tài chính yếu kém như nước ta hiện nay cũng góp phần làm tăng tình trạng đô la hoá.
Theo quyết định số 180/QĐ-TTG của thủ tướng Chính phủ về việc kết hối ngoại tệ của các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80%xuống còn 50% , tức là một doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, trước đây quy định phảibán ngay tới 80% cho ngân hàng, thì nay chỉ phải bán 50%. Trước diễn biến về tỷ giá và thị trường , bán ngoại tệ đi thì dễ còn khi có nhu cầu nhập khẩu mua lại ngoại tệ của ngân hàng thì hết sức khó khăn, trong khi đó, tỷ giá thì tháng này một khác ,tháng sau đã khác rồi. Do đó, là một người giám đốc sẽ hết sức tỉnh táo khi anh ta chỉ bán ngoại tệ theo đúng tỷ lệ kết hối quy định, thậm chí còn chần chừ., trì hoãn việc bán ngay, mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu.
3. Nhận định vấn đề :
Như trên đã phân tích tình trạng đôla hoá nền kinh tế Việt Nam được thể hiện trên cả 3 lĩnh vực nói trên, nhưng có tính chất khác nhau. Mặt lợi hay tác hại của việc đôla hoá đối với nền kinh tế phụ thuộc vào tác động của nó đối với nền kinh tế, đô la hoá xuất hiện từ hành vi lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ hơn là VND vì công chúng muốn tự phòng ngừa rủi ro như sự bất ổn của giá cả, nền kinh tế suy thoái kéo dài,... hoặc do tỷ lệ lợi tức kiếm được cao hơn nếu lựa chọn tài sản bằng ngoại tệ thay bằng đồng nội tệ, thì mức độ đô la hoá không quá trầm trọng đối với nền kinh tế. Hơn nữa, toàn cầu hoá thị trường tài chính có thể kéo theo đô la hoá, đô la hóa xuất hiện trong nền kinh tế từ việc công chúng lựa chọn ngoại tệ như là một đơn vị tiền tệ trong thanh toán ,trao đôỉ – hình thức thay thế tiền tệ (đã đề cập ở trên) thì thực sự nguy hại đến nền kinh tế. Như vậy, đối chiếu với tình hình đô la hoá ở Việt Nam , một điều khẳng định mức đô la hoá diễn ra không quá trầm trọng mới chỉ dừng ở mức người dân lựa chọn tài sản tiết kiệm bằng ngoại tệ bởi nó có tỉ lệ lợi tức hấp dẫn và tự phòng ngừa sự biến động của tỷ giá ,lạm phát.
4. Tác động của đô la hóa đối với nền kinh tế nước ta
a. Tác động tích cực:
+ Đô la hóa tạo ra cơ hội tái trung gian trong nền kinh tế khi phải trải qua các thời kỳ lạm phát rất cao và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Bởi vì, có một lượng lớn ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, cũng như không có tình trạng người dân ồ ạt đổ xô dùng nội tệ đi mua USD.
+ Các ngân hàng thương mại có một lượng lớn ngoại tệ sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoaị, tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường quốc tế , giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế.
+ Nhờ huy động được một lượng đáng kể tiền gửi ngoại tệ, các ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay trong nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó việc hạn chế đi vay vốn nước ngoài và tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với luồng ngoại tệ trong nước. Đơn cử rằng , nếu các NHTM không huy động vốn ngoại tệ thì hỏi rằng liệu các dự án cần vốn ngoại tệ có vay được vốn ngoại tệ của các NHTM trong nước với lãi suất tương đối thấp là SIBOR 6 tháng công với biên độ từ +0,8%/năm đến 1,2%/năm trong thời gian qua hay không. Lý do mà các NHTM sẵn sàng cho vay với mức lãi suất thấp như vậy là vì các ngân hàng huy động được nguồn vốn ngoại tệ của dân cư với lãi suất thấp. Trường hợp mà ngân hàng thương mại không huy động vì coi nó là bất lợi cho nền kinh tế thì chắc chắn các dự án này sẽ phải chịu lãi suất cao hơn thế bởi ngân hàng phải đi vay ở nước ngoài , nếu không doanh nghiệp phải trực tiếp đi vay. Cả hai trường hợp này thì doanh nghiệp đều phải chịu lãi suất ít nhất là ở mức SIBOR 6 tháng cộng với biên độ +1,8-2%/năm. Như vậy , huy động vốn ngoại tệ cũng có lợi cho nền kinh tế . Tuy nhiên, tỉ trọng vốn ngoại tệ trong tổng vốn huy động phải duy trì ở mức độ phù hợp với nhu cầu vốn ngoaị tệ của nền kinh tế để tránh hiện tượng đô la hoá tiền gưỉ nhưng không bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài.
