Trong kinh tế thị trường, kế hoạch được thực hiện chủ yếu bằng công cụ chính sách. Công cụ thực hiện có 2 loại :
- Công cụ trực tiếp : áp dụng trong nội bộ hệ thống cơ quan Nhà nước, do cơ quan Nhà nước các cấp thực hiện như : đầu tư của Nhà nước, các chương trình và dự án quốc gia, thu thuế và chi tiêu ngân sách v.v .
- Công cụ gián tiếp : do chủ thể tham gia thị trường thực hiện như chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái v.v.
Tác dụng của các công cụ gián tiếp này sẽ được truyền tải đến các chủ thể kinh tế thông qua cơ chế thị trường và qua đó điều chỉnh ứng xử của họ theo định hướng mục tiêu đã chọn.
Vấn đề quan trọng trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá là phải nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, trong đó cần chú ý tới các công cụ, chính sách gián tiếp bởi vì những chính sách này sẽ là đòn bẩy để giúp nền kinh tế phát triển nhanh, tạo ra vòng quay của nền kinh tế to hơn, thúc đẩy quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cần đảm bảo sự ăn khớp, đồng bộ và linh hoạt của hệ thống chính sách. Cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, giữa Trung Ương và địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thị trường nước ta.
3.Cơ sở lý giải cho sự tồn tại và phát triển của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
3.1.Sự phát triển của phân công lao động xã hội
Nước ta phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường và chịu sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hoá trên thế giới. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của phân công lao động xã hội được chia thành 3 loại:
- Phân công chung : chia thành 20 ngành cấp 1
- Phân công lao động đặc thù : là quá trình phân công trong nội bộ một ngành để chia thành các ngành chuyên môn hóa
Phân công lao động đặc thù càng phát triển thì trình độ chuyên môn hóa sản xuất càng cao
- Phân công cá biệt : là sự phân công trong nội bộ một đơn vị kinh tế
Trước xu thế phát triển của phân công lao động xã hội, cần phải có sự tác động của Chính phủ bằng các mục tiêu, chỉ tiêu để định hướng sự phát triển phù hợp với đời sốngkinh tế và xã hội, hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, cần phải có kế hoạch để nắm bắt được xu thế phát triển của phân công lao động xã hội ( đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học - công nghệ ) để tổ chức thực hiện theo định hướng của Nhà nước.
3.2.Sự thất bại của thị trường
- Thị trường ở các nước đang phát triển thường là thị trường chưa phát triển một cách đầy đủ những yếu tố chủ yếu của nó; giá cả trên thị trường như vậy thường xuyên tạc vì người sản xuất và người tiêu dùng thiếu thông tin cần thiết; sự điều tiết của thị trường trong điều kiện như vậy có nhiều khả năng dẫn đến những quyết định sản xuất và lưu thông sai lầm, không có hiệu quả.
- Thị trường vốn hoặc là còn thiếu hoặc là còn rất sơ khai, chưa đảm đương được vai trò trung gian cần thiết cho quá trình phát triển. Trong điều kiện đó nếu không có sự can thiệp của Chính phủ thông qua kế hoạch hoá thì những nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế dễ bị phân bổ một cách sai lệch, không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn, nhất là cho lợi ích tương đối dài hạn.
- Xu thế độc quyền ngày càng tăng.
Các nhà độc quyền phát triển kinh tế không theo sự lựa chọn của thị trường. Do họ có lợi thế nhất định trong vấn đề sản xuất nào đó nên họ làm cho người tiêu dùng phải chịu những chi phí cao khi tiêu dùng sản phẩm của họ.Vì vậy làm giảm phúc lợi ròng xã hội.
- Vấn đề ảnh hưởng ngoại lai.
Sự lựa chọn của thị trường khác sự lựa chọn của xã hội. Mục tiêu của các nhà sản xuất là lợi nhuận, bằng mọi cách để đạt lợi nhuận cao nhưng họ không quan tâm tới ảnh hưởng ngoại lai, đặc bệt là ngoại lai tiêu cực do họ gây ra cho môi trường và xã hội. Vì vậy, phải có kế hoạch để đưa ra các chính sách buộc các nhà sản xuất phải gắn với bảo vệ môi trường và lợi ích xã hội.
- Vấn đề cung cấp hàng hoá công cộng, hàng hoá khuyến dụng không đem lại lợi nhuận hoặc đem lại rất ít, thời gian thu hồi vốn dài nên tư nhân không tham gia vào. Vì vậy buộc Chính phủ phải thực hiện để đem lại phúc lợi xã hội cho nhân dân.
- Các vấn đề khác như phân phối, công bằng xã hội, ... thì Nhà nước phải thực hiện các chính sách theo lợi ích của xã hội.
Vì vậy, kế hoạch hoá ở nước ta là cần thiết vì cơ chế thị trường không đảm bảo các quyết định của cá nhân sẽ tối ưu hoá các hoạt động kinh tế theo những mục đích ưu tiên của xã hội.
3.3.Khả năng phân bổ nguồn lực khan hiếm.
Các nền kinh tế của các nước ở thế giới thứ ba rất cần tập trung nguồn lực hạn chế của mình, đặc biệt là lao động lành nghề và vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất vật chất. Do đó những dự án đầu tư phải được lựa chọn không những trên cơ sở phân tích năng suất đạt được căn cứ vào suất đầu tư và thời gian hoàn vốn, mà còn phải tính đến những yếu tố của chương trình phát triển tổng thể, những tác động trước mắt cũng như lâu dài trên bình diện kinh tế xã hội. Nguồn lực khan hiếm phải được sử dụng vào lĩnh vực nào có đóng góp rõ rệt nhất cho xã hội. Kế hoạch hóa kinh tế còn phải góp phần giảm nhẹ những ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển nguồn lực bằng cách phối hợp những dự án đầu tư để có thể tập trung những yếu tố khan hiếm vào lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất. Mặt khác người ta còn thấy thị trường cạnh tranh tự do có xu thế hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực mà xã hội mong muốn. Đó là khiếm khuyết của thị trường mà người ta muốn sử dụng kế hoạch hoá để khắc phục.
