Đề án Thưc trạng quá trình vận dụng quy luật giá trị và những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới

Để kinh tế hàng hoá thực sự là phương thức đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội thì việc nắm bắt quy luật giá trị,quy luật kinh tế cơ bản của nó là tất yếu đối với các chủ thể kinh tế ,bởi có hiểu rõ về quy luật giá trị với hình thức biểu hiện của nó trên thị trường là giá cả biết rõ các tác dụng của quy luật đó là tác dụng kích thích phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiên cạnh tranh ngày càng khốc liệt,tác dụng điều tiết sản xuất khai thác triệt để các nguồn lực phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân,dồng thời quy luật cũng làm cho tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng trở lên sâu sắc. Thì sẽ có những quyết định phù hợp tạo điều kiện quy luật phát huy tác dụng hạn chế những mặt tiêu cực của quy luật

doc26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thưc trạng quá trình vận dụng quy luật giá trị và những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá trị là một quy luật đòi hỏi sản xuất hàng hóa phải lấy giá trị là thước đo. Nghiên cứu quy luật giá trị có phạm vi nghiên cứu rất rông lớn bởi những tác động ,ảnh hưởng rất lớn của quy luật giá trị tới kinh tế hàng hoá.Hơn nữa đã có nhiều đề tài nghiên cứu những tác động ảnh hưởng ...của quy luật này trong nền kinh tế hàng hoá,với khả năng còn nhiều hạn chế đề án này chỉ nghiên cứu những tác động chung nhất của quy luật giá trị đến sự phát triển kinh tế hàng hoá ơ Việt Nam trong thời kì đổi mới cũng như những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị nước ta trong thời gian tới. MụC LụC Trang Lời mở đầu CHƯƠNG 1 Lý luận chung về quy luật giá trị 1.1 Gía trị hàng hoá 1.1.1 Kinh tế hàng hoá Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ,đảm bảo những điều kiện vật chất phục vụ đời sống của con người loài người đã sử dụng kiểu tổ chức kinh tế sản xuất tự cung tự cấp để giải quyêt vấn đề sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào ,sản xuất cho ai.Sản xuất tự cung tự cấp là hình thức sản xuất mà sản phảm sản xuất ra là để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ từng cá nhân ,từng gia dình. Sản phẩm sản xuất ra không dùng dể trao dổi mua bán.Do không có quan hệ trao đổi giữa các chủ thể kinh tế với nhau nên no có tính bảo thủ trì trệ ,bị giới hạn bởi những nhu cầu nhỏ trong phạm vi không gian tiêu dùng nhỏ,nên nó không kích thích phát triển kinh tế .Nhưng thật sự sản xuất tự cung tự cấp cung dã đáp úng những nhu cầu của con người trong một thời gian dài từ thời kì công xã nguyên thuỷ , tồn tại phổ biến trong thời kì chiếm hữu nô lệ và dấn đi vào suy tàn trong thời kì phong kiến,đó là giai đoạn mà lưc lương sản xuất còn ơ trình dộ thấp,lao động chủ yếu là lao động thủ công . Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển của xã hội ,quá trình phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình tự phủ định của kiểu tổ chức tự cung tự cấp . Thì sự ra đời của kinh tế hàng hoá là tất yếu khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển ơ trình độ cao,hai điều kiện đảm bảo sản xuất hàng hoá ra đời là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về sở hữu đã chín muồi. Khi mà nhu cầu về vật chất của con người không ngưng gia tăng trong khi mà với kiểu tổ chức kinh tế tự cung tự cấp thì với khả năng của mỗi người đều có hạn không thể tự sản xuất đủ để phục vụ nhu cầu của bản thân. Mỗi người đều không thể có đủ những điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật để sản xuất .Trước yêu cầu thực tế đó để có thể sản xuất ngày càng nhiều hơn sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người buôc phải có sự phân công lao đông giưa các chủ thể kinh tế,phải có sự phân công lao đông xã hội .Đó là quá trình phân công xã hội thành nhưng nhóm người chuyên sản xuất một loại sản phẩm nào đó và sau đó thực hiện quá trình trao đổi giưã những người có sản phẩm khấc nhau để thoa mãn nhu cầu của mỗi người.Khi đó các nguồn lực của sản xuất sẽ được tận dung triệt để nhằm sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ đời sống con người .Tuy nhiên thì điều kiện về phân công lao đông xa hội không phải là điều kiện duy nhất để có thể phát triển kinh tế hàng hoá mà còn phải có sự tách biệt về sở hữu đây là điều kiện đủ bởi chỉ có sự tách biệt về sở hữu thì quá trình trao đổi mới được thực hiện .Chỉ khi có sự tách biệt về sở hữu về tư liệu sản xuất thì mới có sự khác biệt về sản phẩm sản xuất ra giữa các chủ thể kinh tế mới đảm bảo người này cần sản phẩm của người khác và khi đó quá trình trao đổi mới được thưc hiện.Khi đó sản phẩm của lao động mới trở thành hàng hoá. Như vậy kinh tế hàng hoá là nền kinh tế mà sản phẩm của lao động được bán trên thị trường,các câu hỏi cua sản xuất là sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào ,sản xuất cho ai đều thông qua việc mua bán ,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. Sản xuất hàng hoá trở thành phổ biến để phát triển bởi nhưng ưu thế rõ rệt của nó, đó là thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội ngày càng chặt chẽ ,tuỳ điều kiện thực tế mà có sự phân công lao đông để khai thác có hiệu quả các nguồn lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người ,thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất mọi người đều làm việc để đáp ưng nhu cầu của bản thân cũng như nhu cầu của người khác nhu cầu của xã hội.Để sản phẩm lao động của mình được chấp nhận trên thị trường thì mỗi người sản xuất phải không ngừng cải tiến kĩ thuật ,công nghệ nhằm làm cho sản phảm của mình co chất lương ngày càng cao ,lao đong hao phi bỏ ra ngày càng giảm để thu dược lợi cao nhất vì thế sản xuất hàng hoá thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển... 1.1.2. Giá trị hàng hoá Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm của lao động được trao đổi giữa những chủ thể kinh tế nắm giữ chúng hay là được mua bán trên thị trường và nó trở thành hàng hoá.Kinh tế hàng hoá thì mọi quá trình hoạt động của sản xuất ,sản xuất cái gì ,sản xuất như thế nào sản xuất cho ai đều thông qua mua bán ,thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.Trong khi sản phẩm lao động trong kinh tế tự cung tự cấp không được đem bán mà chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Sản phẩm lao động trong nền kinh tế hàng hoá chỉ trở thành hàng hoá khi nó có hai thuộc tính đó là nó có giá trị sử dụng và có giá trị.Gía trị sử dụng của hàng hoá chính là công dụng của nó để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người ví dụ quần áo ,giầy dép ..công dụng của nó do thuộc tính tự nhiên của nó quy định .Gía trị sử dụngchỉ đươc thể hiện khi sử dung hay tiêu dùng chúng ,dù trong bất cứ hình thức xã hội nào thì công dung hay giá trị sử dung vẫn không thay đổi,hay nói cách khác giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn .Tuy nhiên một vật có giá trị sử dụng nhưng có thể không là hàng hoá ví dụ như nước ,không khí ..bởi vì chúng không có giá trị trao đổi .