Từ những phân tích ở trên ,ta có thể thấy rằng trong thời đại ngày nay vai trò điều tiết của Chính phủ đối với nền kinh tế thị trường là rất quan trọng .Trên thế giới không một nền kinh tế nào có thể phát triển ổn định bền vững mà lại không cần đến sự can thiệp của Nhà nước . Những thất bại thị trường không phải là sẽ không diễn ra , nhưng “ bàn tay hữu hình ” của Nhà nước với những công cụ điều tiết vĩ mô của mình có thể làm giảm nhẹ hậu quả của những thất bại thị trường .Chính vì vậy nâng cao vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước là một xu thế khách quan .Mọi quốc gia , các mô hình kinh tế phát triển thành công hay suy thoái , ổn định hay rối loạn , giàu hay nghèo đều có thể tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò kinh tế của Nhà nước .
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạm phát ở Đức ,đại suy thoái ở Mĩ. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhưng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đưa ra những chính sách hợp lý.
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trường-nhóm yếu tố chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình “ tức các quy luật kinh tế thị trường . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với “bàn tay hữu hình “, tức các công cụ quản lý của nhà nước như: pháp luật, chính sách, kế hoạch.
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hướng tới sự công bằng, hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay thế kia thì mới đạt được hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu được đối với nền kinh tế đất nước .
3, Các công cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ
Nhà nước muốn thực hiện chức năng quản lý của mình thì phải có những công
cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả . . Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô.
a) Hệ thống pháp luật :
Hệ thống pháp luật tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế ... nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng như đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Nó đưa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vận động theo ý muốn chủ quan của chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể .
b. Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá bao gồm : Chi tiêu của Chính phủ và hệ thống thuế .
Chi tiêu của Chính phủ : Chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để có thể đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thì Nhà nước phải bỏ tiền để xây dựng những công trình phục vụ cho các hoạt động kinh tế như : đường sá , cầu cống , chợ , các ngành công nghiệp quan trọng … ngoài ra còn phải trả lương cho cán bộ công nhân viên chức , cảnh sát , quân đội …. Việc chi tiêu này của chính phủ cũng là một hình thức đầu tư nhưng nó khác với việc đầu tư của doanh nghiệp do nó không đem lại lợi nhuận cho Nhà nước nhưng bù lại nó lại đem lại những lợi ích rất thiết thực cho xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế . Trong thời kì lạm phát , Chính phủ phải cắt giảm chi tiêu của mình và sử dụng những công cụ kinh tế khác để đẩy lùi lạm phát . Như vậy , Chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí ngân sách Nhà nước . Chính phủ luôn phải cân nhắc kĩ càng trong việc chi tiêu của mình để tránh thâm hụt ngân sách nhà nước . Trong trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì Chính phủ phải huy động tiền gửi trong nhân dân hay vay nước ngoài để bù đắp ngân sách .
Như vậy, Nhà nước nào cũng phải chi tiêu, nhưng không phải số tiền mà nhà nước đã chi tiêu là tự nhiên có mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chính của nhà nước là thuế , còn những nguòn thu khác không đáng kể .
Hệ thống thuế : Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nước bắt buộc mỗi công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi người phải tuân theo. Thuế còn ảnh hưởng đến việc đầu tư của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu tư, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu tư hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu tư ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tương lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hưởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nước. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tương tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết được lượng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Như vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nước thì chỉ cần tăng thuế nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Như vậy, để ổn định sản lượng gần với sản lượng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách không bình thường thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trường hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thường thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách. Cính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khyuến khích sản xuất , xuất khẩu , điều tiết tiêu dùng ,khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trog nền kinh tế , thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài , khuyến khích việc đầu tư có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
c, Chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường , tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô được dùng tương đối phổ biến của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ương kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lượng cung ứng tiền trong lưu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thường trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng làm cholượng tiền trong lưu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ương giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Như vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến đầu tư,từ đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d.Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn như:đồng lương,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lương-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt như:việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lương-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lương, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lượng tiền.
e.Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nước được thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ như: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thương, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn như để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nước khác. Như vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trường ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo như mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có các công cụ khác như các kế hoạch, các chương trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình .
Qua nghiên cứu việc điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ta có thể thấy được mặt tiến bộ vượt trội hơn hẳn so với trong nền kinh tế chỉ huy :
Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế mà ở đó Chính phủ trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế .Còn trong nền kinh tế thị trường có sj điều tiết của Nhà nước thì cả Chính phủ và thị trường đều tham gia giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế . Ba vấn đề đó là : sản xuát cái gì , sản xuất như thế nào , và sản xuất cho ai .
Sản xuất cái gì : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước sẽ trực tiếp phân bố những nguồn lực ( đất đai , nguyên liệu , vốn kỹ thật , lao động…) cho các ngành , địa phương , các đơn vị kinh tế (công ty, xí nghiệp…); Nhà nước qui định công ty này , xí nhgiệp này sẽ sản xuất cái gì , số lượng là bao nhiêu , nhà nước cấp vốn , nguyên liệu . Còn trong kinh tế thị trường , Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất bất cứ mặt hàng nào đem lại lợi nhuận cho họ trong khuôn khổ của pháp luật . Còn Chính phủ tham gia sản xuất những hàng công cộng hay còn gọi là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các quá trình kinh tế . Bên cạnh đó Nhà nước cũng tham gia sản xuất những mặt hàng tư nhân như sắt , thép …
Sản xuất như thế nào : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước quyết định kỹ thuật , công nghệ , cách thức sản xuất . Còn trong kinh tế thị trường , Nhà nước sẵn sàng nhập những công nghệ kĩ thuật tốt nhất mà Nhà nước có thể và can thiệp tới những công ty nhập những ccông nghệ có hại cho cộnh đồng .
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước phân chia tổng sản phẩm quốc dân cho từng đơn vị , từng gia đình , từng cá nhân . Nghĩa là , các đơn vị sản xuất sau khi hoàn thành chỉ tiêu đã được đặt ra thì nộp lại cho Nhà nước .Nhà nước sẽ phân phối đều những mặt hàng đó đến các ngành , các gia đình thông qua tem phiếu . Trong kinh tế thị trường , cả Nhà nước và thị trường đều tham gia quá trình phân phối sản phẩm. Nhà nước có những chính sách trợ cấp cho người già , người tàn tật , trợ cấp khó khăn . Đối với một số mặt hàng , Nhà nước khyuến khích bằng những chính sách như : giảm thuế , trợ giá …
Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ do chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị trường, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nước rất đồ sộ làm cho nhà nước phải có chi phí quá lớn vào hệ thống này. Trên thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy này đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây và nó đã bị tan rã . Chính vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cấu kinh tế ở nức ta là một quyết định đúng đắn.
Phần II
Vị trí kinh tế của chính phủ nước CHXHCV VIệT NAM TRONG GIAI ĐOạN “ CÔNG NGHIệP HOá HIệN ĐạI HOá ĐấT NƯớc ”
Đất nước ta đang tự khẳng định mình bằng công cuộc “Công nghiệp hóa và hiện đại hóa “. Mặc dù chúng ta mới đang lẫm chẫm từng bước nhưng có sự điều tiết của chính phủ ở tầm vĩ mô thì cái đích trước mắt nhất định chúng ta sẽ sớm đạt được. Để có được những thành tựu đáng kể của ngày hôm nay, chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã bao phen phải đương đầu với những khó khăn thử thách. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chính phủ Việt Nam trong quản lý nền kinh tế của đất nước nói chung và nhất là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước. Thực tế chứng minh rằng: Chính phủ Việt Nam luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước .
I-/ Vị TRí KINH Tế CủA CHíNH PHủ VIệT NAM TRONG ThờI Kì CHUYểN ĐổI CƠ CHế
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định sự lựa chọn phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa .
Sự lựa chọn đó bắt nguồn từ nhận thức rõ những sai lầm trong việc xây dựng thể chế kinh tế theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính và cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này quá đề cao vai trò thúc đẩy và mở đường của quan hệ sản xuất, mà không tính đến quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đem chủ nghĩa xã hội đối lập với thị trường. Kết quả của mô hình đó là nền kinh tế kém phát triển, thị trường hạn hẹp và dẫn đến tình trạng khủng hoảng thiếu .
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức mới của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là chế độ kinh tế, trong đó mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác nhằm mục đích là phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại đi liền với tự do, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội .
Cần nhận thức rõ rằng, quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà chúng đã có từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinh tế khách quan khác .
Có thể nói, kinh tế hàng hóa với hình thức phát triển cao của nó là kinhtế thị trường, là loại hình kinh tế- xã hội được tổ chức thông qua thị trường trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội. Nó đã tồn tại với tư cách là hình thái kinh tế mang tính thích ứng rất mạnh, có thể gắn với chế độ tư hữu, và cũng có thể gắn với chế độ công hữu. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, cho đến nay chưa có một hình thái kinh tế nào hoạt động có hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường, vì thế không có lý do gì mà chủ nghĩa xã hội lại không sử dụng nó nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình .Trên thế giới hiện nay còn tồn tại nhiều mô hình kinh tế thị trường.Mỗi loại hình đều có những ưu thế và khuyết tật riêng. Vì thế, chúng ta cần khai thác những ưu điểm cũng như hạn chế nhược điểm của các mô hình kinh tế thị trường ,nhưng chắc chắn không có khuôn mẫu vạch sẵn cho mọi nước. Đối với từng nước, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình, cũng như bối cảnh quốc tế mà vạch ra đường lối cụ thể để phát triển nền kinh tế thị trường có sư quản lý của nhà nước. Chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là bước chuyển biến rất phức tạp và đầy khó khăn. Mấy năm qua, bên cạnh những thành tựu lớn của đổi mới, chúng ta cũng đã thấy được những hậu quả tiêu cực mà kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng gặp nhiều thiếu xót, phạm nhiều sai lầm, lệch lạc trong các chính sách xã hội.Tuy nhiên , những thiếu sót sai lầm đó đã được Đảng và nhà nước ta kịp thời khắc phục và sửa chữa .
Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường không hề làm phương hại đến chủ nghĩa xã hội, mà bằng các chính sách, biện pháp và công cụ quản lý điều tiết, nhà nước phục vụ các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất .
II-\ Vị TRí KINH Tế CủA CHíNH PHủ VIệT NAM TRONG GIAI ĐOạN “ CÔNG NGHIệP HOá - HIệN ĐạI HOá ’’ĐấT NƯớC ”
1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam
a, Quan điểm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
Đại hội VIII ĐảngCSVN trên cơ sở phân tích sâu sắc , toàn diện thực trạng đất nước sau 10 năm đổi mới và đặc điểm của thời đại ngày nay , đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kì phát triển mới - Đẩy mạnh công ngiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Đại hội cũng xác định những uan điểm cơ bản làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng nội dung , phươngg hướng , biện pháp , bước đi cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Những quan điểm đó là :
+ Trong thời đại hiện nay CNH phải gắn liền với hiện đại hoá .
+ Xây dựng nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới , hướng mạnh về xuất khẩu , đồng thời thay thế nhập khẩu.
+ Công nghiệp hoá , hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân , của mọi thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo .
+ Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững , tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ kinh tế và tiến bô xã hội .
+ Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá , kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại , tranh thủ đi nhanh vào hiện đại những khâu quyết định :
+ Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển , lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ ;
+ Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh .
b,Khái niệm công nghiệp hoá , hiện đại hoá :
Có thể hiểu khái quát : CNH –HĐH là quá trìnhchuyển đổi căn bản, toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế , xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính ,sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ , phương tiện và phương pháp tiên tiến , hiện đại , dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ , tạo ra năng suất lao động xã hội cao .
Cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại có cơ cấu kinh tế hợp lý có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học – công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch chính vì vậy đối với một nước có nền kinh tế còn chưa phát triển , chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp như nước ta hiện nay muốn xây dựng thành công mô hình XHCN thì công nghiệp hoá hiện đại hoá là tất yếu khách quan , một quy luật kinh tế mang tính phổ biến . Đối với những nước có nền kinh tế phát triển quá độ lên CNXH thì những nước này đã có sẵn nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên vấn đề công nghiệp hoá không cần phải đặt ra . Tuy nhiên , nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ là tiền đề vật chất cần thiết cho xã hội mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội bởi vì nó dựa trên chế độ tư hữu TBCN do đó phải có sự điều chỉnh để có cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội mới.