3.4.Lập luận về thái độ và tâm lý dân cư.
Thực tế cho thấy khi những mục tiêu kinh tế và xã hội của một quốc gia được công bố một cách công khai trong kế hoạch phát triển đất nước sẽ ảnh hưởng tích cực và quan trọng đến cách cư xử và tâm lý của nhân dân, nhất là ở những nước tính cộng đồng không cao hoặc dân cư bị chia rẽ. Trong những trường hợp này, kế hoạch hoá có thể thành công trong việc tập hợp nhân dân đằng sau Chính phủ để tiến hành thực hiện những chương trình quốc gia lớn, chẳng hạn như xoá đói giảm nghèo, xoá nạn mù chữ, phòng chống bệnh tật. Khi Chính phủ có bản kế hoạch khả thi và hợp lý thì điều có thể giúp tạo ra những động lực cần thiết vượt qua những trở ngại gây chia rẽ trong nội bộ quần chúng, động viên tốt hơn sự quan tâm và tham gia của các bộ phận khác nhau trong xã hội vào việc thực hiện những mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế.
3.5.Lập kế hoạch để thu hút viện trợ và đầu tư nước ngoài.
Muốn huy động được vốn viện trợ nước ngoài kể cả song phương và đa phương một cách có hiệu quả, Chính phủ thường phải có những kế hoạch phát triển rõ ràng vỡi những mục tiêu cụ thể và những dự án đầu tư được xây dựng theo những tiêu thức quy định. Với những kế hoạch của mình các nước nhận viện trợ có cơ sở tốt hơn để thuyết phục những nhà tài trợ rằng số tiền vốn là một bộ phận thiết yếu không thể thiếu và sẽ được sử dụng một cách có mục đích trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
4.Vai trò của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
Kế hoạch hoá có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nó thể hiện sâu sắc ở bản chất nội dung của công tác kế hoạch hoá. Nó được sử dụng làm công cụ quản lý kinh tế vĩ mô để phát triển nền kinh tế theo mục trên định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. Qua đó, chúng ta có thể rút ra một số vai trò quan trọng của kế hoạch hoá :
- Khắc phục các khuyết tật của thị trường.
- Nắm bắt trình độ của quá trình phân công lao động xã hội, từ đó tổ chức nền kinh tế phù hợp với quá trình phát triển của phân công lao động xã hội.
- Đảm bảo tính hiện quả xã hội cao nhất trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm, thông qua các chỉ tiêu kế hoạch.
-Đảm bảo tính chủ động của Nhà nước trong các quan hệ quốc tế ( thể hiện tính định hướng dài hạn của kế hoạch ).
- Tạo tâm lý an dân, giáo dục à tập hợp sức mạnh quần chúng để cùng Đảng và Nhà nước xây dựng nền kinh tế - xã hội theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
5.Các nguyên nhân thất bại trong kế hoạch hoá .
Sau nhiều thập kỷ kiểm nghiệm, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân ở những nước đang phát triển, kết quả đánh giá chung là không mấy thành công. Đó là một số nguyên nhân chính sau :
- Khoảng cách giữa kế hoạch và thực hiện kế hoạch.
Các văn bản kế hoạch thường quá tham vọng, ôm đồm quá nhiều mục tiêu cùng một lúc mà không xét đến mục đích ưu tiên mâu thuẫn và cạnh tranh nhau. Nhiều bản kế hoạch được thiết kế rất đồ sộ, nhưng không rõ về chính sách cụ thể cần thiết để đạt được mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, khoảng cách giữa kế hoạch và thực hiện kế hoạch rất lớn, nhiều chỉ tiêu kế hoạch thực tế không thực hiện được.
- Số liệu và thông tin không đầy đủ và kém tin cậy.
Chất lượng của một bản kế hoạch phát triển phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và dộ tin cậy của số lượng thống kê cũng như những thông tin về thực hiện kế hoạch. Tình trạng chung của các nước đang phát triển là cơ sở dữ liệu vừa thiếu, vừa yếu, cộng thêm với đội ngũ cán bộ kế hoạch và thống kê không đủ năng lực và trình độ dẫn đến hệ quả là những ý đồ, tham vọng trong kế hoạch hoá không được thể hiện một cách khách quan và cuối cùng không trở thành hiện thực. Trong những trường hợp như vậy, việc mở rộng phạm vi và quy mô kế hoạch hoá có thể còn gây lãng phí vô ích.
- Những biến động kinh tế bất thường, kể cả trong và ngoài nước.
Đối với những nước có nền kinh tế mở cửa thì những thay đổi về giá cả và thị trường quốc tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường trong nước, làm cho việc dự báo xu hướng phát triển hết sức khó khăn, thậm chí cả cho những thời hạn tương đối ngắn. Ví như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997- 1998 làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước từ mức 7% đến 8% trở thành số âm. Đối với nền kinh tế dễ tổn thương trước những biến động bên ngoài như vậy, Chính phủ các nước cần phải đảm bảo tính mềm dẻo và linh hoạt trong chính sách kinh tế của mình, sẵn sàng điều chỉnh khi cần thiết chứ không tự ràng buộc vào những kế hoạch cứng nhắc xác định từ trước.
- Những yếu kém về thể chể .
Đây là một vấn đề nổi bật ở các nước đang phát triển. Trong những yếu kém đó, người ta thường kể đến việc tách cơ quan kế hoạch hoá ra khỏi bộ máy điều hành thường nhật của Chính phủ, việc các nhà hoạch định kế hoạch, hoạch định chính sách không thường xuyên đối thoại và thông tin nội bộ với nhau về mục tiêu chiến lược, áp dụng cách thức thực hiện kế hoạch hoá và tổ chức quá trình kế hoạch hoá dập khuôn, không phù hợp với điều kiện từng nước, từng địa phương. Một yếu kém khác là sự vô trách nhiệm của cán bộ thừa hành, sự phản ứng đối với đổi mới, sự mâu thuẫn, thiếu hợp tác giữa các bộ phận trong cơ quan, tình trạng tham nhũng và quan liêu đều là lý do ảnh hưởng đến chất lượng công tác kế hoạch hoá.
