Đề án Thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam hiện nay

Có thể nói hoạt động của các trung gian tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế nước ta trải qua nhiều biến động với nhiều khó khăn , các tổ chức trung gian tài chính đã có những bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và về quy mô vốn. Từ chỗ chỉ có trung gian tài chính Ngân hàng thương mại giữ vai trò là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế thì đến nay đã có thêm nhiều các trung gian tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, đặc biệt là công ty chứng khoán đã góp phần thu hút thêm được một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Các trung gian tài chính không chỉ là tác nhân giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển mà nó còn góp phần không nhỏ vào việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữa nhứng người cần vốn và người có vốn, ngân hàng thu nhận tiền gửi từa khác hàng và cho những cá nhan và doanh nghiệp làm ăn tốt vay . Nhờ đó ngân hàng đã tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi ích cho cả người có vốn, người cần vốn và bản thân ngân hàng. Ngân hàng như một trung gian tài nắm giữ hầu hết các món vay không thể đem ra mua bán những thông tin đó là chìa khóa cho sự thành công của ngân hàng trong việc giảm tối thiểu thông tin không cân xứng dẫn tới vấn đề lựa chọn đối nghịch. Ngoài ra lựa chọn đối nghịch chỉ gây trở ngại cho hoạt động của các thị trường tài chính nếu người cho vay chịu một tổn thất khi một người đi vay không thể thánh toán các món tiền vay và chịu vỡ nợ.Vật thế chấp là vật sở hữu được cam kết trả cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ .Nếu một người vay bị vỡ nợ đối một món vay , người cho vay có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù lai tổn thất ở món cho vay đó. Những người cho vay như vậy dễ chấp nhận việc cho vay có vật thế chấp và những người vay sẵn lòng cung cấp vật thế chấp vì việc giảm rủi roc ho người vay khiến họ dễ có thể vay được tiền nhanh chóng và còn có thể với một lãi vay nhẹ hơn. Sự có mặt của lựa chọn đối nghịch trong các thị trường tín dụng giải thích vì sao vật thế chấp là một đặc điểm của những hợp đồng nợ. Như đã trình bày ở trên, rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi cuộc giao dịch diễn ra khi người cần vốn có ý muốn giấu thông tin và thực hiện những hoạt động mà người có vốn không mong muốn. Rủi ro đạo đức có hậu quả quan trọng khiến một công ty thấy dễ dàng dựng vốn bằng hợp đồng nợ hơn là hợp đồng vốn cỏ phần Giải pháp giảm rủi ro đạo đức trong các hợp đồng vốn cổ phần là: Các chủ sở hữu vốn cần có thông tin đầy đủ về những gì mà những người quản lý đang làm , đồng thời giảm sự tách biệt đáng kể giữa nhứng người sở hữu và quản lý. Người có vốn hay các chủ sở hữu vần phải tạo ra những kênh giám sát thông tin ngoài ra cần có sự can thiệp của chính phủ về chế độ sổ sách kế toán và công khai các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Tăng cường sự hoạt động của các trung gian tài chính thông qua các hình thức liên kết , liên doanh , hoặc thông qua các hợp đồng nợ . Một trung gian tài chính giúp giảm được rủi ro đạo đức nảy sinh từ người sở hữu và người quản lý là ở chỗ hình thành các “hãng vốn kinh doanh” . Các hãng vốn kinh doanh tập trung vốn từ các hội viên và dùng vốn này đẻ giúp các doanh nghiệp khởi sự các vụ kinh doanh mới. Để đổi lại việc cho vốn kinh doanh hãng này nhận một số cổ phần trong vụ kinh doanh mới đó. Do sự kiểm tra thu nhập và lợi nhuận có một ý nghĩa rất quan trọng để ngăn ngừa rủi ro đạo đức , các hãng vốn kinh doanh thường đòi hỏi có một số người của họ ở trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp do đó họ có thể giám sát chặt chẽ những hoạt động của doanh nghiệp.Khi một hãng vốn kinh doanh cung cấp vón khởi công thì cổ phần vốn trong doanh nghiệp không được chào bán cho bất cứ ai trừ hãng vốn kinh doanh nói trên. Rủi ro đạo đức nảy sinh với một hợp đồng vốn cổ phần , hợp đồng này xác nhận quyền đòi lợi nhuận trong mọi tình huống, dù doanh nghiệp đó kiếm được tiền hay tổn thất tiền. Một hợp đồng nợ thay thế hoặc bổ sung vào hợp đồng vốn cổ phần cũng góp phần làm giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hợp đồng vốn cổ phần. Khi công ty (bên vay) có một lợi nhuận cao, người cho vay nhận được các món thanh toán theo hợp đồng và không cần biết lợi nhuận chính xác của công ty là bao nhiêu . Nếu người quản lý công ty này che giấu lợi nhuận hoặc đuổi theo những hoạt động vì lợi ích cá nhân không làm tăng lợi nhuận , người cho vay, không cần chú ý đến các hoạt động này chừng nào nó còn chưa làm trở ngại khả năng trả nợ đúng hạn của công ty đó.Chỉ khi công ty này không thể thanh toán nợ và đang nằm trong tình trạng vỡ nợ thì người cho vay cần kiểm tra tình hình lợi nhuận của công ty đó. Lợi ích của việc không cần thường xuyên giám sát công ty vay tiền và do đó chi phí kiểm tra tình hình kinh doanh giảm thấp giúp giải thích vì sao các hợp đồng nợ được dùng thường xuyên hơn đến như vậy để tập hợp vốn đầu tư so với các hợp đồng vốn cổ phần . Dù có những lợi ích như đã trình bày ở trên , các hợp đồng nợ vẫn còn chịu rủi ro đạo đức. Do một hợp đồng nợ chỉ đòi hỏi những người vay thanh toán một số tiền cố định và cho phép họ hưởng bất kỳ lợi nhuận nào còn lại , những người vay này có ý muốn nhận được những dự án đầu tư có nhiều rủi ro hơn so với những người cho vay mong muốn Các giải phá p cho vấn đề rủi ro đạo đức trong thị trường nợ Nâng cao cơ cấu vốn cổ phần trong tổng tài sản của doanh nghiệp vay. Khi một doanh nghiệp vay tiền có nhiều tiền vốn bởi vì giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp lớn, thì ý muốn lao vào rủi ro dọa đức sẽ giảm đi nhiều do doanh nghiệp có nhiều để mất. Giải pháp tài sản ròng cao làm cho ý muốn của người vay ngang hàng với ý muốn của người cho vay. Vì vậy giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp càng cao thì vấn đề rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ của doanh nghiệp càng nhỏ , các doanh nghiệp càng dễ vay hơn. Việc giám sát và bắt tuân theo những quy định hạn chế cũng làm giảm rủi ro đạo đức trong hợp đồng nợ. Những quy định hạn chế được soạn ra để ngăn ngừa rủi ro đạo đức bằng cách không để cho người vay có những xử sự không mong muốn về sự thực hiện các dự án đầu tư có rủi ro. Những công ty vay phải giữ cho giá trị tài sản ròng của công ty cao vì giá trị tài sản ròng cao hơn sẽ giảm rủi ro đạo đức và khiến cho người cho vay giảm bớt khả năng bị tổn thất Những công ty vay phải giữ cho vật thế chấp luôn ở trong điều kiện tốt và chắc chắn rằng nó vẫn thuộc sở hữu của người vay đó,phải bảo hiểm những vật thế chấp đó. Những quy định hạn chế cũng đòi hỏi một công ty vay cung cấp thông tin về các hoạt động của công ty đó một cách định kỳ, công khai hóa các báo cáo tài chính để người cho vay có thể kiểm tra và thanh tra hoạt động tài chính của công ty vào ở bất kỳ thời điểm nào Tăng cường sự hoạt động của trung gian tài chính. Tuy các quy định hạn chế giúp giảm vấn đề rủi ro đạo đức nhưng chúng không hoàn toàn loại bỏ được vấn đề này bởi lẽ người vay có đủ khôn khéo để báo cáo không đúng sự thật hoặc tìm ra những sơ hở trong các quy định. Một khó khăn khác với những quy định là ở chỗ chúng phải được giám sát , cưỡng chế. Vì thế cần có sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian đặc biệt là ngân hàng, thực hiện các món cho vay riêng không đem ra mua bán được do vậy có thể tránh được rủi ro đạo đức nhờ sự giám sắt chặt chẽ và cưỡng chế thi hành của các trung gian tài chính đối với món vay đó. Tóm lại, sự hiện diện của thông tin không cân xứng nói trước đây dẫn đến việc chọn lựa đối nghịch và vấn đề rủi ro đạo đức làm trở ngại hoạt động hữu hiệu của thị trường tài chính. Giải pháp cho các vấn đề này liên quan đến việc sản xuất và bán thông tin riêng, đến những điều hành của chính phủ nhằm tăng thông tin trong thị trường tài chính và đến sự quan trọng của vật thế chấp và giá trị tài sản ròng đối với những hợp đồng vay nợ và đến việc giám sát , cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế. Song những giải pháp trên cũng chỉ phần nào trong vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chỉ có các trung gian tài chính đặc biệt là ngân hàng với những ưu thê và tiết kiệm theo quy mô, được chuyên môn hóa, với các món vay không thể mua bán được…đã loại bỏ tới mức thấp nhất những rủi ro do thông tin không cân xứng gây ra . Chính vì thế, các trung gian tài chính ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn so với thị trường tài chính trong việc tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn. Chức năng và vai trò của các tổ chức tài chính trung gian Vốn được chuyển từ người cho vay tới người vay thông qua trung gian tài chính. Trung gian tài chính đứng giữa cho vay- người tiết kiệm và người vay- người sử dụng và giúp chuyển vốn từ người này sang người kia. Trung gian tài chính thực hiện điều này bằng cách vay vốn của người cho vay sau đó cho người vay vay vốn , khác với tài chính trực tiếp người cần vốn và người có vốn trực tiếp trao đổi với nhau ở thị trường tài chính.Thông thường thị trường tài chính phát triển hệ thống các trung gian tài chính đa dạng làm nhân tố thức đẩy quá trình luân chuyển vốn và cung cấp các thông công cụ tài chính đa dạng cho người đầu tư và sử dụng vốn. Trung gian tài chính có thể làm lợi cho những người gửi tiền tiết kiệm, bằng cách trả cho họ một khoản lãi tương ứng, và nó cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người vay có được các khoản tiền để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, không có trung gian tài chính, thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian Chức năng tạo vốn Để có thể cho vay hoặc đầu tư , các trung gian tài chính tiến hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền tệ tập trung , phương thức huy động vốn hoặc theo thể thức tự nguyện thông qua cơ thế lãi suất hoặc theo thể thức bắt buộc qua cơ chế điều hành của Chính phủ. Nhờ hoạt động đó mà các trung gian tài chính đem lại lợi ích cho phần lớn những người có khoản tiết kiệm và cho chính họ Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường người cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức cá nhân kinh doanh trong và ngoài nước . Các trung gian tài chính sẽ đáp ứng chính xác đầy đủ, kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho các cá nhân doanh nghiệp bằng khoản tiến vốnđược huy động từ những người có vốn. Chức năng kiểm soát Trong một nền kinh tế không thể tránh khỏi những thông tin không cân xứng nó gây ra sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các trung gian tài chính thực hiện chức năng kiểm soát nhằm giảm tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các trung gian tài chính sẽ thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát trước , trong và sau khi cho vay các doanh nghiệp. Vai trò của các tổ chức tài chính trung gian Thị trường tài chính đóng vai trò nòng cốt trong quá trình luân chuyển đồng vốn từ nhà đầu tư đến nhà sản xuất. Dòng vốn từ người cho vay tới người vay qua hai con đường đó là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp, song vốn đến tay những người cần vốn chủ yếu là qua tài chính gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Và các tổ chức tài chính trung gian đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống tài chính. Nếu không có các tổ chức tài chính trung gian thì nền kinh tế xã hội sẽ không thể có được lợi ích trọn vẹn. Như đã đề cập đến ở trên, chi phí giao dịch và chi phí thông tin là một vấn đề lớn đối với những người có vốn để cho vay, và hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian góp phần giảm bớt những chi phí thông tin và giao dịch lớn cho mỗi cá nhân tổ chức và toàn bộ nền kinh tế. Do chuyên môn hóa và thành thạo trong nghề nghiệp , các tổ chức trung gian đáp ứng đầy đủ , chính xác , kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có vốn.Nhờ sự hiểu biết các tổ chức tài chính trung gian có khả