Đối với những nước này, thực hiện quy luật chung nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt quan hệ sản xuất và vận dụng những thành tựu khoa học-công nghệ mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật, biến tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản tạo thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phân bố lại một cách đồng đều trong cả nướcvà tiếp tục hiện đại hoá ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Còn đối với những nước đi lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì những nước này thường có nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân vì vậy muốn có cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiiện đại thì tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá . Công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau , song không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Công nghiệp hoá chỉ là cách thức tiến hành, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật là mục đích phải đạt, công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa hẹp nó mang tính lịch sử, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật lại là mục tiêu và công việc phải tiếp tục qua các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất mới-cộng sản chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá mang lại rất nhiều tác dụng :
- Tạo điều kiện để biến đổi về chất của lực lượng sản xuất , tăng năng suất lao động , tăng sự chế ngự của con người đối với tư nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân , góp phần quyết định thắng lợi của CNXH .
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước , nâng cao năng lực tích luỹ ,tăng công ăn việc làm nhờ đó mà tăng sự tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người , nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội .
- Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc phòng .
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc – tự chủ , đủ sức thực hiện việc phân công hợp tác quốc tế .
Do đó Đảng ta đã xác định “ Phát triển lực lượng sản xuất , công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay ”.
c, Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý ,quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với quá trình đã phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao ,quốc phòng an ninh vững chắc ,dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh ”. Và dự báo “ từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp ”.
Và để thực hiện những mục tiêu nói trên , Đảng ta đã đề ra những tư tưởng để chỉ đạo việc thực hiện :
+ Một là , thực hiện đồng thời ba mục tiêu : tăng trưởng cao , bbền vững và có hiệu quả ; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô ; chuẩn bị các tiền đề cho những bước phát triển cao hơn sau năm 2000 , chủ yếu là phát triẻn nguồn nhân lực ,khoa học công nghệ ,kết cấu hạ tầng ,hoàn thiện thể chất .
+ Hai là , thực hiện nhaats quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước theo định hướng XHCN ,phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất ,đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá .Đổi mới căn bản tổ chức và quản lý ,nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo.
+ Ba là ,kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội ,tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được sự chuyển biến rõ nét về thực hiện công bằng và tiến bộ xẫ hội .
+ Bốn là ,kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh ,nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế ,vừa phục vụ quốc phòng an ninh.
+ Năm là kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác ,tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển ,phát huy được lợi thế của mỗi vùng , tránh chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng .
2. Vai trò của Chính phủ trong quá trình “Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá” ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã từng có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính hpủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của chính phủ, phi nhà nước hóa. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quuan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế, dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh thế giới diễn ra vào năm 1929-1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của chính phủ chính là nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh phát triển có hiệu quả.Từ đó liên hệ tới vai trò của chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “.
Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế “của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NIEs. Có người đã nhấn mạnh đến yếu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản.Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục “. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giầu nhất châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đôla Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tai hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “Nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say “.
Các quốc gia như Nhật Bản và các NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một nhà nước mạnh, nhà nước này đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, luật pháp,v.v...
Thực tế ở Việt Nam cho thẩy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; phát triển kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,v.v...Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rơi vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: Chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp,v.v...Nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lênthoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của chính phủ đặc biệt quan trọng.Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của chính phủ là mạnh, và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chính phủ đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp .
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng như nội dung quản lý mà chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau :
-Điều khiển vĩ mô nền kinh tế .
-Quản lý ngân sách nhà nước .
-Hoạt động kinh tế .
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường .
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được phát triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động đang có xu hướng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá như là một phương thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nước có một sứ mạng hết sức quan trọng trong việc phát huy nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn chưa được toàn dụng và đang trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào những ngành sản xuất và dịch vụ cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức ép về công ăn việc làm đang căng thẳng trong xã hội, để rồi khi sức ép này không còn gay gắt nữa, trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào các ngành khác, loại công nghệ khác. Quan điểm như vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.