6.Một số nội dung cần hoàn thiện .
- Cần hoàn thiện về cơ chế và phương thức tiếp cận kế hoạch hóa ( đổi mới tư duy kế hoạch ).
- Hoàn thiện về phương pháp kế hoạch .
- Hoàn thiện về bộ máy quản lý.
- Hoàn thiện quá trình kế hoạch hoá : thống nhất lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch .
- Sử dụng phương pháp hiện đại trong các lĩnh vực dự báo, thống kê để tăng chất lượng số liệu thống kê tiền kế hoạch.
- Học hỏi kinh nghiệm thành công của công tác kế hoạch hóa ở các nước.
Chương 2 : Thực trạng đổi mới kế hoạch hoá ở Việt Nam
I.Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 2000
1.Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội
1.1.Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Nét nổi bật trong công tác kế hoạch hoá hơn 10 năm qua là kế hoạch hoá đã chuyển dần từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng với việc tập trung nỗ lực xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ( năm 1991 ) đã xác định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 1991-2000 và chiến lược nay đã được điều chỉnh thông qua Đại hội Đảng lần thứ VIII ( năm 1996 ) với trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế thích hợp, có nội dung đáp ứng được yêu cầu của công cuốc đổi mới đất nước, phát huy được tiềm lực trong nước và thu hút được nguồn lực bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường.
1.2.Quy hoạch
Công tác quy hoạch được tăng cường, tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển trong cả nước cho từng ngành từng vùng, từng lĩnh vực. Thực hiện phương châm này, trong những năm qua Nhà nước đã tập trung thực hiện quy hoạch một số ngành như điện lực, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, các khu công nghiệp, khu chế xuất, tạo cơ sở cho việc phát triển chung của nền kinh tế, đóng góp một phần không nhỏ cho công cuộc cải cách kinh tế.
Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút những nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài làm thay đổi không những bộ mặt kinh tế - xã hội của vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn diện nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các vùng lân cận phát triển thành vệ tinh của các cực phát triển.
Trong thời gian qua đã thẩm định quy hoạch tổng thể cho 49 tỉnh thành phố và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của 11 vùng gồm : 3 vùng kinh tế trọng điểm ( miền Bắc, miền Trung vầ miền Nam ) ; 8 vùng khác ( vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng song Cửu Long ). Thủ tướng Chính phủ cũng đã xét duyệt quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp và các công trình gọi vốn ODA, FDI, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn đầu tư từ nước ngoài cũng như cho các nhà tài trợ, các nhà đầu tư.
Nhìn chung, công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu, đã gắn được mục tiêu chiến lược vào nội dung quy hoạch xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho tùng địa phương. Tài liệu quy hoạch bước đầu đã giúp cho các cấp lãnh đạo ở Trung Ương, địa phương xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương cũng như cả nước.
2.Xác định trọng tâm của công tác kế hoạch hoá là kế hoạch 5 năm
2.1.Cơ sở lý luận
Kế hoạch 5 năm dóng vai trò trung tâm vì :
- 5 năm là thời gian cùng với một nhiệm kỳ chính trị.
Mỗi nhiệm kỳ chính trị bầu ra được bộ máy quản lý ở Trung Ương. Đó là những người đại diện cho nhân dân tron g việc xây dựng, quản lý và bảo vệ đất nước, đặc biệt đại diện cho đất nước trong quan hệ ngoại giao quốc tế. Kế hoạch 5 năm được xác định trong thưòi hạn đó để phù hợp với ý trí Nhà nước, hạn chế sự biến động lớn trong cách thức tổ chức quản lý đất nước.
- Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian không dài để đảm bảo cho các chỉ tiêu kế hoạch mang tính hiện thực. Từ đó, chúng ta mới có thể đách giá được việc thực hiện kế hoạch và xây dựng định hướng mới cho kế hoạch 5 năm tới.
- 5 năm là khoảng thời gian đủ để một chương trình và dự án bộc lộ các yếu tố mang lại hiệu quả. Các chương trình và dự án là công cụ thực hiện kế hoạch gồm kế hoạch với thị trường; tạo ra sự biến đổi trong hoàn thiện cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở sản xuất cong nghiệp và thực hiện các mục tiêu xã hội hướng tới. Nếu thời gian ngắn thì không đánh giá được sự thay đổi. Nếu thời gian quá dài thì khó bắt kịp những biến động lớn trong kinh tế - xã hội.
2.2.Nội dung đổi mới của kế hoạch 5 năm
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển, các kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và 1996 - 2000 đã được xây dựng với những thay đổi lớn về phương pháp và nội dung như : tăng cường kế hoạch kinh tế vĩ mô, từng bước xoá bỏ kế hoạch hoá mệnh lệnh và giảm tối thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang kế hoạch hoá định hướng, chú ý hơn đến các chỉ tiêu trên lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ, đã có nhiều cố gắng xây dựng và điều hành, đảm bảo các cân đối lớn trong kế hoạch hoá giá trị, xây dựng và thực hiện các chương trình dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tàng kinh tế - xã hội; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Kế hoạch hoá 5 năm đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính - tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được nghiên cứu hoạch định và được sử dụng tương đối hợp lý, trở thành nhân tố quan trọng đối với việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế, chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực thực tế.
Hoạt động xuất nhập khẩu phát triển khá. Nước ta có một số ngành xuất khẩu lớn : dầu thô, cà phê, thuỷ sản, gạo,...
