Đề án Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam

Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư tố cáo, rất ít vì không ai giám nói vì tư tưởng “muốn yên thân”, vì “ngại va chạm”, vì sợ “đấu tranh – tránh đâu”, vì mọi người chưa tin vào quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Do vậy muốn giảm thất thoát lãng phí thì trước tiên cán bộ nhân viên ở mỗi doanh nghiệp cần mạnh dạn hơn trong việc tố cáo thất thoát lãng phí ở ngay cơ quan, nhà máy mình. Muốn vậy cần: - Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để mọi người có thể giám sát quá trình đầu tư tốt hơn. - Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu của họ.

doc56 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh pháp luật, thực hiện phân bổ vốn cho các D.A có đủ thủ tục đầu tư trong danh mục kế hoạch hàng năm. Việc bố trí vốn đầu tư tập trung hơn cho các công trình trọng điểm, ưu tiên cho công trình thiết yếu phục vụ dân sinh (giao thông, thuỷ lợi, bệnh viện, trường học,...). Nhiều D.A không có trong quy hoạch được duyệt đã bị đình hoãn khởi công; những D.A chưa thật sự cấp bách đã được ngừng triển khai để bố trí vốn giải quyết nợ đọng XDCB và điều chuyển vốn cho những D.A sắp hoàn thành, D.A cấp bách, có hiệu quả. Năm 2007, bình quân vốn cho 1 D.A nhóm A là 207 tỷ đồng, gấp 2,13 lần năm 2005, trong đó 79% D.A là chuyển tiếp, 21% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm B là 11,9 tỷ đồng; 71,4% là chuyển tiếp, 28,6% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm C là 3,65 tỷ đồng; 62,5% là chuyển tiếp, 37,5% là khởi công mới. Việc bố trí vốn để trả nợ đọng đã có những chuyển biến. Năm 2004, số nợ đọng XDCB trên 11.000 tỷ đồng, hiện nay các Bộ, cơ quan trung ương về cơ bản không còn nợ đọng XDCB. Tính đến tháng 6/2008, số nợ đọng các công trình nguồn vốn NSNN đã hoàn thành do địa phương quản lý khoảng 3.800 tỷ đồng.     Chủ trương, quyết định đầu tư đã được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng hơn, bám sát quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Hầu hết các D.A bố trí trong kế hoạch đều có quyết định đầu tư theo pháp luật. Việc thông qua chủ trương và quyết định đầu tư đã dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, ở địa phương danh mục các D.A XDCB từ nguồn vốn Nhà nước đều được trình HĐND xem xét, thông qua. Giám sát của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cũng cho thấy đã có những chuyển biến và tiến bộ rõ từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch đến quản lý và tổ chức thực hiện... Vốn đầu tư XDCB từ NSNN đã được quan tâm bố trí và tăng đều qua các năm, bố trí tập trung hơn, hiệu quả kinh tế hơn, đã cơ bản giải quyết nợ đọng XDCB của các bộ, ngành. Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung, quyết liệt hơn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát đã được quan tâm và tiến hành thường xuyên hơn, qua đó đã phát hiện những sai phạm trong đầu tư XDCB và kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý. Tuy nhiên, nhìn chung ở mức độ khác nhau, một số hạn chế, yếu kém của công tác đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước đã được nêu trong Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội Khóa XI và trong Nghị quyết số 36/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI chậm được khắc phục, tình trạng bố trí dàn trải các nguồn vốn vẫn còn, hiệu quả đầu tư thấp. Hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn tình trạng mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, còn nhiều thủ tục phức tạp trong công tác đầu tư XDCB... 2. Tồn tại và nguyên nhân 2.1. Tồn tại Đầu tư còn dàn trải chậm chưa được khắc phục, lãng phí và thất thoát lớn. Nhiều công trình, dự án chất lượng không đảm bảo, vừa đưa vào khai thác đã tốn kém nhiều tỷ đồng để sửa chữa. Công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn vay cho đầu tư, đặc biệt là vốn ODA còn bị buông lỏng, hiệu quả sử dụng chưa cao. Tình trạng XDCB và sử dụng vốn Nhà nước vi phạm chậm tiến độ ngày càng gia tăng. năm 2005 có 1.882 dự án vi phạm, chiếm 14,5% dự án thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.173 dự án vi phạm, chiếm 18,19%; năm 2007 có 4.763 dự án, chiếm 16,6%. Tiến độ thi công các dự án sử dụng vốn nhà nước rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vồn khác, đầu tư thiếu đồng bộ. Tình trạng bố trí vốn dàn trải vẫn còn khá phổ biến”. Năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm (trong đó có 48 dự án nhóm A). Con số này tăng nhanh trong 2 năm tiếp theo, năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1% (25 dự án nhóm A); 3.979 dự án chậm tiến độ trong năm 2007, chiếm 13,9% (19 dự án nhóm A). Nhiều dự án nhóm B, C thi công kéo dài vượt quá thời gian quy định (nhóm B không quá 3 năm, nhóm C không quá 2 năm), trong đó Bộ Giao thông Vận tải có tới 196 dự án thuộc 2 nhóm này phải kéo dài thời gian so với quy định. Tình trạng không tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục quản lý đầu tư XDCB chậm được khắc phục; nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng trong thời gian dài vẫn chưa chược phê duyệt quyết toán. Công tác quản lý các dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA vẫn chưa có chuyển biến rõ nét. Đặc biệt một số bộ, ngành thành lập nhiều ban quản lý dự án và được giao quá nhiều quyền, nhưng không xác định rõ trách nhiệm, buông lỏng thanh ra, kiểm tra nên mắc nhiều sai phạm như: Ban quản lý PMU18 của Bộ Giao thông Vận tải tồn tại trong nhiều năm là điển hình về buông lỏng quản lý, nhiều vi phạm nghiêm trọng chậm được phát hiện và khắc phục. Vẫn diễn ra tình trạng sử dụng vốn đầu tư không đúng mục đích, trái pháp luật như Bộ Giao thông Vận tải sử dụng vốn đầu tư XDCB giao thông lại để xây dựng trụ sở, mua ô tô, thiết bị điều hành dự án không đúng quy định đến 143, 6 tỷ đồng; quyết định đầu tư 28 dự án không có trong danh mục của kế hoạch 5 năm với tổng mức đầu tư 1.460,7 tỷ đồng. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc trong báo cáo về sử dụng nguồn vốn ODA cũng thừa nhận chất lượng các công trình xây dựng thấp, công tác quản lý xây dựng chưa được chú ý. Năng lực trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức tư vấn kỹ thuật, giám sát thi công và lực lượng thi công xây dựng còn yếu kém. Việc giám sát thi công thiếu chặt chẽ, chưa trung thực, có sự thông đồng giữa người giám sát với bên nhà thầu để thay đổi, bớt xén vật liệu, làm sai thiết kế, dẫn đến chất lượng thấp. Các khuyết điểm, tồn tại này có phần trách nhiệm của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương; chưa kiên quyết xóa bỏ cơ quan chủ quản, loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư và xây dựng, chưa có một chương trình toàn diện, có hiệu quả trong việc chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng gắn với chống tham nhũng. - Chưa đánh giá hết thất thoát và lãng phí trong đầu tư XDCB "Lĩnh vực xây dựng cơ bản là lĩnh vực khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, nhất quán và sự phối hợp đồng bộ, trong khi đó chúng ta rất thiếu sự phối hợp đồng bộ". Một trong những nguyên nhân khiến việc giải ngân vốn và tiến độ dự án chậm là do thủ tục hành chính phiền hà, năng lực, trách nhiệm của chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án, các cơ quan tư vấn rất yếu. Để khắc phục hạn chế này, cần hệ thống hóa pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản. Trên cơ sở đó xây dựng dự án Luật quản lý đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ áp dụng, tiện kiểm tra và giám sát. Cần xem xét lại và cải cách thủ tục đầu tư, đặc biệt là thủ tục giải ngân, thủ tục thanh quyết toán và trình độ giải quyết công việc của cán bộ dự án. Thực tế, phần lớn các dự án đã hoàn thành bàn giao từ rất lâu nhưng vẫn không giải ngân được và vẫn chưa quyết toán được công trình, làm cho doanh nghiệp tăng cao chi phí, lãi vay ngân hàng do thiếu vốn, nợ ngân hàng tăng cao, trong khi đó ngân sách nhà nước lại chuyển nguồn cao, tồn dư kho bạc lớn kết quả giải ngân chậm, quay vòng vốn trong xã hội chậm, hiệu quả sử dụng đồng vốn chung của xã hội kém hiệu quả. "Thực tế hoạt động đầu tư xây dựng trong thời gian qua cũng cho thấy những vấn đề về phương diện pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đầu tư xây dựng hiện nay, cụ thể là thứ nhất hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư không được thiết kế để đảm bảo sự thống nhất luật pháp về đầu tư được tiếp cận theo những cách riêng rẽ, chấp vá". Chúng ta đang thiếu một quan niệm thống nhất về đầu tư xây dựng cơ bản, không phân định rõ quản lý đầu tư và quản lý xây dựng, không phân định rõ những nội dung và yêu cầu quản lý chung đối với mọi hoạt động đầu tư và hoạt động xây dựng các yêu cầu riêng đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng nguồn vốn... chính vì vậy cần sớm hoàn thiện, ổn định và đồng bộ cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, sự khớp nối giữa các văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất, hạn chế đến mức tối đa những mâu thuẫn chồng chéo trong các quy định cùng điều chỉnh một lĩnh vực, một nhóm vấn đề. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch, chưa xác định đúng tính bức thiết và lợi thế của từng vùng, địa phương đã phát sinh lãng phí. Thể hiện việc chi đầu tư XDCB năm 2004 từ nguồn vốn trong nước vượt dự toán 7.539 tỷ đồng. Trong thời gian qua, vẫn còn nhiều đơn vị, địa phương lập quy hoạch chỉ để đủ thủ tục xin đầu tư, quyết định kế hoạch đầu tư thì không được chuẩn bị trước, thiếu căn cứ khoa học, thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng các đô thị.  Thêm vào đó, chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn và chưa có đủ căn cứ vững chắc, các thông tin dự báo, nhất là thông tin dự báo về thị trường, đời sống, nhu cầu xã hội vẫn chưa cập nhật. 2.2. Nguyên nhân 2.2.1. Chất lượng quy hoạch. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch, chưa xác định đúng tính bức thiết và lợi thế của từng vùng, địa phương đã phát sinh lãng phí. Thể hiện việc chi đầu tư XDCB năm 2004 từ nguồn vốn trong nước vượt dự toán 7.539 tỷ đồng. Trong thời gian qua, vẫn còn nhiều đơn vị, địa phương lập quy hoạch chỉ để đủ thủ tục xin đầu tư, quyết định kế hoạch đầu tư thì không được chuẩn bị trước, thiếu căn cứ khoa học, thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng các đô thị.  Thêm vào đó, chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn và chưa có đủ căn cứ vững chắc, các thông tin dự báo, nhất là thông tin dự báo về thị trường, đời sống, nhu cầu xã hội vẫn chưa cập nhật. “Công tác quy hoạch của chúng ta còn thiếu tầm nhìn, thiếu tính ổn định và thiếu cả tính pháp lý...”. hiện nay công tác quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch ngành, còn hết sức rối rắm chính vi vậy “hội chứng” xây nhà máy đường, nhà máy bia, xi măng lò đứng, cảng biển tràn lan... trong khi ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp. Tính công khai, minh bạch trong việc xây dựng quy hoạch còn yếu kém. Thể hiện qua việc chất lượng quy hoạch thấp, năng lực của đội ngũ cán bộ quy hoạch chưa đúng tầm, chưa có sự tham gia của các bộ, ngành, chưa thể hiện sự giám sát về tính công khai, minh bạch của các quy hoạch “Không ít cơ quan, cá nhân không muốn công khai các bản quy hoạch kế hoạch vì ngại rằng, nếu quy hoạch có sự điều chỉnh thì các đối tác và người dân sẽ phản ứng và để mập mờ vừa dễ thay đổi, vừa dễ tạo thế xin cho...”. Điều này dẫn tới tình trạng chạy dự án, “cò” xây dựng diễn ra ở khắp nơi. Chính vì vậy cần phải phải đưa công tác quy hoạch lên hàng đầu, quy hoạch phải bảo đảm tổng thể gắn kết với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng miền, đô thị, thành phố bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, đáp ứng chủ trương chuyển dịch cơ cấu hợp lý, khai thác các thế mạnh của đất nước, của vùng miền, khả năng quản lý của từng thời kỳ, bảo đảm phát triển có hệ thống và dài hạn hàng trăm năm. Những dự án đầu tư phải nằm trong quy hoạch, tránh phá vỡ và đảo lộn quy hoạch như hiện nay.công tác quy hoạch phải được chỉ đạo tập trung từ Trung ương đến địa phương một cách có hệ thống phù hợp với chiến lược phát triển đất nước, an sinh xã hội, tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy chạy” gây ra tình trạng “hội chứng” đầu tư.  2.2.2. Hệ thống pháp lý và các tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản Hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư còn mang nặng tính chắp vá, thiếu đồng bộ, chỉ xử lý được một số vấn đề cụ thể, bức xúc trước mắt mà chưa bao quát hết nội dung cần sửa đổi. Hơn nữa cơ chế hiện có vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo lại không rõ ràng làm cho quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình mà vẫn không xác định được trách nhiệm thuộc về ai. Chưa có các chế tài nghiêm khắc về xử phạt, cưỡng chế khi có các sai phạm để xử lý các cá nhân tham gia dự án: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu. Kết