Chính phủ hướng vào cơ cấu công nghệ nhiều tầng với sự định hướng vào những công nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Qúa trình cộng nghiệp hoá đất nước một mặt hướng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp bách hiện tại, nhưng đồng thời cũng phải hướng tới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho tương lai gần ( 10-20 năm ) và tương lai xa (20-30 năm ). Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hướng hiện đại. Cơ cấu xã hội, phân công lao động xã hội không chỉ là chất kết dính các ngành kinh tế với nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và định hướng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản xuất còn nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm trọng, 75 % lực lượng lao động xã hội tập chung ở nông thôn và mức độ trang bị công cụ lao động, trình độ tay nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong những năm trước mắt vẫn cần phát triển những cộng nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội nhanh. Những công nghệ như vậy được kết hợp với nguồn lao động xã hội còn đang dư thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản phẩm đáp ứng ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trường trong nước.
Chính phủ đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phàn kinh tế. Khác với trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiện diện về cơ bản chỉ một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nước ta được tiến hành dưới tác động của cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gai của các nhà đầu tư cước ngoài. Trong nhiều năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến bên ngoài thì một môi trường đầu tư phát triẻn công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài. Kinh nghiệm quốc tế và nước ta cho thấy rằng, một đồng vốn ngoại tệ đầu tư bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tương đương tiền trong nước đi kèm
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hhiệu quả xã hội. Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường đặt ra một loạt vấn đề xã hội cần được xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phương thức để phát triển kinh tế. Sự phát triển có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho mọi người trong xã hội nhất là những người nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá là phân phối kết quả của phát triển kinh tế thông qua công nghiệp hoá đến được với mọi người dân trong xã hội, mọi vùng, mọi khu vực của đất nước. Quan điểm về sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu nâng cao vai trò tích cực của nhà nước trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hóa.
3. Những vấn đề mà Chính phủ phải giải quyết trong quá trình “Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá”
Công nghiệp hoá là để phát triển lực lượng sản xuất ,để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH .Quá trình đó đòi hỏi phải có : một khối lượng lớn về tư liệu sản xuất , có lực lượng lao động đông về số lượng và cao về chất lượng .Do đó phải có lượng vốn lớn nếu không thì không thể tiến hành công nghiệp hoá được . Từ sự cần thiết của vốn cho CNH như vậy nên Đảng ta đã coi tích luỹ vốm cho công nghiệp hoá là một trong hai nhiệm vụ kinh tế cơ bản và cấp bách hiện nay ở nước ta .Cơ cấu tích luỹ vốn ở nước ta là từ hai nguồn : nguồn vốn từ nước ngoài ( thông qua các khoản vay ,viện trợ , do quan hệ ngoại thương , và tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài ) , nguồn vốn trong nước( nguồn vốn trong nước được huy động qua các kênh chủ yếu : qua ngân sách nhà nước , qua kênh tín dụng ngân hàng , huy động vốn trong các xí nghiệp quốc doanh ) . Đối với những nước chưa phát triển thì thời gian đầu phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài là chủ yếu , đây là nguồn vốn quan trọng nhưng khôg thể thay thế nguồn vốn trong nước .
+ Đẩy mạnh nghiên cứu , ứng dụng khoa học công nghệ , bảo vệ môi trường sinh thái : Vị trí then chốt của cách mạng KH- KT trong quá trình cônh nghiệp hoá ở nước ta đòi hỏi Chính phủ phải đặt KH- CN như một quốc sách , như một động lực . Trong những năm tới , chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa đến việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học , cần có sự đầu tư thích đáng của nhà nước đối với những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị . Vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái phải đi liền với quá trình công nghiệp hoá .Về vấn đề này , chínhkinh nghiệm của các nước công nghiệp hoá trước ta đã rút ra được nhiều bài học bổ ích cho chúng ta . Công nghiệp hoá được thực hiện gắn liền với những biện pháp bảo vệ môi trường : áp dụng khoa học tiên tiến để xử lý các chất độc hại , chất thải , các dự án đầu tư nước ngoài cũng đều phải được xem xét về mặt tác động đến môi trường và biện pháp xử lý ,ngăn chặn tận gốc việc gây ô nhiễm môi trường , phát huy việc trồng cây xanh trong các khu công nghiệp đô thị …
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật , công nhân lành nghề , công nhân kĩ thuật cán bộ quản lý kinh doanh : CNH là sự nghiệp của quần chúng nhân dân lao động . Xuất phát từ quan điểm con người là yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất ,trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung , sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nói riêng thì con người luôn giữ vị trí trung tâm . Chính vì vậy Chính phủ phải chú trọng tới việc đào tạo đội ngũ lao động cán bộ công nhân lành nghề . Việc đào tạo này có ý nghĩa cực kì quan trọng , nó quyết định sự thành công của CNH.