Điều kiện giá trị sử dụng chỉ là điều kiện cần để một vật trở thành hàng hoá,và chúng chỉ là hàng hoá khi chung còn có thêm giá trị trao đổi hay giá trị. Gía trị hàng hoá đó là lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá,là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.Hình thức biểu hiện của giá trị chính là giá trị trao đổi,trong đó giá trị trao đổi là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dung này trao đổi với giá trị sử dung khác,ví dụ 1rìu đổi 30 kg thóc tuy giá trị sử dung của chúng là khác nhau nhưng chúng trao đổi được với nhau là vì người ta cho rằng lao động hao phí để sản xuất ra 1chiéc rìu bằng với lao động hao phí để sản xuất ra 30kg thóc .Như vậy một vật chỉ có giá trị khi chung là kết tinh của lao động của con người ,một vật dù có giá trị sử dung nhưng không có lao đông của con người kết tinh trong nó thì nó không có giá trị như nước,không khí.. Ta cũng thấy rằng khi trao đổi trên được thực hiện thì người sản xuất rìu và người sản xuất thóc đều cho rằng lao động của họ bằng lao động của người kia và họ thực hiện trao đổi ,như vậy thưc chất của giá trị là biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá ,quan hệ giữa người với người không còn là quan hệ thuần tuý mà nó đươc thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật hay bằng lợi ích kinh tế. Gía trị của hàng hoá nó là một phạm trù lịch sử nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá,chỉ trong kinh tế hàng hoá có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì mới tồn tại phạm trù giá trị. Thước đo của giá trị là gì ?Thước đo của giá trị chính là số lượng lao động,nhưng số lượng lao động lại đo bằng thời gian lao động và thời gian lao động lại đo bằng những phần của thời gian như giờ ngày ...Nếu như vậy phải chăng một người càng lười biếng ,vụng về thì hàng hoá của anh ta càng có giá trị bởi thời gian để anh ta sản xuất ra hàng hoá đó nhiều hơn của người bình thường cũng sản xuất hàng hoá đó.Không phải vậy bởi thời gian lao động tạo ra giá trị không phải là thời gian cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá đó mà là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá đó.Thời gian lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá là thời gian cần thiết cho bất cứ lao động nào tiến hành với một trình độ trung bình và một cường độ trung bình, trong những điều kiện bình thường so với hoàn cảnh xã hội nhất định.Ơ Anh sau khi đem dùng máy dệt chạy bằng hơi nước thì muốn chế biến một lượng vải sợi nhất định thành vải thì chỉ cần một nửa số lao động như trước kia .Người thợ dệt Anh chỉ muốn ché biến xong số sợi ấy thực ra vẫn cần một số thời gían lao động như trước kia ,nhưng bây giờ thì sản phẩm của một giờ lao động của anh ta chỉ bằng nửa giờ lao động của xã hội và chỉ tạo ra một giá trị bằng một nửa giá trị trước kia.Thông thường giá trị một hàng hoá được đo bằng thời gian lao động của những người cung cáp phần chủ yếu ,tuyệt đại bộ phận hàng hoá đó trên thị trường . Tuy nhiên thời gian lao động xã hội cần thiết hay lượng giá trị của một hàng hoá cung thay đổi theo sự thay đổi của năng xuất lao động xã hội,năng xuất lao động xã hội được đo bằng số lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian hay đo bằng số thời gian la động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.Năng xuất lao động xã hội càng cao ,thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ítkhối lượng lao đông kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhở thì giá trị của sản phẩm càng thấp,còn ngược lại khi mà thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng lớn hay hao phí càng nhiều thì giá trị hàng hoá càng lớn.Ơ đây có mối quan hệ chặt chẽ giữa giá trị của một hàng hoá với năng suất lao động và số lượng lao động hao phí đó là lượng giá trị một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động hao phí và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động để sản xuất ra hàng hoá đó.Mặt khác năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố như trình độ khéo léo của người lao động sự phát triển của khoa học kĩ thuật ,đièu kiện tự nhiên ...do đó khi nhưng nhân tố này phát triển thì kéo theo nó là giá trị của từng đơn vị hàng hoá giảm xuống. Gía trị của hàng hoá là khái niệm trừu tượng nó chỉ bộc lộ qua trao đổi và ngay cả khi trao đổi thì căn cứ để xác định đó là thời gian lao động xã hội cần thiết cũng không thấy rõ.Nhưng trên thị trường thì cái nhìn thấy rõ nhất đó là giá cả của hàng hoá đó,giá cả của hàng hoá chính là biểu hiện của giá trị hàng hoá trên thị trường.Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá để thuận lợi cho trao đổi mua bán hàng hoá trên thị trường là sự ra đời của tiền tệ ,một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác.Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giũa những người sản xuất hàng hoá hay nó là biểu hiện giá trị của hàng hoá.Nhờ tiền tệ mà quá trình trao đổi mua bán hàng hoá trở lên thuận lợi hơn,thời gian thực hiện trao đổi giảm xuống . 1.2. Quy luật giá trị 1.2.1 Quy luật giá trị Kinh tế hàng hoá ở đó sản phẩm của lao động được trao đổi mua bán trên thị trường,cũng như mọi hình thức sản xuất khác nó có nhưng quy luật của chính nó ,của riêng nó.Những quy luật kinh tế đó ra đời phát huy tác dụng và mất đi không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người,nhưng nó hoạt động thông qua những hoạt động kinh tế của con người,nó không phải là những quy luật tự nhiên.Một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá đó là quy luật giá trị . Quy luật giá trị yêu cầu mọi hoạt động trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị của hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau khi chúng có lượng giá trị ngang nhau .Như vậy thì trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá và một hàng hoá chỉ được chấp nhận trên thị trường hay bán được khi mà hao phí lao động cá biệt cá của nó phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.Qúa trình trao đổi hàng hoá là sự chấp nhận giá trị của hàng hoá hay trên thị trường thì đó là sự chấp nhận giá cả của hàng hoá đó. Gía cả một hàng hoá phụ thuộc vào giá trị của hàng hoá đó do