2.3.Kết quả đạt được trong 5 năm 1996 - 2000
- Nền kinh tế giữ được nhịp độ tăng trưởng khá
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ( GDP ) qua các năm từ năm 1996 đến năm 2000 :
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
GDP (%)
9,34
8,15
5,76
4,77
6,75
Qua bảng trên cho thấy tốc độ tăng trưởng giảm dần từ năm 1996 đến hết năm 1999. Năm 2000 mới bắt đầu tăng lên nhưng vẫn còn thấp. Đó là là vì nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 của khu vực nền sản xuất bị trì trệ. Nước ta có 2/3 vốn đầu tư trực tiếp ( FDI ) vào Việt Nam là từ các nước trong khu vực : Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, ... nên khi các nước này bị khủng hoảng kinh tế thì các nhà đầu tư rút vốn, tỷ lệ đầu tư vào Việt Nam giảm, hàng hoá của ta khoong xuất khẩu được. Tuy vậy, chúng ta đã dần khắc phục và tiếp tục phát triển kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế đã có những bước chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,2% năm 1995 xuóng còn 24,3% năm 2000; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng từ 28,7% tăng lên 36,6% và tỷ trọng dịch vụ trong GDP từ 44,1% năm 1995 giảm xuống còn 39,1% năm 2000. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng là theo đúng hướng phát triển kinh tế của nước ta. Nước ta xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng : công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Tuy nhiên để xây dựng nền tảng nước công nghiệp thì các nhà kế hoạch cần hoạch định các phương hướng để giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 20 - 21%, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp lên 38 - 39%.
Ngành dịch vụ giảm còn 39,1% năm 2000 là xu hướng không tốt, ngược với xu thế của nước ta. Nguyên nhân là do khủng hoảng tài chính khu vực làm giảm lượng khách du lịch hàng năm vào Việt Nam. Chất lượng giao thông và ngân hàng chưa cao cũng ảnh hưởng tới ngành dich vụ, đặc biệt là các dịch vụ về tài chính, ngân hàng chưa phát triển mạnh. Mục tiêu đến năm 2005, chúng ta đưa ra chỉ tiêu về tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP là 41 - 42% để phù hợp với mục tiêu của đất nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- Các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.
+ Đã cải thiện quan hệ tích luỹ và tiêu dùng theo hướng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển.
+ Các cân đối tài chính - tiền tệ có tiến bộ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và khai thác tốt các nguồn lực.
+ Đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là các nguồn vốn trong nước. Số công trình cơ sở hạ tầng được đưa vào sử dụng nhiều hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây; năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt.
+ Đầu tư trực tiếp ( FDI ) ngày càng tăng, thúc đẩy tích cực quá trình phát triển kinh tế nhanh; vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA ) ổn định, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng, thúc đẩy hoạt động FDI.
+ Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được nâng cao về chất lượng và quy mô.
+ Khoa học và công nghệ có bước chuyển biến tích cực. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ được chú trọng đào tạo chuyên sâu và đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, có khả năng tiếp thu và làm chủ một số công nghệ hiện đại.
+ Cơ chế quản lý kinh tế đang được đồng bộ hoá và hoàn thiện dần, đang phát huy tích cực trong quản lý kinh tế và trong đời sống xã hội.
+ Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
2.4.Nhũng khó khăn và tồn tại
- Chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế còn thấp; nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh chưa đủ sức cạch tranh trong khu vực và trên thế giới.
- Cơ chế thị trường tài chính chưa đồng bộ.
- Công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ còn thấp. Cơ cấu đào tạo chưa cân xứng voí nhu cầu thị trường.
- Nhiều vấn đề xã hội và môi trường đặt ra bức xúc như tỷ lệ thất nghiệp cao, thiên tai lũ lụt thường xảy ra; cơ sở vật chất các ngành giáo dục, y tế còn thấp; tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và tham nhũng ngày càng gia tăng, ...
3.Đổi mới quy trình lập và phương thức điều hành kế hoạch
Hình thức giao số kiểm tra trước đây được thay bằng việc cung cấp các thông tin hướng dẫn, đồng thời hàng năm Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn cử các đoàn cán bộ đến các địa phương để hỗ trợ giải quyết các vướng mắc trong các kỳ lập kế hoạch, tổ chức các Hội nghị toàn quốc hoặc Hội nghị vùng để phổ biến, trao đổi về các nội dung mới trong cách làm và hướng dẫn ưu tiên đầu tư.
Về điều hành kế hoạch, điểm nổi bật là tính kịp thời : hàng tháng, hàng quý, 6 tháng đều có tổng hợp tình hình, phân tích tìm nguyên nhân và kiến nghị Chính phủ quyết định các giải pháp xử lý việc sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp như lãi suất, tỷ giá, thuế suất, ưu đãi đầu tư, .... ngày càng tỏ ra có hiệu quả rõ rệt, đồng thời nhờ đó làm giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào hạt động kinh doanh của các cơ sở kinh tế.
Về phạm vi kế hoạch được mở rộng theo hướng bao quát toàn bộ nền kinh tế- xã hội thay cho việc tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế quốc doanh trước đây.
4.Tăng cường công tác đấu thầu và thẩm định dự án
Các công tác đấu thầu và thẩm định dự án được tăng cường ở phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng như ở các Bộ, Ngành và Tỉnh, Thành phố; các công việc thuộc về thẩm định dự án, đấu thầu đã được triển khai theo quy trình có bài bản. Mặc dù còn một số bất cập, song khách quan mà nhận định rằng hai loại hình hoạt động này đã đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện các dự án đầu tư, hạn chế những sai sót và lãng phí.
Việc phân cấp quản lý và cấp giấy phép đầu tư, phân cấp thẩm định và phê duyệt dự án được thực hiện theo hướng ngày càng trao thêm quyền chủ động cho các Bộ, ngành và địa phương. Đó cũng là giải pháp tạo điều kiện cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung lực lượng và thời gian nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ về các vấn đề quan trọng của cả nước, những vấn đề liên ngành, đề xuất các cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư, huy động các nguồn vốn, lựa chọn các giải pháp tình thế có tính tác động dài hạn nhằm đảm bảo cân đối kinh tế vĩ mô.