+ Một vấn đề khác cũng nhận thấy nhờ chính sách khuyến khích kiều hối nên tốcđộ huy động vốn tăng vượt số lượng cho vay bằng ngoại tệ, kết quả , các ngân hàng trả nợ trước hạn hoặc không phải tìm nguồn vốn nước ngoài để tài trợ cho các dự án lớn, khách hàng có nhu cầu vay lớn ( theo báo cáo thường niên 1994 của NHNT, do thiếu vốn ngoại tệ đáp ứng cầu về ngoại tệ, ngân hàng đã phải vay nợ nước ngoài trung- dài hạn trên 30 triệuUSD , nhưng do tốc độ tăng huy động vốn vượt xa so với tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệ , nên đến 1999 đã trả trước khoản vay nước ngoài (báo cáo thường niên 1999).Điều này, có nghĩa các ngân hàng giảm bớt được rủi ro bởi các tác động của nhân tố bên ngoài cũng như rủi ro về tỷ giá, gánh nặng lãi suất, sau đó các doanh nghiệp cũng được hưởng lãi suất cho vay thấp hơn.
b. Những tác động tiêu cực :
- Trong nền kinh tế có đô la hóa , tăng tính rủi ro của nền kinh tế đối với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ . Mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam là chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không được coi trọng. Trong đất nước đang thiếu vốn nhấ là vốn ngoại tệ, phải đi vay nước ngoài thì ngược lại có một lượng lớn USD đem gửi ở nước ngoài.
- Mặt tiêu cực do quá trình đô la hoá ở nước ta cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực đến bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế bị đô la hoá như làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tài khoá , chính sách tiền tệ , chính sách về lãi suất , chính sách tỷ giá, mục tiêu quản lý ngoại hối ... đặc biệt có nhiều ý kiến cho rằng những biến động của lãi suất quốc tế trong những năm vừa qua là nguyên nhân gây ra tình trạng giảm phát, thiếu tiền đồng. Tác giả Nguyễn Ngọc Anh viết ( trong bài : đô la hoá những tác động chưa được đo lường) – báo diễn đàn doanh nghiệp :”trong năm 2000, tỉ trọng USD trên bảng tổng kết tài sản của các ngân hàng thương mại tăng vọt, đã lý giải nguyên nhân giảm phát là do hiện tượng đô la hoá”, một đoạn khác tác giả viết:”việc đồng USD ngày càng bành trướng, chèn ép đồng VND trong lưu thông , người dân có xu hướng đầu tư vào USD quá nhiều làm giảm sức mua của xã hội, phải chăng đô la hoá là nguyên nhân của hiện tượng thiểu phát”. Song, nói gì thì nói chúng ta lại khẳng định một điều rằng đô la hoá nền kinh tế nước ta không mấy trầm trọng như một số người tưởng , vì rõ ràng là đô la Mỹ được sử dụng trong thanh toán ,trong giao dịch mua xe máy của Trung quốc, của Nhật Bản hay lắp ráp tại Việt Nam , tại các đại lý , cửa hàng , hầu hết bằng đồng Việt Nam. Thanh toán mua bán đất đai nhà ở , cũng hầu hết bằng đồng Việt Nam, tiếp đến bằng vàng.Do đó, có thể thấy tài sản của người dân bằng dô la Mỹ chủ yếu dưới dạng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. Nên, nhà nước , trực tiếp là hệ thống ngân hàng quản lý được số ngoại tệ này, khôngđể trôi nổi trong xã hội.
- Một chuyên gia kinh tế nước ngoài bình luận , Việt Nam đang huy động vốn USD cho Washington-bình luận đó có mặt đúng của nó. Song trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế, thì chính sách lãi suất và tỷ giá của nước này nhất định có ảnh hưởng đến nước kia, đặc biệt là Mỹ , nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, quốc gia phát hành ra đồng USD, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các giao dịch tài chính , thương mại đầu tư trên thị trường quốc tế, thì đương nhiên chính sách lãi suất của Fed có ảnh hưởng đến hàng loạt quốc gia khác. Ngân hang châu Âu cũng phải tăng lãi suất theo đồng USD. Do đó, nó có tác động đến thị trường tiền tệ Việt Nam là điều dễ hiểu, khi mà thị trường Mỹ chấp nhận được lãi suất đó (lãi suất cho vay ở Mỹ tới 9-9.5%/năm)còn các doanh nghiệp và các dự án đầu tư ở Việt Nam chưa chấp nhận được cho vay với lãi suất 7,5-8,5%/năm đã khó rồi thì đồng vốn ngoại tệ dịch chuyển đến nước Mỹ là điều đúng luật của kinh tế thị trường mà Việt Nam đang chuyển đổi sang.