giá trị là cơ sở của giá cả tuy nhiên trong kinh tế hàng hóa còn nhiều nhân tố tác dộng tới giá cả của hàng hoá như quan hệ cung cầu ,tình trạng độc quyền...Trong quan hệ cung cầu tác động tới giá hàng hoá có ba mặt đó là sự cạnh tranh của những người cùng bán một loại hàng hoá để có thể bán một lượng hàng hoá nhiều nhất buộc họ phải hạ giá bán,sự cạnh tranh giữ những người cùng mua một loại sản phẩm làm cho giá của hàng hoá tăng và cuối cùng là sự cạnh tranh giữa những người bán và những người mua sẽ xác định giá cả của hàng hoá tăng hoặc giảm nhưng dù thế nào thì giá của hàng hoá đó luôn ngang bằng với chi phí sản xuất hàng hoá đó .Gía cả thực tế của một hàng hoá luôn luôn cao hơn hay thấp hơn chi phí sản xuất hàng hoá đó nhưng trong một phạm vi nhất định thì sự bù trừ giữ tăng và giảm lại làm cho giá cả hàng hoá đúng bằng chi phí sản xuất hàng hoá đó.Việc giá cả do chi phí sản xuất quyết định cũng như do thời gian lao động xã hội quyết định hay giá cả do giá trị của hàng hoá quyết định .Bởi chi phí sản xuất bao gồm lao động quá khứ và lao động hiên tại .Như vậy giá cả của hàng hoá luôn lên xuống xoay quanh giá trị của nó .Cmác gọi đây là vẻ đẹp của quy luật giá trị ,giá trị là trục còn giá cả thị trường lên xuống xoay quanh trục giá trị đó .Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả của nó có thể cao hơn hay thấp hơn giá trị của chúng nhưng trên hết tổng giá cả của mọi hàng hoá luôn bằng tổng giá trị của chúng. Như vậy quy luật giá trị gắn liền với nó là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với hao phí lao động xã hội từ đó đảm bảo rằng sản phẩm của mình được chấp nhận trên thị trường .Nguyên tắc trao đổi ngang giá buộc nhà sản xuất phải luôn quan tâm đến giá cả của hàng hoá họ sản xuất trên thị trường. 1.1.2 Vai trò của quy luật giá trị Tác dụng điều tiết sản xuất Trong sản xuất thì tác dụng của quy luật giá trị đó là điều tiết viêc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động gữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Bởi giá cả của hàng hoá luôn biến động xoay quanh giá trị của hàng hoá ,luôn có sự không cân đối giữa cung và cầu của các mặt hàng. Hơn nữa các nhà sản xuất luôn muốn tối đa hoá lợi ích của bản thân chính vì vậy ở những ngành sản xuất mà dư cầu thì các nhà xản xuất sẽ tập trung vào ngành sản xuất đó .Ngược lại những ngành mà dư cung ,giá cả hàng hoá hạ xuống thì các nhà sản xuất sẽ chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khởi ngành này để đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao .Như vậy sự biến động của giá cả xung quanh giá trị có tác dụng điều tiết ,phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động mọt cách tự phát vào những ngành khác nhau. Bên cạnh tác dụng điều tiết sản xuất giữa các ngành sản xuất thì quy luật giá trị mà biểu hiện của nó là giá cả của hàng hoá còn có tác dụng điều tiết hàng hóa từ khu vực này sang khu vực khác ,từ vùng này sang vùng khác.Bởi với những điều kiện sản xuất ,điều kiện tự nhiên khác nhau thì có thể dãn đến sự khác biệt lớn về giá của hàng hoá ở các vùng khác nhau trong điều kiện nhất định do đó các nhà xản xuất sẽ thực hiện việc điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao để thu được nhiều lợi nhất. Tác dụng kích thích phát triển sức sản xuất Quy luật cạnh tranh Kinh tế hàng hoá gắn liền với nó là quy luật cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để nhằm thu được lợi ích kinh té cao nhất cho bản thân minh các nhà sản xuất luôn cố gắng giảm tối đa chi phí sản xuất của mình hay là tìm cách tối thiểu hao phí lao động cá biệt của bản thân mình .Bởi để có thể hất cẳng nhà tư bản khác thì chính họ phải làm sao giảm giá bán hàng hoá của mình,muốn thế mà không bị sạt nghiệp thì buộc họ phải tăng năng suất lao động .Để có thể tăng năng suất lao động buộc các nhà sản xuất phải không ngừng cải tiến kĩ thuật máy móc,không ngừng phân công lao động một cách tỉ mỉ hơn ,nâng cao năng lực quản lý.Khi công nhân được sử dụng ngày càng nhiều cùng với máy móc được sử dụng ngày càng nhiều thì khối lượng sản phẩm cũng không ngừng tăng lên và việc quyết định về giá của sản phẩm là rất cần thiết đối với nhà sản xuất một mặt đảm bảo sử dụng lợi thế để thắng trong cạnh tranh với nhà sản xuất khác đồng thời đảm bảo vẫn có lãi .Nhưng đặc quyền về công nghệ cũng như quyết định giá của nhà sản xuất không được lâu bởi các đối thủ cũng sẽ dùng những máy móc như thế ,lối quản lý và phân công lao động như thế .Như thế việc cải tiên trở thành phổ biến và cùng với nó là giá cả của hàng hoá cũng giảm dưới chi phí sản xuất trước kia ,phù hợp với chi phí sản xuất mới hay phù hợp với giá trị của hàng hoá trong điều kiện mới. Ngay trong hiện tượng giá trị là biểu hiện của lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm tư nhân cũng chứa đựng khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm ngay trong sản phẩm.Vì thế nó luôn buộc các nhà sản xuất phải không ngừng làm giảm hao phí lao động cá biệt kết tinh trong hàng hoá đó ,đó là quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên ngay trong mặt tích cực này của quy luật giá trị thì nó cũng bộc lộ hạn chế ,bởi không chỉ nó yêu cầu nhà sản xuất phải hạ thấp mức hao phí lao động cá biệt để có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh ,giảm giá của hàng hoá cũng như chạy theo các hàng hoá có giá cả cao mà mặt khác do chạy theo lợi ích bản thân chạy theo hàng hoá có giá cao dễ dẫn đén tình trạng dư thừa một loại hàng hoá nào đó,làm lãng phí lao động xã hội. Tác dụng bình tuyển tự nhiên ,phân hoá người giàu người nghèo. Khi cạnh tranh chạy theo giá trị có thể lao động cá biệt của một người sản xuất không nhất trí với lao động xã hội cần thiết .Khi đó những người sản xuất được phân chia thành những người có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội và những người có hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội .Những người mà hao phí lao đọng cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội sẽ có nhiều điều kiên để thực hiện mở rộng quy mô sản xuất ,còn những ngươì mà hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội thì do không bù đắp được đủ chi phí sản xuất nên họ bị nỗ vốn thậm chí phá sản.Như vậy quy luật giá trị đã đánh giá người sản xuất,đảm bảo sự bình đẳng giữa những người sản xuất,nó mang lại phần thưởng cho người làm ăn tốt và hình phạt cho những người làm ăn kém. Đồng thời với thực hiện bình tuyển người sản xuất thành người giỏi và người kém thì quy luật giá trị cũng phân hoá người sản xuất thành người giàu và người nghèo.Người sản xuất có hao phí lao động thấp hơn hao phí lao động xã hội sẽ thu được nhiều lợi hơn và không ngừng tăng quy mô sản xuất,sẽ trở thành chủ còn những người có hao phí lao động cao hơn hao phí lao động xã hội sẽ lỗ vốn,bần cùng hoá trở thành người làm thuê .Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá thì hố ngăn cách giữa người giàu với người nghèo ngày càng tăng.Đây là một khuyết tật của kinh tế hàng hoá. 1.3. Trung quốc phát triển kinh tế hàng hoá Trước năm1978 kinh tế Trung quôc trong tình trạng sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước bởi dân số quá đông,sản xuất nhìn chung vẫn ở trình độ thấp ,đời sống nhân dân thấp trong tình trạng bất ổn định ,nhập siêu là chính ,trước tình hình đó của nền kinh tế Đảng cộng sản trung quốc đã quyết dịnh cải tổ nền kinh tế ,người đứng đầu là Đặng tiểu Bình,thực hiện phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa mang màu sắc trung quốc.Ban đầu thực hiện thay đổi trong nhận thức lãnh đạo và toàn dân về kinh tế xã hội chủ nghĩa ,phải chuyển kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường ,phát triển các thành phần kinh tế mà trước đây coi là phi chủ nghĩa xã hội . Tiếp đó là quá trình thay đỏi về lý luận cho rằng muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội có nhiều con đường có nhiều cách thức để tiến lên chứ không phải chỉ có một con đường duy nhất là kinh tế tập trung ,một trong những con đường đó là kinh tế hàng hoá kinh tế mà trước đây cho rằng đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa.Sau đó trung quốc từng bước thực hiên quá trình chuyển đổi kinh tế trên các vùng nhỏ sau khi đánh giá mới tiến hành nhân rộng ra nhiều khu vực ,và toàn bộ nền kinh tế.Sau thời gian tiến hành thử nghiệm dã khẳng định kinh tế hàng hoá là phương thức phát triển kinh tế hàng hoá là phương thức đưa trung quốc lên chủ nghĩa xã hội. CHƯƠNG 2 THƯC TRạNG QUá TRìNH VậN DụNG QUY LUậT GIá TRị Và NHữNG GIảI PHáP NHằM VậN DụNG TốT QUY LUậT GIá TRị ở VIệT NAM TRONG ThờI GIAN TớI 2.1 Đặc điểm kinh tế Việt Nam 2..1 Kinh tế Việt Nam trước năm 1986 Nền kinh tế Nông nghiệp lạc hậu bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh Việt Nam là một nước nông nghiệp thuần lúa nước do đó tình trạng sản xuất thủ công là chủ yếu ,không có phương tiện cơ giới để sản xuất ,sản xuất công nghiệp còn sơ khai,lao động thủ công trình độ tri thức thấp,chủ yếu mù chữ.Trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống Pháp và chống Mỹ kinh tế Việt Nam đã bị tổn thất nặng nề.Pháp sau khi chiếm đóng Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách nhằm vơ vết cạn kiệt tài nguyên của nước ta ,chúng thực hiện chính sách đồng hoá nhân dân ta ,chung đã từ thủ đoạn nào để có thể thu được cang nhiều lợi càng tốt,không quan tâm đến sự phát triển của Việt Nam . Do đó dù sau thời gian dài chịu sự đô hộ của thực dân Pháp nhưng kinh tế Việt Nam không những không phát triển mà còn bị làm cho què quặt ,chủ yếu phát triển ngành công nghiệp khai thác nhưng cũng sử dụng lao động thủ công là chính.Thời kì kháng chiến chống Mỹ thì nền kinh tế Việt Nam bị chia thành hai nửa ,miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội còn miền Nam thì đang tiến hành chiến tranh cứu quốc.Đế quốc Mỹ với tiềm lực về kinh tế và quân sự đã tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam chúng sử dụng một lực lượng quân sự lớn với vũ khí hiện đại sức tàn phá lớn do vậy không những nước ta chịu nhiều hậu quả do bom đạn của chúng gây ra mà chúng ta còn mất nhiều sức lực để chống chọi với chúng.Sau khi đất nước giành độc lập thì cả nước ta cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung Trong thời kì từ năm 1975 đến năm 1986 chúng ta áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung,một mô hình kinh tế tuy trong diều kiện khi miền Bắc tiến hành thực hiện trước năm 1975 đã đem lại nhiều kết quả tốt giúp phát triển kinh tế tạo lượng vật chất lớn phục vụ chiến tranh,.Cả trong thời gian đầu sau khi chiến tranh kết thúc mô hình kinh tế tập trung bao cấp cũng đã góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội của nước ta , nâng cao đời sống nhân dân ,góp phần phát triển kinh tế .Nhưng do áp dụng một cách máy móc mô hình của Liên Xô trong khi điều kiện kinh tế xã hội của nước ta khác biệt so với Liên Xô nên mô hình này đã dần cản trở quá trình phát triển kinh tế nước ta.Một mô hình kinh tế mà ở đó các hoạt đông kinh tế đều được điều khiển từ một trung tâm đó là nhà nước,nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính hay bằng các chỉ tiêu pháp lệnh .Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước lại can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế, trong khi cán bộ kém năng lực quản lý kinh tế nhưng quan liêu cửa quyền.Một mô hình kinh tế mà quan hệ hàng hoá tiền tệ bị bỏ qua ,thay vào đó là chế độ cấp phát và bao cấp,bao cấp qua giá qua tiền lương và bao cấp cả vốn sản xuất mà không chịu bất cứ ràng buộc bất cứ trách nhiệm nào. Tất cả đã đưa nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế chỉ huy,coi kinh tế hàng hoá là kinh tế tư bản nên đã dần bóp nghẹt các hoạt động sản xuất kinh doanh cá thể. Chính vì vậy kinh tế Việt Nam những năm 80của thế kỉ trước ở trong tình trạng khủng hoảng toàn diện,lạm phát cao ở mức ba con số ,tình trạng khan hiếm hàng hoá,hoạt động sản xuất không có hiệu quả.hoạt động ngoại thương thì chủ yếu là nhập khẩu hay ở trong tình trạng nhập siêu ,tỷ lệ thất nghiệp cao .Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ lạc hậu ,sản xuất thủ công là chủ yếu ,nền kinh tế không có khả năng cạnh tranh thị trường còn sơ khai .Trong khi đó thì đội ngũ quản lý trình độ năng lực hạn chế ,hoạt động theo kiêu quan liêu cửa quyền. Đời sống nhân dân khó khăn ,thu nhập thấp ,khan hiếm hàng tiêu dùng .Tình trạng giáo dục y tế ,các hoạt động phúc lợi xã hội không mấy sáng sủa .Gây lên tình trạng bất ổn trong tâm lý dân chúng,làm suy giảm niềm tin về đảng và con đường mà đảng và nhân dân đã chọn là con đường tiến lên chủ nghiã xã hội . 2.2.2 Kinh tế Vệt Nam thời kì đổi mới từ năm 1986 Đứng trước tình hình khủng hoảng của kinh tế đó Đảng cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định con dường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển,phù hợp với quy luật khách quan.