Đề án Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ

Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, là thị trường tiềm năng của nhiều nước xuất khẩu vì không những thị trường này có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh trên thị trường Mỹ diễn ra rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ hơn 150 nước. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đã được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Mehico và có thể phải chịu những quy chế ngặt nghèo của Mỹ như chế độ theo dõi đặc biệt va áp dụng biện pháp chống bán phá giá như hiện nay điều này gây cản trở cho việc thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mặc dù có những điểm mạnh nhưng cũng có những điểm yếu, có những cơ hội tốt để phát triển nhưng cũng có những nguy cơ đe dọa. Cho nên, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ cần áp dụng những giải pháp vừa mang tính đặc thù của ngành vừa mang tính chất chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, thì cần sự hỗ trợ trực tiếp cũng như gián tiếp của Nhà nước để hàng dệt may Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ.

doc33 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi. Khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ được áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc, hàng hoá xuất khẩu vào các nước được đối xử bình đẳng như với 149 nước thành viên. Các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng mà không lo về hạn ngạch tại bất kỳ thị trường nào. Như vậy cơ hội mở rộng thị trường của Việt Nam sẽ lớn hơn Môi trường kinh doanh nước ta ngày càng được cải thiện thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động Khi gia nhập WTO các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tập trung đầu tư vào lĩnh vực nguyên phụ liệu, do đó chúng ta sẽ chủ động được lĩnh vực này Khi gia nhập WTO các doanh nghiệp dệt may sẽ phải năng động hơn, hàng dệt may Việt Nam đã có cải tiến về mẫu mã được các khách hàng trong va ngoài nước ưa chuộng Việt Nam đi sâu trong hội nhập kinh tế nên có điều kiện tiếp thu các công nghệ kỹ thuật mới và tiên tiến cũng như tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đi trước Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ nên có những lợi thế mà các doanh nghiệp lớn không có được, như: Linh hoạt và thích nghi dễ dàng với sự biến động của thị trường ; Có khả năng tận dụng mọi thành nguồn lao động khắp các miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn; Không cần vốn lớn, có điều kiện tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất và kinh doanh; Dễ đổi mới trang thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, mẫu mã để mở rộng thị trường; Có điều kiện trợ lực tốt cho các doanh nghiệp quy mô lớn, chẳng hạn như hoạt động dưới dạng chân rết cho các tổng công ty trong sản xuất và kinh doanh. * Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, ngành dệt may Việt Nam vẫn còn tồn tại những khó khăn như: Dệt may Việt Nam chủ yếu là gia công cho nước ngoài do đó lợi nhuận đạt được rất thấp trên tổng kim ngạch xuất khẩu. Nguyên liệu phụ cho ngành may chủ yếu vẫn nhập từ nước ngoài làm cho chi phí khá cao và thiếu chủ động Chúng ta chưa xây dựng được một thương hiệu nổi tiếng nào, hàng dệt may xuất ra nước ngoài chủ yếu tồn tại la do có thị trường khe Chúng ta chưa có khả năng thực hiện các hợp đồng lớn Năng suất lao động và trình độ tay nghề công nhân còn thấp, chẳng hạn một công nhân Việt Nam chỉ may được 16 áo sơ mi/ngày, trong khi ở các nước khác là 27 áo/ngày… Trình độ quản lý trong ngành dệt may còn thấp. Hoạt động tiếp thị còn yếu, chưa chủ động thu hút khách hàng và giao dịch trực tiếp. Vừa qua đa số đơn hàng các doanh nghiệp Việt Nam đạt được là do các khách hàng tự tiếp cận và chủ động ký hợp đồng hoặc thông qua một số nước thứ ba làm trung gian giao cho Việt Nam gia công để họ xuất vào thị trường thế giới Khâu thiết kế sản phẩm may mặc còn rất yếu, nên chưa có được các sản phẩm độc đáo và chưa tạo được nhãn hiệu uy tín đối với thị trường thế giới Việt Nam đã và đang phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Indonexia, Pakixtan, Hàn Quốc… Hiện nay chính phủ Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Đây là khó khăn rất lớn tới Việt Nam vì Mỹ là thị trường chiếm 50% hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. 1.3 Đặc điểm về thị trường dệt may của Hoa Kỳ a. Những nét chung về thị trường Mỹ Vài nét chung: Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, với dân số 300 triệu người, thu nhập bình quân đầu người cao, chênh lệch giàu nghèo tương đối lớn. Dân Mỹ được xem là dân có sức tiêu ding lớn nhất trong các nước có nền công nghiệp phàt triển. Theo nghiên cứu của một nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc thì nếu sức tiêu ding của các gia đình Nhật, EU la 1 thì của các gia đình Mỹ là 1,7. Ngoài ra, nước Mỹ hàng năm xuất khẩu ra thị trường thế giới một giá trị hàng hoá khoảng gần 900 tỷ USD năm 2000, nhiều loại hàng xuất khẩu cần đến nguyên liệu xuất khẩu. Đối với thị trường Mỹ, hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam. Tụi cho rằng trong năm 2004 cỏc doanh nghiệp cần tập trung khai thỏc cú hiệu quả nhất bằng cỏch tăng giỏ trị cỏc mó hàng xuất khẩu cú hạn ngạch, đồng thời tỡm cỏch đẩy mạnh xuất khẩu cỏc mặt hàng chưa bị khống chế hạn ngạch. Theo quy định của Mỹ, cỏc sản phẩm dệt may được chia thành 167 mó hàng riờng lẻ, trong đú riờng hàng may mặc cú tới 106 mó hàng. Trong số 38 mó hàng dệt may Việt Nam bị khống chế hạn ngạch cú tổng cộng 35 mó hàng may mặc (chiếm 33% tổng số mó hàng may mặc vào thị trường Mỹ) và chỉ cú ba mó hàng dệt (chiếm 4,9% tổng cỏc mó hàng dệt). Tớnh chung, tổng số cỏc mó hàng bị khống chế của Việt Nam chỉ chiếm 22,7%. Như vậy vẫn cũn tới 129 mó hàng Việt Nam vẫn cú thể xuất tự do vào thị trường Mỹ mà cỏc doanh nghiệp cú thể tận dụng. Tuy nhiờn, đặc điểm của cỏc cat khụng bị khống chế hạn ngạch là cỏc cat thuộc nhúm nguội, cạnh tranh cao về chất lượng và giỏ cả. Thực tiễn sau khi thực hiện Hiệp định dệt may của Trung Quốc và Cam-pu-chia với Mỹ cho thấy: cú tới 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của hai nước này vào thị trường Mỹ nằm ở cỏc mó khụng bị khống chế hạn ngạch. Cỏc doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoàn toàn cú thể làm được điều này qua sự chuyển đổi mó hàng sản xuất phự hợp. Núi về đặc tớnh của thị trường Mỹ, bà Heather Variava (Tựy viờn kinh tế Tổng lónh sự quỏn Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chớ Minh ) bật mớ cho cỏc doanh nghiệp Việt Nam ba yếu tố quan trọng cần phải nắm rừ. Đú là người tiờu dựng Mỹ, thị trường hoàn toàn nhập khẩu của thị trường thế giới và thực tiễn làm ăn ở Mỹ. Theo bà Heather Variava, nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế tiờu thụ Người tiờu dựng Mỹ cú hiểu biết về kỹ thuật, họ nghiờn cứu, so sỏnh chất lượng cỏc sản phẩm trước khi tiờu dựng nhờ sự phỏt triển của thương mại điện tử. Người tiờu dựng Mỹ thường thớch cú sự lựa chọn đa dạng của sản phẩm, cựng một loại sản phẩm nhưng họ thớch cú nhiều mẫu mó, màu sắc, kớch cỡ khỏc nhau. Cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần phải năng động cập nhật sự thay đổi nhanh chúng của thị hiếu người tiờu dựng, đảm bảo uy tớn của thương hiệu. Người Mỹ luụn coi trọng thời hạn giao hàng chớnh xỏc. Thị trường Mỹ phõn khỳc hết sức mạnh mẽ, do vậy cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần xỏc định rừ và nhắm loại sản phẩm mỡnh vào một phõn khỳc thớch hợp, để từ đú đề ra chiến lược phự hợp. Bà Heather cũng khuyờn cỏc doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rừ sự khỏc biệt văn húa của người Mỹ so với cỏc nước chõu Á và Việt Nam. Doanh nhõn Mỹ thường cú tớnh cỏch đơn giản, khụng cầu kỳ, khỏch sỏo, thẳng thắn núi ra những suy nghĩ của mỡnh. Và ngược lại, họ cũng muốn biết thụng tin rừ ràng, nhất quỏn từ phớa đối tỏc Mỹ là thành viên lâu đời của tổ chức thương mại thế giới WTO, là một nước có nhiều tiêu chuẩn với các ngành kỹ thuật, phương thức kinh doanh chủ yếu la cạnh tranh bằng chất lượng, phân phối dịch vụ, cạnh tranh về giá ít được sử dụng Thị trường Mỹ được đặc trưng bởi hệ thống bán buôn bán lẻ rộng, người tiêu dùng ngày càng có xu hướng sử dụng những sản phẩm có chất lượng cao thân thiện với môi trường và không chấp nhận tăng giá. Hệ thống luật kinh doanh cua Mỹ rất phức tạp vì ngoài luật của Liên bang, còn có luật của tong bang. Cho nên muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ cần có sự am hiểu nhất định về hệ thống luật của Mỹ và phải có những bước đi thận trọng Tìm hiểu chính sách ngoại thương của Mỹ: Hiện nay chính sách ngoại thương của Mỹ được thực hiện theo các nội dung chính như sau: Sử dụng trợ cấp cho sản phẩm công nghiệp Không sử dụng các hàng rào thông thường, sử dụng hàng rào kỹ thuật, quy định phân phối Mức thuế quan thấp Mỹ và các nước bạn hàng của Mỹ phải đối xử bình đẳng với nhau trong quan hệ buôn bán. Nếu các nước khác muốn buôn bán sản phẩm và dịch vụ của mình vào thị trường Mỹ thì họ phải để cho Mỹ bán các sản phẩm của Mỹ vào các nước điều kiện như nhau. Nếu các nước khác muốn đầu tư vào các xí nghiệp của Mỹ thì Mỹ cũng yêu cầu họ tạo điều kiện để Mỹ đầu tư vào các nước đó. Nếu các nước khác muốn thành lập công ty tại Mỹ thì Mỹ cũng phải được đến thành lập công ty ở các nước đó và phải được hưởng mức thuế tương tự như công ty của nước sở tại Mức độ cạnh tranh hàng hoá tại thị trường Mỹ: + Tính cạnh tranh của thị trường Mỹ rất cao vì đa số các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển như EU, Nhật, các nước ASEAN, Trung Quốc, ấn Độ…đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực để thâm nhập. Cú một cõu hỏi luụn làm đau đầu cỏc doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu Dệt may Việt Nam là: Tại sao hàng Dệt may Trung Quốc cú giỏ rẻ khụng chỉ tràn ngập thị trường Mỹ, EU mà cũn loang rộng cả cỏc chõu lục? Lý do thật đơn giản vỡ Trung Quốc chủ động được nguồn nguyờn liệu, bụng họ trồng được; hoỏ chất nhuộm và thiết bị sản xuất họ cũng tự tỳc được. Những thuận lợi đú của Trung Quốc cũng là những điểm yếu của Việt Nam. Theo thống kờ, hiện nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 90% nguyờn liệu bụng, 100% hoỏ chất nhuộm và thiết bị cho ngành dệt. Cú thể núi, đối thủ lớn nhất của hàng Dệt may Việt Nam tại thị trường Mỹ vẫn là Trung Quốc. Hiện nay, Dệt may Việt Nam khụng thể cạnh tranh nổi với Dệt may Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 thỏng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bói bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức, Dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, cũn chỳng ta xuất khẩu õm vào thị trường này. Chỉ đến khi Mỹ ỏp dụng biện phỏp tự vệ (ỏp dụng hạn ngạch với 28 mặt hàng Dệt may của Trung Quốc đến năm 2008) thỡ xuất khẩu của Việt Nam mới tăng trưởng trở lại, nhưng cũng chỉ chiếm được 3,2% thị phần Dệt may Mỹ. Như vậy, khi Trung Quốc được bói bỏ hoàn toàn hạn ngạch vào năm 2008, nếu doanh nghiệp Dệt may Việt Nam chuẩn bị khụng tốt thỡ khụng những xuất khẩu vào Mỹ khú tăng, mà khả năng quay trở lại mức tăng trưởng õm cũng dễ trở thành hiện thực. Nguồn tin từ Hiệp hội Nhập khẩu dệt may Mỹ (USA - ITA) cũng cho biết Việt Nam được coi là nguồn cung lựa chọn thứ 2 sau Trung Quốc (nếu Việt Nam khụng cú khú khăn về hạn ngạch), nhất là đối với cỏc cat. 347/348, 647/648, 338/339, 638/639, 340/640. Hiện Việt Nam cú lợi thế là lao động rẻ và chất lượng may tốt hơn so với Ấn Độ (lựa chọn tiếp theo của cỏc nhà nhập khẩu dệt may Mỹ sau Việt Nam). + Phõn tớch cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may VN vào thị trường Mỹ và so sỏnh đơn giỏ với một số nước khỏc Năm 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch XK (triệu