MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm và biểu hiện của lạm phát 2
1.2 Phân loại lạm phát .5
1.3 Đo lường lạm phát .7
1.4 Một số nguyên nhân gây ra lạm phát 11
1.5 ảnh hưởng của lạm phát 13
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2011
2.1 Giai đoạn từ năm 1002 – 2006 .18
2.1.1 bối cảnh kinh tế xã hội .18
2.1.2 thực trạng lạm phát 18
2.1.3 các giải phát thực hiện và kết quả đạt được .19
2.2 Giai đoạn từ năm 2007 – 2011 20
2.2.1 bối cảnh kinh tế xã hội 20
2.2.2 thực trạng lạm phát .21
2.2.3 các giải phát thực hiện và kết quả đạt dược .24
2.3 Những hệ quả của lạm phát đối với nền kinh tế việt nam 29
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
3.1 Nhóm giải pháp trong ngắn hạn .32
3.1.1 giảm lãi suất huy động bằng USD.NHNN cần có những quy định về tỷ lệ cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại .33
3.1.2 Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công 33
3.1.3 thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ .33
3.1.4 Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán 35
3.1.5 kiềm chế việc thổi phòng giá theo tâm lý .36
3.2 Nhóm giải pháp trong dài hạn .37
3.2.1 Đổi mới chính sách quản lý tài chính công 37
3.2.2 Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo .37
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3066 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng lạm phát tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất đốt và vật liệu xây dựng
10,01
05
V. Thiết bị và đồ dùng gia đình
8,65
06
VI. Thuốc và dịch vụ y tế
5,61
07
VII. Giao thông
8,87
08
VIII. Bưu chính viễn thông
2,73
09
IX. Giáo dục
5,72
10
X. Văn hoá, giải trí và du lịch
3,83
11
XI. Hàng hoá và dịch vụ khác
3,34
Dưới đây là giỏ hàng hóa được cập nhật trong phương án tính chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ 2009-2014 của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
Nguồn: Thông cáo báo chí về một số nội dung cập nhật trong phương án tính chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ 2009-2014 – Tổng cục thống kê – Ban hành ngày 31/12/2009
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng
hoá tại thời kỳ báo cáo (thời kỳ hiện tại) và thời kỳ gốc.
3. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá
Tháng 10 năm 2009, Tổng cục Thống kê đã tiến hành cập nhật quyền số và danh mục mặt hàng đại diện, lấy năm 2009 làm năm gốc so sánh.
CPI được dùng để tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ được biểu thị qua công thức sau:
Chỉ số lạm phát năm t = 100% x
CPI t – CPI t-1
CPI t-1
Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong mỗi thời kỳ nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây :
- CPI không phản ánh được độ lệch thay thế : khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá.
- CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới : vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
- Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ thể nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.
1.3.2 Chỉ số giá hàng sản xuất (PPI) :
Chỉ số giá hàng sản xuất hay (PPI) được tính theo mức giá bán ra lần đầu tại khâu sản xuất. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị các nhà sản xuất nhận được là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Vì vậy, chỉ số này phản ảnh chính xác hơn mức độ biến động giá cả của nền kinh tế và dễ tính hơn. Chỉ số này được dùng như một chỉ số tham khảo cùng với chỉ số CPI và PPI ≤ CPI.
1.3.3 Chỉ số giảm lạm phát GDP (Chỉ số điều chỉnh GDP) :
Chỉ số này dựa trên việc tính toán của Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Nó là tỷ lệ của GDP danh nghĩa (GDP được tính bằng giá cả hàng hóa và dịch vụ năm hiện hành) và GDP thực tế (GDP được tính bằng giá cả của hàng hóa và dịch vụ ở năm gốc) năm báo cáo.
Chỉ số giảm lạm phát năm t =
GDP danh nghĩa năm t
GDP thực tế năm t
Chỉ số này được xem là chính xác nhất để phản ánh mức độ lạm phát bởi vì 2 lý do sau đây :
Thứ nhất, chỉ số này phản ánh toàn bộ giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nước, khác với CPI là chỉ sử dụng giá của một số mặt hàng mà người tiêu dùng điển hình mua.
Thứ hai, chỉ số điều chỉnh GDP sử dụng lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong thời kỳ nghiên cứu, do vậy giỏ hàng hóa này thay đổi mỗi năm. Còn CPI sử dụng một giỏ hàng hóa cố định qua các năm trong một thời kỳ nhất định, do vậy giỏ hàng hóa này chỉ thay đổi khi các nhà thống kê điều chỉnh và chính vì thế giỏ hàng hóa này không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cấu của các mặt hàng trong nền kinh tế.
1.4 Một số nguyên nhân gây ra lạm phát :
1.4.1 Nguyên nhân từ phía cầu :
Khi cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng tăng càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường.
Từ phương trình tổng cầu của nền kinh tế :
AD = C + I + G + (X - IM)
Trong đó :
AD : Tổng cầu
C : chi tiêu của người tiêu dùng
I : Chi đầu tư của các doanh nghiệp
G : Chi tiêu của chính phủ
X : Xuất khẩu
IM : Nhập khẩu
Chúng ta có thể suy luận một số nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng từ phía cung là do người tiêu dùng tiêu dùng nhiều hơn (lãi suất giảm, thuế giảm, thu nhập tăng … ), do các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn (kỳ vọng tăng trưởng kinh tế ở tương lai), hoặc do chính phủ chi tiêu nhiều hơn cho các công trình công cộng, hoặc đưa ra các gói kích cầu để phát triển kinh tế.
1.4.2 Nguyên nhân từ phía cung :
Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố phục vụ sản xuất tăng lên thì tổng chi phí sản xuất. Giá thành sản phẩm tăng. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.Lạm phát do cầu thay đổi: Lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
Một số nguyên nhân dẫn đến chi phí đẩy, tạo nên các cú sốc cung :
Tiền lương gia tăng nhanh.
Nhập khẩu lạm phát, giá cả gia tăng là do những nguyên nhân không thể kiểm soát từ bên ngoài (ví dụ như những cú sốc cung từ bên ngoài, thay đổi giá cả hàng hóa bên ngoài, tỷ giá hối đoái)
Thiếu hụt các nguồn tài nguyên. Khi các nguồn tài nguyên bị khai thác ngày càng nhiều, giá cả của các nguồn này sẽ tăng lên, và chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng gia tăng.
Ngoài ra, yếu tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng đến lạm phát, khi xuất khẩu tăng mạnh làm ảnh hưởng đến cung hàng hóa trong nước, làm mất cân bằng cung cầu và gây nên lạm phát.