Đồng thời đảng ta đã quyết định thực hiện từng bước cải tổ nền kinh tế ,từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần Nền kinh tế nước ta đó là một nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm thành phần kinh tế Nhà nước ,kinh tế tập thể ,kinh tế cá thể,kinh tế tư bản nhà nước ,kinh tế tư bản chủ nghĩa ,đang ta khẳng định các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng trong giai đoạn này.Kinh tế nhiều thành phần góp phần đáp ứng ngày càng cao nhu cầu xã hội ,góp phần xã hội hoá sản xuất.Mỗi thành phần kinh tế có một quy luật vận động riêng do đó thể hiện tính phức tạp trong việc quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mở với xu thế hội nhập khu vực và thế giới Kinh tế hàng hoá ra đời và phát triểnđã làm phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín,kinh tế khép kín gắn liền với sản xuất nhỏ ,khép kín,một nền kinh tế kém phát triển bảo thủ trì trệ ,còn kinh tế hàng hoá làm cho các mối quan hệ kinh tế không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia nó gắn liền với thị trường thế giới.Thực tế kinh tế Việt Nam trong giai doạn trước ,kinh tế tuy có quan hệ với bên ngoài nhưng chủ yếu là quan hệ một chiều nhập ,do vậy không tận dụng được nguồn lực bên ngoài,ít học hởi kinh nghiệm khoa học công nghệ .Việc mở rông quan hệ hợp tác với bên ngoài dưới sự lãnh đạo của đảng là một định hướng đúng đắn bởi để không bị biến dạng khi tham gia các mối quan hệ kinh tế với bên ngoài đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đảng.Mở rộngquan hệ hợp tác với bên ngoài phải tận dụng triệt dể các cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài,tranh thủ học hỏi khoa học công nghệ để không ngừng phát triển kinh tế nước ta. Nền kinh tế đảm bảo sự quản lý của nhà nước Tuy nhiên để đảm bảo không trệch hướng xã hội chủ nghĩa thì phải đảm bảo sự quản lý của nhà nước,bởi kinh tế hàng hoá cũng cho thấy những hạn chế của nó như bất bình đẳng xã hội phân hoá người giàu người nghèo điều này đi ngược lại với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của chủ nghĩa xã hội hơn nữa tình trạng khủng hoảng ,thất nghiệp,ô nhiễm môi trường...Quản lý của nhà nước bằng luật pháp các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô ,làm cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng hợp lý,hạn chế những tác động không mong muốn đến nền kinh tế . Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với sự đa dạng các thành phần kinh tế ,thực hiện mở của nền kinh tế là diều kiện để quy luật giá trị một quy luật cơ bản của kinh tế hàng hoá hoạt động phát huy tác dụng .Tuy nhiên việc nắm bắt quy luật là rất cần thiết bởi bên cạnh những tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế thì quy luật này còn bộc lộ nhiều hạn chế tác động không tốt tới phát triển kinh tế do đó nắm bắt quy luật sẽ giúp đưa ra những quyết định hợp lý tạo điều kiện phát huy tác dụng mong muốn hạn chế những tác động không mong muốn. 2.2 Qúa trình vận dụng và vai trò của quy luật giá trị đối với kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2002 2.2.1. Thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất Kinh tế thị trường với quy luật kinh tế cơ bản của nó là quy luật giá trị buộc các nhà sản xuất phải không ngừng cạnh tranh nhằm giảm tối đa hao phí lao động cá biệt hay không ngừng tăng năng suất lao dộng bằng con đường cải tiến công nghệ,hợp lý quản lý sản xuất ,phân công lao động một cách tỷ mỷ hơn . Qúa trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam Để có thể phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế mở của cạnh tranh ngày càng khốc liệt ,tiến lên chủ nghĩa xã hội đảng và nhà nước ta đã thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là một bước vận dụng quy luật giá trị trong điều kiện nước ta hiện nay.Để khai thác đạt hiệu quả tối đa tiềm năng kinh tế đất nước về nhân công tài nguyên thiên nhiên vị trí địa lý...sử dụng được nhiều lợi thế so sánh của một nước phát triển muộn về công nghiệp ,phù hợp xu thế của cách mạng khoa học kĩ thuật công nghệ ,xu hướng toàn cầu hoá ,khu vự hoá và đem lại hiệu quả kinh tế cao . Đồng thời với quá trình đó là quá trình phân công lại lao động xã hội .phân công lao đọng xã hội là là sự chuyên môn hoá lao động do đó chuyên môn hoá sản xuất giữa các nghành ,trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân .Phân công lao động xã hội có tác dụng là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ sản xuất và năng xuất lao động .Cùng với nó là quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ ,phất triển của giáo dục sẽ thúc đẩy phát triển cơ cấu kinh tế theo hướng hiên đại. Phát triển khoa học công nghệ ,trình độ người lao động dược nâng cao Đảng và nhà nước đã khẳng định khoa học giáo dục là quốc sách hàng đầu,do vậy trong thời gian qua nhà nước ta đã đầu tư nhiều cho giáo dục đào tạo, cũng như toàn xã hội đã thực sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục đào tạo. Chất lượng giáo dục không ngừng tăng ở tất cả các cấp học từ tiểu học cho đến cao đẳng ,đại học và các cấp trên đại học .Cùng với nó là quá trình tăng lên về số lượng học sinh ở tất cả các cấp học ,từ đó trình độ của người lao động không ngừng tăng đáp ưng nhu cầu ngày càng cao về mặt chất lượng lao động trong thời đại mới.Người lao động giờ đây đã được trang bị trình độ khoa học ,trình độ tri thức ngày càng tăng. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam không ngừng tăng Kinh tế hàng hoá buộc nhà sản xuất phải không ngừng giảm hao phí lao động cá biệt ,phải luôn cạnh tranh với nhau để thu được lợi ích kinh tế tối đa,chính vì vậy nhà sản xuất không ngừng phát triển kĩ thuật công nghệ ,trình độ quản lý. Nhà nước cũng như các doanh nghiệp đều quan tâm đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá mình sản xuất ra cũng như hàng hoá của đất nước tên thị trường thế giới đối với kinh tế nhà nước thì được sự trợ sức của nhà nước ,chính vì vậy nhà nước đã thực hiên nhều chính sách hỗ trợ quá trình các doanh nghiệp đầu tư công nghệ ,nhập công nghệ và tiến hành nghiên cứu công nghệ mới ,tích cực hỗ trợ các hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá .Bên cạnh đó nhà nước cũng không bỏ qua sự quan tâm tới kinh tế ngoài quốc doanh bởi đây là một động lực to lớn thúc đẩy kinh tế phát triển . Các doanh nghiệp cũng không ngừng tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình bằng quá trình phát triển công nghệ. 2.2.2. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá Giao lưu buôn bán giữa các vùng miền kinh tế Một trong những tác dụng của quy luật giá trị đó là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ quá trình phân phối sản phẩm , tình trạng ngăn sông cấm bị xoá bỏ ,không còn tình trạng hạn chế buôn bán giữa các chủ thể kinh tế với nhau .Thực hiên nâng cấp cơ sơ hạ tầng ,điều kiện giao thông thuận lợi cho viêc giao lưu buôn bán giữa các vùng miền với nhau ,hàng hoá có thể đi khắp nơi trên đất nước.Qúa trình thúc đẩy giao lưu buôn bán giữa các vùng cũng là điều kiện thuận lợi để khai thác có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của các vùng miền . Phát triển kinh tế cá vùng kinh tế Đã có nhiều chính sách phát triển kinh té ở các vùng kinh tế khó khăn ở các vùng miền núi trong điều kiện giao lưu buôn bán gặp nhiều khó khăn , nhằm khai thác có hiệu quả kinh tế các vùng khó khăn . Đồng thời với việc hỗ trợ phát triển kinh tế các vùng khó khăn ,còn nhiều chính sách phát triển kinh tế các vùng trọng điểm,các trung tâm công nghiệp của nước ta là Hà Nội ,thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng ,đồng thời là phát triển kinh tế các vùng lân cận thành các thành phố công nghiệp vệ tinh của các trung tâm kinh tế đó .Nhà nước đã cho phép các trung tâm công nghiệp,các tỉnh thành phố đựơc trong phạm vi quyền lực của mình đươc phép thực hiện các chính sách của mình nhằm thu hút đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài và càng ngày phạm vi cho phếp ngày càng được mở rộng ,nâng cao khả năng phát triển kinh tế vùng. 2.2.3. Những biểu hiện của quy luật giá trị Kinh tế Việt Nam phát triển những bước vượt bậc Từ một nền hinh tế tăng trưởng thấp đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng trước năm 1986 nền kinh tế nước ta đã từng bước khôi phục và phát triển ổn định với mức tăng trưởng cao .Tốc đọ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kì 1986-1990 là 3.9%, thờ kì 1991-1995 là 8.2%, tù 1995 dến 2000 là khoảng 7% ,năm 2001 là 6.8%.Như vậy kinh tế nươc ta trong thập kỉ 90 của thế kỉ hai mươi được đánh giá là vào loại cao nhất của khu vực kinh tế thái bình dương. Từ nền kinh tế siêu lạm phát ở mức ba con sổ trước năm 1988 ,đến năm 1989 lạm phát đã được kìm chế ,lạm phát năm 1986là774.75%,năm 1991 là 67.6%,năm 1997 là 3.6%.Như vạy từ giữa những năm 90 của thế kỉ hai mươi kinh tế Việt Nam đã được coi là ra khỏi tình trạng khủng hoảng và kinh tế tiếp tục những bước phát triển của mình . Đến năm 2001 kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ phát triên cao 6.8%,cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực ,giảm tỷ trọng nông nghiệp,tăng tỷ trọng công nghiệp ,tỷ trọng công nghiệp là 38% ,dịch vụ là 39% ,nông lâm thuy sản là 23% ,kim ngạch xuất khẩu tăng 4.5%.Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy giảm thì những bước tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là rất đáng nể.Kinh tế thế giói tăng trưởng ở mức 1.3% chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng trưởng năm 2000.Gía trị sản xuất công nghiệp cả năm tăng 14.5% so với năm trước ,trong đó khu vực kinh tế nhà nước đạt tốc độ tăng là 12% khu vực ngoài quốc doanh là 19.5% .Kinh tế ngoài quốc doanh đang ngày càng khẳng định được vị thế kinh tế của mình ,các sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của khu vực này tăng chủ yếu là thuỷ sản chế biến,rau quả xuất khẩu ,đồ gỗ thủ công mỹ nghệ dệt may cơ khí ... Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và cố tốc độ tăng ổn định là 13.8%. Tuy nhiên kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế có hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm,các doanh nghiệp và của cả nề kinh tế còn thấp ,theo đánh giá của tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới thì năm 2001 năng lực cạnh tranh của Việt Nam là 62/75 quôc gia xếp hạng ,trong khi năm 1997 vị trí của nước ta là 49/53 quốc gia xếp hạng . Tình trạng phổ biến là sản xuất còn mang nặng tính tự phát ,chưa bám sát nhu cầu thị trường ,nhiều sản phẩm làm ra có chất lượng thấp giá thành cao nên khả năng tiêu thụ kém .Năng lực cạnh tranh của hàng hoá nước ta còn thấp do trang thiết bị công nghệ lạc hậu yếu kếm so với thế giới từ 10 đến30 năm ,thêm vào đó năng lực quản lý còn nhiều hạn chế ,môi trường kinh doanh chưa thực sự thu hút được đấu tư bởi thủ tục hành chính còn quá rườm rà chưa thông thoáng ...chi phí đầu tư còn quá cao so với khu vực ,thông tin về hoạt động kinh tế cũng là một yếu kém của nước ta. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao Do tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhưng năm đổi mới là tương đối nhanh và ổn định thời kì 1991 đến 1995 là 8.2% ,thời kì 1996 dến 2000 là 7% năm 2002 là 6.8%, nông nghiệp tăng trên 4% năm ,sản xuất nông nghiệp không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà đã thực hiện xuất khẩu và trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới .Sự phát triển của kinh tế đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân ,tăng số lượng và cả chất lượng hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Hơn nữa trong thời gian qua dân số nước ta đã dần ổn định tốc độ tăng dân số thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế ,cộng với những chương trình kinh tế xã hội trong những năm qua với những chương trình xoá đói giảm nghèo chương trình việc làm đạt kết quả tốt đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân .Nhân dân giờ đây đã được sử dụng những vật phẩm tiêu dùng ngày càng hiện đại , tiếp thu nhiều kiến thức văn hoá,đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao. Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng lớn Cùng với mức tăng lên của thu nhập bình quân thì mức chênh lệch về thu nhập cũng không ngừng tăng. Có sự chênh lệch thu nhập lớn giữa các vùng ,các lao động trong các ngành kinh tế khác nhau .Một bộ phận lớn dân cư nước ta hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ,chiếm tới gần 80% dân số ,trong khi thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không cao .Bên cạnh đó còn nhưng thành phần dân cư ở các vùng dân tộc miền núi với tình trạng sản xuất khó khăn không có điều kiện và tiềm lực để phát triển kinh tế nên đời sống hết sức khó khăn .Trong khi đó một bộ phận nhỏ dân cư hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ,hoạt động sản xuất công nghiệp có thu nhập cao .Khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn với chỉ khoảng 20% dân số nhưng chiếm khoảng 60% GDP.Mức ngheò đói còn tỷ lệ thuận với trình độ học vấn ,nhưng người nghèo nhất chủ yếu là không được học hành . Sự khác biệt về thu nhập ở nước ta thời gian qua tuy không thật sự rõ nét nhưng thực sự nó đã cảnh báo về tình trạng phân hoá giàu nghèo sẽ tăng nhanh trong thời gian tới khi mà hoạt động sản suất không ngừng phát triển ,tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế thị trường trong đó có quy luật giá trị. 2.3. Đánh giá thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam thời gian qua 2.3.1. . Những ưu điểm Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường mở do đó các hoạt động kinh tế của nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quy luật kinh tế khách quan của kinh tế trị trường,một trong những quy luật kinh tế đó của kinh tế trị trường là quy luật giá trị.Với yêu cầu mọi hoạt động trao đổi phải thực hiên ngang giá buộc các nhà sản xuất không ngừng phải cải tiến công nghệ máy móc ,trình độ quản lý.Không nằm tác dụng của quy luật giá trị các chủ thể kinh tế nước ta cũng không ngừng cải thiện trình độ quản lý,máy móc công nghệ .Từ những năm đổi mới với ý thức của các chủ thể kinh tế ,của nhà nước đã không ngừng quan tâm phát triển khoa học giáo dục ,coi giáo dục là quốc sách hàng đầu ,đầu tư mạnh cho giáo dục .Chính vì vậy trình độ lao động có kĩ thuật của nước ta không ngừng gia tăng người lao động được trang bị những kiến thức,những nhận thức khoa học khả năng lao động sản xuất không ngừng tăng .Hơn nữa sức khoẻ của người lao động cũng không ngừng được chú ý không ngừng được nâng cao.Vì vậy trong điều kiện đòi hỏi về lao động không ngừng tăng thì lao động Việt Nam cũng đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đó. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động thì khoa học công nghệ cũng ngày càng được áp dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất,việc đưa máy móc thiết bị vào quá trình sản xuất trở thành phổ biến,máy móc thiết bị cũng không ngừng được cải tiến,học hỏi khoa học công nghệ của nước ngoài nhằm tận dụng triệt đểlợi thế của nước đi sau .Trình độ quản lý kinh tế của cán bộ kinh tế Việt Nam cũng không ngừng được nâng cao,bằng nhiều phương thức đào tạo khác nhau từ đào tạo trong nước cũng như đào tạo ở nước gửi ngoài nâng cao chất lượng đào tạo trong nước ,tạo những điều kiện thuận lợi để cán bộ phát huy khả năng nâng cao trình độ. Phát triển lực lượng lao động cũng đồng thời với nó là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.Chất lượng hàng hóa không ngừng được nâng cao phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của sản xuất và tiêu dùng trong nước cũng như ngoài nước ,bên cạnh đó giá cả hàng hoá không ngừng giảm mà biểu hiện cụ thể là hàng hoá Việt Nam đã dần đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước từng bước thưc hiện xuất khẩu ra bên ngoài ,đã có một số mặt hàng của Việt Nam có chổ đứng trên thị trường thế giới như gạo,hàng may mặc ...một số hàng hoá phục vụ sản xuất khác. Khai thác có hiệu quả các nguồn lực kinh tế Phát triển kinh tế hàng hoá thúc đẩy quá trình phân công lao đông xã hội ,lao động toàn xã hội được tận dụng triệt để để phục vụ sản xuất ,tuy chỗ làm chưa đáp ứng đủ nhu cầu việc làm nhưng với đặc tính lao động thời vụ cao do đó hầu hết lao động đều có việc làm.Việc nâng cao chất lượng lao động ,tăng số lượng lao động có tay nghề đã dần đáp ứng nhu cầu lao động có chất lượng cao .Với một cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý khai thác có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của từng vùng miền.Trong điều kiện giao thông thuận lợi, trao đỏi hàng hoá diễn ra thuận lợi thì mọi nguồn lực kinh tế đều được khai thác từ vị trí địa lý thuận lợi đến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ,nguồn nhân công..Phát triẻn kinh tế nước ta trong thời gian qua đã cho thấy bức tranh kinh tế Việt Nam chỗ nào cũng được tô vẽ tuy đậm nhạt khác nhau.Góp phần làm cho kinh tế phát triển ở mọi vùng miền ,đời sống nhân dân đựôc nâng cao ở tất cả cá khu vực . 2.3.2. Những hạn chế Tình trạng phân hoá giàu nghèo Phân hoá giàu nghèo là một trong những hạn chế của kinh tế thị trường mà chủ yếu do sự tác động của quy luật giá trị .Không nằm ngoài tác động đó trong nền kinh tế Việt Nam người sản xuất cũng bị phân hoá thành kẻ giàu người nghèo.Tuy hố ngăn cách giàu nghèo ở nước ta chưa thật nặng nề nhưng cũng ở trong tình trạng cần cảnh báo.Đó là sự phân hoá do có những điều kiện sản xuất khác nhau ,xét về vốn sản xuất ,bởi vốn là điều kiện sản xuất quan trọng nhất nhưng không phải ai cũng có thì đây là một nguyên nhân quan trọng làm hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng tăng.Sau đó là các nguyên nhân do điều kiện vị trí địa lý,do không co kinh nghiệm làm ăn ,do các chính sách kinh tế vĩ mô chưa thật sự hợp lý đó là các chính sách về phân phối thu nhập chính sách phát triển vùng và cở cấu kinh tế không hợp lý.Nhưng thực chất nó là quá trình bình tuyển và phân hoá những người sản xuất có trình độ gặp nhiều thuận lợi sẽ phát triển thành người giàu còn nhưng người làm ăn kém cỏi không gặp thuận lợi sẽ dần trở thành người làm thuê,bị bần cùng hoá rồi dần trở thành những người nghèo khổ. Qúa trình phân hoá là không thể tránh khỏi nó tồn tại cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá chúng ta chỉ có thể hạn chế chúng bằng những chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Hàng Việt Nam có sức cạnh tranh kém Kinh tế Việt Nam đi lên từ một nền kinh tế thủ công nghiệp lạc hậu ,lực lượng sản xuất thấp kém,lao động thủ công là chủ yếu.Hơn nữa do chậm cải tiến máy móc sản xuất ở nước ta trong tình trạng lạc hậu so với thế giới hàng chục năm,thêm vào đó chi phí sản xuất của các doanh nghiệp cao do vậy làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá các doanh nghiệp việt nam.Đó là chi phí để mua tư liệu sản xuất,mua sức lao động do càng ngay lợi thế về lao động rẻ của nước ta dần mất đi,bởi lao động của ta có trình độ tay nghề thấp. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu có sức cạnh tranh thấp bởi ta chủ yếu xuất hàng thô và hàng mới qua sơ chế .Tỷ lệ hàng thô chiếm tới gần 60% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của nước ta cho thấy trình độ khoa hoc công nghệ của nước ta còn rất thấp kém ,hàng công nghiệp xuất khẩu mới dừng lại ở tình trạng gia công lắp ráp cho nước ngoài .Bởi không những công nghệ lạc hậu mà còn thiếu vốn thiếu kinh nghiệm sản xuất ,do vậy mà chất lượng hàng hoá không cao giá thành cao dẫn tới sức cạnh tranh kém. Do sức cạnh tranh của hàng hoá kém nên việc sản xuất những hàng hoá có giá thành cao dễ dẫn đến tình trạng hàng không bán được ,thừa ế giá trị hàng hoá không được thực hiện . 