Đề án Thực trạng lạm phát ở Việt Nam

- Năm 2006, 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ .). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn. - Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. - Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép. sắp tới là ngành điện. Tuy nhiên , cho đến những ngày gần đây , ta thấy tình hình giá xăng dầu cũng như giá vàng đã giảm và có lẽ sẽ không còn biến động mạnh nữa , cho nên có thể lac quan cho rằng lạm phát sẽ không còn tăng nhiều như những tháng đầu năm nữa .

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 2 1.1 Khái niệm 2 1.2 Các cách xác định lạm phát 3 1.3 Phân loại lạm phát 5 1.4 Nguyên nhân gây ra lạm phát 7 1.5 Vai trò của lạm phát trong nền kinh tế 8 1.6 Kiềm chế lạm phát 10 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 12 2.1 Lạm phát trong giai đoạn 1975-1989 và yêu cầu đổi mới 12 2.2 Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao ( 1989 – 1999 ) 15 2.3 Giai đoạn 1999 – 2004 16 2.4 Giai đoạn 2004 – nay 17 KẾT LUẬN 21 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 LỜI MỞ ĐẦU Trong các thông tin kinh tế mà bạn nhận được hàng ngày, thường có thông tin giá cả hàng hóa và dịch vụ trong tháng này tăng lên là bao nhiêu, và đến cuối mỗi năm bên cạnh các chỉ tiêu kinh tế như tỉ lệ tăng trưởng GDP, bạn còn nghe thấy người ta thông báo tỉ lệ lạm phát trong năm là bao nhiêu. Đồng thời trong các mục tiêu kinh tế đề ra cho năm tới bao giờ cũng có mục tiêu về tỉ lệ lạm phát. Như vậy, lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô, đã trở thành mối quan tâm lớn của mọi người từ các quan chức cao cấp đến những người dân thường. Việc kiểm soát lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong các cuộc tranh luận về chính sách kinh tế. Dân chúng khi thấy giá cả các hàng hóa và dịch vụ trong nước tăng lên, họ gọi đó là lạm phát, nhờ có tín hiệu này mà dân chúng điều chỉnh được hành vi tiêu dung của mình. Vậy lạm phát là gì? Do đâu mà có lạm phát? Tại sao mọi người lai quan tâm nhiều đến lạm phát? Với những tầm quan trọng như vậy thì ở Việt Nam vấn đề lạm phát được quan tâm như thế nào? Thực trạng lạm phát nước ta trong những năm vừa qua ra sao? Chính phủ đã thực hiện các chính sách gì để kiểm soát lạm phát? Để trả lời những câu hỏi trên, em xin được thông qua những kiến thức đã học về môn tài chính - tiền tệ và tham khảo các tài liệu có lien quan đến vấn đề này và trình bày trong đề án này. 1. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1.1 Khái niệm Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế. Tuy nhiên, mỗi nhà kinh tế có một quan điểm khác nhau về lạm phát. Theo quan điểm của C.Mac trong bộ tư bản: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt, làm mất giá trị của đồng tiền, sự phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Ông cho rằng lạm phát là bạn đường của chủ nghĩa tư bản , ngoài việc bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Theo quan điểm của nhà kinh tế học Samuelson: lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung. Ông cho rằng “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng - giá bánh mì, dầu xăng; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng”. Ông cũng phân biệt hai trường hợp có sự tăng giá nhưng không phải là lạm phát. Thứ nhất, giá cả tăng do một sự tác động từ bên ngoài và khi tác đông không còn nữa thì giá cả giảm xuống - đây không phải là lạm phát. Thứ hai, giá cả tăng do mất cân đối trong cục bộ nền kinh tế nhưng sau khi sự mất cân đối đó được giải quyết thì giá cả lại ổn định đây cũng không phải là lạm phát. Còn nhà kinh tế học Friedman lại cho rằng: “lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông quan niệm: “lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiệ tượng tiền tệ”. Ý kiến của ông được các nhà kinh tế học thuộc trường phái tiền tệ và trường phái Keynes tán thành. Ngoài ra, còn có nhiều khái niệm nữa về lạm phát. Ví dụ như: “lạm phát là tình trạng giá cả của mọi mặt hàng tăng lên so với một thời kì bất kì trước đó” hoặc “lạm phát là sự giảm giá trị hay sức trao đổi thành hàng hóa khác của tiền”. 1.2 Các cách xác định lạm phát Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm: Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra). Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ. Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI. Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân". 1.3 Phân loại lạm phát Tuỳ theo quan điểm và dựa trên những tiêu thức khác nhau sẽ có các cách phân loại lạm phát khác nhau. Xét về mặt định lượng Dựa trên độ lớn nhỏ về tỉ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát thành: Lạm phát vừa phải (tỉ lệ lạm phát dưới 10% một năm). Lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm. Đây là mức lạm phát chấp nhận được. Với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả là không đáng kể. Đây là tỉ lệ lạm phát mà nhiều nước mong muốn, tuy nhiên, các nước khác nhau sẽ có những tỉ lệ lạm phát phù hợp khác nhau. Nhiều trường hợp, tỉ lệ lạm phát phù hợp lại là tỉ lệ lạm phát với hai chữ số. Lạm phát phi mã: ở mức lạm phát hai con số thấp (11, 12, 13%) thì tác động tiêu cực của lạm phát cũng là không đáng kể, nên kinh tế vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỉ lệ giá cả tăng ở mức hai con số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai con số trở thành mối đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế. Siêu lạm phát: ngoài các loại lạm phát trên đây còn có một vài loại khác như lạm phát ba con số, lạm phát phi mã… tuỳ theo quan niệm của mỗi nhà kinh tế. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động của nó đến đời ssống và đến nền kinh tế trở nên nghiêm trọng. Kinh tế suy thoái một cách nhanh chóng vì sản xuất không chịu hoạt động hoặc chỉ hoạt động cầm chừng vì khi họ càng sản xuất thì càng thua lỗ do giá cả vật tư tăng nhanh trong khi thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống. Tiền sẽ được trở nên khó chấp nhận trong thời kì này, người ta sẽ quay về trao đổi hiện vật thời cổ. Về mặt định tính Lạm phát được chia thành các loại sau: Lạm phát thuần tuý: là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu dung và hàng hóa sản xuất đều tăng lên gần như cùng tỉ lệ 5 trong một đơn vị thời gian. Đây là trường hợp mà nhu cầu tiền thực tế tăng cùng chiều và khá tương đương với cung tiền thực tế Lạm phát cân bằng và không cân bằng: Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của lao động. Lạm phát không cân bằng: tỉ lệ lạm phát phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường: Lạm phát dự đoán trước: xảy ra trong một thời gian đủ dài với một tỉ lệ lạm phát hang năm khá đều đặn và ổn định khiến cho dân chúng có tâm lý và sự chờ đợi trở thành quán tính. Do vậy, người ta có thể dự đoán được tỉ lệ lạm phát của những năm tiếp theo và đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này. Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường xảy ra thường tạo nên những cú sốc về kinh tế và sự mất tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại. 1.4 Nguyên nhân gây ra lạm phát Lạm phát do cầu kéo Lạm phát do cầu kéo xảy ra do cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên. Thực ra, đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này, nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả lạm phát và thất nghiệp đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát kèm suy thoái (stagflation). Ba loại chi phí có thể gây nên lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu, cấu kiện cần thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá cả của chúng (có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ. Lạm phát ỳ Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thoả thuận về các biến số danh nghĩa trong tương lai. Chúng ta có thể coi đó là tỷ lệ lạm phát cân bằng trong ngắn hạn và nó sẽ được duy trì cho đến khi có các cú sốc tác động đến nền kinh tế. 1.5 Vai trò của lạm phát trong nền kinh tế : Các hiệu ứng tích cực Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Các hiệu ứng tiêu cực Đối với lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội: Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiềhay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát. Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm. Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô. Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế. Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. Đối với lạm phát không dự kiến được Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này. 1.6 Kiềm chế lạm phát : Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang Mỹ có thể tác động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất và thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền tệ). Các lãi suất cao (và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế tăng giá. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức cao. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những người theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung, thông thường là thông qua các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý đến vai trò của chính sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ bản từ các công trình nghiên cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện trong thực tế thông qua các tiến trình nghiệp vụ thị trường mở. Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá cả (xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong những năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một trong những vấn đề chính với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các biện pháp kích "cầu" được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm trọng, là điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong thời gian chiến tranh. Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có hiệu quả hơn như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng thất nghiệp), trong khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc kiểm soát gây ra khi "cầu" là cao. 2. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 2.1 Lạm phát trong giai đoạn 1975-1989 và yêu cầu đổi mới Trong giai đoạn này, lạm phát chịu ảnh hưởng sâu sắc của những đặc điểm trong sự phát triển kinh tế của cả hai giai đoạn đó. Những đặc trưng chủ yếu của lạm phát là: Lạm phát kéo dài suốt 25 năm của cả hai giai đoạn phát triển kinh tế, nhưng không phải là một quá trình liên tục, diễn biến theo hướng tăng lên. - Trong quá trình lạm phát 25 năm do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan lieu bao cấp gây ra, song hành hai thị trường: thị trường của nhà nước và thị trường tự do. Do sự song hành của hai thị trường, đã hình thành hai hệ thống giá: giá Nhà nước quy định và giái thị trường tự do, chênh lệch nhau hang chục lần. Do sự tách rời giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do nên trong giai đoạn này căn bệnh lạm phát chưa được phát hiện trong nền kinh tế kế hoach hoá tập trung. Nhà nước định giá cho hầu hết sản phẩm và dịch vụ lưu thông trên thị trường, chỉ đạo theo phương châm “ổn định” và phấn đấu để hạ giá hàng hóa, hoàn toàn thoát ly diễn biến của quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật giá trị và cạnh tranh). Từ năm 1981 đến 1985, kể từ cuộc cải cách (tổng điều chỉnh) giá cả, tiền lương và cuộc cải cách về cơ chế quản lý trong nông nghiệp, công nghiệp đầu thập kỷ 80 cho đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12-1986), lạm phát và chống lạm phát gắn liền với quá trình cải cách cơ chế kinh tế và quản lý kinh tế. Nhìn tổng quát, ảnh hưởng qua lại của cải cách giá cả, lương và lạm phát thời kỳ này đã kích động tiêu dung và nhu cầu có khả năng thanh toán tăng đột biến, trực tiếp gây ra xung lực làm bung nổ lạm phát: Ngân sách Nhà nước trong 10 năm (1975-1985) đã có biến động bất lợi (thâm hụt lớn) và làm tăng nhân tố lạm phát. Dư nợ tín dụng vốn lưu động 1976-1980 là 4,2-8,5 tỷ đồng; đến 1981 lên 36 tỷ và 1984 là 96,2 tỷ; gấp 20 lần so với 1976 và hơn 10 lần năm 1980. Điều này không thể giải thích bằng bất kỳ một sự tăng trưởng nhu cầu tín dụng nào, mà chỉ có thể là do một chính sách tín dụng tuỳ tiện, giá bao cấp, bất chấp quy luật phát triển vốn và không cân nhắc đến yêu cầu chống lạm phát. Do vậy đã trở thành một tác nhân quan trọng làm bung nổ lạm phát trong 5 năm 1981-1985. Do phải đảm bảo nhu cầu bao cấp theo định lượng trong khi sản xuất không đủ đáp ứng, làm căng thẳng thị trường, quỹ tiêu dung cá nhân vượt xa mức tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và năng suất lao động xã hội. Năm 1984 lương bình quân tăng 5,5 lần so với 1976 và 5 lần so với 1980; thu nhập bình quân đầu người gia đình công nhân viên chức tăng từ 7-10 lần, thu nhập của nông dân tăng từ 18-27 