1.4.3 Nguyên nhân tiền tệ :
Cung tiền tăng (chẳng hạn do Chính phủ phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, tăng chi tiêu công, do NHTW nới lỏng chính sách tiền tệ,…) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn sản lượng đầu ra của nền kinh tế là nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.4.4 Nguyên nhân từ tâm lý :
Khi nền kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối thiểu để chi tiêu hàng ngày do sự kỳ vọng giá cả hàng hóa sẽ tăng trong tương lai, họ đem tiền đổi lấy các loại tiền mạnh khác, vàng hay các loại hàng hóa, tài sản để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường và làm tăng tổng cầu, đồng tiền càng lúc càng mất giá và lạm phát cũng vì thế mà gia tăng. Sự kỳ vọng về lạm phát cao hơn trong tương lai của công chúng có thể sẽ gây nên những biến động giả tạo, làm cho tình hình lạm phát của một quốc gia đi ngược trở lại với những nỗ lực của Chính phủ.
1.4.5 Nguyên nhân xuất phát từ chính sách quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Lạm phát của nền kinh tế trong một thời kỳ có thể xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế, chưa có biện pháp điều chỉnh hợp lý. Chẳng hạn như :
- Việc quản lý thị trường, giá cả, việc dự báo, điều hoà cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống trên thị trường chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu quả, dẫn tới tình trạng đầu cơ tăng giá.
- Độ trễ trong chính sách điều tiết lạm phát : một khi các giải pháp điều hành vẫn nghiêng về "giải pháp để bình ổn giá" mà không phải là để "kiểm soát lạm phát" thì tác động của lạm phát đến nền kinh tế đã thực sự rất khôn lường. Tất cả các biện pháp đối phó nếu được đưa ra khi giá cả đã biến động rồi thì hiệu quả không cao.
- Xuất phát từ tính độc lập của NHTW trong một quốc gia bị hạn chế, các mục tiêu của nền kinh tế có thể bị mâu thuẫn và buộc phải đánh đổi. Chẳng hạn như mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đồng thời kiểm soát lạm phát ở mức thấp sẽ khó thực hiện được khi Chính phủ thì cần chi tiêu một khối lượng tiền cho việc đầu tư xây dựng cơ bản trong khi NHTW thì lại muốn thắt chặt tiền tệ.
- Chính sách tỷ giá hối đoái không phù hợp có thể làm cho nền kinh tế trở nên nhạy cảm với các biến động giá cả từ bên ngoài hơn, làm cho tình hình lạm phát trong nước trở nên khó kiểm soát hơn.
1.5 ảnh hưởng của lạm phát :
1.5.1 ảnh hưởng tích cực:
Lạm phát ở mức độ vừa phải có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi lạm phát vừa phải xảy ra nó làm cho đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Đây là một lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh việc xuât khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại hối, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển…
“Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng nhân lực, lạm phát ở mức độ vừa phải sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của Chính phủ và nhân dân”(1) Nhập môn Tài chính – Tiền tệ - Trường ĐH Kinh tế TPHCM, NXB Lao Động Xã Hội
.
Hai chỉ báo về tình hình kinh tế được theo dõi chặt chẽ là lạm phát và thất nghiệp. Hai chỉ tiêu này có quan hệ nghịch biến với nhau trong ngắn hạn. Nhà kinh tế học Alban William Phillips đã đưa ra : “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm” để minh chứng cho điều này. Do đó, một quốc gia trong một thời kỳ nhất định, có thể sử dụng chỉ tiêu lạm phát ở một mức độ vừa phải để cắt giảm thất nghiệp. Điều này có thể được minh chứng qua đường cong Phillips ngắn hạn sau :
Đường cong Phillips ngắn hạn dốc xuống phía phải
1.5.2 Ảnh hưởng tiêu cực :
1.5.2.1 Ảnh hưởng đến chức năng của tiền tệ :
Xã hội không thể tính toán hiệu quả hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình một cách bình thường được do tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị hay nói đúng hơn là thước đo này bị co giãn thất thường.
Hơn nữa, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế lúc này đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên không ai tin vào đồng tiền nữa, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ tăng của lạm phát và do vậy tác dụng điều chỉnh của thuế bị hạn chế.
1.5.2.2 Ảnh hưởng đến sự tái phân phối thu nhập và của cải trong xã hội
Tác động này xuất phát từ sự khác nhau về các loại tài sản và nợ nần của người dân. Cụ thể, khi người sở hữu nắm trong tay một lượng tiền mặt, tiền gửi hay chứng khoán,… thì họ bị thiệt vì giá trị của dồng tiền giảm đi. Tuy nhiên, nếu họ nắm giữ vàng, ngoại tệ mạnh, đất đai thì giá trị của những tài sản này tăng lên một cách tương đối, họ được lợi.
Ngoài ra, những người cho vay với lãi suất cố định cũng bị thiệt, người đi vay sẽ được lợi vì người đi vay sẽ trả cho những người cho vay những đồng tiền mất giá hơn so với lúc vay. Những người làm công ăn lương với thu nhập cố định cũng sẽ bị thiệt. Vì vậy, Chính phủ thường : thả nổi tiền lương, thả nổi lãi suất, bù giá vào lương,…để giảm bớt tác động của lạm phát
Đối với một quốc gia, số người nghèo có thể tăng lên cùng với lạm phát vì chỉ có một số người mới có khả năng đầu tư vào lĩnh vực tài chính để bảo vệ mình. Còn người nghèo không có được công cụ bảo vệ đó, “Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ có thể bị đói trong "cuộc đua" mua hàng hóa trong cơn lạm phát. Họ không có nơi nào để đi nhằm được bảo vệ.” chuyên gia IMF Benedict Bingham phân tích.
1.5.2.3 Ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế :
Đối với sản xuất, khi lạm phát gia tăng, giá trị của đồng tiền giảm sút, lãi suất danh nghĩa có xu hướng gia tăng, vì thế khi doanh nghiệp đi vay phải chịu một lãi suất cho việc sử dụng vốn cao hơn. Khi NHTW phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm vốn khả dụng của các NHTM giảm đi. Vì vậy, các doanh nghiệp vay vốn sản xuất càng khó tiếp cận nguồn tín dụng từ ngân hàng hơn do NHTM chỉ đáp ứng vốn cho một số dự án thực sự hiệu quả, ít rủi ro. Điều này làm gia tăng gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp do lãi suất vay quá cao hoặc sản xuất bị đình trệ do thiếu nguồn vốn, một số doanh nghiệp nhỏ, không tạo ra đủ lợi nhuận sẽ có nguy cơ bị phá sản. Ngoài ra, “cơ cấu của nền kinh tế cũng bị mất cân đối do các nhà đầu tư thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có giá cả tăng cao, những ngành sản xuất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải rủi ro”(1) Nhập môn Tài chính – Tiền tệ - Trường ĐH Kinh tế TPHCM, NXB Lao Động Xã Hội
.