USD) 49 951 2484 2888 + Giỏ trị XK cú hạn ngạch (triệu USD) 1926 1933 + Giỏ trị XK phi hạn ngạch (triệu USD) 49 951 558 955 + % XK phi hạn ngạch/ tổng kim ngạch XK 22% 33% Đơn giỏ bỡnh quõn (USD/m2) + Trung Quốc 2.96 1.76 1.40 1.25 + Ấn Độ 2.11 1.94 1.93 1.89 + Pakistan 0.88 0.78 0.82 0.84 + Bangladesh 1.89 1.73 1.75 1.85 + Việt Nam 1.51 2.66 3.00 3.14 Do vậy, hầu hết các nhà xuất khẩu xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ đều gặp phải những trở ngại rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh đã thâm nhập vào thị trường Mỹ,muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ hay chính các doanh nghiệp của Mỹ. b. Biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ, những bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này là: Tận dụng lợi thế gần Mỹ và hợp tác kinh tế với Mỹ, tuy nhiên Việt Nam không có lợi thế này như Canada va Mêhico. Tận dụng kiều dân sống ở Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines…họ tận dụng hoạt động kinh tế của doanh nghiệp gốc Hoa, gốc Hàn…để làm bàn đạp đưa mạnh hàng hoá vào thị trường Mỹ mà không cần buôn bán qua trung gian. Với những khu vực thương mại của người Hoa ở các thành phố lớn của nước Mỹ mà hàng hoá Trung Quốc, Đài Loan chiếm lĩnh thị trường Mỹ mau chóng và hiệu quả. Việt Nam có thể áp dụng kinh nghiệm này vì chúng ta có rất nhiều kiều bào đang sinh sống ở Mỹ. Nâng cao tính cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh thị trường: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan, Peru…Thật vậy, thị trường Mỹ rất lớn nhưng người Mỹ khá thực dụng: giá rẻ vẫn là mồt trong những yếu tố quan trọng để chiếm lĩnh thị trường, đặc biệt là thị trường bình dân và thu nhập thấp. Chính nhờ chính sách giá rẻ nhưng không vi phạm luật chống bán phá giá của Mỹ mà nhiều mặt hàng như: quần áo, đồ chơi trẻ em, giày dép, hàng dệt kim…của Trung Quốc chiếm thị phần rất lớn ở Mỹ. Đa số hàng dệt may của ta xuất sang Mỹ có giá tương đối cạnh tranh. Đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến mẫu mã thường xuyên cũng là biện pháp quan trọng để chiếm lĩnh thị trường Mỹ. Đó là kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tuy nhiên đây là thách thức lớn đối với Việt Nam. Có chính sách ưu đãi thu hút vốn đầu tư nước ngoài để làm ra hàng xuất khẩu đưa vào thị trường Mỹ: Đó là kinh nghiệm của Trung Quốc và Campuchia: sau khi được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc của Mỹ, các nước này giành những ưu đãi về thuế đối với những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hàng xuất khẩu sang Mỹ, nhờ vậy mà Campuchia thu hút vốn đầu tư từ Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, họ “ đổ xô” đến Campuchia để tận dụng ưu đãi về hạn ngạch của Mỹ giành cho nước này. Nếu năm 1996 doanh số xuất khẩu ngành may của Campuchia chỉ đạt 72 triệu USD ( đây là năm Mỹ bắt đầu cho Campuchia hưởng quy chế Tối Huệ Quốc) thì năm 1999 tăng vọt lên 600 triệu USD ( chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của nước này), 70% số này xuất khẩu sang Mỹ. Nhìn chung, những kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ kể trên đều có thể áp dụng ở mức độ khác nhau cho Việt Nam. Chương 2:Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ Kim ngạch xuất khẩu và giá cả. Việt Nam hiện nay đã nằm trong top 10 nước có lượng hàng dệt may xuất khẩu cao của thế giới (năm 2006 xếp vị trí thứ 16). Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Đơn vị (tỷ USD) 5,4 4,4 2,95 2,88 2,72 (Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu qua một số năm) Theo số liệu của Hoa Kỳ, tính đến hết tháng 10/2006, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã đạt 2,95 tỉ đô la, trong khi tổng kim ngạch cả năm 2004 là 2,72 tỉ và năm 2005 là 2,88 tỉ đô la, năm 2007 đạt 4,4 tỉ đô la. Đối với sản phẩm dệt may, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2008 dự kiến đạt 5,4 tỷ USD, tăng 25,6% so với năm 2007. Tuy nhiên, ngành dệt may sẽ phải đối mặt với một thách thức chủ yếu là cơ chế giám sát của Bộ Thương mại Mỹ vẫn được duy trì cho đến hết năm 2008. Ban điều hành dệt may Liờn bộ Cụng nghiệp và Thương mại cho biết, thỏng 1/2006 xuất khẩu hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch sang Hoa Kỳ đạt 152 triệu USD, tăng 65% so với thỏng 1/2005 chỉ đạt 92 triệu USD Theo Ban điều hành dệt may, kết quả này là một nỗ lực rất lớn, nếu biết rằng, thỏng 1/2005, cỏc doanh nghiệp Việt Nam cũn được ứng trước quota từ cuối năm 2004 nờn khỏ chủ động kế hoạch sản xuất. Trong khi, năm 2006, việc ứng trước hạn ngạch gặp khú khăn do việc gia hạn Hiệp định dệt may chậm. Tuy nhiờn, do linh hoạt trong điều hành hạn ngạch năm 2006 với việc ỏp dụng song song hai hỡnh thức cấp theo đăng ký ký quỹ nộp phớ bảo lónh và cấp visa tự động, lại được thụng bỏo ngay từ thỏng 10 năm 2005 nờn hầu hết cỏc thương nhõn đều ký kết và thực hiện đơn hàng, khai thỏc rất tốt nguồn hạn ngạch ngay từ những ngày đầu năm. Cụ thể, trong thỏng 1/2006 cú 7 cat đạt trờn 10%, 6 cat đạt trờn 6% tổng nguồn hạn ngạch. Cú những cat đạt tỷ lệ thực hiện cao như 359/659S đạt 18,19%, cat 342/642 đạt 15,11%. Bờn cạnh những chủng loại hàng tỷ trọng lớn cú sự tăng trưởng rất cao so với cựng kỳ năm ngoỏi, nhiều mặt hàng như cat 200, 301, 332, 434, 448, 620 và 645/646 trong thỏng 1/2005 chưa cú kim ngạch xuất khẩu thỡ ngay trong thỏng đầu năm nay đó được thực hiện. Bộ Thương mại lưu ý, đối với thị trường Mỹ năm 2006 phải chỳ ý đến yếu tố về giỏ gia cụng/giỏ FOB khi đàm phỏn với khỏch hàng nước ngoài để cú mức giỏ tốt nhất khi cỏc hạn ngạch của Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ cú tăng lờn so với năm trước nhưng cũng chỉ cú giới hạn và chi phớ về hạn ngạch của Trung Quốc đối với một số cat là khỏ cao. Theo cỏc số liệu thống kờ, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 10,2 tỷ USD, tăng 39% so với năm 