lần. Trong khi đó, thu nhập quốc dân 1985 chỉ tăng 26,6% so với 1980, tổng sản phẩm xã hội tăng 42,8%, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 27,8%,công nghiệp tăng 57,4%, công nghiệp nặng tăng 70,5%; tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng 91,2%trong 5 năm (1985 so 1980).Như vậy là trong thời kỳ vận hành cơ chế cũ cũng như những năm bắt đầu có những cải cách từng phần đã có các yếu tố tăng cầu. Từ năm 1986 đến 1988 là giai đoạn siêu lạm phát.So với các thời kỳ trước đây, giai đoạn này có 6 đặc trưng nổi bật: Một là, mức độ rất cao (3 con số) kéo dài trong hơn 3 năm liên tục, sau đó hạ dần, nhưng đến năm cuối của thời kỳ vẫn còn trên 400%. Lạm phát 3 con số kéo dài 3 năm lien tục là sự kiện hiếm có không những trong lịch sử kinh tế Việt Nam mà còn cả đối với phần lớn các nền kinh tế khác trên thế giới. Hai là, được mở đầu bằng cuộc cải cách về giá và lương cùng với việc đổi tiền,đây trở thành nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ lạm phát ba con số thời kỳ này. Ba là, thời kỳ 1986-1988 ảnh hưởng giá cả xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kỳ 1981-1985 song vẫn bất lợi cho cán cân thanh toán của Việt Nam. Chỉ số giá xuất khẩu 1987 và 1988 đã giảm so với 1985 là 0,6% và 2%, trong lúc chỉ số giá nhập khẩu tăng lien tục từ 1985 đến 1988. Nếu 1985 bằng 100; thì 1986 bằng 100,4; 1987 bằng 102,6; và 1988 bằng 104. Tình hình nhập siêu hầu như không thay đổi, kim nghạch nhập khẩu so với xuất khẩu 1985 bằng 2,65; 1987 bằng 2,87 và 1988 bằng 2,65. Bốn là, chu kỳ lạm phát cao đến mức siêu lạm phát lần này diễn ra sau 5 năm (1981-1985) đã có những cải cách quan trọng đối với cơ chế kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Lạm phát hai con số trong 5 năm trước đó tuy lầ khá cao nhưng đã có tốc độ tăng trưởng tăng hơn gấp đôi so với 5 năm 1976-1980. Tổng sản phẩm xã hội bình quân năm đã tăng 7,3% (so với 1,4% của 5 năm trước), thu nhập quốc dân tăng 6,4% (so với 1,4%), công nghiệp tăng 9,5% (so với 0,6%), nông nghiệp tăng 5,1% (so với 1,9%), vốn đầu tư tăng 9,2% (so với 5,6%). Năm là, nếu những chu kỳ lạm phát trước dây diễn ra hoàn toàn trong cơ chế cũ, chiến tranh (trước 1980) và hệ quả tiêu cực của nó, hoặc như trong chu kỳ 1981-1985 đã có những cải cách kinh tế quan trọng nhưng chưa phải là tổng thể, thì chu kỳ siêu lạm phát này bùng nổ chỉ một năm trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là thời kỳ cải cách và đổi mới toàn diện. Ngay quý III – 1985, Hội nghị Trung ương VIII (khoá V) đã quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nói tóm lại, chu kỳ siêu lạm phát đã bắt đầu cùng lúc với sự mở đầu thời kỳ đổi mới và cải cách toàn diện và sâu sắc nền kinh tế Việt Nam. Sáu là, tính chất công khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Tóm lại, cả giá Nhà nước và giá thị trường đều vận động tương đối sát với quan hệ cung - cầu, tiền – hang là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho tính công khai của lạm phát được bộc lộ đầy đủ hơn, chỉ số giá phản ánh mức độ lạm phát trung thực hơn. Năm 1996 1997 1998 Tăng trưởng(%) 2,33 3,78 5,1 Lạm phát (%) 748 223,1 394 2.2 Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao ( 1989 – 1999 ) : Trong giai đoạn này, lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổ mới kinh tế, chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang cơ chế thị trường. Năm 1989 không chỉ là năm bước ngoặt của kiềm chế và đẩy lùi lạm phát mà còn là năm bước ngoặt của cải cách kinh tế ở Việt Nam. Đó là một năm thu được thành tựu lớn về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và xuất khẩu của nhiều nghành kinh tế chủ yếu có tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 1989 1990 1991 1992 Tăng trưởng (%) 8 0,1 6 8,6 Lạm phát (%) 34,7 67,4 67,6 17,6 Việc kiểm soát lạm phát trong năm 1994 và những năm tiếp theo chủ yếu nhằm đạt được những mục tiêu sau: Kiềm chế và giữ lạm phát ở mức kiểm soát được. Đảm bảo sự gia tăng kinh tế. Tăng dần mức động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước, đồng thời giảm mức bội chi ngân sách xuống mức cho phép. Tuy nhiên, mục tiêu của kiểm soát lạm phát trong gai đoạn này phải quán triệt quan điểm đảm bảo sự gia tăng kinh tế và nâng cao mức sống của người lao động