Đối với tiêu dùng, lạm phát làm cho giá cả của nền kinh tế gia tăng, tỷ lệ gia tăng là không bằng nhau giữa các mặt hàng, nhanh nhất là hàng sản xuất và hàng tiêu dùng. Một khi giá cả trong nền kinh tế gia tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa là một hiện tượng phổ biến, gây nên sự mất cân đối cung cầu giả tạo và giá cả lại càng trở nên hỗn loạn, Chính phủ sẽ khó kiểm soát giá cả hơn. Chính vì thế, sức mua của đồng tiền bị giảm đi và người dân không còn cách nào khác phải giảm khối lượng hàng hóa tiêu dùng khi thu nhập danh nghĩa không tăng kịp với lạm phát.
1.5.2.4 Ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán
Giả định các yếu tố khác không đổi, một khi lạm phát gia tăng, đồng nội tệ giảm giá một cách tương đối so với đồng ngoại tệ hay nói cách khác là tỷ giá hối đoái tăng. Cán cân thương mại vì thế sẽ được cải thiện nhờ vào sự gia tăng của hoạt động xuất khẩu – một tín hiệu tốt cho lạm phát, tuy nhiên sự bất lợi từ hoạt động nhập khẩu lại là một tín hiệu xấu. Một số doanh nghiệp sản xuất có đầu vào phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu trên thế giới thì sẽ chịu tác động tiêu cực bởi tỷ giá hối đoái tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm đi trong ngắn hạn và trong dài hạn thì giá cả của hàng hóa đầu ra sẽ tăng cao và vòng xoáy lạm phát lại tiếp diễn, lạm phát tiếp nối lạm phát.
1.5.2.5 Ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống trung gian tài chính
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, NHTM cần đưa ra lãi suất danh nghĩa khá cao để đảm bảo cho lãi suất thực dương không đổi cho người gửi tiền. Hơn nữa, khi sức mua của tiền đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ thường có xu hướng gia tăng, việc huy động vốn trung dài hạn của NHTM gặp khó khăn. Từ đó, dẫn đến việc các NHTM phải sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn và rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn là điều khó tránh khỏi
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Một khi hệ thống trung gian tài chính hoạt động không tốt thì sẽ không huy động được tối đa các nguồn vốn cho phát triển kinh tế trong trung và dài hạn.
Chính vì các tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở mức độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của mọi nền kinh tế hàng hoá. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không có nghĩa là phải đưa lạm phát ở mức bằng không tức là nền kinh tế không có lạm phát mà phải duy trì mức lạm phát ở một mức độ nào đó phù hợp vơí nền kinh tế bởi vì lạm phát không phải hoàn toàn là tiêu cực, nếu như một quốc gia nào đó có thể duy trì được mức lạm phát vừa phải và kiềm chế, có lợi cho sự phát triển kinh tế thì ở quốc gia đó lạm phát không còn là mối nguy hại cho nền kinh tế nữa mà nó đã trở thành một công cụ đắc lực giúp điều tiết và phát triển kinh tế một cách hiệu quả .
CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2011
2.1 Giai đoạn 2002- 2006 :
2.1.1 Bổi cảnh kinh tế xã hội (2002-2006):
Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới, nhờ có sự cố gắng, nỗ lực của các ngành, các cấp năm 2002 chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế. Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là xấp xỉ 7,1%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực Châu á chỉ sau có Trung Quốc (8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Cũng vào năm này, Chính phủ nước ta đã gặt hái được những thành công nhất định do đã đề ra những biện pháp kịp thời và hợp lý ngay giai đoạn 6 tháng đầu năm khi giá cả bắt đầu tăng nhanh (khoảng 2,9%), nhờ đó tỷ lệ lạm phát của cả năm chỉ vào khoảng 3,83% - một tỷ lệ có thể chấp nhận được
Nguồn : Tác giả tổng hợp số liệu từ website Tổng Cục Thống kê Việt Nam
2.1.2 Thực trạng lạm phát trong giai doạn (2002-2006):
Từ sau năm 2003, lạm phát có xu hướng gia tăng khi chỉ số giá tiêu dùng tăng lên đến 7,71% (2004); 8,29% (2005); 7,48% (2006). Nhìn chung trong thời kỳ hậu khủng hoảng (2002-2006), nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu khả quan khi tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định (đặc biệt là năm 2005 và 2006 khi GDP tăng lần lượt 8,44% và 8,23%) thể hiện sự phục hồi của nền kinh tế. Tuy nhiên để đạt được điều này thì Chính phủ cũng đã phải hy sinh bằng việc chỉ số giá tiêu dùng tăng lên nhiều, từ mức giảm phát -1.71% năm 2000 lên mức lạm phát 7.71% vào năm 2004, duy trì ở mức cao trong 2 năm tiếp theo, đỉnh điểm là năm 2005 với tỉ lệ tăng CPI lên đến 8,29%. Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tăng mạnh bắt đầu từ 2004 xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây :
- Một số sự kiện trông thấy gây ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả như giá dầu thế giới tăng cao do xung đột chính trị giữa Mỹ và I-rắc vào đầu năm 2003, dịch cúm gà, giá vật liệu xây dựng thế giới tăng, biến động giá của một số mặt hàng theo mùa vụ…Trong đó, đặc biệt là nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng mạnh và lại chiếm tỷ trọng lớn trong CPI (47% vào thời điểm này)
- Nhằm tránh tác động của khủng hoảng Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu vào năm 2001 đi liền với việc gia tăng tín dụng nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì thế tổng cầu cũng như cung tiền trong nền kinh tế đã tăng mạnh và làm cho tỉ lệ lạm phát có xu hướng gia tăng trở lại kể từ năm 2002 (từ -0,43% năm 2001 lên 3,83% năm 2002)
- Trong thời kỳ này, độ mở của nền kinh tế Việt Nam có xu hướng tăng, việc sản xuất trong nước càng phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu nên giá cả các yếu tố sản xuất trên thế giới biến động mạnh gây sức ép lên lạm phát ở Việt Nam
2.1.3 các giải phát thực hiện và kết quả đạt được :
- Vào năm 2003, trước tình hình giá xăng dầu trên thế giới biến động mạnh do những bất ổn chính trị giữa Mỹ và Irắc và hiện tượng một số cửa hàng xăng dầu đầu cơ và không bán xăng cho người tiêu dùng, Bộ thương mại đã có những chấn chỉnh kịp thời yêu cầu tât cả các cửa hàng xăng dầu phải mở cửa bán hàng trở lại và xử phạt các cửa hàng đã đóng cửa bán hàng trong khi vẫn có xăng trong cửa hàng nhằm bình ổn giá xăng dầu tránh gây tác động tiêu cực đến giá cả các mặt hàng khác trong nền kinh tế. Cũng trong thời gian này, Ngân sách đã phải chi một lượng lớn tiền để bù lỗ cho mặt hàng xăng dầu, riêng năm 2005 ước tính số tiền này lên đến vài chục nghìn tỉ đồng.