II.Những vấn đề còn hạn chế trong công tác kế hoạch hoá
Mặc dù việc đổi mới kế hoạch hoá trong thời gian qua có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế làm nhiều mục tiêu và chỉ tiêu của kế hoạch chưa đạt được. Vấn đề đổi mới kế hoạch hoá vẫn chưa đi sâu vào trong nền kinh tế, chưa được thực hiện đồng bộ.
- Công tác kế hoạch chỉ được quan tâm nhiều ở cấp Trung Ương, trong khi bộ máy kế hoạch lại không đủ khả năng có được hệ thống thông tin giám sát ở mọi cấp sở. Do vậy, việc thực hiện nhiều khi diễn ra sai lệch với ý đồ của kế hoạch.
- Việc triển khai thực hiện những mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, từng địa phương, chưa có khâu nối đồng bộ chung. Các cấp, các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường bị coi nhẹ.
- Hệ thóng kế hoạch theo ngành, theo địa phương và theo vùng lãnh thổ chưa liên kết phối hợp chặt chẽ với nhau, chưa thống nhất cao trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch. Nhiều chương trình quốc gia không xác định rõ mục tiêu, đối tượng, chưa có cơ chế phù hợp cho việc tổ chức thực hiện giám sát và kiểm tra việc thực hiện chương trình.
- Công tác dự báo và phân tích kinh tế chưa đạt được quan tâm nhiều nên độ chính xác chưa cao, còn chung chung. Chưa thực hiện dự báo ngắn hạn để thích ứng với sự thay đổi thường xuyên của nền kinh tế.
- Đội ngũ cán bộ kế hoạch được đào tạo có hệ thống, tư duy đổi mới công tác kế hoạch hoá chưa cao.
chương 3 : Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá trong thời gian tới .
I.Bối cảnh quốc tế và khu vực
Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới có những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Xu thế hoà bình và hợp tác, tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, những xu hướng biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững toàn cầu sẽ có nhiều tác động đến Việt Nam. Sơ bộ cho thấy những cơ hôi và khó khăn trong thời gian tới là :
- Tranh thủ điều kiện hoà bình và ổn định kinh tế khu vực để tập trung sức cho phát triển kinh tế, ngăn ngừa được tình trạng phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế, có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, mở rộng thị trường quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại kinh tế và đẩy mạnh cải cách kinh tế, cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
- Do nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ phát triển thấp nên còn gặp nhiều khó khăn trong tiến trình hội nhập kinh tế. Cùng với tiến trình hội nhập và phải giảm thuế Nhập khẩu theo cam kết nên các khoản thu thuế Nhập khẩu sẽ giảm đáng kể, làm ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Tình hình quốc phòng, an ninh đòi hỏi vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chăm lo đúng mức.
II.Cơ sở lý luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá.
1.Sự phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực theo xu hướng toàn cầu hoá, tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy chúng ta phải xây dựng, đổi mới hệ thống kế hoạch hoá để nắm bắt, theo kịp xu hướng phát triển chung và dự báo để có kế hoạch hạn chế những thay đổi bất ngờ trong nền kinh tế thế giới và trong nước.
2. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về kế hoạch hoá phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước. Do vậy không tránh khỏi lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như phương thức điều hành kế hoạch. Chúng ta còn nhiều tư tưởng nặng về mô hình kế hoạch hoá tập trung theo hướng cấp phát, tư tưởng dựa vào Nhà nước. Công tác thực hiện kế hoạch còn dựa vào ý kiến chủ quan của nhiều nhà lãnh đạo dẫn đến việc thực hiện kế hoạch sai ý đồ, không đạt mục tiêu. Xuất phát từ thực tế trên đòi hỏi phải có sự đổi mới trong công tác kế hoạch hoá để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, khắc phục các hạn chế, khuyết tật của thị trường.
3.Chiến lược 2001 - 2010 của Việt Nam đã được xác định là chiến lược:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp” .
Đây là nhệm vụ rất khó khăn trong điều kiện cơ chế thị trường ở Việt Nam còn non trẻ, còn gặp nhiều thử thách. Vì vậy, vai trò định hướng vĩ mô của Nhà nước thông qua công cụ kế hoạch hoá cần được đổi mới phù hợp vơí định hướng của đất nước.
III.Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta trong thời gian tới là:
1.Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển kinh tế nhanh là một yêu cầu bức xúc hàng đầu để thực hiện mục tiêu xã hội cơ bản về giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, ... chống sự tụt hậu xa hơn, thu hẹp dần khoảng cách phát triển so với các nước xung quanh và mức trung bình của thế giới.
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững tức là gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ đất nước, gắn phát triển kinh tế, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh là một trong những yếu tố cơ bản và thường xuyên của sự phát triển bền vững theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
2.Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cấp thiết.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 là nước ta sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì giai đoạn từ nay đến năm 2010 phải xây dựng nền tảng của một nước công nghiệp.
3.Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế cả song phương lẫn đa phương ( khu vực toàn cầu ) để tranh thủ cơ hội mới về vốn, công nghệ, thị trường trên thế giới, gắn với mở rộng giao lưu văn hoá và các mối quan hệ khác với bên ngoài.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn liền với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hai mặt tác động lẫn nhau và tạo điều kiện cho nhau. Trên cơ sở độc lập tự chủ về kinh tế thì nước ta mới có thể hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập có hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
4.Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới một cách sâu rộng và đồng bộ, cả về kinh tế, xã hội và bộ máy Nhà nước hướng vào giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, phát huy cao nhất sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của cả dân tộc để tạo động lực và nguồn lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Cần tập trung cao vào yêu cầu hình thành về cơ bản thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khoảng mười năm tới, sau đó sẽ là giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế .
5.Kết hợp chặt chẽ phát triển Kinh tế - Xã hội với Quốc phòng - An ninh
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, được thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương và trong các dự án đầu tư lớn. Phân bố hợp lý việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên các vùng của đất nước, vừa phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, vừa sử dụng được cho quốc phòng - an ninh khi cần thiết.
IV.Những nội dung tiếp tục cần đổi mới .