quả là khi có sai phạm xảy ra thường dẫn đến tình trạng đổ lỗi quy kết trách nhiệm lẫn nhau giữa các bên có liên quan. Thực tế trong những năm qua, dự án đầu tư thường chịu sự giám sát của rất nhiều cơ quan từ Bộ chủ quản, địa phương, ban ngành... Nhưng khi dự án đó được xác định là kém hiệu quả thì không có cơ quan, cá nhân nào đứng ra chịu trách nhiệm chính. Chẳng hạn, năm 2005, Tổng hội xây dựng Việt Nam công bố 58 dự án chương trình lãng phí thất thoát sai phạm; Năm 2006 tiếp tục công bố 43 dự án chương trình lãng phí thất thoát và con số thất thoát khổng lồ, nhưng gần như không có cá nhân nào phải chịu trách nhiệm. Trường hợp nhà máy giấy ở Kon Tum phải dừng lại không tiếp tục xây dựng là một ví dụ. Khi xác định sự việc trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời rằng trách nhiệm đó thuộc về địa phương, nhưng địa phương lại cho rằng Bộ Kế hoạch và Đầu tư không thể không chịu trách nhiệm trước sự thất bại của một dự án lớn như vậy. Chỉ có điều một khoản tiền của Nhà nước cho đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu và đào tạo công nhân lao động đã bị lãng phí vô ích. Hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật phục vụ quản lý đầu tư dù đã thường xuyên được nghiên cứu, sửa đổi nhưng còn nhiều bất cập. Cụ thể, cơ chế chính sách về quản lý đầu tư xây dựng, quản lý đất đai, tài chính còn nhiều vấn đề bất cập, chưa phù hợp việc vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng chậm được khắc phục, sửa đổi. Như luật đấu thầu chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, nhiều vấn đề quy định về quản lý đầu tư xây dựng trong các văn bản của Chính phủ chưa bao quát hết được hoặc có nhiều sơ hở, làm cho quá trình thực hiện bị các chủ thể tham gia lợi dụng thực hiện hành vi tiêu cực, tham nhũng. Một số vấn đề phân cấp theo Nghị định 07/CP về quản lý ĐTXD, Nghị định 88/CP về quy chế đấu thầu... và Luật Xây dựng mới được ban hành, nhưng nhiều địa phương, chủ đầu tư, doanh nghiệp chưa nắm được hoặc năng lực, trình độ chưa đáp ứng yêu cầu, đã cản trở quá trình đầu tư phát triển. 2.3. Tình trạng phân tán giàn trải trong đầu tư Phân tán dàn trải là một căn bệnh trầm kha trong đầu tư ở Việt Nam. Đầu tư dàn trải là hiện tượng cùng một lúc thực hiện quá nhiều dự án khiến cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn mỏng, không phát huy hiệu quả, dẫn đến tình trạng nợ đọng, chậm tiến độ thi công trong đầu tư. Đầu tư mở rộng quá nhiều phương diện được hưởng vốn vay ưu đãi làm cho chất lượng và mục đích của hoạt động này không còn như mong muốn. Trong công tác đầu tư XDCB, tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều quyết định đầu tư sai, đã gây thiệt hại đến nền kinh tế của đất nước và đặc biệt là làm giảm niềm tin của nhân dân. “Sai sót trong quyết định đầu tư, tổ chức thực hiện đầu tư XDCB và tham nhũng trong đầu tư xây dựng làm thất thoát lãng phí một nguồn lực không nhỏ”.Trong năm 2005-2007, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã phát hiện 14 vụ sai phạm kinh tế với tổng số tiền sai phạm là 101,4 tỷ đồng. Bộ Tài chính tiến hành thanh tra 14 dự án do các bộ ngành Trung ương và 18 địa phương quản lý thì phát hiện số tiền sai phạm 3.212 tỷ đồng. Cùng thời gian trên, Kiểm toán Nhà nước cũng đã tiến hành kiểm toán 65 cuộc và xử lý số tiền 1.068 tỷ đồng. Mặc dù vậy, những quyết định đầu tư dự án sai lại chưa được làm rõ trong các báo cáo. Với quan niệm vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước phải phân cân bằng và chia đều cho các vùng, miền, ngành nghề, khu vực, cộng với thực tế nhu cầu đầu tư rất lớn nên khi phân bổ chúng ta thường bị căng kéo bởi nhiều mục tiêu. Chính vì vậy hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước đạt thấp thể hiện rất rõ thông qua tình trạng đầu tư dàn trải, tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài. Số dự án đầu tư tăng nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Không chỉ vậy,chúng ta vẫn còn có thói quen sản xuất ra những thứ mình có chứ không phải là những thứ thị trường cần tức là vấn đề hiệu quả kinh tế chưa được xem trọng đúng mức. Chẳng hạn, để thực hiện chủ trương sản xuất mía đường, chúng ta đã đầu tư xây dựng 32 nhà máy cán và lọc mía đường với tổng số vốn đầu tư 750 triệu USD và 350 triệu USD xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng theo đánh giá của WB thì khả năng thu hồi vốn chỉ đạt 60-70% do các nhà máy hoạt động không đúng công suất, do quy hoạch sai, do khi thiết kế không tính đến việc quy hoạch nguyên liệu dẫn đến việc di dời rất tốn kém. 2.5. Thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ Thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động từ khâu thẩm định, lựa chọn, đến tổ chức thi công, tư vấn, kiểm tra, nên các dự án đầu tư có vẻ như được thực hiện các bước khá chặt chẽ với nhiều quy định từ khâu lập dự án đến tổ chức thi công, giám sát... nhưng rút cuộc vẫn xảy ra những sai phạm thất thoát. Thậm chí có những sai phạm diễn ra trong một thời gian dài với quy mô và mức độ nghiêm trọng nhưng đều không được phát hiện ra như ở PMU18. Chỉ khi sự việc bị phanh phui trên báo chí, cơ quan điều tra đã vào cuộc thì đơn vị chủ quản mới biết. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, từ chủ đầu tư, nhà thầu đến giám sát đều không tuân theo pháp luật, dẫn đến tình trạng móc ngoặc giữa chủ đầu tư với nhà thầu, thi công với giám sát, thậm chí cả 3 chủ thể này cùng móc ngoặc nên phần lớn các dự án đầu tư đặc biệt là trong xây dựng nhiều công trình mới xây dựng xong đã xuống cấp nghiêm trọng và thất thoát lãng phí không thể kiểm soát nổi. Khi phát hiện có những vi phạm lại không được xử lý nghiêm. Thực tế thời gian qua, việc giám sát dự án nhiều khi chỉ đơn thuần là những thủ tục hành chính thiếu thực chất. Chẳng hạn như dự án dầu khí ở Cà Mau với tổng số vốn hàng trăm triệu USD nhưng khi kiểm tra mới phát hiện ra là những nội dung về đánh giá địa chất và đánh giá về tác động môi trường được sao chép từ một dự án khác của Bà Rịa, Vũng Tàu. Vậy sự giám sát quản lý lỏng lẻo cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất thoát, lãng phí trong đầu tư, đặc biệt là sự xuống cấp, kém chất lượng của các công trình, có thể kể ra đây hàng loạt những dự án như: Dự án công viên văn hoá An Hoà thành phố Rạch Giá với tổng số vốn đầu tư 50 tỷ, do quản lý không tốt để thất thoát lớn, nên chất lượng công trình quá kém, sau khi đưa vào sử dụng một số hạng mục đã bị đổ nát; Dự án nhà thi đấu đa năng Bắc Ninh vốn đầu tư 21,7 tỉ đồng thi công trong 2 năm, vốn đầu tư tăng lên 28 tỷ đồng nhưng đang tổ chức thì công trình bị sập gây hậu quả nghiêm trọng; Dự án nhà máy nước Cầu Đổ, Đà Nẵng, tổng số vốnn đầu tư 380 tỷ đồng nhưng do quản lý đầu tư kém nên công trình đã bị cắt xén nguyên vật liệu, thay đổi thiết kế dẫn đến công trình bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 2.4. Vòng tròn khép kín trong đầu tư Đó là tình trạng “khép kín” trong đầu tư do từ khâu quy hoạch, chuẩn bị dự án, thẩm định, tư vấn, thi công đều do các đơn vị trong cùng một Bộ thực hiện, tình trạng các Bộ quản lý giới thiệu nhà thầu. Đó chính là hiện tượng “thông thầu – móc ngoặc - chạy thầu – vây thầu – quân xanh, quân đỏ”. Vì vậy việc đánh giá, giám sát dự án có thể sẽ thiếu tính minh bạch, hiệu quả. Điều này sẽ dẫn đến việc nảy sinh tiêu cực, thông đồng với nhau để che giấu sai phạm, gây lãng phí rất lớn. Chẳng hạn, khâu giám sát thi công thì vì “anh em trong một nhà” nên dễ thông cảm với nhau. Nhiều dự án chỉ khi “anh em” ăn chia không sòng phẳng, đấu đá, tranh chấp với nhau mới lộ ra ngoài, báo chí đưa ra, cơ quan điều tra vào vụ việc mới được phơi bày. Khâu đầu thầu cũng thể hiện tính cục bộ của quá trình đầu tư. Nhiều công trình dùng chỉ định thầu hoặc đấu thầu một cách hình thức để tạo “công ăn việc làm cho người trong nhà”. Phổ biến việc “đi đêm” giữa nhà thầu với chủ đầu tư, thông đồn giữa các nhà thầu với nhau. Quy chế đấu thầu thiếu chặt chẽ, không công khai minh bạch đã dẫn đến việc một nhà thầu trúng nhưng sau đó lại chia phần cho các nhà thầu còn lại. Hay giành giật gói thầu bằng giá thấp “giật mình”, bằng 28,9% giá gói thầu (goi 2B hầm đèo Hải Vân), hoặc chênh lệch lên tới 400 tỷ đồng (gói thầu xây dựng cảng Cái Lân)...dẫn đến công trình kém chất lượng, thời gian thi công kéo dài, chi phí phát sinh lớn vẫn được quyết toán. Như vậy, chính tình trạng khép kín trong các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, thi công...trong một Bộ, ngành, địa phương như hiện nay đã cản trở công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước và các cơ quan chức năng dẫn đến khó phát hiện những lãng phí, thất thoát, khi phát hiện thì khó xử lý. 2.5. Không công khai minh bạch trong quy trình đầu tư Một thực tế đang diễn ra đối với hoạt động đầu tư là tính công khai, minh bạch không đảm bảo. Quy hoạch không được công khai kể cả quy trình thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư cũng chưa được công khai hoá. Đặc biệt hoạt động đầu thầu, đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách, vần đề công khai hoá lại càng không được thực hiện, nhiều công trình đáng lẽ phải được đầu thầu rộng rãi nhưng cũng không được công khai, nhiều nhà thầu không biết đến sau đó kết quả gói thầu, giá trúng thầu lại cũng không được công khai. Trong công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm cũng chưa thực hiện được vấn đề này. Chính những điều này đã làm giảm hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư, gây thất thoát lãng phí tài sản của Nhà nước, của nhân dân. 2.6. Trình độ năng lực yếu kém và sự thoái hoá về đạo đức của một số không ít các chủ đầu tư và ban quản lý dự án. Năng lực hạn chế của cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kiểm toán còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực hành nghề về chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần. Chẳng hận như do năng lực của chủ đầu tư và ban quản lý còn hạn chế nên dẫn đến tình trạng quy hoạch thiếu chính xác về mặt địa chất cũng như cả về mặt kỹ thuật, kinh tế - các yếu tố quan trọng quyết định tính hiệu quả của dự án đầu tư. Chính vì vậy mà rất nhiều dự án, công trình đầu tư khi hoàn thành nhưng không sử dụng được hoặc có được sử dụng nhưng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Sự thoái hoá về mặt đạo đức của không ít các chủ đầu tư và ban quản lý dự án là môt trong những nguyên nhân gây ra thất thoát và lãng phí trầm trọng. Họ đã bất chất các quy định của pháp luật, coi nhẹ những hiểu biệt về quy luật thị trường tìm mọi cách rút ruộc công trình, mang về cho mình một khoản tiền béo bở bằng việc thông đồng với nhau (giữa chủ đầu tư với ban quản lý) để có thể bớt xen vật tư, nguyên vật liệu hay thay đổi thiết kế để có thể làm giảm chi phí thi công, khoản chi phí giảm đó sẽ nghiễm nhiên ở trong túi họ. Thực tế tình trạng này diễn ra rất phổ biển và nó đã trở thành một “căn bệnh kinh niên” trong đầu tư, chẳng hạn như việc không tuân thủ các quy chế trong đầu thầu: Theo quy định hiện hành phải thực hiện đầu thầu cạnh tranh rộng rãi để lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực để thi công công trình, song việc chỉ định thầu không đúng quy định vẫn diễn ra phổ biến, ý thức chấp hành quy chế đấu thầu đã dẫn đến tình trạng mua bán thầu. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP 1. Các giải pháp vĩ mô Các quy định quản lý đầu tư là cơ sở, là “cái gậy” của cán bộ quản lý. Nếu nghiêm cứu chưa kỹ thì có nhiều sơ hở dẫn đến hay thay đổi và ban hành không đồng bộ thì dẫn đên khó khăn cho công tác quản lý, bị kẻ xấu lợi dụng để trục lợi cá nhân. Vì vậy, để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí nêu trên ở tầm vĩ mô chúng ta cần: 1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong đầu tư - Cần rà soát lại các quy định hiện tại, để xem trong quá trình thực hiện những quy định nào còn chưa phù hợp với điều kiện tình hình thực tế để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện dần. Nhưng quá trình sửa đổi và hoàn thiện này phải diễn ra nhanh chóng không thì sẽ dẫn đến tình trạng quy định vừa mới sửa đổi, bổ sung thì đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa - Hệ thống văn bản pháp luật cần phải được xây dựng một cách đồng bộ, tránh tình trạng quy định này bác bỏ hay mâu thuẫn với quy định kia. - Các quy định đưa ra cần phải rõ ràng, không được chồng chéo lên nhau. Ngoài ra từ ngữ dùng trong văn bản pháp luật phải dễ hiểu, đơn giản tránh dùng từ nhiều nghĩa... dễ dẫn đến hiểu sai, nghiêm trọng hơn điều này sẽ tạo cơ hội cho một số kẻ tìm cách lách luật rồi từ đó chuộc lợi riêng cho mình... - Cần phải đưa ra các chế tài nghiêm khắc về xử phạt, cưỡng chế khi có các sai phạm để xử lý các cá nhân tham gia dự án: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, nhà thầu... - Cần quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng người khi tham gia vào một dự án để tránh tình trạng khi có sai phạm xảy ra thì đổ lỗi quy kết trách nhiệm lẫn nhau giữa các bên liên quan, không ai chịu đứng ra chịu trách nhiệm. - Để có được một hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, chúng ta cần thành lập một tổ công tác gồm các nhà chuyên môn ở nhiều lĩnh vực, có nhiều kinh nghiệm thực tế trong quản lý dự án, có tâm huyết. Tổ công tác này hoạt động độc lập, chuyên trách giúp Chính phủ nghiêm cứu soạn thảo ra hệ thống các quy định trong đầu tư, đặc biệt là trong xây dựng đạt được các yêu cầu trên. Việc soạn thảo, ban hành các quy định theo đúng quy trình. 