+ Làm tốt công tác điều tra cơ bản , thăm dò địa chất : ở nước ta tài nguyên khoáng sản tương đối đa dạng phong phú nhưng chưa được khai thác . Vì vậy chúng ta phải có một bản đồ địa chất công trình đầy đủ và chính xác để phân bố xí nghiệp , xác định quy mô , trình độ kĩ thuật và hiệu quả kinh tế của việc khai thác .
+ Phát triển kết cấu hạ tầng : kết cấu hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá , thu hút vốn đầu tư nước ngoài …Kinh nghiệm của các nước NIEs và các nước ASEAN đều cho thấy rằng , ở đâu hệ thống năng lượng ,giao thông vận tải , thông tin liên lạc hiện đại , lao động được đào tạo tốt thì ở đó công nghiệp và dịch vụ đều phát triển nhanh và hiệu quả.
+ ổn định kinh tế vĩ mô , hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước , cải cách và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước : ổn địn kinh tế vĩ mô là yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế ,thu hút đầu tư nước ngoài . Việc hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và cùng với nó là sự hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc khia thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanhvà hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường . Việc cải cánh bộ máy hành chính ,chống qaun liêu ,tham nhũng làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực , có tác động trực tiếp đến mọi vấn đề trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá , huy động được mọi nguồn lực của đất nước .
Những điều kiện tiền đề nói trên có quan hệ mật thiết với nhau . Với tư cách là tiền đề , nó đòi hỏi phải có mới tiến hành công nghiệp hoá được . Muốn vậy nước ta không thể không hoà nhập với các nước trong cộng đồng quốc tế không thể không nắm bắt những lý thuyết hiện đại có thể áp dụng cho những nước kém phát triển . Ví dụ như : lý thuyết về lợi thế so sánh , lý thuyết cân bằng , lý thuyết cất cánh … Mỗi lý thuyết cũng đều có những mặt tích cực cũng như còn mặt hạn chế do đó trong việc áp dụng phải có những vận dụng sáng tạo , phối hợp ,phát huy mặt tích cực hạn chế tiêu cực để có thể sớm tạo ra những tiền đề cần thiết đưa sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta đi nhanh đến thắng lợi.
Phần III
THựC TRạNG NềN KINH Tế Và VAI TRò CủA CHíNH PHủ TRONG VIệC ĐIềU TIếT Vĩ MÔ NềN KINH Tế ở NƯớc TA
I-\ Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
1 .Thực trạng nền kinh tế
Trước khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đưa nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì có thể thấy rằng nền kinh tế nước ta không còn hoàn toàn là kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc , nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ . Mặt khác , do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy .Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển , còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp . Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau :
+ Trình độ cơ sở vật chất – kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém: đa số những máy móc thiết bị ,công nghệ mà ta sử dụng dều rất lạc hậu ,chủ yếu là do Liên Xô viện trợ trước đây .
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng ,dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để giao lưu với thị trường quốc tế .
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả : nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp , các ngành nghề dịch vụ chưa phát triển . Một cơ cấu kinh tế chỉ được coi là hợp lý khi nó phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan , khi nó cho phép khai thác mọi nguồn lực của đất nước , thực hiện được sự phân công và hợp tác quốc tế .
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó : thị trường nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp ,dung lượng tị trường còn thiếu và có phần rối loạn.chúng ta chỉ mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung , nhưng vẫn còn thiếu những thị trường quan trọnh như thị trường sức lao động , thị trường vốn ,thị trường tiền tệ . chưa có lãi suất ,tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường . Thực trạng trên của thị trường nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau .Về mặt khách quan , đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp .Nền kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc .Về mặt chủ quan , là do những nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa , do sự phân biẹt chủ quan duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do . Mặt khác do quản lý theo chiều dọc ,một cách máy móc nên dẫn đến hiện tượng cửa quyền , cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành , làm cho thị trường bị chia cắt manh mún .
+ Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp
Trước thực trạng trên của nền kinh tế , đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chủ trương chính sách , bước đi cho phù hợp dể đưa nền kinh tế phát triển lên một bước cao hơn . Bên cạnh đó sự phát triển phân công lao động quốc tế cùng với thành quả tiến bộ khoa học-kỹ thuật của thế giới về quản lý, về chất lượng và phát triển môi trường cũng đòi hỏi phải chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Tuy mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhưng đã hình thành các yếu tố cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, cần thấy rõ những khó khăn, phức tạp của nền kinh tế thị trường ở nước ta để có biện pháp và phương thức quản lý thích hợp.
2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nước
Ngày nay, quản lý kinh tế đã trở thành chức năng không thẻ thiêu của các nhà nước hiện đại. Thị trường luôn luôn thể hiện hai mặt: một mặt là động lực của sự phát triển, và mặt khác là khuyết tật về phân phối, môi trường và xã hội. Từ tính chất hai mặt của thị trường, trong các mô hình kinh tế ở tất cảcác nước trên thế giới đều thừa nhận: Chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế thị trường để chống lại các cuộc khủng hoảng chu kỳ, nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Trước đây chúng ta theo cách quản lý cũ, chính phủ dựa vào các công cụ hành chính, mệnh lệnh, nay chuyển sang kinh tế thị trường cần phải thay đổi, sử dụng luật pháp, kế hoạch định hướng và các công cụ kinh tế theo cơ chế thị trường là tất yếu. Toàn bộ luật lệ, công cụ, chính sách của chính phủ trong hệ thống kinh tế mà ta gọi là cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi mới và hoàn thiện. Điều đáng quan tâm là sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của chính phủ ta hiện nay còn chắp vá, chưa đáp ứng những sự thay đổi có tính chiến lược đang diễn ra ở nước ta. Do chưa có kinh nghiệm, trình độ quản lý lại yếu kém, do dự trong nhận thức và trong hành động, có sự chồng chéo giữa hai cơ chế cũ với mới, nên đã phát sinh những tiêu cực trong xã hội (buôn lậu, tham nhũng, làm hàng giả v.v...). Bởi vậy, vấn đề cấp bách hiện nay trong quản lý kinh tế của chính phủ là cần sớm khắc phục tình trạng đó, nhanh chóng chuyển sang cơ chế mới. Nếu không tập trung giải quyết thì nó sẽ cản trở sự đổi mới ở nước ta và có hậu quả lớn trong tương lai .
Muốn vậy, chính phủ cần khẳng định những việc cấp bách hiện nay là đào tạo công ăn việc làm cho người lao động, giáo dục xã hội, hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường .
Để hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường, chính phủ cần phát huy chức năng của thị trường. Cái gì thị trường điều tiết tốt thì để cho thị trường tự điều chỉnh. Cái gì thị trường làm không tốt thì chính phủ làm và điều tiết bằng các công cụ của mình .
III. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ
Sự phát triển kinh tế ở nước ta theo hướng nào, thành công hay thất bại chủ yếu là do sự hướng dẫn của chính phủ. Mục tiêu của mọi nền kinh tế là hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần hướng tới phải có bản sắc dân tộc gắn với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Nền kinh tế thị trường ấy chỉ có thể phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế-xã hội và chính trị ổn định. Để đảm bảo mục tiêu trên, chính phủ cần hướng:
. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đạt được trình độ xã hội hóa cao. Ngoài sở hữu về lao động, mọi người dân còn có sở hữu về tài sản, về vốn, có công ăn việc làm, phát huy dân chủ và tự do trong lao động sáng tạo. Phân phối thu nhập của người lao động không phải chỉ có tiền công, mà còn được bù đắp từ nguồn tài sản đích thực của mình. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ phương hướng đổi mới chế độ phân phối là thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao độnh và hiệu quả kinh tế ,đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh ,phân phối thông qua phúc lợi xã hội nói cách khác là thực hiện công bằng trong phân phối ngày càng tốt hơn.Kinh tế quốc doanh đóng vai trò củ đạo trong nền kinh tế quốc dân , kinh tế tập thể được đổi mới theo nguyên tắc tự nguyện ,kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác .Giữa các thành phần kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên sự phát triển ổn định cho nền kinh tế .
. Nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở của tính cộng đồng dân tộc. Khi thị trường được khai thác đầy đủ, tính chất cạnh tranh sẽ tăng dần và càng gay gắt. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế mở, tính cạnh tranh lại tăng lên theo mức độ và phạm vi lớn hơn. Cạnh tranh là yếu tố tự nhiên của sự phát triển, nhưng cạnh tranh riêng lẻ sẽ gây ra những tổn hại chung cho nền kinh tế. Do vậy, tính xã hội còn thể hiện ở tính cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt động kinh tế-xã hội.
. Nhân tố xã hội phải được coi là động lực của sự phát triển. Muốn vậy, cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm các chỉ tiêu như: số dinh dưỡng, trình độ giáo dục, sức khoẻ, tuổi thọ v.v… Các vấn đề xã hội cần được giải quyết bằng sự đầu tư và quản lý của chính phủ .Phải xem việc đầu tư cho giáo dục, y tế là đầu tư cho phát triển..
. Cải cách bộ máy Nhà nước, trọng tâm là nền kinh tế hành chính Nhà nước, đi đôi với cải cách kinh tế bằng cách Nhà nước đề xướng và nền hành chính thực hiện bằng các nhiệm vụ như: đề ra các chiến lược, chính sách, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế, xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội; ổn định nền tài chính tiền tệ, thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng (đây là khu vực đầu tư vào rất tốn kém và không có lãi, hoặc nếu có thì thời gian thu hồi vốn rất dài nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào rất ít ); huy động các nguồn lực và phân phối cho sự phát triển các ngành, các địa phương, đào tạo công nhân, cán bộ; cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động.
Kết luận
Từ những phân tích ở trên ,ta có thể thấy rằng trong thời đại ngày nay vai trò điều tiết của Chính phủ đối với nền kinh tế thị trường là rất quan trọng .Trên thế giới không một nền kinh tế nào có thể phát triển ổn định bền vững mà lại không cần đến sự can thiệp của Nhà nước . Những thất bại thị trường không phải là sẽ không diễn ra , nhưng “ bàn tay hữu hình ” của Nhà nước với những công cụ điều tiết vĩ mô của mình có thể làm giảm nhẹ hậu quả của những thất bại thị trường .Chính vì vậy nâng cao vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước là một xu thế khách quan .Mọi quốc gia , các mô hình kinh tế phát triển thành công hay suy thoái , ổn định hay rối loạn , giàu hay nghèo đều có thể tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò kinh tế của Nhà nước . Do vậy việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế , phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế , là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt , nước ta mới chuyển sang nềnkinh tế thị trường khoảng gần 20 năm trở lại đây , chính vì vậy đòi hỏi vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước phải được tăng cường chứ không được coi nhẹ .Bởi vì chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , mở rộng quan hệ ngoại giao với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị ,do đó chức năng quản lý của Nhầ nước lại phải càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa . Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là phương thức quản lý như thế nào để có thể vận dụng sáng tạo được những quy luật kinh tế khách quan nhưng vẫn đảm bảo nền kinh tế đi theo định hướng XHCN chứ không phát triển lệch hướng theo CNTB .Nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá , nền kinh tế thị trường đang đặt ra nhiều thách thức đối với Đảng và Nhà nước ta và mục tiêu trước mắt mà chúng ta phải đạt được là làm sao xây dựng một nền kinh tế dân tộc- tự chủ , đủ sức thực hiện phân công và hợp tác quốc tế .
Trên đây là những hiểu biết của em về vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước . Với vốn kiến thức còn hạn hẹp , em mong được thầy cô và các bạn giúp đỡ thêm. Em cũng xin được gửi lời cám ơn đến thầy Nguyễn Văn Ký , người đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1- Bài giảng môn Kinh tế chính trị của thầy Nguyễn Văn Ký, Học viện Ngân hàng.
2- Đề cương bài giảng Kinh tế chính trị Mác – Lê nin _Bộ giáo dục và đào tạo –2000
3- Kinh tế chính trị Mác – Lênin. Học viện Hành chính quốc gia.
4-Kinhtế học. Paul A.Samuelson.
5-Văn kiện Đại hội Đảng VI,VII,VIII, IX
6- Công nghiệp hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực _ Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 1995
7- Suy nghĩ về CNH,HĐH ở nước ta _ Nhà xuất bản Chính trị quốc gia –Hà nội 1996
8- Báo Nhân dân các số tháng 7, 8, 9 năm 2001.
9- Kinh tế vĩ mô. Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35239.doc