2006. Riờng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 4,4 tỷ USD. Với việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may vào đầu năm 2007, giới quan sát hy vọng kỷ lục này sẽ tiếp tục được phá vỡ và ngành dệt may Việt Nam sẽ bước sang một giai đoạn mới với nhiều tiềm năng tăng trưởng vượt bậc. Theo dự bỏo của Bộ Cụng Thương, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 vào khu vực thị trường chõu Mỹ sẽ đạt 14,6 tỷ USD, tăng 25,2% so với năm 2007, trong đú xuất khẩu sang Mỹ sẽ đạt 13,1 tỷ USD, tăng 28%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự bỏo kinh tế Mỹ năm 2008 sẽ tăng trưởng ở mức 1,8 - 2,5%, thấp hơn so với năm 2007. Vỡ vậy, theo Bộ Cụng Thương, để xuất khẩu vào Mỹ năm 2008 đạt con số 13,1 tỷ USD, vẫn sẽ phải trụng chờ vào cỏc mặt hàng đúng gúp cho tăng trưởng như sản phẩm gỗ, dệt may, giày dộp, cà phờ, thuỷ sản. Đối với sản phẩm dệt may, kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ năm 2008 dự kiến đạt 5,4 tỷ USD, tăng 25,6% so với năm 2007. Hiện nay, Mỹ đang là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiờn, ngành hàng này sẽ phải đối mặt với một thỏch thức chủ yếu là cơ chế giỏm sỏt của Bộ Thương mại Mỹ vẫn được duy trỡ cho đến hết năm 2008. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta có nguy cơ mất thị trường Mỹ_ thị trường hiện chiếm 55% hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Chính phủ Mỹ đã cam kết sẽ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo dự báo trước đây, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam sẽ tăng 15-20% năm, nhưng nếu Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá, thị mức tăng chỉ còn khoảng 5-7%/năm. Một tín hiệu đáng mừng là từ sau khi Mỹ công bố không khởi động điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu yên tâm sản xuất, có nhiều đơn đặt hàng và nhiều khách hàng lớn đã quay trở lại, nhưng khó có thể có sự tăng trưởng đột biến trong năm 2008. Có thể nói, đối thủ lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Mỹ vẫn là Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 tháng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, còn Việt Nam xuất khẩu âm vào thị trường này. Giá hàng xuất khẩu sang Mỹ giảm nhẹ trong thời gian qua, theo Vụ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Thương mại, giá bình quân các loại mặt hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trong thời gian qua đã giảm khoảng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức giảm thấp, bởi nhiều nhiều nước xuất khẩu cùng loại chủng loại hàng dệt may với Việt Nam có mức giảm tới 40%. Việc Hoa Kỳ bãi bỏ hạn ngạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam nhưng lại áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và biện pháp chống bán phá giá sẽ khiến ngành dệt may Việt Nam phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức, cả hiện tại và tiềm ẩn cũng như các cam kết gia nhập WTO và quy định thông qua PNTR mang đến. Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa phần là hàng may mặc, chia ra làm hai chủng loại chủ yếu là hàng dệt kim và hàng dệt thường, với kim ngạch xuất khẩu qua các năm như sau: Cơ cấu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ Mặt hàng 1996 1997 1998 Kim ngạch % Kim ngạch % Kim ngạch % Dệt thường 20,01 84,79 21,96 83,15 24,53 81,22 Dệt kim 3,59 15,21 4,45 16,85 5,67 18,78 Tổng cộng 23,6 100 26,41 100 30,2 100 Nguồn: Tạp chí ngoại thương Số liệu trên cho ta thấy hàng dệt thường của Việt Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. Một trong những nguyên nhân, ngoài thị hiếu của công chúng Mỹ đối với hàng dệt may thường, là do thực trạng công nghệ dệt Việt Nam đang chú ý đổi mới trang thiết bị, lắp đặt các dây chuyền sản xuất đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng hiệu quả sản xuất mặt hàng dệt kim vì lý do mặt hàng này có hiệu quả kinh tế hơn. Các phương pháp thâm nhập thị trường Mỹ mà Việt Nam đã áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam hiện nay đang áp dụng các phương thức thâm nhập thị trường Mỹ như sau: Bán trực tiếp cho các nhà kinh doanh Mỹ ở những mặt hàng có mức thuế suất nhập khẩu chênh lệch không nhiều so với Quy chế tối huệ quốc. Gia công trực tiếp nhưng rất ít; Gia công và bán qua trung gian các nước thứ ba như Hong Kong, Đài Loan, Singapore. 2.2 Những khó khăn của sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. a. Điểm yếu của hoạt động xuất khẩu ngành may: Giá thành may mặc còn cao vì năng suất lao động của công nhân ngành may còn thấp hơn so với một số nước trong khu vực; công nghệ, thiết bị máy móc vẫn còn thua so với các đối thủ cạnh tranh; nguyên vật liệu ngành may chủ yếu còn phụ thuộc vào nhập khẩu làm giá thành nguyên vật liệu cao. Phần lớn trị giá thành xuất khẩu hàng may mặc thực hiện qua phương thức gia công, trong khi đó thị trường Mỹ chủ yếu thực hiện nhập khẩu trực tiếp ( mua đứt,bán đoạn sản phẩm). Sản phẩm may của Việt Nam chưa có thương hiệu nổi tiếng thế giới. Tiêu chuẩn hóa chất lượng sản xuất chưa được coi trọng do xuất khẩu gia công, nên công tác thiết kế mẫu mã chưa được coi trọng. Trình độ tiếp thị yếu, phụ thuộc vào phía đối tác nước ngoài đặt gia công. Tay nghề công nhân chưa cao, vì đây được coi là ngành có sự dich chuyển lao động lớn (hậu quả do chế độ tiền lương thấp). Am hiểu về thị trường Mỹ chưa nhiều. b. Những khó khăn do quy định ngặt nghèo của Mỹ: Luật pháp Mỹ quy định rất chặt chẽ về chất lượng sản phẩm, về nhãn mác hàng hoá, về chứng nhận xuất xứ hàng dệt may; Sản phẩm dệt may không được ảnh hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chănge hạn sản phẩm có nguồn gốc từ động vật phải được kiểm tra thật kĩ lưỡng để không lây lan mầm bệnh từ vật sang người…Tất cả hàng hoá xuất sang Mỹ phải đáp ứng các quy định an toàn, sức khỏe cộng đồng Liên bang cũng như yêu cầu từng khách hàng đặt ra. Điều quan trọng là người bán phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu cần thiết như thông báo trong danh mục an toàn sản phẩm. Chính phủ Mỹ có thể yêu cầu ngừng hoạt động nhập khẩu, hoạt động bán hàng đối với những sản phẩm có lỗi, và yêu cầu bồi thường nếu nó gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng. CPSC có chức năng đưa ra các quy định an toàn sản phẩm và các quy định này bảo vệ người tiêu dùng tránh khỏi các sản phẩm không an toàn và đặt trách nhiệm này lên các nhà sản xuất, nhập khẩu và bán lẻ. CPSC đưa ra các yêu cầu báo cáo chặt chẽ đối với các nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà bán lẻ các sản phẩm đã được liệt kê ra, kết hợp với đạo luật liên quan vấn đề thương tật và tử vong. Hơn nữa CPSC còn áp dụng mức phạt rất nặng đối với các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà bán lẻ có hanh vi vi phạm. Vì vậy sẽ không có một chuyến giao hàng nào được thực hiện cho đến khi người mua nhận được kết quả kiểm tra liên quan đến an toàn sản phẩm. Tất cả các loại vải 100% bông, tơ, gai, axêtat hoặc lụa và vải pha ó chứa các loại sợi kể trên với trọng lượng nhỏ hơn 2,6oz/sq yd. Tất cả các loại vải cào tuyết 100% bông hoặc tơ và các loại vải pha khác từ các loại sợi này. Tất cả màu sắc đều phải kiểm tra vì nhuộm ở những lần khác nhau gây ảnh hưởng đến tỷ lệ đốt cháy vải cào tuyết. Hiện tại hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ không phải chịu hạn ngạch, tuy nhiên lại áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và biện pháp chống bán phá giá sẽ khiến ngành dệt may Việt Nam gặp phải không ít khó khăn. Đại diện Thương mại và Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ cam kết định kỳ sáu tháng sẽ tiến hành rà soát kết quả giám sát để xem xét bằng chứng phục vụ việc tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Nếu thấy có đủ bằng chứng và tình hình diễn biến nghiêm trọng thì Hoa Kỳ sẽ đánh thuế chống bán phá giá tạm thời trên cơ sở hồi tố. Chừng nào Việt Nam vẫn còn bị coi là nền kinh tế phi thị trường ( muộn nhất là đến 31/12/2018 theo đoạn 255(d) trong báo cáo của Ban công tác) thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ sử dụng số liệu của một nước khác để phục vụ chương trình giám sát này. Cũng trong thư này, Chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận sẽ đặc biệt lưu ý tới các nhóm hàng quần, áo sơ mi, đồ lót, đồ bơi và áo thun len ( chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ). Mỹ ít thực hiện gia công mà mua đứt bán đoạn ở sản phẩm dệt may. 2.3. Cơ hội và thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. a. Cơ hội Từ ngày 1/1/2007 Việt Nam được Hoa Kỳ xoá bỏ hạn ngạch về dệt may tạo cơ hội lớn cho ngành dệt may. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, sẽ được áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc và sẽ được đối xử bình đẳng với các nước thành viên nói chung va Mỹ nói riêng. Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường với Việt Nam Nguồn lao động của Việt Nam khá dồi dào. Hệ thống doanh nghiệp nước ta đã dần lớn mạnh và đang tích cực chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước có những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu và rất quan tâm đến thị trường Mỹ do đây là thị trường lớn và có nhiều tiềm năng nhập khẩu. Vị trí địa lý và điều kiện giao hàng khá thuận lợi để giao lưu buôn bán với các nước kể cả với Mỹ. b. Thách thức. Mặc dù hàng dệt may Việt Nam có nhiệu cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng thách thức mà Việt Nam gặp phải cũng không ít: Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể phải đối đầu với rất nhiều rào cản ngặt nghèo mới. Bộ Thương mại Mỹ đã áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam. Cụ thể hàng tháng, phía Mỹ sẽ khảo sát số lượng, giá cả hàng dệt may Việt Nám xuất sang thị trường này và so sánh với nước thứ ba nhằm đưa ra bằng chứng để điều tra chống bán phá giá (nếu có bằng chứng) Năm mặt hàng dệt may Việt Nam nằm trong “tầm ngắm” của việc áp thuế chống bán phá giá, gồm: áo sơ mi, áo thun len, quần dài, đồ bơi và đồ lót. Đây là những mặt hàng chủ yếu được nhập khẩu, rất ít được sản xuất từ Mỹ. Ngoài ra, phía Mỹ cũng sẽ giám sát chặt chẽ việc nhập khẩu hàng dệt may định kỳ 6 tháng/lần mà theo chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam nhìn nhận, cứ theo quy tắc này thì bất cứ lúc nào phía Mỹ cũng có thể áp mức thuế cao để ngăn chặn hàng dệt may từ Việt Nam. Yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá đối với ngành may rất cao, lên đến 60% trong khi tỷ lệ nội địa hoá thực tế còn thấp hơn nhiều, do chất lượng vải của ta còn quá kém, nên hầu hết nguyên liệu sử dụng cho ngành may xuất khẩu hiện nay đều phải nhập. Khâu thiết kế mẫu mã sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước để sản xuất ra sản phẩm dệt may còn thấp. Nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế, đặc biệt là nguồn nhân lực cho khâu thiết kế, chúng ta chưa tạo ra được những thương hiệu mạnh. Mỹ không đặt hàng nhỏ lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng. Sự cạnh tranh ở mặt hàng may mặc trên thị trường Mỹ rất quyết liệt. Thật vậy, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá, giá rẻ. Một số nước ASEAN như Philippnes, Thái Lan, Indonêsia là những nước xuất khẩu lớn, có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy giá cả nhân công cao hơn Việt Nam nhưng họ có ưu thế nhờ sự tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao đã góp phần giảm giá thành sản phẩm. Nhiều nhãn hiệu uy tín có thể kể đến là áo thun “ cá sấu” của Thái Lan, quần lót hiệu “soel” của Philippin…Bên cạnh đó, Mêhicô, Canada và các nước vùng Caribê đang là các quốc gia có xu thế và điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong những năm tới đây, sẽ là những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất trong rất nhiều đối thủ cùng cung cấp mặt hàng này cho thị trường