từ nay đến năm 2000, đồng thời củng cố và tăng cường khả năng tài chính của đất nước, nâng mức động viên thu nhập quốc dân, giảm mức bội chi ngân sách Nhà nước. 2.3 Giai đoạn 1999 – 2004 : Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liêntục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản xuất trong nước rơi và tình trạng trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp tăng. - Giá cả thị trường có xu hướng giảm: + Năm 1999,giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998, sự giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng (do tỉ trọng của hàng lương thực trong giỏ hàng hóa lớn). + Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999. + Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm, CPI tháng 6 năm 2001 giảm 0,3% so với tháng 6 năm 2000 và giảm 0,7% so với tháng 12 năm 2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp, tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều lỗ lực, chúng ta đẩy được tỷ lệ lạm phát lên 0,8%. Tình trạng ứ đọng sản phẩm, sản xuất cầm chừng xảy ra ở một số sản phẩm và một số khu vực, đặc biệt là khu vực nhà nước: + Số hàng tồn kho của tổng công ty 90-91 trong 6 tháng đầu năm 1999 đã lên tới 60000 tỷ đồng. + Theo báo cáo của IMF, có đến 60% doanh nghiệp Nhà nước bị thua lỗ, trong đó 16% là thua lỗ triền miên. Tình trạng các doanh nghiệp tư nhân cũng không có gì khá hơn. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 có hang ngàn xí nghiệp thua lỗ phải đóng cửa, các xí nghiệp lớn thì hoạt động cầm chừng. + Tỷ lệ thất nghiệp năm 1999 ở Hà Nội là 10,3% và ở TP HCM là 7,04%... Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm: từ tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 là 9,34% xuống còn 8,15% năm 1997; 5,8% năm 1998; 4,8% năm 1999 và 6,75% năm 2000. Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới.Tuy năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, cao thứ hai trong khu vực châu Á chỉ sau Trung quốc (8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỷ lệ lạm phát chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 3,5% của chúng ta đề ra. Hơn hai tháng đầu năm 2003, tinh hình kinh tế - chính trị trên thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là sự kiện Mỹ chủ trương lật đổ chính quyền đương thời để lập nên một chính quyền mới ở Irăc, đã khiến cho tình hình kinh tế thế giới rơi vào tình trạng giá cả tăng cao (đặc biệt là giá xăng dầu và giá vàng tăng mạnh). Trên thực tế, hai tháng đầu năm 2003, giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%, vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu tỷ lệ lạm phát không quá 5%. 2. 4 Giai đoạn 2004 – nay : Sau một thời gian dài được kiềm chế ở mức thấp, lạm phát đã bùng lên trong năm 2004. Điều này được coi là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật của Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dung năm 2004 tăng 9,5%; trong đó, chỉ số giá nhóm lương thực, thực phẩm tăng cao nhất 15,6% (lương thực tăng 14,3%, thực phẩm tăng 17,1%); nhóm dược phẩm y tế tăng 9,1%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 7,4%; các nhóm hàng khác tăng từ 2,2-5,9%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỷ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra (5%). Câu hỏi đặt ra là tại sao lạm phát ở Việt Nam trong năm 2004 lại tăng đột biến như vậy? Trước hết, cần phải khẳng định rằng diễn biến lạm phát toàn cầu đã có ảnh hưởng quan trọng đến động thái lạm phát ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, những biến động của giá cả trên thị trường thế giới đã có những tác động ngày càng rõ nét đến thị trường trong nước. Thực tế cho thấy lạm phát quá thấp và thậm chí là tình trạng giảm phát vào những năm 1999-2000 không phải do chính sách tài khoá và tiền tệ quá thắt chặt hay do nền kinh tế tăng trưởng quá cao gây ra tình trạng dư thừa hàng hóa, mà nguyên nhân chủ yếu là do cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á. Còn trong năm 2004, bất chấp nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, trong khi các chính sách tài khoá và tiền tệ không có sự điều chỉnh đáng kể so với các năm trước, nhưng lạm phát vẫn tăng tốc. Thực ra lạm phát cao trong năm 2004 không phải là hiện tượng riêng có của Việt Nam mà là hiện