1.Đổi mới tư duy trong công tác kế hoạch hoá
1.1.Đổi mới tư duy, quan niệm về Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
Việc đổi mới tư duy về một Nhà nước cho phép và quyết định chuyển sang một Nhà nước mới, tạo khuôn khổ pháp luật để mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật, hỗ trợ sự giúp đỡ và giám sát sẽ góp phần quan trọng trong việc đổi mới nội dung kế hoạch hoá từ nguyên tắc phân bổ nguồn lực, công cụ điều hành đến những chính sách khuyến khích hỗ trợ.
Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì thế, nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới tư duy này sẽ tác động sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và biện pháp không nên và không cần phải giữ bí mật. Nhà nước cần tăng cường khung khổ pháp lý, hạn chế tối đa mọi can thiệp mang tính áp đặt, trực tiếp và chuyển sang hình thức tác động gián tiếp và khuyến khích. Như vậy những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia phải được thay thế bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Cho đến nay, chúng ta vẫn coi quy hoạch là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Cần phải phân biệt rõ hai loại quy hoạch : quy hoạch sử dụng không gian ( gồm cả quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị ) và quy hoạch ngành. ở nước ta quy hoạch sử dụng không gian đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mức, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí ghê gớm cho cả Nhà nước lẫn người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và được xác định trong điều kiện “tĩnh” và đóng cửa, không tính đến những biến động trên thế giới trong khi chúng cũng là các nhân tố đóng vai trò quan trọng trong quy hoạch. Đó cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến nhiều Doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu không được Nhà nước bảo hộ. Chính vì vậy, chúng ta cần phải đổi mới tư duy về quy hoạch theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch những ngành mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc. Những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ để các doanh nghiệp tự làm.
Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Đổi mới tư duy quản lý Nhà nước theo phân cấp, tản quyền với nguyên tắc “Nhà nước hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân, do chính quyền gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng” .
1.2.Đổi mới tư duy trong việc xác định mục tiêu kế hoạch
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung Ương lẫn địa phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng cần muốn đạt mức trong khi tiềm lực có hạn. Tư duy này cần phải thay đổi một cách cơ bản, kế hoạch phải căn cứ vào thực hiện, phân tích quan hệ cung - cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường ( trong nước và quốc tế ) để tính tốc độ tăng trưởng kinh tế, từ đó xác định mục tiêu. Việc xác định các mục tiêu phải đi kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự trả giá, hy sinh mục tiêu này để đạt mục tiêu khác.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN , AFTA , ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ, quá trình toàn cầu hoá đang ngày càng gia tăng trên thế giới, sự liên kết thị trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng gắn bó, nền kinh tế tri thức và một cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sức ép ngày càng cao đối với mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp. Việc nhận thức đầy đủ những vấn đề này sẽ buộc các nhà hoạch định chính sách phải đặt ra mục tiêu, kế hoạch trong bối cảnh chung, trong môi trường “động” và “mở cửa”. Không chấp nhận thách thức này chắc chắn nền kinh tế sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, dẫn đến bất ổn định trong xã hội.
Sự phát triển của nền kinh tế lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi trường chức không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính định hướng chứ không mang tính pháp lệnh, tổng chỉ tiêu mang tính giá trị, giảm tính hiện vật
1.3.Tiếp tục đổi mới phương pháp kế hoạch hoá và quy trình lập, điều hành kế hoạch
Trên cơ sở đổi mới tư duy về xác định mục tiêu và công cụ, quá trình xác định nội dung kế hoạch cần đổi mới theo phương hướng xác định các mục tiêu phải được làm cùng với việc xác định các biện pháp tương ứng, công cụ chính sách đầu tư ngày càng giảm và những công cụ chính sách khuyến khích ngày càng tăng nhằm phát huy hết tiềm năng của xã hội ( ví dụ như chính sách khuyến khích các họat động xã hội hoá ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, ... ) đã làm giảm gánh nặng đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, phát huy vai trò của các Bộ và Tổng Công ty theo một pháp luật thống nhất.
Công tác kế hoạch hoá cũng không chỉ được thực hiện bởi những người trong ngành kế hoạch mà còn phải được sự chú ý và tham gia của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt của những nhà doanh nghiệp, những nhà khoa học. Việc điều hành thực hiện kế hoạch không phải là riêng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc một Bộ nào đó mà phải được thực hiện thông qua sự phối hợp một cách thống nhất và tương hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ.
1.4.Đổi mới tư duy về bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ
Sau nhiều năm đổi mới, bộ máy tổ chức của Chính phủ vẫn chưa có nhiều thay đổi, đặc biệt cơ cấu tổ chức ở các Bộ gần như vẫn giữ nguyên. Đổi mới bộ máy tổ chức sẽ là một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của đổi mới công tác kế hoạch hoá. Bộ máy kế hoạch hoá đổi mới phải theo hướng “giảm việc phân bổ và tăng phần chính sách”, chức năng hoạch định chính sách sẽ dần chiếm ưu thế hơn so với chức năng phân bổ nguồn lực. Việc thay đổi quan hệ giữa các chức năng sẽ dẫn đến sự thay đổi về đòi hỏi với từng cán bộ công chức.
2.Đổi mới các lĩnh vực của công tác kế hoạch hoá
2.1.Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Việc xây dựng chiến lược do Hội đồng nghiên cứu chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến lược có thời hạn 10 đến 15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ. Dự thảo chiến lược được công bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến : chiến lược của Bộ Chính trị và Đại hội Đảng thông qua. Mục tiêu chiến lược mang tính chủ quan duy ý trí, những xung đột giữa các mục tiêu cần được phân tích và xử lý thông qua việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu nhằm đưa ra những biện pháp cụ thể cho từng thời kỳ. Nội dung chiến lược phải đảm bảo tính hệ thống, tính đồng bộ giữa các ngành, các vùng trong phát triển kinh tế.