Mỹ. 2.4. Cơ chế- chính sách của Nhà nước về quản lý xuất nhập khẩu Xét về mặt cơ sở pháp lý và chính sách, các chính sách quản lý cả vĩ mô và vi mô đều cần phải được cải cách triệt để và toàn diện. Việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước tiến hành chem., chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn. Thị trường tín dụng, tài chính vẫn còn manh nha, nhỏ bé. Chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách tài chính tín dụng cũng là những vấn đề bức xúc hiện nay. Bên cạnh đó, cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may. Cơ chế quản lý kinh tế nói chung và quản lý xuất nhập khẩu của nước ta nói riêng còn nhiều bất cập, gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp. Quy định thiếu nhất quán, thủ tục phiền hà, đặc biệt là thủ tục miễn giảm thuế quan và thủ tục hoàn thuế xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm, tên doanh nghiệp, nơi sản xuất lên sản phẩm của mình cũng phải xin giấy phép của Bộ Văn Hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in. Hàng dệt may xuất khẩu của ta chủ yếu theo hạn ngạch nhưng cơ chế phân bổ hạn ngạch hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch đồng đều tuy giải quyết được những vấn đề xã hội nhưng còn nhiều hạn chế về phương diện kinh tế vì các nhà kinh doanh nước ngoài thường muốn ký hợp đồng với một hoặc một số doanh nghiệp có uy tín thay vì phải ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp một lúc. Đó là chưa kể đến sự lãng phí do bỏ lỡ đặc tính “lợi ích tăng theo quy mô” của doanh nghiệp có quy mô lớn song không đủ hạn ngạch để sản xuất. Khắc phục thiếu sót này, từ tháng 12/1998, việc đấu thầu một phần hạn ngạch dệt may đã được tiến hành thí điểm tạo ra một bước tiến mới trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Việc cung cấp các thông tin cần thiết (về thị trường, sản phẩm) cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam từ các cơ quan choc năng là chưa hiệu quả, thiếu mốt sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ cấp Nhà nước. Tình trạng này dẫn đến hiện tượng là thông tin thị trường mà các doanh nghiệp có được thường chậm và thiếu chính xác, không đồng bộ; việc sử dụng các thông tin của nhau cũng rất khó khăn. Đây là một trở ngại lớn, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong thời gian tới nhà nước ta cần có chính sách để kiểm soát chặt giá hàng sang Mỹ, kiểm soát về xuất xứ hàng, hàng hoá qua Việt Nam sang Mỹ để đối phó với việc kiện bán phá giá. Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ 3.1.Các giải pháp đối với doanh nghiệp: a. Giải pháp nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sẩn phẩm dệt may Việt Nam Nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm thông qua việc nâng cao tay nghề công nhânm, có chính sách ưu đãi để giữ công nhân giỏi. - Đào tạo nguồn nhân lực cho nghành dệt may là yêu cầu cấp thiết đặt ra để các doanh nghiệp Việt Nam có thể kinh doanh tốt trên thị trường Mĩ vì hiện tại chất lượng ngồn nhân lực của ta chưa đáp ứng được yêu cầu và năng suất lao động chưa cao so với các nước trong khu vực. Cần có chính sách thu hút học sinh giỏi theo học nghành dệt may khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư kéo dài. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất trong dây chuyền thiết bị hiện đại. Đào tạo ra đội ngũ công nhân có tay nghề cao thực sự trở thành thế mạnhcủa gnhành dệt may Viẹt Nam. - Có chính sách về công nghệ phù hợp. Đảm bảo thực hiện các hợp đồng xuát khẩu lớn, đúng thời gian quy định: Đây cũng là một biểu hiện khả năng cạnh trang của nhà cung cấp vì các doanh nghiệp nghành may Việt Nam đa phần là doanh nghiẹp vừa và nhỏ. Trong khi đó các hợp đồng đặ hàng của Mĩ thường rất lớn: từ 50-100 ngàn đến cả triệu lố sản phẩm (mỗi lố 12 sản phẩm), thời gian cung cầp thường là ngắn 3 tháng trở lại. Để cạnh tranh đuợc với các nước trong khu vực, đặc biệt với các doanh nghiệp như Trung Quốc về khả năng cung ứng thì việc tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp nghành may có ý nghĩa quan trọng. Vai trò của Hiệp hội nghành may cần phải được nâng cao lên một bước, trở thành đầu mối khuyến cáo các đầu tư, về hợp tác sản xuất… để đảm bảo một lô hàng may do nhiều doanh nghiệp thực hiện nhưng vẫn đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu đồng nhất, có chất lượng cao. Các doanh nghiệp dệt may nên kết hợp đầu tư các thiết bị chuyên dùng đồng bộ để đủ sức sản xuất ra những lô hàng với số lượng lớn, chất lượng cao, đáp ứng thời hạn giao hàng chính xác. Nâng cao tính cạnh tranh về giá cả cho sản phẩm may: Qua khảo sát thị trường Mĩ cho thấy rằng trừ những “hàng hiệu” được các hãng của ý, Pháp có giá đắt, còn hàng may mặc do Trung Quốc, ấn Độ, Mêhicô sản xuất giá rất rẻ, nhiều thú còn rẻ hơn ở Việt Nam. Hàng may Việt Nam chua có thương hiệu có tiến trên thế giới, thì nên tiếp tục duy trì chính sách định giá thấp để thoả mãn thị trường bình dân của Mĩ. Để nâng cao tính cạnh tranh về gia cho sản phẩm may các doanh nghiệp nghành may cần phải chú ý đến các biện pháp: - Xác định sản phẩm mũi nhọn, có thế mạnh để đầu tư công nghệ mới, tạo ra các sản phẩm tăng về số lượng, chất lượng và có khả năng cạnh tranh cao. - Có chính sách khuyến khích nâng cao lao động để giảm chi phí nhân công trên một đơn vị sản phẩm. - Xây dựng tiêu chuẩn quản trị ISO 9000 trong các xí nghiệp may, vì hợp lí hoá quy trình sản xuất góp phần giảm được sản phẩm hang, tăng thế cạnh tranh, đổi mới công nghệ, tăng khả năng phát triển phù hợp xu thế hôi nhập. - Tìm kiếm nguyên liệu trong nước, kể cả các nguyên liệu từ các doanh nghiệp có vốn đầu từ FDI và doanh nghiệp KCX để giảm giá thành sản phẩm. Sản phẩm Nghành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của Nghành may. Tạo lập mối quan hệ qua lại tạo mối quan hệ mật thiết giữa dệt và may. Thành lập bộ phân chuyên trách nắm nhu cầu của Nghành