2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng trên Do nguyên nhân từ nhận thức còn nhiều hạn chế Trong nền kinh tế hàng hoá có hàng loạt những quy luật kinh tế của nó hoạt động như quy luật cung-cầu,quy luật lưu thông tiền tệ..và đặc biệt là quy luật giá trị.Các quy luật này đều biểu hiện sự tác dộng của chúng thông qua thị trường,thông qua vận động của giá cả thị trường .Tuy các quy luật kinh tế là khách quan ,ra đời và mất đi không phụ thộc vào ý chí chủ quan của con người ,bởi nó do lực lượng sản xuất quy định ,nhưng con người hoàn toàn có thể nắm bắt vận dụng tạo những điều kiện để quy luật phát huy tác dụng tích cực hạn chế những tác động tiêu cực.Việc nắm bắt quy luật giá trị là rất càn thiết đối với các chủ thể hoạt động kinh tế ở nước ta nhưng thực sự trong thời gian qua viêc nắm bắt nó cò nhiều hạn chế xét từ góc độ quản lý nhà nước và các doanh nghiệp. Các chính sách của nhà nước chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng ,thành phần kinh tế nhà nước thì dược tạo nhiều điều kiện thuận lợi hoạt đông tuy một số ngành thì sự can thiệp của nhà nước là không cần thiết và từng bước thực hiện cổ phần hoá .Trong khi đó các thành phần kinh tế không phẩi là thành phần kinh tế nhà nước ít được tạo điều kiện phát triển.Sự tác động của nhà nước lên các quan hệ kinh tế còn nhiều thô bạo ,can thiệp sâu vào các quan hệ kinh tế,có những quyết định liên quan đến thước đo của giá trị là giá cả còn nhiều bất hợp lý. Về phía các doanh nghiệp mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước chưa thật sự nắm bắt được các quy luật kinh tế cơ bản trong đó có quy luật giá trị hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều khi còn đứng trên góc độ cảm tính,chưa thật sự cạnh tranh bởi hàng hoá sản xuất ra vẫn chưa thật sự đảm bảo yếu tố luôn có lãi của doanh nghiệp.Chưa thật sự nắm bắt được những biểu hiện của giá trị trên thị trường đó là những biến động của giá cả do đó chưa có những hành động phù hợp . 2.4. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới . Nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý kinh tế Những cán bộ quản lý kinh tế chính là nhưng người đưa ra các quyết sách ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng rộng khắp và sâu sắc tới các hoạt động kinh tế của đất nước chính vì vậy việc nâng cao trình độ của cán bộ quản lý kinh tế là hết sức cần thiết đối với kinh tế nước ta trong thời gian tới. Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế được biểu hiên bằng giá cả của hàng hoá trên thị trường ,với nhưng biến động nhỏ của giá cả đòi hỏi phải được quan sát và nhận biết nguyên nhân biến động đó.Điều đó tuỳ thuộc vào trình độ của các nhà quản lý kinh tế do vậy việc nâng cao trình độ của các nhà quản lý đảm bảo có những quyết sách phù hợp ở tầm vĩ mô nhằm phất triển kinh tế đất nước.Từ đó phải tuyển chọn những người thực sự có năng lực vao đội ngũ này đồng thời không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ này. Phát triển khoa học giáo dục đào tạo Đảng và nhà nước ta luôn xác định con người luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ các chiến lược phát triển kinh tế xã hội ,giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.Giáo dục đào tạo mang đến tri thức cho con người ,nâng cao kĩ năng sản xuất hay là nâng cao chất lượng lao đọng trong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ.Bởi trong nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của tri thức của con người càng được đề cao và trở thành một nguồn tài nguyên phát triển kinh tế quan trọng .Trong điều kiện nước ta hiện nay giáo dục càn một sự thay đổi về phương thức ,tránh tình trạnglàm thui chột khả nâng sáng tạo của người học,và phải luôn hướng ra thế giới tiếp thu những trí tuệ mới nhất của nhân loại. Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt đông kinh tế Cần có một khung pháp lý ổn định ,với các luật định phù hợp đó là điều kiện để những chủ thể kinh tế tham gia các hoạt đông kinh tế có những hoạt động phù hợp tránh những hành động không phù hợp vi phạm pháp luật.Đồng thời với khung pháp lý nhà nước cũng phăi có các chính sách kinh tế khuyến khích tham gia hoạt động kinh tế,xây dưng cơ sở hạ tầng điều kiên thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh.Nhằm thu hút đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài nhanh chóng khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.Cũng cần có những điều chỉnh giá cả ổn định bởi giá cả là thước đo của giá trị,tránh những can thiệp không hợp lý váo hoạt động của hệ thống giá cả thị trường. Nhà nước bằng các chính sách hạn chế ảnh hưởng xấu Để hạn chế tác động tiêu cực của quy luật giá trị đó là sản xuất dư thừa và phân hoá giàu nghèo nhà nước phải trực tiếp can thiệp bằng luật và các chính sách.Để đảm bảo công bằng xã hội cần có những chính sách kinh tế,chính sách xã hội,chính sách phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn,các chương trình xoá đói giảm nghèo,phân phối lại thu nhập.. KếT LUậN Nhờ thực hiện cải cách kinh tế chuyển từ mô hình kinh tế tập trung sang mô hình kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,mà kinh tế nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu.Từ một nền kinh tế thiếu ổn định,đang trong tình trạng khủng hoảng,đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn niềm tin vào phát triển kinh tế suy giảm.Trở thành nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng ,kinh tế không ngừng tăng trưởng cao ổn định,đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.Càng khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn,mô hình kinh tế hàng hoá trở thành phương thức để đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội Để kinh tế hàng hoá thực sự là phương thức đưa Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội thì việc nắm bắt quy luật giá trị,quy luật kinh tế cơ bản của nó là tất yếu đối với các chủ thể kinh tế ,bởi có hiểu rõ về quy luật giá trị với hình thức biểu hiện của nó trên thị trường là giá cả biết rõ các tác dụng của quy luật đó là tác dụng kích thích phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiên cạnh tranh ngày càng khốc liệt,tác dụng điều tiết sản xuất khai thác triệt để các nguồn lực phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân,dồng thời quy luật cũng làm cho tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng trở lên sâu sắc. Thì sẽ có những quyết định phù hợp tạo điều kiện quy luật phát huy tác dụng hạn chế những mặt tiêu cực của quy luật Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bàn về sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị: Mác - Ăng - ghen, Sta - lin- NXB Sự thật 2. Giáo trình Kinh tế chính trị - Trường Đại học KTQD 3. Tổng quan kinh tế Việt Nam 2001 và triển vọng 2002 - Nguyễn Sinh Cúc - Tạp chí kinh tế và phát triển 4. Thực trạng và những giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế - Trần Nguyễn Tuyên - Nghiên cứu kinh tế số 287/2002. 5. Văn kiện đại hội Đảng 6. Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - GS.TS. Phạm Đức Thành - Tạp chí kinh tế và phát triển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35456.doc
Tài liệu liên quan