2.2.Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
Bản chất quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về một không gian và thời gian. Quy hoạch lãnh thổ bám sát nguyên tắc phân cấp việc xây dựng và thực hiện quy hoạch của cấp nào thì dựa chủ yếu vào tiềm lực của cấp đó. Chính quyền cấp trên có trách nhiệm phối hợp điều hoà quy hoạch của chính quyền cấp dưới một cách trực tiếp. Quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch đô thị là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước các cấp. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đẩu cơ trong thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chất chiến lược và tính hệ thống toàn quốc ( điện, giao thông, bưu chính viễn thông ). Có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch ( ví dụ như các hình thức BOT, BT, ... ). Quy hoạch phát triển của các ngành khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại phụ thuộc vào biến động của thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học công nghệ chỉ nên dừng ở mức độ định hướng. Dự báo hạn chế tối đa nếu sử dụng nguồn ngân sách để đầu tư cho các dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy chế công bố công khai các quy hoạch để các thành phàn kinh tế đóng góp ý kiến tham gia và tích cực tham gia thực hiện, tham khảo.
2.3.Xây dựng định hướng phát triển kế hoạch 5 năm
Kế hoạch 5 năm cụ thể hoá chiến lược kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế Nhà nước sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định những nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế theo hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng.
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế , của tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam.
Cũng như trên thị trường quốc tế, kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết. Nội dung kế hoạch 5 năm bao gồm một số chương trình trọng điểm của Nhà nước và quan trrọng hơn cả là một hệ thống cơ chế chính sách. Chính vì vậy việc xây dựng kế hoạch 5 năm cần xây dụng theo một quy trình mới với sự phối hợp chặt chẽ và phân công cụ thể giữa các cấp, giữa các Bộ và có sự tham gia của các tổ chức và các tầng lớp trong xã hội. Hệ thống kế hoạch 5 năm của toàn bộ nền kinh tế bao gồm kế hoạch cấp Quận huyện, cấp Tỉnh và cấp Quốc gia.
2.4.Hệ thống kế hoạch hàng năm
Kế hoạch hàng năm vừa là bộ phận, vừa là công cụ để điều hành, định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm chủ yếu mang nội dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu mang tính tổng quát.
Về nguyên tắc hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt. Vì thế kế hoạch kinh tế quốc dân trong giai đoạn này vẫn có mối quan hệ gắn bó với kế hoạch của những Tổng Công ty chủ chốt ở những ngành này ( ví dụ như ngành dầu khí, điện, bưu chính viễn thông, ... ). Bên cạnh đó hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc ổn định cho nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn trong việc tính toán, xây dựng và điều hành kế hoạch. Do vậy các Ngân hàng thương mại lớn và những Tổng Công ty này phải định kỳ báo cáo về kế hoạch và tình hình sản xuất kinh doanh của mình để Chính phủ có những thông tin cần thiết phục vụ cho việc lập và điều hành kế hoạch. Điều hành kế hoạch cần dựa trên cơ sở thông tin báo cáo và mô hình phân tích dự báo hàng quý. Phối hợp kết quả này với ý kiến chuyên gia sẽ cho phép Nhà nước các cấp xác định thời điểm, mức độ, phạm vi và cách thức can thiệp một cách hợp lý vào nền kinh tế.
2.5.Đổi mới công tác kế hoạch ở các địa phương và các ngành
Nội dung kế hoạch các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý Nhà nước về kế hoạch. Kế hoạch của các ngành và địa phương phải phù hợp với kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát triển của mình, các ngành các địa phương cần hỗ trợ cho việc lập và điều hành kế hoạch kinh tế quốc gia bằng cách cung cấp các thông tin dự báo và những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngành trong việc dự báo tình hình thị trường trong nước và thị trường quốc tế cũng như phân tích đánh giá thực trạng trong nước bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.6.Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch hoá
Đổi mới hệ thống thu thập xử lý và sử dụng thông tin. Xây dựng các loại thông tin báo cáo cần thiết; thống nhất biểu mẫu các loại thông tin; khắc phục tình trạng “thương mại hoá” thông tin một cách vô nguyên tắc; xác định trách nhiệm cung cấp các loại thông tin đối với các loại cơ quan có liên quan; thiết kế cụ thể các nguồn thông tin và địa chỉ phân phối thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác kế hoạch hoá; xác định rõ ràng những thông tin mật không công bố.
Xây dựng và phát triển công tác dự báo, phân tích kinh tế. Dự báo và phân tích chính sách được thực hiện độc lập ở nhiều cơ quan; tập trung vào dự báo ngắn hạn; xác định một số mô hình không phức tạp, không cần có độ chính xác quá cao nhưng phải kịp thời xử lý những thông tin để phân tích giúp cho việc điều hành một cách nhanh nhạy.
2.7.Nâng cao chất lượng bộ máy quản tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ
Hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở Trưng Ương và địa phương theo hướng liên kết phối hợp; xây dựng hệ thống tổ chức kế hoạch với nhiệm vụ kế hoạch hợp lý ở các ngành, Sở Kế hoạch và Đầu tư ở các địa phương và giao nhiệm vụ cụ thể cho những tổ chức này trong công tác kế hoạch hoá. Hệ thống cần được gắn chặt chẽ thông qua việc thường xuyên trao đổi những thông tin phục vụ cho công tác kế hoạch; thực hiện chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản.
V.Một số giải pháp để thực hiện nội dung đổi mới
1.Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế chính sách, các phương thức tiếp cận kế hoạch hoá.
Cần xác định rõ hơn nữa vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa : đó là định hướng phát triển, tạo lập môi trường kinh doanh, điều tiết sự phát triển bằng các chính sách thích hợp và giám sát kiểm tra việc thực hiện. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Như vậy, Nhà nước có hai vai trò : vai trò quản lý Nhà nước tức là hoạch định và thực thi các khuôn khổ pháp lý; và vai trò của một chủ thể kinh tế. Trong vai trò thứ hai, Nhà nước cần tự đặt mình vào vị trí bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi và như vậy kinh tế Nhà nước là một bộ phận không thể thiếu, không thể tách rời nền kinh tế quốc dân, thực thi vai trò chủ đạo của mình thông qua sức mạnh kinh tế chứ tuyệt nhiên không đứng trên, đứng một mình.