may để đặt hàng cho nghành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý. Phát triển hệ thống công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yeu cầu may xuất khẩu. Thiết lập các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liẹu trong nước. Quỹ hưởng xuất khẩ có 5% dành cho cách doanh nghiệp sử dụng nguyen phụ liệu sản xuát trong nước và ưu tiên hạn nghạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguên phụ liệu nội địa là biện pháp tốt nhất cho vấn đề này. - Đẩy mạnh sản phẩm xúc tiến thương mại, xây dựng đội ngũ làm công tác thị trường năng động và vững mạnh, lập các văn phòng giao dịch tai các thành phố lớn của Mĩ, và thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, phân phối, tăng cường quảng cáo, khuếch trương kinh doanh. _ Liên kết với các hãng nước ngoài để sử dụng thương hiệu sản phẩm của họ, điều này cho phép định giá sản phẩm cao, nhưng vẫn mang tính cạnh tranh so với giá củ các hãng gốc sản xuất. - Quan tâm đến công nghệ thiết kế thời trang vì thị trường Mỹ ít đặt gia công mà mua theo FOB. Cũng cần lưu ý là các công ty may mặc xuất khẩu Việt Nam không nên định giá quá thấp so với giá hiện hành trên thị trường Mỹ. Nếu không thì sẽ bị xem là bán phá giá và sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá vào mặt hàng đó. b. Các biện pháp đẩy nhanh sản phẩm may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Để đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ cần chú trọng các điểm sau: Một kinh nghiệm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần biết là, khi viết thư chào hàng, thì nên nhớ làm sao tóm gọn nội dung giới thiệu doanh nghiệp và mặt hàng trong lá thư ấy để một doanh nghiệp Mỹ đọc trong 7 giây. Muốn bán hàng vào Mỹ, phải biết người Mỹ là ai? Người Trung Quốc làm được điều này. Thí dụ: ở Mỹ, khi người ta mua nhà, nghĩa là người đó sẽ đồng loạt thay tất cả các loại đồ dùng vải vóc trong căn nhà đó như: Rèm cửa, khăn phủ giường, nệm, thảm trải nhà… Các doanh nghiệp Việt Nam nên nắm bắt điều này và bán mạnh các mặt hàng vải vào Mỹ và tại Mỹ có rất nhiều ngày tặng quà cho nhau, người Mỹ có thói quen tặng quà quanh năm. Bán quà tặng sang Mỹ, nên kèm theo hộp đựng, rất đơn giản và tiện lợi. Trong giao dịch mua bán với Mỹ,các doanh nghiệp Việt Nam nên gia tăng hơn nữa qua xúc tiến thương mại tại Mỹ, tại các hội chợ thương mại. Đẩy mạnh tiếp thị tại các hội chợ sẽ rất hiệu quả. Nhưng tiếp thị xong, đừng hy vọng doanh nghiệp Mỹ sẽ mua hàng, còn phải có thời gian tìm hiểu, thuyết phục nữa. Tới đây, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải trao đổi thư từ. Các doanh nghiệp Mỹ có thói quen đọc thư, thư gồm 4 đoạn, họ chỉ đọc đoạn đầu và đoạn cuối. Đoạn đầu xem bạn là ai? Giới thiệu mặt hàng gì? đoạn cuối xem địa chỉ liên lạc ở đâu. Vì vậy, khi giao dịch các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý điều này. Đừng quá ca ngợi mình, mà hãy nêu trực tiếp là giao dịch gì, bạn hàng Mỹ sẽ được lợi ích gì? Trong đoạn cuối, nhất thiết phải có địa chỉ trang web Cty, để bạn hàng Mỹ lên mạng tìm hiểu…Bạn hàng Mỹ tối kỹ, giao dịch qua fax, hay giới thiệu bằng những tập quảng cáo dày cộp, tốn kém thời gian, lãng phí tiền bạc. Hay qua email là tiện nhất. ( Báo thương mại ) Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may cần áp dụng những phương thức thâm nhập sau đây: Thời gian đầu vẫn duy trì gia công, bán và phân phối qua trung gian để đưa hàng vào Mỹ Nhận gia công cho các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong để qua họ đưa hàng vào Mỹ. Nhận gia công cho các hãng may lớn ở Mỹ. Xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường trung gian, để sao đó các doanh nghiệp nước này đưa sản phẩm vào thị trường Mỹ. Xuất khẩu trực tiếp cho các doanh nghiệp Mỹ (Selling to US): Khác với thị trường EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp Mỹ ít sử dụng phương thức đặt hàng gia công may sản phẩm, mà họ thường áp dụng phương thức mua đứt bán đoạn. Nên vấn đề ở đây là doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải thực hiện các công việc: Tìm kiếm khách hàng Mỹ, đẩy mạnh hoạt động Marketing. Đầu tư vào công nghệ thiết kế thời trang, tạo ra những sản phẩm may có mẫu mã phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Mỹ. Đăng ký nhãn hiệu bản quyền từng bước tạo lập thương hiệu có uy tín. ở giai đoạn này, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách: Cải thiện môi trường đầu tư để khuyến khích đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành sản xuất nguyên liệu phục vụ may xuất khẩu và xuất khẩu sản phẩm may sang thị trường Mỹ. Nhà nước có cơ chế tài chính hỗ trợ sự phát triển của ngành dệt may, vì xuất khẩu trực tiếp cần nhiều vốn hơn so với xuất khẩu gia công. c. Thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm dệt may tại Mỹ trong những năm tới (Selling in the US). Sau khi thử nghiệm sự tiếp nhận của thị trường Mỹ đối với sản phẩm dệt may của mình qua việc bán cho một nhà nhập khẩu Mỹ (Selling to), khi có được uy tín và đủ tiềm lực, các doanh nghiệp có thể thiết lập việc phân phối trực tiếp hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Cách tốt nhất để thực hiện được điều này là: Xây dựng cho dệt may Việt Nam một thương hiệu mạnh, đây là yếu tố rất quan trọng vì trên thực tế các hãng nổi tiếng thiết lập kênh phân phối trực tiếp thuận lợi hơn rất nhiều. Tạo lập mối quan hệ công chúng Trước mắt các doanh nghiệp lớn có thể tạo lập thông qua mối quan hệ tốt đẹp đã có với các hãng may và tập đoàn quốc tế nổi tiếng để giới thiệu với công chúng Mỹ về sản phẩm may mặc Việt Nam. Có thể liên kết với thương nhân Việt Kiều Mỹ để tạo lập từng bước quan hệ với thị trường Mỹ. Thiết lập các đại lý bán hàng ở Mỹ để giao hàng nhanh chóng đến tận tay người tiêu dùng, tạo lập mối quan hệ ngày càng gắn bó với khách hàng. Cần tìm các đại lý có uy tín và có chế độ hoa hồng thoả đáng để