- NHNN đã quyết định tăng các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Từ kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc tháng 7-2004, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi đồng Việt Nam của các ngân hàng từ 2% lên 5%; riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4% trên tổng số tiền gửi phải dự trữ bắt buộc của loại không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng; tăng từ 1% lên 2% đối với tiền gửi từ 12 tháng đến 24 tháng. Tỷ lệ dự trữ cao nói trên được duy trì trong suốt cả năm 2005 làm cho tổng số tiền dự trữ bắt buộc tăng thêm phải nộp về NHNN trong năm 2005 so với các năm trước ước tính khoảng 6000-7000 tỷ đồng
- Ngay từ đầu năm 2005, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN đều tăng lên để hút khối lượng tiền trong lưu thông vào. Tháng 1-2005, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 5,0%/năm lên 5,5%/năm và lãi suất chiết khấu từ 3,0% lên 3,5%/năm. Từ tháng 2-2005 lãi suất cơ bản tăng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm. Từ tháng 4-2005, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 5,0%/năm lên 6,0%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 3,5% lên 4,0%/năm. Từ tháng 12-2005, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 6,5%, lãi suất chiết khấu tăng lên 4,5%/năm, lãi suất cơ bản tăng lên 8,25%/năm.
2.2 Giai đoạn 2007 – 2011 :
2.2.1 Bối cảnh kinh tế xã hội (2007-2011):
Kinh tế tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, từng bước khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế, một số chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. GDP tăng bình quân hàng năm 12,4% (kế hoạch 13-14,5%), so với 5 năm trước tăng 2,1%; trong đó nông lâm nghiệp 8,3%, tăng 1,8%, công nghiệp và xây dựng 15,1%, tăng 0,2%, thương mại và dịch vụ 17,4%, tăng 1,2%. Tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm từ 52,8% xuống còn 41%; công nghiệp và xây dựng tăng từ 20,5% lên 27,5 %; thương mại và dịch vụ tăng từ 26,7% lên 31,5%. Bình quân thu nhập đầu người đến năm 2010 đạt 712USD (kế hoạch 710USD), bằng 2,3 lần so với năm 2006.
Sản xuất nông nghiệp phát triển khá, đúng hướng và nâng dần hiệu quả
Sản xuất Công nghiệp-TTCN tiếp tục phát triển với tốc độ tăng bình quân 14,5%, cao hơn 5 năm trước 1,1%.
Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ.
2.2.2 Thực trạng lạm phát trong giai đoạn (2007-2011):
Lạm phát, sau khi giảm nhẹ trong năm 2006 đã lại tăng mạnh tới 8,3% trong năm 2007 và lên tới gần 23% trong năm 2008.
Năm 2007, giá lương thực, thực phẩm (LT-TP) trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18.9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63% của cả năm, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5%, thực phẩm tăng 21,16%..
Nguồn : Tổng cục thống kê -
Chỉ số giá tiêu dùng trong 10 tháng đầu năm 2008
Nguồn : www.tuoitre.com.vn
Năm 2008, chỉ trong 4 tháng đầu năm, giá LT-TP đã tăng 18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của lạm phát CPI và cao tương đương mức tăng giá LT-TP của cả năm 2007, trong đó lương thực tăng 25%, còn thực phẩm tăng 15,6%. Tình trạng thiếu lương thực trầm trọng trên thế giới đã làm cho giá lương thực thực phẩm tăng đột biến, tiêu biểu là vào cuối tháng 3 đầu tháng 4 năm 2008 với mức tăng từ 50 – 100%.
Có nhiều lý do đã được đưa ra nhằm giải thích cho sự tăng mạnh trở lại của lạm phát trong những năm 2007-2008. Những lý do này bao gồm sự tăng mạnh của mức lương tối thiểu làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng lên, sự gia tăng của giá cả hàng hóa quốc tế (xăng, dầu, phôi thép,…), chính sách tiền tệ lỏng lẻo và không linh hoạt, chính sách quản lý tỷ giá cứng nhắc và thiếu linh hoạt, sự mở cửa của Việt Nam với thế giới từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006 khiến cho luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam nhưng nền kinh tế thì không hấp thụ hết. Mặt khác, lượng kiều hối cũng gia tăng đáng kể. Vì vậy, để giữ ổn định tỷ giá đồng thời đạt được mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối lên 13-20 tuần, NHNN đã phải bơm một lượng nội tệ lớn vào nền kinh tế góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở Việt Nam từ cuối năm 2009. Giá cả trên thị trường quốc tế cùng với lực cầu giảm mạnh đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Nhờ các gói kích cầu của Chính phủ bắt đầu gia tăng từ quý II năm 2009 làm cho cung tiền và tín dụng tăng mạnh, vì thế kinh tế Việt Nam tuy có suy giảm đáng kể nhưng vẫn đạt được mức tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Điều này thể hiện qua biểu đồ sau
Nguồn : Vietnam Real Estate –
Có thể nói lạm phát năm 2009 nằm trong dự tính và kiểm soát được lạm phát là một thành công đáng kể của Chính phủ Việt Nam. CPI bình quân cả năm 2009 tăng 6,88% so với năm 2008, đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 7% mà Chính phủ đã đề ra. Thành công đó càng đặc biệt hơn khi đi đôi với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp không tới mức nguy hiểm như dự đoán những tháng đầu năm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta, đặc biệt hoạt động xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, cũng vì chính những gói kích cầu trong năm 2009 để đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, một hệ quả là những năm sau cung tiền M2 tăng mạnh đồng thời với những chính sách vĩ mô nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP vào năm 2010 là 6,5% làm cho tỉ lệ lạm phát cũng có xu hướng gia tăng trở lại vào năm 2010 (11,75%)
Nguồn : Tác giả tổng hợp số liệu từ tổng cục thống kê Việt Nam
Qua biểu đồ sau chúng ta có thể thấy một số diễn biến chính của lạm phát năm 2009 và 2010 :
Năm 2010, diễn biến CPI như hình chiếc cốc, tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2009. Trong những tháng đầu năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong hai tháng đầu năm tăng cao
……………………………………………………………
2.2.3 Các giải pháp thực hiện và kết quả đạt được:
Trong thời kỳ này chính phủ đã thực hiện các chính sách nhằm điều tiết lạm phát cụ thể như sau :
- NHNN tăng các mức lãi suất điều tiết thị trường tiền tệ nhằm hút lượng tiền trong lưu thông vào. Các mức lãi suất này tăng dần được thể hiện qua biểu đồ sau :
Nguồn : Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đồng thời với việc gia tăng các mức lãi suất điều tiết thị trường này, NHNN cũng xem xét, theo dõi khả năng chịu đựng cũng như hỗ trợ vốn kịp thời để đảm bảo khả năng thanh khoản cho hệ thống NHTM
Về tín dụng, trong năm 2008, NHNN đề ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng tối đa 30% nhưng đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn.Tăng cường kiểm soát, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng theo chuẩn mực quốc tế.