1.2. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư Có quy định mà không có sự giám sát, kiểm tra và thanh tra thì việc thực thi sẽ không nghiêm. Nhưng các sai phạm thường được che dấu bởi nhiều thủ đoạn tinh vi vì thế nếu không điều tra thì không thể phát hện được. Cho nên có thể nói trong nguyên nhân: Công tác quản lý bị buông lỏng và có kẻ cố tình vi phạm định chế quản lý vì lợi ích cá nhân là do công tác thanh tra, điều tra chưa lành mạnh, lực lượng thanh tra, điều tra còn yếu và thiếu lực. Do vậy những việc cần làm ngay là: Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của lực lượng này và đẩy mạnh công tác này để ngăn chặn và phát hiện những sai phạm; đưa ra ánh sáng những kẻ cố ý làm trái quy định, pháp luật gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí hiện nay; thu hồi tài sản bị thất thoát. Muốn vậy cần phải: - Thành lập mạng lưới kiểm định chất lượng đầu tư trên cả nước nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư. - Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm soát. - Tăng cường tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ thanh tra. - Bổ sung thêm nhiều cán bộ “có năng lực, trình độ” vào lực lượng thanh tra, điều tra. - Trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật và tăng kinh phí cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Mở rộng phạm vi quyền hạn cho lực lượng thanh tra, điều tra. - Lực lượng thanh tra, điều tra phải độc lập để đảm bảo tính khách quan, công bằng. - Có sự thưởng, phạt phân minh với những thành tích và khuyết điểm trong công tác. - Cần áp dụng các giải pháp liên quan đến cá nhân đối với lực lượng thanh tra, điều tra. - Xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này đối với sự gia tăng số vụ và mực độ thất thoát. - Đã có đơn tố giác, đã có biểu hiện, dư luận về sai phạm, thất thoát ở dự án nào thì lực lượng thanh tra, điều tra phải sớm xác định và làm rõ, phải làm cho đến nơi đến chốn để rõ trắng đen để đưa vụ việc ra ánh sáng, để có tác dụng răn đe và quan trọng hơn là thu hồi tài sản của đất nước bị thất thoát. - Nhà nước cần mở tài khoản kế toán riêng để theo dõi và quản lý tập trung tất cả tài sản bị thất thoát thu hồi qua kết quản kiểm tra, thanh tra và điều tra. Số tiền thu hồi để chi cho việc đầu tư nâng cao năng lực lực lượng thanh tra, điều tra, chi cho việc bảo vệ nhân chứng, bổ sung kinh phí cho hoạt động thanh tra, điều tra... Vì vậy có thể sẽ phát hiện nhiều hơn những dự án có thất thoát và thu hồi được nhiều hơn số tiền bị thất thoát. - Tập trung giám sát đầu tư với tất cả các dự án đang ở giai đoạn chuẩn bị triển khai để đánh giá hiệu quả đầu tư, phát hiện những sai sót trong tính toán có thể dẫn đến lãng phí từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời làm giảm hoặc tránh xảy ra lãng phí. - Tập trung thanh tra tất cả các dự án đang và đã triển khai để phát hiện những sai phạm quy định, thủ tục triển khai, những sơ hở trong quản lý có thể dẫn đến lãng phí, thất thoát từ đó có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời ngăn chặn hoặc tránh xảy ra lãng phí, thất thoát. 1.3. Công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước Công khai trong quy trình đầu tư là một yêu cầu đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa thực hiện được, mà nguyên nhân chủ yếu là do con người cố tình không công khai để tham ô, tham nhũng, gây thất thoát hàng tỷ đồng của Nhà nước. Do đó, để hạn chế thất thoát, lãng phí cần có biện pháp thực hiện triệt để. Cần có chế tài đủ mạnh để quy hoạch vùng, ngành được công bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng. Quy trình đấu thầu cũng phải được công bố rộng rãi kể cả đấu thầu hạn chế và đấu thầu cạnh tranh rộng rãi về giá gói thầu, giá trúng thầu, tiến độ thi công, công khai xử lý những trường hợp vi phạm quy chế về đầu tư tranh thủ sự giám sát của cộng đồng để tránh lãng phí, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. 1.4. Loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư Tình trạng “khép kín” trong đầu tư là một trong những căn bệnh kinh niên trong đầu tư. Muốn xóa bỏ tình trạng nay, trước hết cần từng bước tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành và địa phương nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công... trong cùng một Bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, bổ sung chế tài đủ mạnh để các đơn vị phải chấp hành nghiêm túc các quy định về giám sát đánh giá đầu tư, theo hướng chống “khép kín” trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư; bổ sung các quy định về xử lý hành chính các hình thức kỷ luật đối với các cá nhân, đơn vị về việc không thực hiện chế độ báo cáo hoặc báo cáo sai với nội dung báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư. Các tổ chức, cá nhân thực hiện công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra về đầu tư và xây dựng phải chịu trách nhiệm về kết quả công tác kiểm tra, thanh tra của mình. Cụ thể: - Phải thực hiện cơ chế đấu thầu đối với những dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước - Người ra quyết định đầu tư không được kiêm nhiệm làm chủ đầu tư dự án, tổ chức tư vấn thiết kế, nhà thầu xây dựng, tư vấn giám sát của một dự án, công trình nhát thiết không được cùng một cơ quan (Bộ, tỉnh, thành phố) - Quy định rõ điểu kiện, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án; - Nâng cao năng lực và tính chuyên môn của các ban quản lý dự án. 1.5. Tiếp tục rà soát, cập nhật và nâng cao chất lượng quy hoạch Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, công tác quy hoạch ở nước ta phải xem xét, hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới. Cụ thể, công tác quy hoạch phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Công tác quy hoạch tổng thể cũng như quy hoạch chi tiết phải đi trước một bước và phải nghiên cứu xây dựng phê duyệt thẩm định chặt chẽ trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng ngành, từng vùng, thường là phải kế hoạch 5 năm và đồng thời chất lượng