năng tốt hơn nhằm hạ thấp chi phí giao dịch, thực hiện các món cho vay , những hợp đồng vay nợ ít tốn kém vì tiếp thu những kiến thức pháp lý thích hợp. Do cạnh tranh đan xen và đa năng hóa hoạt động, các trung gian tài chính thường xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý, làm cho nguồn vốn thực tế được tài trợ cho đầu tư tăng lên mức cao nhất Thực hiện có hiệu quả các dịch vụ tư vấn , mối giới, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa rủi ro. Các loại hình tổ chức tài chính trung gian Các tổ chức nhận tiền gửi Các ngân hàng thương mại Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sịnh lợi và bảo đảm cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng và hữu hiệu. Đây là trung gian tài chính chủ yếu hoạt động bằng cách thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay , chủ yếu là cho vay thương mại ngắn , trung dài hạn , để mua chứng khoán của Chính phủ. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính lớn nhất ở bất kỳ quốc gia nào , là nơi mà các tổ chức, đơn vị và cá nhân thường xuyên giao dịch nhất. Các hiệp hội cho vay và tiết kiệm Ở trung gian tài chính này , nguồn vốn chủ yếu được huy động là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản tiền gửi phát séc được. Điểm khác biệt ở tổ chức trung gian tài chính này với ngân hàng đó là các khoản tiền vốn huy động chủ yếu để cho vay thế chấp là những khoản cho vay dài hạn nên tổ chức này ban đầu chịu những rằng buộc khắt khe hơn so với ngân hàng thương mại. Các ngân hàng tiết kiệm tương trợ Những trung gian tài chính này được tổ chức như những hiệp hội tương trợ tức là hoạt động như kiểu hợp tác xã , trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng. Trung gian tài chính này cũng hoạt động như các tổ chức cho vay và tiết kiệm khác. Các liên hiệp tín dụng Đây là những tổ chức cho vay nhỏ có tính chất hợp tác xã, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt. Tổ chức này cũng huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi và tiến hành cho vay. Giới hạn trong đối tượng và phạm vi cho vay giống như các ngân hàng tiết kiệm tương trợ. Công ty bảo hiểm Mặc dù các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta hay giao dịch nhất nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng mà bên cạnh đó còn có các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Ngày nay trong quá trình sản xuất , kinh doanh, quản lý xã hội dù có tri thức khoa học ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn với khả năng xảy ra tai họa nào đó có thể đưa đến những tổn thấy lớn. Do vậy các tổ chức cá nhân có nhua câu được bảo hiểm và sử dụng nó để chia sẻ khi rủi ro xỷ ra thông qua hoạt động của các công ty bảo hiểm.Bảo hiểm bản chất là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người bảo hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro với điều kiện người được bảo hiểm đã mua phí bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm , tương tự như các ngân hàng , thực hiện kinh doanh trung gian tài chính chuyển một dạng từ tài sản này thành một dạng khác cho công chúng. Các công ty bảo hiểm sử dụng các phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào tài sản có như trái khoán , cổ phiếu, các món vay thế chấp hoặc các món vay khác ít rủi ro hơn rồi từ những tài sản có này được dùng thanh toán cho những rủi ro đòi được bồi thường theo hợp đồng đã bán. Công ty tài chính Các công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu hoặc cổ phiếu và trái khoán và dùng tiền thu được để cho vay đặc biệt thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Qúa trình trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể được mô tả bằng cách nói rằng họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ- một quá trình hoàn toàn khác với quá trình của những ngân hàng thương mại , các ngân hàng này phát hành các món tiền gửi nhỏ và cho vay với món tiền lớn. Bên cạnh đó , các công ty tài chính không nhận tiên gửi của dân chúng , của các tổ chức kinh tế xã hội với thời hạn ngắn dưới hình thức mở tài khoản . Các công ty tài chính không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán.Một đặc điểm then chốt của các công ty tài chính so với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tiết kiệm là ở chỗ họ gần như không bị điều hành chặt bởi Chính phủ. Các hoạt động chủ yếu và thường xuyên của công ty tài chính là: Thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái khoán , không nhận tiền gửi của dân chúng và các tổ chức kinh tế Cho vay các món tiền nhỏ Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua Cầm cố các loại hàng hóa , vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và dụng cụ bảo đảm khác Tư vấn Marketing, giám định các công việc chuẩn bị để ký hợp đồng hoặc thành lập các công ty liên doanh Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật được nhà nước ưu tiên Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh Các tổ chức ở thị trường chứng khoán Ngân hàng đầu tư Một công ty muốn vay vốn , nó thường thuê các dịch vụ của một ngân hàng đầu tư để giúp bán các chứng khoán của mình. Ngân hàng đầu tư ở đây không phải là một ngân hàng theo nghĩa thông thường. Ngân hàng đầu tư tham gia bán lần đầu các chứng khoán . Trước tiên họ góp ý, tư vấn cho công ty bán chứng khoán nêu trên thị trường cấp một về việc phát hành chứng khoán , về kì hạn và số tiền thanh toán vốn, lãi đối với trái khoán , giá của các cổ phiếu sau đó qua những người đảm bảo , tiếp xúc trực tiếp với người có thể mua chúng và bán các chứng khoán này Công ty chứng khoán Là một tổ chức ở thị trường chứng khoán , thực hiện trung gian tài chính thông qua các nghiệp vụ chủ yếu sau: Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng ( trung gian môi giới) Mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của chính mình để hưởng chênh lệch giá( thương gia chứng khoán ) Trung gian phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các đơn vị phát hành Tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư Một lượng vốn lớn được đưa vào đầu tư từ những nguồn lẻ tẻ , phân tán trong dân chúng được tập hợp lại, nhờ có các tổ chức ở thị trường chứng khoán mà các cổ phiếu trái phiếu của Chính phủ, công ty được lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán. Doanh nghiệp ngoài cách huy động vốn chủ yếu là vay ngân hàng thương mại thì phát hành chứng khoán cũng là một cách huy động hiệu quả. Nhưng họ không thể tự bán đi số chứng khoán họ phát hành . Họ cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ, đó chính là công ty chứng khoán. Với nghiệp vụ chuyên môn hóa, , kinh nghiệm nghề nghiệp , bộ máy tổ chức thích hợp, các công ty chứng khoán hoàn toàn có thể thực hiện tốt trung gian tài chính cho các nhà đầu tư. Ngoài các công ty chứng khoán hoạt động trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán, các tổ chức trên thị trường chứng khoán còn bao gồm các tổ chức quỹ đầu tư-là những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được hình thành bởi những nhà tiết kiệm và đầu tư cùng góp vốn. Nhà có vốn khi đầu tư vào thị trường chứng khoán qua quỹ đầu tư sẽ có hiệu quả vốn đầu tư cao hơn so với đầu tư riêng lẻ, mặt khác nó còn đảm bảo tính thanh khoản cao. Sự trung gian tài chính của Chính phủ Chính phủ tham gia vào thị trường tài chính như những tổ chức tài chính trung gian khác qua hai cách cơ bản: Thành lập các tổ chức tín dụng nhà nước. Vì lý do thực dụng chính phủ sẽ không thể để các tổ chức tín dụng nhà nước này vỡ nợ Sự bảo đảm của chính phủ cho các món vay tư nhân. Một vai trò quan trọng khác của chính phủ trong việc đẩy mạnh sự trung gian tài chính là việc cung cấp các bảo đảm của chính phủ với tiền cho vay. Sự bảo đảm của chính phủ đối với tiền cho vay tác dụng đúng như sự bảo hiểm: nó bảo hiểm cho người vay món đó, ví dụ một ngân hàng , tránh mọi tổn thất nếu người vay không trả được nợ. CHƯƠNG 2: Thực trạng về hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian ở Việt Nam hiện nay Tại Việt Nam, hiện có đầy đủ các loại hình tổ chức tài chính trung gian bao gồm: Ngân hàng thương mại ,Công ty chứng khoán, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư Thực trạng của các tổ chức tài chính trung gian Thực trạng các ngân hàng thương mại Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5 Ngân hàng thương mại lớn (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng chính sách, Ngân hàng phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh; 36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài; 10 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê tài chính; 998 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều có chức năng cho vay, là chức năng chính của ngân hàng. Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ USD, số lượng các ngân hàng này hiện này được xem là đông đảo với một thị trường tài chính nhỏ như Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất nhanh trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân 35%/năm. Hệ thống ngân hàng đang không ngừng cải thiện và áp dụng công nghệ hiện đại và đã giải quyết được hai vấn đề kinh niên của những năm trước đây: nợ quá hạn trước đây có lúc lên đến từ 15 - 20% thì hiện nay chỉ đang xoay ở mức 3%. Tình trạng thiếu vốn đã được giải quyết bằng nhiều phương thức tăng vốn điều lệ. Các NHTM nhà nước tuy lớn nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt từ các NHTM cổ phần trên phương diện về thị phần, công nghệ và các sản phẩm, dịch vụ mới… Hoạt động của các NHTM đã tác động đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực sau: Huy động vốn của NHTM góp phần tăng tiết kiệm của nền kinh tế. Sự phát triển của các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt mà các NHTM đã và đang triển khai đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc tăng tiết kiệm của dân cư. Từ những năm 90, lượng vốn huy động qua hệ thống NHTM tăng trưởng không ngừng với tốc độ nhanh và vững chắc. Do sự ổn định giá trị đồng Việt Nam cùng với việc giảm mức lạm phát từ phi mã xuống còn 1 con số, các NHTM Việt Nam đã phát huy được hiệu quả trong chiến lược huy động vốn từ dân chúng. Lượng vốn huy động của toàn hệ thống qua các năm đều tăng với mức trung bình từ 25-30%/năm. Biểu 1: Tình hình huy động vốn của các NHTM từ năm 2005 đến nay (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước) Từ năm 2008, tình hình huy động vốn của các NHTM giảm sút rõ rệt; theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tháng 4/2009 tăng khoảng 3,74% so với cuối tháng trước và tăng 9,88% so với cuối năm 2008; đến hết tháng 7 tăng 20,92% so với đầu năm. Nguyên nhân là do trong năm 2008, lạm phát cao bùng phát và năm 2009, Việt Nam đã có những dấu hiệu rõ rệt về suy giảm kinh tế do tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu. 1.1.2 Các hoạt động tài trợ của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp duy trì ổn định sản xuất, đầu tư công nghệ, thay đổi máy móc, nhờ đó nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Ngoài ra, hoạt động cho vay tiêu dùng góp phần kích thích cầu tiêu dùng, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế.Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, dưới các hình thức cho vay ngày một đa dạng: cho vay vốn lưu động, cho vay vốn cố định, tín dụng thuê mua,... Đặc biệt, việc chuyển hướng mở rộng cho vay tiêu dùng thực sự là một hướng kích cầu có hiệu quả. Thông qua quan hệ tín dụng của các NHTM Nhà nước với các tổ chức tín dụng trong nước thể hiện chủ yếu ở sự biến động của khoản mục cho vay, có thể thấy số lượng giao dịch giữa các tổ chức tín dụng tăng lên liên tục. Mặc dù duy trì được mức tăng trưởng dư nợ trong năm cao song các ngân hàng vẫn kiểm soát được rủi ro ở mức độ an toàn. Tỷ lệ nợ quá hạn luôn được kiềm chế ở mức thấp. Theo con số được Ngân hàng Nhà nước công bố: “Dư nợ tín dụng năm 2008 ước tăng 21-22% so với cuối năm 2007”. Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35-37%, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12-14%, lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%, khu vực sản xuất tăng 34-36%, khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng 30%. Vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tăng 40-42%. Đến cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng tăng 30% so với cuối năm 2007, tỷ lệ an toàn vốn tăng từ 8,9% lên 9,7%. Kết thúc quý 1/2009, với một loạt giải pháp chống suy giảm kinh tế của Chính phủ, trong đó có nới lỏng dần chính sách tiền tệ, dư nợ tín dụng chỉ tăng vỏn vẹn 2,67% so với cuối năm 2008. Tuy nhiên, đến hết tháng 7/2009, mọi chuyện đã đảo ngược khi nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế từ các tổ chức tín dụng tăng khá, lên tới gần 20% so với cuối năm 2008. Theo số liệu được Ngân hàng Nhà nước công bố, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế thông qua các tổ chức tín dụng tăng khoảng trên 24% so với cuối năm 2008, cá biệt một số tổ chức tín dụng còn trên 50% Biểu 2: Tình hình hoạt động tín dụng của các NHTM giai đoạn 2004 - 2009 Nguồn: NHNN 1.1.3 Sự đóng góp của hoạt động các NHTM đến tổng thu nhập kinh tế quốc dân. Ngoài việc tăng trưởng mạnh các hoạt động huy động và cho vay, các hoạt động có thu khác của NHTM cũng ngày càng được quan tâm và phát triển. Đây là xu hướng của các NHTM ở các nước phát triển. Đặc biệt khi các hoạt động cho vay và huy động vốn rất nhạy cảm với tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế, các hoạt động khác chính là “phao cứu sinh” cho các NHTM, cụ thể là: Trong năm 2008, trước tình hình hạn chế tăng trưởng tín dụng từ chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng đã tính đến các biện pháp khác để thu hút khách hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập. Biện pháp đầu tiên các NHTM đưa ra là nâng cấp, phát triển dịch vụ, chính vì vậy, hoạt động dịch vụ trong năm 2008 tăng trưởng cao, tăng 67% so với năm trước. Trong đó, tăng nhiều nhất là thanh toán trong nước, tăng 72%. Qua đó, kéo theo tổng thu tiền mặt qua quỹ Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008 tăng 76%. Biểu 3: Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng dịch vụ tài chính, tín dụng các năm Nguồn: NHNN Theo biểu 3, ta thấy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và dịch vụ tài chính, tín dụng có mối quan hệ rất chặt chẽ, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay. Các NHTM vẫn là những tổ chức trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính và tín dụng lớn nhất ở Việt Nam. Như vậy, cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy rõ tác động của hoạt động NHTM đến tăng trưởng kinh tế có vị trí quan trọng hàng đầu. 1.1.4 Tác động của hệ thống thanh toán qua ngân hàng đến tăng trưởng kinh tế. Hoạt động thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các hoạt động kinh tế diễn ra một cách liên tục. Các yêu cầu của một hệ thống thanh toán, đó là: an toàn, nhanh chóng, thuận tiện. Sự phát triển của các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần giảm tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, trong năm 2008, dịch vụ thẻ ngân hàng và mở tài khoản cá nhân, trả lương qua dịch vụ ngân hàng tự động ATM phát triển nhanh chóng. Đến nay, toàn hệ thống ngân hàng có khoảng 15 triệu tài khoản cá nhân, tăng 36% so với cuối năm 2007; số lượng thẻ trong lưu thông đạt khoảng 13,4 triệu thẻ, tăng 46% so với cuối năm 2007 với 142 thương hiệu thẻ thuộc 39 tổ chức phát hành thẻ. Hệ thống ATM có 7.051 máy, tăng 2.238 máy so với cuối năm 2007. Mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán đạt 24.760 thiết bị POS. Các hệ thống thanh toán của ngành Ngân hàng tiếp tục được ứng dụng công nghệ hiện đại hoá, tiên tiến theo hướng tự động hoá, mở rộng dịch vụ, phạm vi áp dụng và tăng nhanh tốc độ xử lý. Thực trạng các công ty chứng khoán Tính từ khi ra đời, số lượng các công ty Chứng khoán không ngừng tăng nhanh về số lượng. Nếu như năm 2000 khi thị trường Chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với 4 công ty Chứng khoán thì đến thời điểm năm 2007 đã có tới 61 công ty Chứng khoán với tổng số vốn điều lệ đạt 5735 tỷ đồng. Và đến nay đã có hơn 100 công ty Chứng khoán đang hoạt động. Tuy nhiên theo phân tích của các nhà quan sát, việc mở rộng cũng như thu hẹp hoạt động của các công ty chứng khoán có mối quan hệ khăng khít với nhịp điệu chung của thị trường. Theo đó trong 2 năm 2006 và 2007 (giai đoạn thị trường tăng trưởng nóng), ngoài số công ty chứng khoán được thành lập mới tăng chóng mặt, các công ty chứng khoán cũng liên tục mở rộng hoạt động với việc thành lập thêm rất nhiều chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh.Nhưng từ năm 2008 đến đầu năm 2009 (giai đoạn thị trường suy thoái), hoạt động của các công ty chứng khoán cũng bi thu hẹp. Bên cạnh việc đóng cửa các đại lý nhận lệnh theo yêu cầu của cơ quan quản lý, nhiều chi nhánh và phòng giao dịch của công ty chứng khoán cũng bị đóng cửa. Trong năm 2007 chất lượng của các công ty chứng khoán cũng được nâng cao. - Về hoạt động môi giới, tính đền ngày 30/6/2007 số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2007. -Về hoạt động tự doanh , tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007. -Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị. -Về hoạt động tư vấn : Tư vấn đầu tư chứng khoán. Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CTCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CTCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tư vấn niêm yết. Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CTCK là 100 hợp đồng Tư vấn khác.Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng  này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng). Sang năm 2008 ,các công ty Chứng khoán trong quá trình phát triển luôn đồng thời tăng vốn điều lệ, nhằm đáp ứng được khả năng tài chính và sự phát triển. Các công ty chứng khoán đã góp phần tốt trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp. Tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán đạt gần 40% GDP quốc dân. Điều này chứng tỏ, Các công ty chứng khoán đã giúp các doanh nghiệp niêm yết có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn từ công chúng đầu tư, ổn định và với chi phí vốn thấp, mang tính dài hạn. Từ đầu năm 2009 , hàng loạt công ty chứng khoán có vốn thấp đã nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh do kinh doanh thua lỗ ăn sâu cả vào vốn điều lệ. Theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh nghiệp là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình khó khăn hiện nay. Nghiệp vụ chiếm nhiều vốn nhất- bảo lãnh phát hành(165 tỷ đồng) cũng là dịch vụ được nhiều công ty chứng khoán lựa chọn cắt giảm điển hình có công ty chứng khoán Tràng An, Hà Nội,Quốc Tế, SME…. Cổ phiếu xuống dốc không phanh, thậm chí có những mã blue-chip giảm còn 50 - 70% giá trị sổ sách, khiến nhiều công ty chứng khoán lỗ nặng ở mảng tự doanh. Để giảm bớt gánh nặng, nhiều công ty chứng khoán đã bắt đầu cắt giảm nhân sự, đóng cửa các đại lý nhận lệnh, thu hẹp diện tích hoặc chuyển sàn ra khỏi khu vực trung tâm để giảm bớt chi phí. Không ít công ty chứng khoán đang “ngán” cổ phiếu khi rút bớt hoạt động tự doanh chứng khoán khỏi các nghiệp vụ của mình. Đa phần trong số đó là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như Công ty cổ phần chứng khoán Việt Tín (VTSS), Thái Bình Dương (PSC), Gia Anh (GASC), Mê Kông (MSC)... Nguyên nhân một phần cũng là do phong trào thành lập các công ty chứng khoán trong những năm trước làm xáo trộn mạnh về nhân sự lĩnh vực này. Ngoài ra, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp cũng bị yếu đi. Trong tình hình khó khăn chung, các CTCK đã chuyển hướng cạnh tranh từ việc tập trung phát triển quy mô sang đầu tư cho chất lượng sản phẩm dịch vụ. Hàng loạt các sản phẩm đã ra đời tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và tăng tính thanh khoản cho thị trường. Giao dịch trực tuyến, ứng trước tự động , cầm cố chứng khoán, repo cổ phiếu…Những dịch vụ này đã thật sự tạo hiệu quả khi thị trường bùng nở trở lại vào quý II/2009. Thực trạng các công ty tài chính Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, nó sinh ra một nhu cầu lớn về vốn. Khi này, các Ngân hàng với những điều kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều kiện giải ngân... sẽ rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Sự ra đời của các công ty tài chính, cho thuê tài chính là một bước phát triển tất yếu của thị trường tài chính. Tại Việt Nam, hiện có tới 17 công ty tài chính, phần lớn thuộc các tập đoàn kinh tế Nhà nước. Các công ty tài chính thường trực thuộc những Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước như: Công ty tài chính công nghiệp Tàu thủy, Công ty tài chính Điện lực, công ty tài chính xi măng, công ty tài chính Than khoáng sản Việt nam, công ty tài chính Cổ phần Dầu khí… Hiện nay CTTC  có số vốn điều lệ lớn nhất là CTTC Dầu khí với 3.000 tỷ đồng, thấp nhất là Handico 50 tỷ đồng. 6/3 CTTC hiện có hội sở chính tại Hà Nội, 3 CTTC ở TPHCM là CTTC Cao su, CTTC Prudential VN và CTTC Việt- Sài Gòn. Ngoài ra có ít nhất 3 doanh nghiệp lớn cũng đang đẩy nhanh tiến độ để thành lập các CTTC như CTTC Sông Đà, CTTC Vinalines và CTTC Vinaconex với vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đến 1.500 tỷ đồng. Các công ty tài chính với ưu thế về nguồn vốn lớn từ các tập đoàn rót xuống đã liên tục đầu tư dài hạn, tài trợ các dự án như: Dự án đóng tàu, dự án thủy điện, đầu tư tài chính...Ưu điểm của các công ty tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung ứng cho nhiều dự án lớn trọng điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam, các công ty tài chính lại trực thuộc các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản chất là sử dụng vốn của Nhà nước. Năm 2008 khi các Tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề chính đều thua lỗ trong khi phần thu lãi lại xuất phát từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính. Công ty bảo hiểm Việt Nam vẫn là một thị trường bảo hiểm năng động và tiềm năng. Sự ra đời và xuất hiện các công ty bảo hiểm trên thị trường đem lại cho người tiêu dung nhiều lợi ích từ việc bảo hiểm những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày. Các công ty bảo hiểm với rất nhiều sản phẩm bảo hiểm hầu như đã đáp ứng được những nhu cầu bảo hiểm phong phú từ khách hàng. Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các Công ty bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn,đầu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.Theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm Quốc gia thì tính đến tháng 6 năm 2009, tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ năm giữ là 250,43 ngàn tỷ đồng. Các công ty Bảo hiểm tham gia tích cực khi tham gia đầu tư, tài trợ dự án, giải ngân vốn cho các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế vay vốn. Và với lợi thế ngành, các doanh nghiệp Bảo hiểm còn tư vấn cho các khách hàng vay vốn của mình nên mua bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro và cũng là giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp Bảo hiểm. Theo số liệu chưa kiểm toán thì tính đến thời điểm tháng 6 năm 2009 các doanh nghiệp có tổng mức trách nhiệm cao trên thị trường bảo hiểm là: Prudential 94 ngàn tỷ, Bảo Việt nhân thọ là hơn 67 ngàn tỷ, AIA là 27 ngàn tỷ đồng. Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội. Như vậy, sự phát triển của các loại hình tài chính trung gian đã tạo ra một lượng cung vốn dồi dào cho các doanh nghiệp, có tác dụng thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Một số hạn chế của các tổ chức tài chính trung gian Của hệ thống Ngân hàng thương mại Thách thức lớn nhất đối với các NHTM Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn có khoảng cách so với các nước trong khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một NHTM Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của các NHTM Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống NHTM Nhà nước chiếm đến trên 65% thị phần huy động vốn đầu vào và trên 63% thị phần cho vay. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các NHTM Nhà nước của Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Điểm hạn chế thứ hai của các NHTM trong nước là hệ thống dịch vụ còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập. Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các NHTM Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là NHTM Nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các NHTM Nhà nước là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp. Điểm hạn chế thứ ba xuất phát từ đặc điểm của thị trường tài chính nước ta. Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Hạn chế công ty chứng khoán Thứ nhất, tại thời điểm hiện nay, cơ sở hạ tầng của TTCK nói chung và các CTCK nói riêng còn khá lạc hậu, thiếu đồng bộ và có thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào về giải pháp kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh hưởng đến việc quản lý giao dịch tại các CTCK. Nếu đầu tư công nghệ không được xây dựng một cách đồng bộ thì khả năng tích hợp giữa các CTCK với Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. Nhân sự đang là bài toàn khó đối với các công ty chứng khoán. Sự thành lập ồ ạt của các CTCK vào nhưng năm trước là thời điểm thị trường tăng trưởng nóng đã gây khó khăn cho các CTCK hiện nay khi mà thị trường đang ảm đạm,đa số các CTCK phải chịu thua lỗ thì việc cắt giảm nhân sự là điều không thể tránh khỏi. Chưa tách bạch giữa các hoạt động có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích của khác hàng như dùng tiền của khác hàng để tiến hành hoạt động tự doanh, hiện tượng “ bốc thuốc” của các CTCK khi tiến hành hoạt động môi giới, tự doanh và QLDMĐT vẫn xảy ra. Chất lượng dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của công chúng đầu tư, đặc biệt trong vấn đề công bố thông tin, thực hiện lệnh cho khách hàng. Hạn chế của công ty tài chính Nếu so với các ngân hàng thương mại, hoạt động của đa số các CTTC hiện nay vẫn còn hạn chế, chủ yếu là huy động và cho vay. Vì không được huy động tiền gửi dưới 1 năm nên số vốn huy động được của nhiều CTTC chủ yếu từ CBCNV trong các doanh nghiệp. Nguồn vốn của các CTTC chủ yếu là đi vay từ ngân hàng nên chi phí cao. Do vậy, hoạt động của nhiều CTTC sẽ chỉ dừng lại là một công ty đầu tư tài chính đơn thuần trong nội bộ doanh nghiệp, chưa vươn tầm hoạt động sâu rộng như chức danh vốn có. Các công ty tài chính hiện nay cũng rất khó khăn vì quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước không cho làm dịch vụ thanh toán. Đây thực sự là dây trói quá chặt vì không được làm thanh toán hiển nhiên là gây ra khó khăn cho công ty tài chính trong quan hệ với các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn, nhất là trong việc nhập khẩu máy móc, thiết bị. Việc phải làm thanh toán lòng vòng qua ngân hàng có thể cũng là một yếu tố gây ra nợ quá hạn. Rồi một loạt các vấn đề khác như: chưa được thanh toán bù trừ trong hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; tình trạng không rõ ràng về vai trò bảo lãnh cho vay, không được phát hành kỳ phiếu, không được kinh doanh ngoại tệ… cũng khiến cho vai trò của các công ty tài chính rất mờ nhạt Hạn chế của công ty bảo hiểm Thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm CHƯƠNG 3: Một số đề xuất khắc phục hạn chế của các công ty tài chính trung gian. Đối với các ngân hàng thương mại Phát huy vai trò chủ lực của NHTM Nhà nước Ở Việt Nam, hiện các NHTM Nhà nước đang trong quá trình cổ phần hóa, song vai trò chủ lực vẫn luôn được khẳng định. Nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, nhất là những NHTM Nhà nước đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế nhiều thách thức to lớn, đó là vừa phải duy trì tăng trưởng tín dụng và đầu tư nhưng vẫn phải bảo đảm duy trì và nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa rủi ro trước các biến động liên tục của thị trường hàng hóa, lãi suất, tỷ giá...Để phát huy được vai trò chủ đạo trong hoạt động của hệ thống NHTM, các NHTM Nhà nước cần hoạt động kinh doanh đa năng với chất lượng dịch vụ cao; năng lực tài chính lành mạnh; trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến theo các thông lệ chuẩn mực quốc tế. Tăng cường hoạt động quản trị nội bộ của các ngân hàng Để tăng cường vai trò của các NHTM trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Trước hết, bản thân các ngân hàng cần lành mạnh hoá hoạt động của chính bản thân mình. Trong đó, quan trọng nhất là kiểm toán nội bộ ngân hàng. Yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cũng như các vấn đề trong quản trị cho thấy sự cần thiết của kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Trước những yêu cầu cấp bách, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN, ngày 1/8/2006, yêu cầu các NHTM phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, hiện nay có một số khó khăn khi tiến hành việc kiểm toán nội bộ: sự chồng chéo về vai trò và trách nhiệm của chức năng kiểm tra, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ; chất lượng và số lượng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ chưa ở mức mong muốn; kiểm toán nội bộ chưa tạo được tín nhiệm đối với các bên chính có lợi ích liên quan… Tăng cường hoạt động quản lý rủi ro ngân hàng Cũng như các doanh nghiệp khác, trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng cũng phải đối mặt với các rủi ro: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng… Những rủi ro của NHTM ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động chung của nền kinh tế. Do vậy, việc quản lý rủi ro ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc ổn định hoạt động ngân hàng, tránh các rủi ro, qua đó tác động tích cực đến nền kinh tế. Thực tế thời gian vừa qua, mặc dù bị tác động lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng có vẻ như chưa có nhiều ngân hàng có ý định thay đổi cơ bản cơ cấu quản lý rủi ro của họ. Cần tiếp cận với các thông lệ quốc tế (Basel) để nâng cao năng lực quản trị rủi ro (ban