- Về chính sách tài khóa, Chính phủ cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách(2007-2008) bằng cách cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Trước năm 2007-2008, tức là trước khi có lạm phát phi mã, tình hình chi tiêu công và đầu tư nhà nước ở Việt Nam thực sự có nhiều vấn đề cụ thể như hiệu quả đầu tư kém, tính minh bạch thấp, năng lực phân bổ đầu tư yếu, kém hiệu quả hoạt động…Tuy nhiên năm 2008, dù nhiều bất lợi từ nền kinh tế thế giới nhưng ngân sách nhà nước vẫn đứng vững và bội chi trong phạm vi an toàn.
- Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,(2007-2008) khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, đảm bảo cân đối cung cầu, tránh những cú sốc cung bất lợi cho nền kinh tế. Tuy nhiên biện pháp này của Chính phủ được thực hiện chưa thật sự hiệu quả do biện pháp thắt chặt tiền tệ ở trên đã tác động rất mạnh tới sức sản xuất của cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp tư nhân, đa số là vừa và nhỏ, không chịu nổi sức ép của lãi suất cũng như tình hình kinh tế thế giới ngày một xấu đi đã phải giảm bớt sản xuất, cắt giảm nhân công.
-Tăng cường công tác thanh tra, giám sát nhằm bình ổn giá cả trên thị trường. Trong giai đoạn này, các Sở Ban Ngành địa phương đã thực hiện theo chỉ đạo của Bộ Tài Chính đã tập trung kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về giá, phí, kiểm tra các yếu tố hình thành giá, đặc biệt là vào những thời điểm nhạy cảm, dễ gây biến động giá cả lớn chẳng hạn như Tết nguyên đán, các dịp Quốc lễ,… Đồng thời, các Sở Tài Chính đã phối hợp với Sở Công Thương ở các tỉnh, thành tăng cường kiểm tra nhằm tránh tình trạng đầu cơ, nâng giá trái phép, buôn lậu qua biên giới,... nhằm tránh những biến động giả tạo gây sức ép lên cung cầu hàng hóa. Cùng với các biện pháp như bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, tăng cường quản lý thị trường, thì kiểm tra, kiểm soát giá cả được coi là một trong những biện pháp trọng tâm nhằm không để xảy ra tình trạng đột biến về giá tại các địa phương trong thời gian trước đây.
- Chính phủ tập trung kiềm chế lạm phát bằng những biện pháp chủ yếu sau (2009-2010) :
Về Chính sách tiền tệ :
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động triển khai các biện pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thông qua việc điều hành tốt các công cụ của chính sách tiền tệ bảo đảm kiềm chế không để lạm phát cao và đáp ứng yêu cầu thanh khoản của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh;
Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng 25%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng 37,73% của năm 2009 với mục đích là để “thắt” dần chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng tránh việc thắt chặt đột ngột có thể gây “sốc” đối với nền kinh tế cũng như đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Bởi vậy, tăng trưởng tín dụng năm 2010 ở mức 25% vẫn là hợp lý khi cao hơn so với mức 21% của năm 2008, năm điển hình của chính sách tiền tệ thắt chặt.
Kết thúc năm 2010, Thống đốc NHNN Việt Nam - Nguyễn Văn Giàu cũng cho biết tín dụng năm 2010 tăng 27,65% (đã loại trừ hư số tăng của tỷ giá vàng), tín dụng bằng VND tăng 25,34%, bằng ngoại tệ tăng 37,76%. Do vậy có thể thấy là mức tăng trưởng tín dụng năm 2010 vượt so với mục tiêu đề ra một ít.
Đồng thời, các cơ quan chức năng cũng đã tăng cường kiểm tra, giát sát để hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ theo đúng quy định; thực hiện tốt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về mua ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và các tập đoàn kinh tế, không để xảy ra việc đầu cơ, găm giữ ngoại tệ làm ảnh hưởng đến mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Về chính sách tài khóa :
Chính phủ tập trung nguồn vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các công trình có khả năng đưa vào sử dụng trong năm 2009. Trong đó yêu cầu huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, giải ngân nhanh các nguồn đầu tư phát triển, nhất là các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, những công trình giao thông quan trọng ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, có tính kết nối vận tải cao.
Về cán cân thanh toán :
Nhằm mục tiêu giảm nhập siêu trong thời gian này, Thủ tướng ra chỉ đạo thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời kiểm soát có hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Để tăng mạnh xuất khẩu, Thủ tướng cũng yêu cầu các ngành nhanh chóng tháo gỡ những trở ngại liên quan đến xuất khẩu, các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ.
Về quản lý thị trường, bình ổn giá cả :
Chính phủ đã giao cho các Bộ: Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng chủ động rà soát cân đối cung - cầu các loại hàng hóa thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước như: gạo, xăng, dầu, phân bón, xi-măng, sắt thép,....tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát giá cả, thị trường; xử phạt nghiêm, kịp thời các hành vi vi phạm các quy định về quản lý giá, các hành vi lợi dụng chủ trương điều chỉnh giá của Nhà nước để đẩy giá hàng hóa lên cao, các hành vi đầu cơ găm hàng thu lợi bất chính của các tổ chức, cá nhân.