tượng kinh tế mang tính toàn cầu. Hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới đều đối mặt với mức lạm phát cao hơn trong năm 2004. Lạm phát cao ở nước ngoài đã lan truyền vào nền kinh tế Việt Nam qua cả hai kênh: xuất khẩu và nhập khẩu. Với kênh xuất khẩu, theo tính toán của Bộ Thương mại tính trung bình giá hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 tăng 8% so với năm 2003. Sự gia tăng giá xuất khẩu làm tăng giá thu mua trong nước và góp phần làm tăng mức giá chung trên thị trường nội địa. Đồng thời, khi thu nhập của các sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu được cải thiện, họ sẽ mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn, điều này tiếp tục làm tổng cầu tăng. Kết quả là cả mức giá và sản lượng đều tăng lên mức cao hơn. Đây là một lý do quan trọng làm cho nền kinh tế trong năm 2004 vừa tăng trưởng nhanh hơn, vừa trải qua lạm phát cao hơn. Còn với kênh nhập khẩu, giá của nhiều vật tư quan trọng nhập khẩu như: phôi thép, hạt nhựa, hoá chất sản xuất tân dược, xăng dầu, khí đốt hoá lỏng, phân bón hoá học, clinker, phụ liệu ngành dệt may… đã tăng đáng kể trong năm 2004. Các doanh nghiệp tìm cách đưa chi phí cao hơn vào giá cả và do đấy đẩy giá nhiều mặt hàng sản xuất trong nước tăng lên. Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. Nếu chúng ta dùng các biện pháp tác động tích cực thì tỷ lệ lạm phát năm 2008 có thể xoay quanh mức17%. Có thể kể ra các nguyên nhân khiến cho lạm phát năm 2007 tăng cao như sau : Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát. Năm 2006, 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ ...). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than, khai thác đá, luyện cán thép... sắp tới là ngành điện. Tuy nhiên , cho đến những ngày gần đây , ta thấy tình hình giá xăng dầu cũng như giá vàng đã giảm và có lẽ sẽ không còn biến động mạnh nữa , cho nên có thể lac quan cho rằng lạm phát sẽ không còn tăng nhiều như những tháng đầu năm nữa . KẾT LUẬN Như vậy, qua phần đề án này, em đã trình bày những hiểu biết của mình về vấn đề lạm phát va kiểm soát lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam. Qua đó, phần nào đã phản ánh được những vấn đề cơ bản nhất của lạm phát, giúp chúng ta có thể hiểu một cách tương đối về lạm phát, đông thời đề án cũng đã phản ánh một cách tương đối đầy đủ về vấn đề lạm phát ở Việt Nam. Mặc dù đã rất cố gắng tìm hiểu các vấn đề liên quan đến lạm phát để viết đề án, song với trình độ hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên nên đề án này chưa thực sự phản ánh hết được các vấn đề có liên quan đến lạm phát. Mặt khác, với khuôn khổ của một đề án chỉ hơn 20 trang, em cũng không có điều kiện trình bày một cách sâu hơn về vấn đề này. Ổn định và kiểm soát lạm phát là một vấn đề hết sức quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào muốn phát triền kinh tế bền vững. Vì vậy, em hi vọng lần sau nếu có điều kiện nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này, em sẽ trình bày đầy đủ và rõ ràng hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Diệp đã hướng dẫn em viết đề án này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS.Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, giáo trình lý thuyết tài chính-tiền tệ, NXB Thống Kê Lê Vinh Danh, Tiền và hoạt động ngân hàng, 1996, NXB chính trị quốc gia Frederic S.Mishkin, Tiền tệ - ngân hàng và hoạt động tài chính, 1994, NXB Khoa học kỹ thuật Niên giám Thống kê các năm 1999, 2000, 2001, NXB Thống Kê Hoàng Quế, Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương, 2002,NXB Thống Kê Hồ Khắc Tân, 2001, “Tăng trưởng kinh tế và lạm phát”, tạp chí Tài chính số tháng 10/2001 Vũ Ngọc Dung, 2001, “Về mối quan hệ giữa cung ứng tiền với tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá”, tạp chí Ngân hàng số tháng 10/2001 Phạm Chí Quang, 2000, “Liệu nền kinh tế Việt Nam có phục hồi sau thiểu phát”, tạp chí Ngân hàng số tháng 1/2000 đánh giá lạm phát ở Việt Nam”, tạp chí Ngân hàng số tháng 9/2000 Trần Nguyễn Đồng Tiếu, 2000, “Cần có cách nhìn nhận đúng đắn khi Mạnh Kiên, “Mục tiêu lạm phát, một cách tiếp cận mới về chính sách tiền tệ”, tạp chí Ngân hàng số tháng 5/2000 11.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21252.doc
Tài liệu liên quan