2.Nâng cao công tác nghiên cứu và xây dựng chính sách
Trong kinh tế thị trường, kế hoạch được thực hiện chủ yếu bằng công cụ chính sách. Công cụ thực hiện có 2 loại :
- Công cụ trực tiếp : áp dụng trong nội bộ hệ thống cơ quan Nhà nước, do cơ quan Nhà nước các cấp thực hiện như : đầu tư của Nhà nước, các chương trình và dự án quốc gia, thu thuế và chi tiêu ngân sách v.v ...
- Công cụ gián tiếp : do chủ thể tham gia thị trường thực hiện như chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái v.v...
Tác dụng của các công cụ gián tiếp này sẽ được truyền tải đến các chủ thể kinh tế thông qua cơ chế thị trường và qua đó điều chỉnh ứng xử của họ theo định hướng mục tiêu đã chọn.
Vấn đề quan trọng trong quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá là phải nâng cao chất lượng hoạch định chính sách, trong đó cần chú ý tới các công cụ, chính sách gián tiếp bởi vì những chính sách này sẽ là đòn bẩy để giúp nền kinh tế phát triển nhanh, tạo ra vòng quay của nền kinh tế to hơn, thúc đẩy quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cần đảm bảo sự ăn khớp, đồng bộ và linh hoạt của hệ thống chính sách. Cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, giữa Trung Ương và địa phương trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách.
3.Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế
Cho đến nay, công tác dự báo và phân tích kinh tế vẫn là khâu yếu nhất trong toàn bộ quá trình kế hoạch hoá. Vì vậy, để nâng cao độ tin cậy của kế hoạch hoá như một công cụ định hướng và phát triển. Trước mắt có thể thành lập các bộ phận hay đơn vị dự báo và phân tích kinh tế tại một số Bộ tổng hợp như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và một số Viện nghiên cứu kinh tế. Dự báo tập trung vào những vấn đề vĩ mô với những dự báo ngắn hạn, phải đưa ra những thông tin kịp thời và pảhn ánh tình hình kinh tế trong thời gian ngắn. Phối hợp dự báo với các phương pháp thống kê để có thể phân tích và có kết quả chính xác nhất cho việc lập và thực hiện kế hoạch.
4.Nâng cao chất lượng các quy hoạch phát triển tổng thể và cụ thể.
Cần phối kết hợp quy hoạch theo vùng, theo ngành và theo địa phương. Quy hoạch lãnh thổ do chính quyền địa phương chủ trì, phối hợp với các ngành hữu quan và các địa phương lân cận trên cơ sở quy hoạch chung của vùng, của quốc gia.
Xác định kế hoạch 5 năm trở thành công cụ kế hoạch chủ yếu, được điều chỉnh, bổ sung hàng năm cho phù hợp với tiến độ thực hiện kế hoạch và những diến biến mới của tình hình trong và ngoài nước. Việc xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phải thể hiện tư tưởng chỉ đạo và nội dung của chiến lược, đặc biệt để khai thác tối đa tiềm năng kinh tế của các ngành, các địa phương cũng như của cả nền kinh tế.
5.Tăng cường theo dõi, kiểm tra việc triển khai thực hiện chiến lược và kế hoạch của các cơ quan quản lý Nhà nước. Đồng thời mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát, góp ý kiến của nhân dân, thực hiện tốt phương châm : dân biết, dân làm, dân kiểm tra trong quá trình thực hiện chiến lược và kế hoạch.
6.Củng cố bộ máy tổ chức nâng cao trình độ cán bộ kế hoạch
- Hoàn thiện bộ máy kế hoạch ở Trung Ương cũng như ở địa phương theo hướng liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau để có thể thường xuyên,nắm bắt tình hình, phục vụ kịp thời cho việc điều hành thực hiện kế hoạch, cũng như giúp cho Chính phủ và chính quyền địa phương phối hợp xây dựng chính sách kinh tế ở cấp của mình một cách có hiệu quả.
- Xây dựng một hệ thống tổ chức kế hoạch có “chân rết” gọn nhẹ, có năng lực ở các ngành và các địa phương, phục vụ tốt hơn cho công tác kế hoạch hoá và cung cấp thông tin theo chiều dọc và theo chiều ngang.
- Tổ chức thực hiện một chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản nhằm nâng cao trình độ của cán bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cán bộ của Vụ Kế hoạch, các Bộ và cán bộ các Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương.
Phần kết luận
Sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Song tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như thách thức đối với sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội trong thời gian tiếp theo đòi hỏi những nỗ lực cải cách mới.
Đối với Việt Nam khẳng định kế hoạch hoá là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch hóa từ tư duy, quan điểm, định hướng, nội dung, quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tỏ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình cải cách nói trên. Chất lượng của việc đổi mới công tác kế hoạch hoá sẽ có ý nghĩa quan trọng cho những thành công của giai đoạn cải cách trong thời gian tới.
Riêng với chúng em, hiện đang là sinh viên chuyên ngành kế hoạch, trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận thấy rằng : mình cần phải có nghĩa vụ học tập tốt để có những kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành, từ đó có thể tiếp tục thực hiện được nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước trong những năm tới; nhất là cần có những đổi mới về tư duy, phương pháp, tiếp cận kế hoạch hoá để có thể thích ứng với đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định.
Trong bài viết của em, do còn hạn chế về kiến thức nên nhiều nội dung còn chưa được hoàn chỉnh. Em rất mong sự thông cảm và chỉ dẫn của cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn !
Tài liệu tham khảo
1.Đảng Cộng Sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX -Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
2.GS - TS Nguyễn Đình Hưng : Cơ chế thị trường và sự đổi mới kinh tế ở nước ta, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1994.
3.TS. Đặng Đức Đạm : Kế hoạch hoá Kinh tế vĩ mô, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
4.Tạp chí Cộng sản, số 16, tháng 8/2000.
5.Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10 + 11/2000.
6.Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 12/2000.
7.Tạp chí Cộng sản, số 8, tháng4/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29306.doc