Về công tác minh bạch hóa thông tin và tuyên truyền :
Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo tốt công tác thông tin, tuyên truyền, không gây hoang mang, tạo tâm lý tăng giá và thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác chủ trương, biện pháp điều hành giá cả của Chính phủ trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân hiểu và đồng thuận với chủ trương, đường lối, chính sách của Ðảng, Nhà nước.
Những biện pháp NHNN đã thực hiện để kiểm soát lạm phát trong những tháng đầu năm 2011 :
Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng:
- NHNN thực hiện tăng các mức lãi suất điều tiết thị trường, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ưu tiên kiềm chế lạm phát với diễn biến như sau:
Lãi suất tái cấp vốn, Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng, lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt nam đối với các ngân hàng là 13%/năm
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
13%
692/QĐ-NHNN 31/3/2011
01/04/2011
12%
379/QĐ-NHNN 8/3/2011
08/03/2011
11%
271/QĐNHNN 17/02/2011
17/02/2011
9%
447/TB-NHNN 29/11/2010
01/12/2010
Nguồn : Website NHNN Việt Nam -
Lãi suất tái chiết khấu là 12%
Giá trị
Văn bản quyết định
Ngày áp dụng
12%
379/QĐ-NHNN 8/3/2011
08/03/2011
7%
447/TB-NHNN 29/11/2010
01/12/2010
Nguồn : Website NHNN Việt Nam -
Lãi suất cơ bản từ đầu năm 2011 đến nay vẫn giữ nguyên mức 9% so với ngày 1/12/2010
- NHNN ấn định mức lãi suất huy động nội tệ trần (đã bao gồm các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức) ở mức 14%/năm, kiên quyết xử phạt những NHTM vượt rào lãi suất huy động nhằm tránh sự gia tăng trong lãi suất đầu ra, gây ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp, dẫn đến giá thành sản xuất tăng cao do chi phí sử dụng vốn cao.
- Chỉ đạo các TCTD xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2011 phù hợp với mục tiêu tăng tổng dư nợ tín dụng dưới 20% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 15-16%; giảm dần tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng dư nợ của tổ chức tín dụng (tối đa là 20% đến 30/6/2011 và tối đa là 15% đến 31/12/2011); giám sát chặt chẽ nợ xấu phát sinh. Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh linh hoạt các tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro và các tỷ lệ an toàn khác nhằm hướng các luồng vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng và thiết yếu của nền kinh tế.
Điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối:
- Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 18.932 lên mức 20.693 VND/USD áp dụng cho ngày 11/02/2011 và thu hẹp biên độ ấn định tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ ± 3% xuống ± 1% nhằm tăng tính thanh khoản của thị trường, khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và góp phần tăng dự trữ ngoại hối.
- Kiểm soát chặt chẽ hoạt động cho vay ngoại tệ và bán ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu các mặt hàng thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, không cấp bách.
- Theo dõi và dự báo sát biến động giá vàng thế giới, cung - cầu vàng trong nước để điều hành hoạt động xuất nhập khẩu vàng hợp lý, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động đầu cơ, găm giữ, thao túng thị trường.
- Công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng:
Yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ, phân loại tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo đúng quy định của pháp luật; thực hiện việc kiểm toán nội bộ, kiểm soát, đánh giá thực hiện quy định của pháp luật và quy định nội bộ về tín dụng, phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời nguy cơ rủi ro tín dụng.
Xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra các tổ chức tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2011 về cho vay lĩnh vực phi sản xuất, chất lượng tín dụng và việc thực hiện các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm và công bố công khai trên website Ngân hàng Nhà nước.
2.3 những tác động của lạm phát đối với nền kinh tế việt nam:
2.3.1 Tác động đến đời sống của người nghèo trong xã hội :
Lạm phát cao đã có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta, làm chao đảo cuộc sống của dân chúng, trong đó hai nhóm đối tượng có thu nhập thấp phải chịu gánh nặng lạm phát lớn nhất là: những người sống chủ yếu dựa vào tiền lương như công nhân, viên chức, người về hưu, người hưởng trợ cấp xã hội khác... (vì tốc độ tăng tiền lương thì tính bằng năm, còn tốc độ tăng giá thì tính bằng tháng); và nông dân và những người kinh doanh nhỏ lẻ (vì tốc độ tăng chi phí “đầu vào” cao hơn tốc độ tăng giá bán “đầu ra” của họ). Chính vì thế, nếu NHNN Việt Nam không thể kiểm soát lạm phát thì mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Chính phủ cũng khó mà thực hiện được.
2.3.2 Tác động đến khối doanh nghiệp :
Thứ nhất, trong bối cảnh lạm phát gia tăng, các hoạt động kinh doanh sẽ khó dự báo hơn vì sự biến động giá cả đầu vào kinh doanh. Một tỉ lệ lạm phát cao thường đi kèm với sự gia tăng tỷ giá hối đoái, chính vì vậy mà những doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn trong việc nhập khẩu đầu vào, tuy nhiên việc tăng giá không thể thực hiện ngay tức khắc so với việc tăng giá đầu vào mà chỉ có thể thực hiện trong trung và dài hạn, chính vì vậy lợi nhuận của doanh nghiệp cũng suy giảm đáng kể. Và dẫu cho việc tăng giá bán có thực hiện được đi chăng nữa thì khả năng cạnh tranh về giá cả của doanh nghiệp cũng do vậy mà giảm đi.