5. Giải pháp cho tình trạng này:
a. Các giải pháp hạn chế tình trạng đô la hoá nền kinh tế có ý kiến đề xuất đưa ra các biện pháp hành chính như:
- Tăng tỉ lệ kết hối lên 100%trước đây chúng ta quy định kết hối là 80% xong có ý kiến phản đối từ chính các doanh nghiệp, trong dư luận, nên phải điều chỉnh giảm xuống còn 50%. Nay nếu tăng lên 100% tức là chúng ta quay trở lại biện pháp hành chính đi ngược lại cách làm trước đây đồng thời đẩy rủi ro tỷ giá về các doanh nghiệp.
- Không nhận kiều hối bằng ngoại tệ. Quy định này trước đây đã thực hiện. Song bị phản đối vì không khuyến khích được nguồn kiều hối về nước . Do đó, cũng không thể quay trở lại biện pháp này
- Không nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, hay hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ . Việt Nam đang hướng hội nhập với khu vực và thế giới nên không thể đi ngược lại với quy luật của thị trường
- Không cho phép các doanh nghiệp mở nhiều tài khoản ngoại tệ tại nhiều ngân hàng thương mại khác nhau mà chỉ được phép mở tại một ngân hàng. Giải pháp này trước đây cũng đã quy định song đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và bị chính dư luận phản đối, giảm tính cạnh tranh của các ngân hàng. Do đó , biện pháp này hoàn toàn không khả thi.
- Như vây, phải chăng những kiến nghị này đã đi ngược lại với xu hướng tự do hóa tài chính , nới lỏng kiểm soát ngoại tệ ở nước ta. Hơn nữa, những biện pháp này có thể gây ra tác động ngược. Chẳng hạn, nếu không chi trả kiều hối bằng ngoại tệ mà sức ép chuyển sang đồng VND thì lượng ngoại tệ chuyển ngầm sẽ tăng lên, như vậy ngân hàng cũng không thu được phí dịch vụ chuyển tiền, phí rút tiền mặt. Thực hiện kết hối 100%và ngân hàng lo đủ cung cầu ngoại tệ có thể dẫn đến hoạt động kinh doanh mang tính kế hoạch nhiều hơn tính thị trường. Đến đây có thể khẳng định rằng việc sử dụng các công cụ hành chính cứng nhắc là không hợp lý.
b. Những vấn đề đặt ra nhằm hạn chế :
Như đã nêu ở trên , đô la hóa là tình trạng ở các nước có các điều kiện kinh tế kém phát triển , lòng tin của người dân vào đồng bản tệ thấp, chính vì vậy, để hạn chế tình trạng này cần phải giải quyết vấn đề cơ bản là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, củng cố tính vững mạnh của hệ thống ngân hàng, qua đó củng cố lòng tin của dân chúng vào đồng bản tệ, tăng cường vai trò kiểm soát tiền tệ của NHNN, tăng dự trữ ngoại tệ, cần thực hiện những bước đi tích cực trong việc đổi mới chính sách lãi suất và c hính sách tỷ giá, tạo điều kiện đủ và cần thiết để tiến tới tự do hoá lãi suất và tỷ gía ở Việt Nam .
Việc giải quyết tình trạng đô la hoá không phải là một sớm một chiều là xong mà cần được tiến hành từng bước,theo từng giai đoạn cụ thể với những biện pháp thích hợp và phải có sự phối kết hợp giữa các bộ ngành. Kết hợp các biện pháp kinh tế với các biện pháp hành chính phù hợp với điều kiện nền kinh tế xã hôị của đất nước trong từng thời kỳ và xuất phát từ những nguyên nhân gây ra tình trạng đôla hoá.
c. Một số biện pháp trước mắt:
- Tạo môi trường đầu tư trong nước, tạo sự hấp thụ được số vốn ngoại tệ, tập trung vào đổi mới và cải cách các doanh nghiệp, cải cách hành chính... trước mắt mở rộng một số dự án đầu tư của Chính phủ:dầu khí , cầu đường,điện lực..
- Phát triển các công cụ tài chính trong nước như cổ phần, cổ phiếu , trái phiếu,... đa dạng hóa các danh mục đầu tư trong nước
- Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất thương mại , dịch vụ , và kể cả lĩnh vực tài chính ngân hàng . Kết hợp chặt chẽ với kiểm soát buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cụ thể:
+ Điều hành chính sách tỷ giá cần linh hoạt hơn ,chứa đựng nhiều yếu tố thị trường hơn.
* Mở rộng biên độ giao dịch trên thị trường ngoại hối để vừa đảm bảo sự kiểm soát của NHTƯ vừa phải phù hợp với cung cầu trên thị trường mà không gây tâm lý chờ đợi về việc giảm giá đồng VND.
* Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây , tỷ giá của đồng Việt Nam cần phải được dựa trên cơ sở một rổ ngoại tệ(bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan, Inđonexia...)các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng VNDvào đồng USD và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động của các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn,
* Sử dụng công cụ tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng VND hấp dẫn hơn đồng đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng VND sang đồng USD. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không thay đổi , NHNN có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các NHTMtăng lãi suất huy động đồng VND
* Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ , niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam.
* Đổi mới hoạt động của NHTM theo hướng sử dụng đa dạng hoá các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tài chính và thị trường ngoại hối như các hình thức giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn...
* Đăc biệt , trong tình trạng hiện nay của nước ta phần vốn ngoại tệ dư thừa chưa sử dụng trong đầu tư vào nền kinh tế được xem như là vốn lãng phí . Làm thế nào để nguồn vốn nàyđược sử dụng tối đa trong nước? Trong thời gian qua với sự can thiệp của NHNN bằng hai công cụ can thiệp trong thời gian qua(DTBB bằng ngoại tệ, và lãi suất) đã thuyên giảm tình trạng đô la hoá tiền gửi của nền kính tế. Song, hiện nay lại phát sinh tình trạng đôla hoá tiền gửi trong hệ thống ngân hàng giảm đi còn đô la hoá trong xã hội tăng lên nhưng rõ ràng là tình trạng này khó có khả năng kiểm soát được ,do đó đòi hỏi phải xem xét điều chỉnh các công cụ của chính sách tiền tệ sao cho kịp thời hạn chế những mặt tích cực , lợi dụng những mắt có lợi cho nền kinh tế.
KếT LUậN
Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi của nền kinh tế còn non yếu và đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam , trên đây là một số những nét cơ bản của vấn đề đô la hóa. Có thể nói , đây là vấn đề khá phức tạp và nhạy cảm.Đô la hoá cũng giống như các vấn đề chính sách tiền tệ khác, không bao giờ có câu trả lời rõ ràng. Về vấn đề này tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2000 thống đốc NHNN Lê Đức Thuý nói:”tình trạng đô la hoá đang gia tăng , xử lý vấn đề này về hình thức có vẻ giản đơn nhưng nhưng trên thực tế thì rất khó. Đó là một cuộc chiến gay go và chắc chắn là chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều, bởi vì mỗi người có góc độ lợi ích riêng của mình, cho nên cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng sẽ còn nhiều giải pháp đụng đến thói quen ấy, nhất định sẽ có nhiều phản ứng. Mong được sự chia sẻ , đồng tình và hỗ trợ của Quốc hội.”
Qua lời phát biểu của thống đốc Ngân hàng Nhà nước ta có thể khẳng định rằng giải quyết vấn đề đô la hoá đúng là rất khó khăn. Trong quá trình thực hiện chính sách, chúng ta luôn gặp phải những mâu thuẫn trái ngược nhau . Do vây, cần cân nhắc kỹ lưỡng cái được cái mất trong việc lựa chọn những chính sách cụ thể , phù hợp.
TàI LIệU THAM KHảO
Nguyễn Hữu Trang- đô la hoá bắt nguồn từ đâu? (Thời báo ngân hàng,số 95/2001)
Tình hình hoạt động ngân hàng năm 1999 và định hướng năm 2000 ( tạp chí ngân hàng số 1+2/2000)
Huy Minh , đôi điều nói lại về đô la hóa (diễn đàn doanh nghiệp, số 25, 2001)
Báo cáo thường niên NHNNVN, năm 1994- 1999
Tạp chí ngân hàng số 3,6/2001
Tạp chí ngân hàng số 1+2/2002
MụC LụC
LờI Mở ĐầU
I - ĐÔ LA HOá - MộT Số VấN Đề Lý LUậN CHUNG
Khái niệm đô la hoá
Nguồn gốc của hiện tượng đô la hoá
Tiêu chí phân loại đô la hoá
Nguyên nhân hiện tượng đô la hoá
Những tác động của đô la hoá
II - THựC TRạNG ĐÔ LA HOá ở VIệT NAM – NGUYÊN NHÂN - GIảI PHáP
đôi nét về quá trình đô la hoá ở Việt Nam từ những năm 80 đến nay
Đô la hoá ở Việt Nam xảy ra dưới hình thức nào?
Những nhân tố ảnh hưởng đô la hóa tiền gửi
Những nhân tố ảnh hưởng đô la hoá cho vay
Nhận định vấn đề
Tác động của đô la hoá đối với nền kinh tế ở nước ta
Giải pháp khắc phục
KếT LUậN
TàI liệu tham khảo
1
3
3
3
4
8
8
13
13
13
13
17
22
23
25
28
29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33696.doc