hành các quy định, quy trình quản lý rủi ro, từ nhận diện, phân tích, đánh giá, quản lý và xử lý). Song song với việc này là khẩn trương hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ, nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành Ngân hàng Nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay trở thành một vấn đề cấp bách, nhất là yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Yêu cầu nâng cao năng lực nguồn nhân lực trở thành yêu cầu của tất các các ngành kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng.Nếu chỉ cải thiện và nâng cao vấn đề công nghệ ngân hàng mà không chú ý tới vấn đề nguồn nhân lực thì hệ thống ngân hàng không thể phát triển được. Do vậy, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng một cách hợp lý: Tiến hành đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực, có chính sách khen thưởng/kỷ luật hợp lý… Hoàn thiện hành lang pháp lý cho sự phát triển ngành Ngân hàng Sau một thời gian gia nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước chuyển biến rõ rệt theo hướng tạo ra một thị trường mở cửa và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực dịch vụ ngân hàng tăng trưởng cả về quy mô và loại hình hoạt động, thích ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài. Từ đó có khả năng đóng góp nhiều hơn và chủ động hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Tất nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra khá nhiều thách thức cho hệ thống ngân hàng, cần phải được nhận diện đầy đủ và có những giải pháp phù hợp. Việc tạo hành lang pháp lý thuận lợi là yêu cầu cần thiết để phát triển ngành Ngân hàng. Để làm được điều đó, cần hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các vấn đề liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ (chú trọng lãi suất, tỉ giá, thị trường mở…), hoạt động thanh tra giám sát (chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro theo các quy định của Basel), quản lý rủi ro của NHTM, việc quản lý và cấp phép thành lập ngân hàng mới... Đối với các công ty chứng khoán Trong quá trình hoạt động, các công ty nói chung và CTCK nói riêng cần phải tiến hàng tái cấu trúc công ty cho phù hợp với điều kiện phát triển ở từng giai đoạn. Ứng dụng công nghệ hiện đại.Để có được hệ thống trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động của công ty, các CTCK cần xây dựng chiến lược phát triển hệ thong công nghệ thông tin dựa trên khả năng tài chính và chiến lược phát triển chung của công ty. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các CTCK cần chú trọn tới vấn đề tuyển dụng, đào tạo và chế độ đãi ngộ lương, thương nhân viên. Xây dựng chiến lược phát triển công ty. Để có thể tồn tào và phát triển trong tương lai, các CTCK cần xây dựng cho mình chiến lược phát triển trong dài hạn cũng như trong ngắn hạn để chủ động trong hoạt động trên cơ sở củng cố nâng cao chết lượng dịch vụ sẵn có và cung cấp các sản phẩm dịch vụ mớ trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Đối với công ty tài chính Hạn chế của các công ty tài chính chủ yếu là do quy định hiện hành của NHNN Việt Nam. Vì thế để nâng cao khả năng hoạt động của công ty tài chính thì cần có một chính sách cởi mở hơn đối với các công ty tài chính Về phía các công ty tài chính, cần tăng khả năng thu hút vốn của mình bằng các cách như phát hành cổ phiếu, trái phiếu nhằm hạn chế sử dụng vốn từ các tập đoàn lớn mà cũng chính là vốn của nhà nước. Đối với công ty bảo hiểm Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ bên ngoài bằng cách nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm và đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm và kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm của người dân. Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong doanh nghiệp bằng cách giảm số dư nhàn rỗi,quản lý nợ phí bảo hiểm hiệu quả hơn,phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống NH,quản lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động Nâng cao hiệu quả công tác đầu tư. Doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp, nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ hiện đạu Kết luận Có thể nói hoạt động của các trung gian tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế nước ta trải qua nhiều biến động với nhiều khó khăn , các tổ chức trung gian tài chính đã có những bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và về quy mô vốn. Từ chỗ chỉ có trung gian tài chính Ngân hàng thương mại giữ vai trò là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế thì đến nay đã có thêm nhiều các trung gian tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, đặc biệt là công ty chứng khoán đã góp phần thu hút thêm được một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Các trung gian tài chính không chỉ là tác nhân giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển mà nó còn góp phần không nhỏ vào việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các tổ chức trung gian tài chính cũng bộc lộ những hạn chế mà nguyên nhân của nó xuất phát cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế trên là hết sức cần thiết để giúp các tổ chức trung gian tài chính ngày càng phát triển nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang mở cửa hội nhập, trở thành thành viên thứ 150 của WTO và lộ trình cam kết cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực ngân hàng tài chính đang đến gần. Danh mục tài liệu tham khảo Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- Frederic S.Mishkin Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ- PGS.TS Nguyễn Hữu Tài Giáo trình Ngân hàng thương mại- PGS.TS Phan Thị Thu Hà Một số vấn đề cần biết về thị trường chứng khoán Việt Nam- Nguyễn Duy Gia(2003) – NXB Chính trị Quốc gia Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng- số 59 Trang web Diendanchungkhoan, Chứng khoán Việt Nam số 10 Trang web youtemplate.com ; tailieu.vn….

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31802.doc
Tài liệu liên quan