Lạm phát cao đang gia tăng hiện nay cũng có xu hướng đẩy lãi suất biến động tăng, vì sớm muộn thì quy tắc “lãi suất dương” vẫn chi phối thị trường tài chính. Lãi suất cho vay của các NHTM đang ở mức 17-20%/năm, các doanh nghiệp buộc phải có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn tỷ lệ này thì mới dám vay vốn, vì thế doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong tìm kiếm nguồn vốn. Từ đó xuất hiện các hiện tượng tiêu cực trong các doanh nghiệp như đầu cơ, trốn thuế nhằm gia tăng lợi nhuận. Ngoài ra, một tác hại khác nữa đó là doanh nghiệp vừa và nhỏ trơng thời kỳ khó khăn không thể tăng lương cho phù hợp với sự mất giá của đồng tiền, nguồn nhân lực chảy sang những mảnh đất màu mỡ hơn (tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài, công ty liên doanh,…)
Lạm phát cao trong thời gian gần đây cũng làm cho mức giá cả cũng như các dòng tiền dự kiến trong tương lai của doanh nghiệp khó dự đoán hơn, từ đó ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của các Doanh nghiệp. Cuộc khảo sát do Công ty Dịch vụ thông tin tài chính WVB Việt Nam và Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn tài chính Dầu khí (PVFC Invest) tiến hành từ ngày 15/12/2010 đến đầu tháng 1/2011 tại 233 doanh nghiệp thuộc 11 lĩnh vực ngành nghề chủ chốt của Việt Nam cho thấy lạm phát suy giảm lòng tin của doanh nghiệp về chiến lược cũng như triển vọng đầu tư. Kết quả là kế hoạch về tuyển dụng lao động, cũng như đầu tư mở rộng đối với tài sản cố định cũng cùng theo xu thế chung, sụt giảm đáng kể.
2.3.3 Tác động đến hoạt động của hệ thống ngân hàng :
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, các NHTM gặp khó khăn trong việc huy động vốn hơn, tuy nhiên nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Điều này một lần nữa lại ảnh hưởng xấu trở lại đến khối doanh nghiệp nói riêng và mục tiêu tăng trưởng kinh tế nói chung.
Chẳng hạn như việc NHNN Việt Nam điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng lên 13%/năm và lãi suất tái chiết khấu lên 12%/năm đã tạo nên sức ép cho việc huy động vốn của NHTM.
2.3.4 Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán :
Quan hệ giữa lãi suất thị trường và lãi suất chứng khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Khi lạm phát cao xảy ra, lãi suất thị trường có xu hướng tăng cao, vì thế các dòng tiền dự kiến trong tương lai sẽ được chiết khấu về hiện tại với một lãi suất chiết khấu (tỷ suất sinh lợi đòi hỏi) cao hơn cho nên giá của chứng khoán sẽ giảm. Hơn nữa, lãi suất của chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn so với lãi suất ngân hàng nên mọi người thường ưa thích gửi tiền vào ngân hàng hơn, và “nhát tay” trong đầu tư chứng khoán hơn.
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ cho thấy, các chính sách tài khoá và tiền tệ sẽ đồng thời được thắt chặt trong thời gian tới để phục vụ mục tiêu ổn định vĩ mô. Khi Nhà nước chủ trương hạn chế tín dụng cho lĩnh vực chứng khoán thì dòng tiền vào thị trường này sẽ khó khăn, chi phí sẽ tăng cao. Đây cũng chính là lý do làm cho việc giao dịch trên các thị trường chứng khoán chính ở Việt Nam (HoSE, HASTC, Upcom) trở nên ảm đạm hơn.
CHƯƠNG III :
CÁC BIỆN PHÁP ĐỀ XUẤT KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
3.1 Nhóm giải phát ngắn hạn
3.1.1 giảm lãi suất huy động bằng USD.NHNN cần có những quy định về tỷ lệ cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại
3.1.2 Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt Ngân sách quá mức sẽ dẫn đến lạm phát cao. Vì vậy, Chính phủ cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng.
Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu hàng hóa. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.
Để làm được điều này, Chính phủ cần phải :
- Rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
- Kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả.
- Tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
Tuy nhiên, việc thắt chặt chi tiêu NSNN quá mức đôi khi làm giảm đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại hay thậm chí dẫn đến thiểu phát và không giải quyết được các vấn đề xã hội cần thiết. Do vậy, cần phải chi tiêu NSNN một cách hiệu quả và hợp lý, không chi tiêu quá mức và cũng không thắt chặt một cách đơn thuần.
3.1.3 thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ
phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Trong số thống kê về tỷ lệ lạm phát 11,75% do Tổng cục Thống kê đưa ra thì yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65%. Vì vậy, phải có biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ là điều cần thiết. Phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010 là 31%), Cung ứng tiền ra lưu thông chỉ khoảng 15% (năm 2010 là 26%) đồng thời dành tín dụng ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư cho các lĩnh vực thiết yếu khác trên nguyên tắc điều hành minh bạch. Cùng với việc kiềm chế lạm phát, phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một trong những công cụ kiềm chế lạm phát.
Điều hành tỷ giá ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, Chính phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để kiểm soát bằng được tỷ giá theo quy định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị trường chợ đen chi phối. Các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ cho ngân hàng và ngân hàng sẵn sàng đáp ứng đầy đủ về ngoại tệ cho các doanh nghiệp để nhập khẩu các loại hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do, buôn lậu vàng qua biên giới.
Để sự mâu thuẫn trong điều hành chính sách, Chính phủ cần thực sự ưu tiên ổn định vĩ mô thay vì chạy theo tốc độ tăng trưởng GDP, ưu tiên phát triển bền vững thay vì tăng trưởng nhất thời, ưu tiên hiệu quả thay vì số lượng đầu tư. Điều này có nghĩa là các mục tiêu về chất lượng - cụ thể là tính ổn định, bền vững và hiệu quả - phải được đưa vào hệ thống mục tiêu của Chính phủ và được ưu tiên so với các mục tiêu số lượng.
Trong hoạch định chiến lược và chính sách kinh tế - xã hội, việc đưa ra mục tiêu vĩ mô là cần thiết để làm cơ sở cho công tác điều hành của Chính phủ cũng như phát tín hiệu cho thị trường. Tuy nhiên, để hoạt động điều hành có hiệu lực và tín hiệu phát ra có độ tin cậy cao, các mục tiêu vĩ mô phải tương thích với nhau, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế trong nước cũng như bối cảnh kinh tế thế giới. Nếu không, môi trường vĩ mô sẽ bất ổn, niềm tin vào năng lực điều hành của Chính phủ sẽ giảm sút, còn doanh nghiệp và người dân sẽ chỉ lo phòng thủ và đánh quả - những hoạt động không những không tạo ra giá trị gia tăng mà còn làm nền kinh tế phải đối diện những khó khăn khác.
Chẳng hạn như việc Quốc hội đề ra mục tiêu cho năm 2011 là tăng trưởng GDP 7-7,5%, đầu tư xã hội 40% GDP, và CPI dưới 7%. Một lần nữa, mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn năm trước một cách đáng kể, đồng thời mục tiêu CPI lại thấp hơn nhiều so với kết quả thực hiện của năm trước. Vì vậy, có thể thấy ngay là ít nhất 1 trong 2 mục tiêu này sẽ không thực hiện được trừ phi trong năm 2011 hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực của nền kinh tế được cải thiện vượt bậc, mà điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều.