quy hoạch phải phù hợp với thị trường, đúng định hướng, đảm bảo cơ cấu, cân đối vĩ mô. - Coi trọng công tác quy hoạch đầu tư nhất là quy hoạch quy mô cho từng dự án, đảm bảo phù hợp trên cơ sở xác định nhu cầu đầu tư. - Công tác quy hoạch phải mang tính thống nhất và liên vùng. - Phải có quy hoạch cho từng giai đoạn phù hợp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phải lưu ý các vấn đề hội nhập quốc tế, thường xuyên cập nhật, bổ sung điểu chỉnh. Để đảm bảo được những yêu cầu đó cần phải làm tốt những công việc sau: 1.5.1. Nhanh chóng tạo ra khung khổ pháp lý cho công tác quy hoạch, sớm ban hành các văn bản về quản lý Nhà nước đối với quy hoạch. Việc phân cấp trong quy hoạch cần được cụ thể hơn, quy định rõ trách nhiệm cụ thể của các chủ thể trong công tác quy hoạch, phân biệt rõ quy hoạch có hiệu lực pháp lý “quy hoạch cứng” và quy hoạch có tính định hướng “quy hoạch mềm”, quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân cần được lập và phê duyệt quy hoạch. 1.5.2. Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế - Tăng khả năng và nâng cao chất lượng công tác dự báo và thông tin cho các ngành, địa phương phục vụ công tác quy hoạch nhất là cung câp thông tin kinh tế, thị trường, khoa học, công nghệ. Đảm bảo quy hoạch sẽ là cơ sở vững chắc, định hướng cho đầu tư và kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Kết hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch sử dụng đất. - Các dự án đầu tư phải tuân thủ theo quy hoạch bao gồm: quy hoạch tổng thể, phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, trong đó lấy quy hoạch phát triển ngành làm trọng tâm. Phải có các chế tài đủ mạnh đối với các dự án đầu tư không tuân thủ pháp luật, không thực hiện quy hoạch hoặc thực hiện sai quy hoạch. - Rà soát các quy hoạch ngành, sản phẩm để loại bỏ trường hợp lợi dụng quy hoạch để độc quyền đầu tư, đảm bảo sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, sản xuất hàng hoá chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của hội nhập. - Tập trung và hoàn chỉnh kịp thời những quy hoạch không còn phù hợp để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Do công tác quy hoạch là công tác quan trọng, định hướng quyết định đến hiêụ quả của đầu tư nên quy hoạch sai dẫn đến đầu tư sai, hiệu quả thấp, nếu không kịp thời hoàn thiện, bổ sung thì sẽ gây sự lãng phí rất lớn. 1.5.3. Chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. Xuất phát từ yêu cầu của sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, địa phương và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cần phải quan tâm đúng mức đến công tác lập, phê duyệt quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp để tránh trường hợp tất cả các ngành, các cấp đều lập quy hoạch nhưng dẫn đến thực thi các dự án mà ngay sau đó, khi dự án đã hoàn thành phải phá bỏ không thể thực hiện do quy hoạch sai, thay đổi quy hoạch. Muốn thế cần phải: - Nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ lập và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. - Tổ chức tốt việc thẩm định các dự án quy hoạch, điều này có ý nghĩa quan trọng vừa từng bước nâng cao chất lượng quy hoạch vừa tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả đầu tư. - Nâng cao hơn nữa tính kết nối giữa các quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch các tỉnh bằng cách rà soát, chấn chỉnh công tác quy hoạch nhanh chóng khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”. 1.5.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác quy hoạch Tình trạng không nắm rõ quy hoạch dẫn đến việc đâu tư tràn lan, hiệu quả đầu tư thấp gây lãng phí tổn thất lớn. Do đó, cần đẩy mạnh công tác kiểm tra giam sát của Nhà nước cũng như cộng đồng đối với công tác quy hoạch. - Các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quy hoạch đã được duyệt, có biện pháp ngăn ngừa, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý những đơn vị, cá nhân quyết định đầu tư không đúng quy hoạch. - Cần công bố công khai, minh bạch quy hoạch tổng thể, chiến lược, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng vùng thu hút rộng rãi ý kiến đóng góp, tranh thủ sự giám sát của cộng đồng. 1.6. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án - Đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, thẩm định lại các phương án đầu tư, xem xét lại các yêu cầu về quy hoạch, kỹ thuật, công nghệ, thị trường...; nếu việc đầu tư không mang lại hiệu quả thiết thực thì không quyết định đầu tư. - Đối với các dự án đang đầu tư, cần có sự rà soát, tính toán sửa đổi, bổ sung giải pháp kỹ thuật, thay đổi quy mô, công nghệ cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án, nếu xét thấy việc tiếp tục đầu tư không hiệu quả thì kiên quyết dừng đầu tư. - Trường hợp các dự án đầu tư xét thấy không hiệu quả nhưng vẫn tiếp tục được đầu tư dẫn đến không thu hồi được vốn, không trả được nợ vay thì người quyết định tiếp tục đầu tư phải bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm hoặc xử lý hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng. 1.7. Hoàn thiện phân cấp trong quản lý đầu tư Phân cấp trong quản lý kinh tế nói chung và phân cấp trong đầu tư nói riêng là những nội dung quan trọng cấu thành chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Quản lý đầu tư được hiểu là quản lý quy hoạch, kế hoạch cân đổi và phân bổ nguồn lực, quản lý sử dụng các nguồn lực được phân bổ đúng quy định và đạt hiệu quả cao nhất. Phân cấp phải đảm bảo những nội dung sau: Mục tiêu của phân cấp quản lý đầu tư là nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động đầu tư. Hiệu quả của hoạt động đầu tư được thể hiện bởi 4 nguyên tắc: - Đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. - Đảm bảo việc chuẩn bị ra quyết định một cách nhanh nhất. - Đảm bảo cấp quyết định là cấp có đủ điều kiện cần thiết đối với việc ra quyết định (đủ thẩm quyền và đủ thông tin). - Đảm bảo người ra quyết định là người duy nhất có quyền, đồng thời có trách nhiệm với quyết định. Định hướng phân cấp quản lý đầu tư - Đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn tín dụng, định hướng phân cấp theo hướng phân cấp quản lý căn cứ vào tính chất, phạm vi hoạt động, lĩnh vực đầu tư, quy mô, nguồn vốn đầu tư mà thực hiện phân cấp, các cấp chính quyền quyết định các dự án đầu tư từ ngân sách địa phương và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội và khả năng quản lý của địa phương. - Đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, định hướng chung là đảm bảo cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động tìm kiếm cơ hội đầu tư và lựa chọn quyết định đầu tư. Các cơ quan quản lý chỉ tham gia từ góc độ người sở hữu phần vốn Nhà nước liên quan. Nội dung phân cấp quản lý: Phân cấp quản lý quy hoạch phát triển - Xác định lĩnh vực, cấp phải lập quy hoạch phát triển và thời hạn ứng với từng cấp. - Xác định vị trí,vai trò và mối quan hệ giữa các loại quy hoạch với nhau. - Xác định tiêu chí phân cấp cho việc tổ chức thẩm định, phê duyệt. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý thực hiện quy hoạch. Phân cấp quản lý các kế hoạch phát triển (kế hoạch đầu tư) - Trước hết, tất cả các cơ quan, các đơn vị, các cấp sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước đều phải lập kế hoạch phát triển, trong đó có kế hoạch đầu tư. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị kế hoạch phát triển, nội dung của kế hoạch phát triển, kế hoạch phải phù hợp và nhằm thực hiện quy hoạch phát triển. - Xác định rõ cấp nào bố trí vốn cho quy hoạch phát triển thì cấp đó là người phê duyệt kế hoạch, cấp nào lập và phê duyệt kế hoạch thì cấp đó chịu trách nhiệm quản lý kế hoạch. - Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra. Phân cấp các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách và vốn tín dụng Nhà nước - Phân định rõ giữa công tác quản lý Nhà nước về đầu tư và việc quản lý dự án của chủ đầu tư. - Gắn phân cấp quản lý với trách nhiệm cụ thể, với công tác kiểm tra, thanh tra. 2. Các giải pháp vi mô Trong hoạt động đầu tư có nhiều chức danh cán bộ như: khảo sát, tư vấn, thiết kế, soát, kiểm tra, giám sát, thẩm định, phản biện, quản lý doanh nghiệp tư vấn, người có thẩm quyền quyết định phê chuẩn, quản lý dự án, quản lý thi công... Mỗi chức danh phải có cá nhân nào chịu trách nhiệm chính, cá nhân nào liên đới trách nhiệm, không thể để tình trạng “rất nhiều người có quyền, song rất ít người chịu trách nhiệm cụ thể” và tình trạng “cha chung không ai khóc” tồn tại trong quản lý điều hành và triển khai dự án. Vì vậy để khắc phục các nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp sau: 2.1. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người người tham gia vào hoạt động đầu tư Khi tham gia vào bật kỳ dự án đầu tư nào, mỗi người đều phải tự ý thức được trách nhiệm, quyền hạn cũng như các hình thức xử phạt đối với bản thân nếu như trong quá trình thực hiện để xảy ra hậu quả để từ đó thực hiện tốt công việc của mình: 2.1.1. Đối với người ra quyết định đầu tư Người quyết định đầu tư là người chịu trách nhiệm trực tiếp về hiệu quả và khả năng bảo đảm nguồn vốn. Do đó, không thể để tình trạng người ra quyết định vô trách nhiệm đối với những quyết định sai của mình gây thất thoát lãng phí hàng tỷ đồng. Theo đó, người quyết định đầu tư phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc miễn nhiệm khi quyết định sai gây lãng phí, thất thoát. Có như vậy mới đảm bảo cho các quyết định đầu tư đúng đắn, nâng cao hoạt động đầu tư, hạn chế thất thoát, lãng phí. 2.1.2. Đối với chủ đầu tư Chủ đầu tư là người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý vốn để thực hiện đầu tư nên cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp đối với hiệu quả của dự án, mọi quyết định đầu tư của chủ đầu tư đều ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nên cần quy định rõ điều kiện, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý dự án. Trong trường hợp chủ đầu tư không có đủ điều kiện năng lực thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý dự án theo quy định của luật xây dựng. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hậu quả của việc thanh quyết toán chậm hay sai so với quy định. Kiện toàn, sắp xếp ban quản lý dự án, xóa bỏ các ban quản lý dự án không đủ điều kiện năng lực, thành lập ban quản lý chuyên nghiệp hoặc động theo quy mô của dự án. 2.1.3. Đối với tổ chức tư vấn đầu tư Với tư cách là tổ chức thực hiện các dịch vụ tư vấn về các lĩnh vực liên quan đến đầu tư cho nên cũng ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả đầu tư. Dó đó, phải củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức tư vấn, sắp xếp lại các tổ chức tư vấn trong nước theo hướng cổ phần hóa, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập, không được sử dụng tư vấn trong nội bộ cơ quan chủ đầu tư để thực hiện các dịch vụ thẩm định, giám sát, đánh giá dự án của chủ đầu tư. Tổ chức tư vấn trong nước có thể liên kết với các tổ chức tư vấn nước ngoài để có đủ điều kiện năng lực thực hiện các dự án quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp. Cần quy dịnh điều kiện của các tổ chức tư vấn được lựa chọn, có chính sách để khuyến khích các tổ chức tư vấn nâng cao năng lực chuyên môn để đảm bảo các công trình tương tự mà trước đây vẫn phải thuê tư vấn nước ngoài. Tiến tới tổ chức tư vấn trong nước thực hiện các công việc mà trước đó phải thuê tư vấn nước ngoài. Tổ chức tư vấn có thể đảm nhận được công việc tư vấn cả thiết kế công trình, giám sát, thi công….các công trình kỹ thuật phức tạp chỉ thuê tư vấn nước ngoài đối với một số công việc đặc biệt phức tạp. 2.1.4. Đối với nhà thầu Để công trình sau khi hoàn thành có thể đi vào sử dụng đạt được hiệu quả về kinh tế - xã hội đòi hỏi các nhà thầu phải có năng lực, trình độ chuyên môn nhất định. Chấm dứt tình trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu cho các nhà thầu không đủ điều kiện năng lực thi công. Do đó, khi phát hiện nhà thầu không đủ năng lực đảm bảo chất lượng của dự án cần có biện pháp xử lý kịp thời hoặc chấm dứt hợp đồng. Trong trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với tổ chức tư vấn hoặc nhà thầu thì tùy theo mức độ sai phạm phải có cơ chế đủ mạnh như phạt tiền, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia các hoạt động đầu tư ít nhất là một năm nhằm hạn chế những tiêu cực dẫn đến thất thoát và lãng phí. 2.2. Nâng cao trình độ đạo đức của cán bộ quản lý đầu tư. Cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Đào tạo kiến thức cơ bản và tạo điều kiện để cán bộ quản lý nghiên cứu thị trường và các kiến thức liên quan như thị trường xây dựng, thị trường bất động sản. Đào tạo để quản lý trở thành một nghề mang tính chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ban hành các chế tài đủ mạnh để diều tiết người quyết định đầu tư theo hướng: Người quyết định đầu tư phải bị xử phạt hành chính, cách chức, miễn nhiệm khi quyết định các dự án đầu tư sai quy hoạch gây hậu quả nghiêm trọng. Cần xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của từng cá nhân, đơn vị tham gia vào quá trình đầu tư. Cá nhân nào đã nhận trách nhiệm mà không hoàn thành thì phải chịu hình phạt trước nhân dân, Đảng, Nhà nước. Nâng cao nhận thức về tự hào và tự trọng nghề nghiệp, trả lương thỏa dáng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; phù hợp với chất lượng, kết quả công viêc. Tăng cường triển khai các biện pháp chông tham nhũng, lãng phí thực hành tiết kiệm. Nâng cao đạo đức và ý thức chấp hành kỷ luật của công chức Nhà nước. Xây dựng cơ chế để kiểm soát thu nhập, thực hiện triệt để việc kê khai tài sản và thu nhập cá nhân đối với cán bộ công chức Nhà nước, đặc biệt là những người có chức có quyền, tăng cường công tác giáo dục, kiểm tra và xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức thái hóa, biến chất. Tập trung làm trong sạch các cơ quan bảo vệ pháp luật. 2.3. Thực hiện nghiêm túc các công việc trong suốt quá trình đâu tư ở từng đơn vị. Muốn vậy mỗi đơn vị thực hiện đầu tư cần phải: - Có các quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm cá nhân với công việc được giao quản lý. Cần xác định rõ theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì người quyết định là người chịu trách nhiệm chứ không phải là tập thể chịu trách nhiệm, không có tập thể quyết định chuyên môn. Cá nhân nào đã nhận trách nhiệm mà không hoàn thành thì phải chịu hình phạt trước nhân dân, Đảng, Nhà nước. Đó chính là lời giải tốt nhất cho bài toán thất thoát lãng phí trong đầu tư ở thời điểm hiện nay. - Cần trả lương thoả đáng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; phừ hợp với chất lượng, kết quả của công việc. - Kiên quyết xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm, không bao che, dung túng, nể nang, né tránh đối với bất kể cán bộ nào làm sai để giữ vững kỷ cương, kỷ luật. - Những cán bộ có trách nhiệm trực tiếp quản lý dự án, trước khi được giao nhiệm vụ phải khai báo tài sản và thu nhập cá nhân 2.4. Phổ biến rộng rãi văn bản pháp luật cho từng cá nhân trong mỗi đơn vi. - Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư: Luật Xây dựng, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn được ban hành kem theo; Nghị quyết số 36/2004/QH11 kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XI về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, phải coi đây là công việc trọng tâm của đơn vị. - Các hệ thống chỉ tiêu, định mức, đơn giá phù hợp với tình hình thực tế. - Tổ chức các buổi học cho cán bộ nhân viên để họ có thể nắm vững các tiêu chuẩn, cũng như các quy định trong lĩnh vực hoạt động của mình tránh tình trạng không biết dẫn đến thất thoát, lãng phí. 2.5.Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra trong từng đơn vi. Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư tố cáo, rất ít vì không ai giám nói vì tư tưởng “muốn yên thân”, vì “ngại va chạm”, vì sợ “đấu tranh – tránh đâu”, vì mọi người chưa tin vào quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Do vậy muốn giảm thất thoát lãng phí thì trước tiên cán bộ nhân viên ở mỗi doanh nghiệp cần mạnh dạn hơn trong việc tố cáo thất thoát lãng phí ở ngay cơ quan, nhà máy mình. Muốn vậy cần: - Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để mọi người có thể giám sát quá trình đầu tư tốt hơn. - Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu của họ. 2.6. Những vùng, địa phương được đầu tư cần tích cực tham gia vào hoạt động giám sát. - Để chấn chỉnh công tác quản lý trong đầu tư, tăng cường giám sát sẽ là biện pháp quan trọng nhất, trong đó hoạt động giám sát của cộng đồng sẽ giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tất cả các dự án, các công trình đầu tư phải công khai hoá cho nhân dân biết, đồng thời cho phép các tổ chức, mặt trận, đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng và nhân dân được quyền tiếp cận các thông tin của dự án, giám sát hoạt động của dự án tại tất cả các khâu; có cơ chế để các cơ quan chức năng tiếp nhận và xử lý các kiến nghị sau giám sát của nhân dân và báo chí. - Các dự án đầu tư của Trung ương trên địa bàn tỉnh nào thì chính quyền ở tỉnh đó phải biết, hội đồng nhân dân, đoàn thể quần chúng cũng như phương tiện thông tin đại chúng ở đó phải biết, và những yếu tố cơ bản của các dự án đầu tư phải đến với người dân để người dân biết được quy mô của dự án đầu tư như thế nào, vốn là bao nhiêu, rồi các tiêu chí chuẩn phí... Trên cơ sở đó, người dân sẽ tập trung giám sát. Điều này góp phần ngăn chặn tỷ lện thất thoát và lãng phí vốn đầu tư một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, nhiều công trình xây dựng đường giao thông, trường học, thuỷ lợi của địa phương đã tiết kiệm được tối đa chi phí do người dân giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện đầu tư, nắm chắc giá trị từng kilogam vật liệu để tính ra tổng dự toán công trình. KẾT LUẬN Đầu tư xây dựng cơ bản là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế…..Hiện nay trong thời gian qua, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần rất lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thể hiện qua việc tốc độ tăng trưởng của việt nam là khá cao và ổn định. Việt nam có điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, nhiều tiềm năng kinh tế chưa khai thác triệt để, nghiên cứu và đánh giá, phân tích tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản một cách kỹ lưỡng và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản sẽ là một yếu tố quan trọng để đưa nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, theo kịp nhịp độ của thể giới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Kinh tế đầu tư, trường ĐH Kinh tế quốc dân, năm 2007 2.Giáo trình Lập dự án đầu tư, trường ĐH Kinh tế quốc dân, năm 2005 3.Đầu tư gián tiếp nước ngoài - tác động hai mặt và lựa chọn chính sách cần thiết cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 120 năm 2007 4.Hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước – Thực trạng và giải pháp(Trích báo cáo chính của Tổng hội Xây dựng Việt Nam tại Hội thảo toàn quốc ngày 4/12/2006), 5.Lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng - Chủ yếu là nguyên nhân con người 6.Quản lý Đầu tư và xây dựng cơ bản ở Việt Nam 7.Thất thoát, lãng phí xảy ra phổ biến ở các công trình dự án, N.V.Hải thực hiện, 8.Lãng phí thất thoát bắt nguồn từ đâu, GS.TSKH, đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Trân, 9. 10. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22450.doc
Tài liệu liên quan