3.1.4 Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán
Cán cân thương mại, cán cân thanh toán cũng có mối quan hệ mật thiết với lạm phát thông qua tỷ giá hối đoái. Nhập siêu làm thâm hụt cán cân thương mại, từ đó làm mất cân đối cán cân thanh toán, tạo sức ép lên tỷ giá hối đoái và từ đó tác động xấu đến lạm phát.
Ngoài ra, dự trữ ngoại hối chính thức cũng giảm mạnh dưới tác động của thâm hụt cán cân thanh toán, gây áp lực trực tiếp lên phá giá tiền đồng và gây nên tác động tăng giá kép ở Việt Nam.
Hai thành phần chính của Cán cân thanh toán quốc tế đó là cán cân tài khoản vãng lai và cán cân tài khoản vốn. Để cải thiện tình hình cán cân thanh toán Chính phủ có thể thực hiện các biện pháp sau :
Cải thiện cán cân tài khoản vãng lai
Đẩy mạnh xuất khẩu :
- Ngân hàng Nhà nước cần bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể;
- Tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để tiết giảm thời gian thông quan và giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam
Hạn chế nhập siêu :
- Có cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hàng tiêu dùng để tạo ra được nhiều hàng hóa đạt chất lượng thay thế hàng nhập khẩu
- Áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Cải thiện cán cân tài khoản vốn :
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp
Để thực hiện điều này, Chính phủ cần phải :
- Cải thiện tình hình chính trị, môi trường kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính để tạo một môi trường đầu tư an toàn, ổn định và thuận lợi cho người nước ngoài.
- Thiết lập các chính sách bình đẳng về ưu đãi đầu tư, chính sách thuế, phí, lệ phí giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước và tiếp tục thực hiện bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới mọi hình thức.
- Cải tổ hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thông lệ quốc tế trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào các tổ chức, liên kết kinh tế khu vực và thế giới.
3.1.5 Giải pháp tâm lý :
Có thể nói, việc đưa nhân tố kỳ vọng vào phân tích hành vi của con người là một bước “đại nhảy vọt” trong khoa học kinh tế. Trong một bài viết năm 1961, John Muth là người đầu tiên đưa vấn đề kỳ vọng vào phân tích biến động giá cả và sau đó, những nhà kinh tế như Milton Friedman và Robert Lucas, Thomas Sargent là những người tiên phong đưa sự kỳ vọng vào hệ thống lý thuyết kinh tế.
Một khi dân chúng kỳ vọng lạm phát trong tương lai sẽ giảm thì chính sách kiềm chế lạm phát của Chính phủ như con tàu xuôi dòng và ngược lại. Nếu không chú tâm đến chuyện này thì có thể mọi sức lực của Chính phủ, cho dù đúng đắn, cũng sẽ thu kết quả hạn chế vì người dân có thể sẽ hành động ngược với mong muốn của họ.
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tác động của lạm phát kỳ vọng thông qua ví dụ sau (*) “Lạm phát kỳ vọng: không nên coi thường” -
Trong cuộc sống, doanh nghiệp và người làm thuê sẽ mặc cả tiền lương của giai đoạn làm việc trong tương lai bằng cách hình dung giá cả của giai đoạn đó sẽ như thế nào. Một khi người làm thuê tiên đoán rằng vào lúc mà mình nhận lương giá cả sẽ tăng gấp đôi thì chắc chắn rằng ngày đặt bút ký hợp đồng lao động hôm nay là cơ hội tốt nhất để họ yêu cầu doanh nghiệp phải tăng tiền lương của mình, ít nhất là gấp đôi, nếu không muốn sắp tới phải ăn chỉ bằng một nửa của ngày hôm nay! Và nếu chủ doanh nghiệp cũng đồng ý chuyện này, nghĩa là sẽ trả lương tăng gấp đôi, thì không có lý do gì họ không tăng giá bán sản phẩm để bù vào phần chi phí tăng lương (và cả những nguyên liệu đầu vào mà họ cũng nghĩ là tăng).
Như vậy, khi cả hai bộ phận này trong dân chúng cùng có một kỳ vọng về giá cả trong tương lai tăng gấp đôi thì chắc chắn nó sẽ tăng ít nhất là gấp đôi.
Rõ ràng là, sự tăng giá này chẳng phải bắt nguồn từ tăng tiền quá mức, biến động giá tương đối như tỷ giá hay sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế... mà bắt nguồn từ yếu tố kỳ vọng. Các chính sách chống lạm phát sẽ khó khăn hơn khi mà yếu tố kỳ vọng chưa ổn định.
Sự kỳ vọng về lạm phát cao trong tương lai sẽ rất nguy hiểm, vì thế Chính phủ cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, minh bạch hóa thông tin về tình hình kinh tế nước ta cũng như quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ; từ đó tạo tâm lý ổn định trong công chúng.
Để thực hiện được điều này, Bộ Thông tin và Truyền thông cần phải đảm bảo các nội dung thông tin trên báo chí phải phản ánh trung thực, khách quan, chính xác, đúng định hướng việc điều hành chính sách tiền tệ của Chính phủ. Trong xây dựng cơ bản, cần phải tuyên truyền có hiệu quả các phong trào thi đua lao động sản xuất, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng cường việc tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, phản ánh đầy đủ các chủ trương, chính sách và các thành tựu đã đạt được trong việc điều hành của Đảng, Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội.
3.2 Nhóm giải pháp trong dài hạn
3.2.1 Đổi mới chính sách quản lý tài chính công
Chính sách thu phải khai thác và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, tăng thu từ thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu quả. Ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực làm cơ sở cho các cân đối khác trong nền kinh tế.
Trong dài hạn, muốn kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế ổn định, Nhà nước nên đẩy mạnh việc tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng giao thông, gia tăng cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và giảm tỉ lệ cổ phần Nhà nước trong các công ty cổ phần...Điều này sẽ góp phần làm giảm áp lực chi NSNN, góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong dài hạn.
3.2.2 Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Ở đây các nhà kinh tế chủ trương cần phải xóa bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt động của thị trường. Nếu quá trình cạnh tranh được nâng lên ở mức độ hoàn hảo thì giá cả sẽ có xu hướng giảm xuống. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đó sẽ giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, giảm được giá bán hàng hóa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- l7841m phamp225t vamp224 tamp225c 273ong cua lam phat.doc