khuyến khích bán hàng ở đại lý. Trên thị trường Mỹ, cộng đồng người Việt, kể cả người Việt gốc Hoa ở Mỹ là những kênh quan trọng giới thiệu hàng hoá Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần chú ý thâm nhập thị trường Mỹ trước hết thông qua các khu phố, siêu thị và chợ nơi có cộng đồng người Việt sinh sống ở California, Boston, Washington D.C, New york, Houston… ở khu vực này, bà con người Việt đang rất cần những sản phẩm quê hương, hàng hoá của ta suất khẩu sang đây chắc chắn sẽ được hoan nghênh. d. Các giải pháp khác: Để đạt được thành công trong công việc thông nhập thị trường Mỹ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú ý: Chủ động tìm kiếm nghiên cứu thị trường, chủ động xây dựng và quảng bá thương hiệu cho sản phẩm. Các doanh nghiệp phải tăng cường mở rộng sản xuất, phát triển khâu thiết kế sản phẩm, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần xác định rõ phương hướng kinh doanh, các đầu mối tiêu thụ, các đối tác, bạn hàng thích hợp… để có thể gia tăng kim nghạch xuất khẩu ngay khi thích hợp. Hiện nay sản phẩm may của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các công ty Mỹ đã vào Việt Nam thăm dò, tìm kiếm nguồn hàng. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong tương lai, nhất thiết phải chuyên môn hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, cũng như cần đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất và biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Có chiến lược đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu trong nước có chất liệu cao để giảm chi phí sản xuất sản phẩm dệt may nhằm nâng cao tính cạnh tranh về giá trên thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam cần làm quen với việc sử dụng thương mại điện tử để cập nhập thông tin, thiết kế mẫu mã, tìm kiếm khách hàng, và đặc biệt là tạo phong cách kinh doanh hiện đại phù hợp với các đối tác doanh nghiệp Mỹ. Tăng cường vai trò của Tổng Công ty dệt may: Trong các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp riêng lẻ không giải quyết được: tìm kiếm, mở rộng thị trường, tổ chức triển lãm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, giao dịch buôn bán chuyển giao công nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trường… Phát huy vai trò của Công ty tài chính dệt may, các công ty tài chính cần trở thành đầu mối thu hút vốn và cân đối nhu cầu của các đơn vị dệt may trong Tổng Công ty và các đơn vị trong Hiệp hội dệt may. 3.2. Giải pháp đối với nhà nước: a. Nhà nước cần có những chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài: Để đẩy mạnh sản suất và nâng cao kim nghạch hàng dệt may xuất khẩu nói chng và hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ nói riêng cần đầu tư mạnh mẽ để huy động, để sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước. Công ty tài chính dệt may cần phat huy vai trò bằng cách thay mặt cho các tập doàn doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các doanh nghiệp may, phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra, ngành dệt đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn, cần có những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức- các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Với ngành may, hiện đang có hai quan điểm trái ngược. Thứ nhất, cho rằng hiện năng lực Ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể thu hút vốn từ cổ phần trong nước. Vì vậy, hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài- vốn có ưu thế hơn về nguồn vốn, công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường- với các doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này vẫn rất cần thiết nếu như Việt Nam muốn có một Ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này, với ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ “mở đường” cho sản phẩm dệt may với nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp hiện chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh va sạch”. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt- nhuộm theo các quy định ISO 9000 va ISO 14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canada,…mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may trong khu vực như ấn Độ, Nêpan đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm tốt để Việt Nam giải quyết tốt vấn đề này. b. Hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp ngành may. Để hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may vốn có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn còn hạn hẹp, Nhà nước cần tổ chức các đoàn thương mại qua lại nhau, các chuyến đi khảo sát thị trường, mở showroom, website, tham quan triển lãm hội chợ…Nên thành lập trung tâm thương mại, siêu thị thời trang dệt may hoặc trung tâmkinh tế may với các chức năng sau: Cung cấp những thông tin về cơ hội gia công, mua bán hàng may ở các khu vực thị trường thế giới, nhất là Mỹ. Môi giới thuê mướn, mua bán máy móc, trang thiết bị ngành may. Tổ chức bình chọn “Top-ten” trong sản phẩm dệt may để khuyến khích nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam. Tư vấn kỹ thuật, buôn bán, thủ tục Hải quan…đối với các doanh nghiệp ngành may. c. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu. Để thực hiện giải pháp này, trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẫu, bản vẽ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi hợp lý, chính sách thưởng đại lý, tổ chức đào tạo cho các đại lý, cần có chế độ trợ cấp giá thỏa đáng cho các doanh nghiệp và thị trường Mỹ. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra thị trường không hạn ngạch. Việc phân bổ hạn ngạch bình quân như hiện nay sẽ dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp thừa, trong khi một số khác thiếu hạn ngạch nên có hiện tượng mua bán hạn ngạch giữa các doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ đến việc cân đối thị trường. Từ năm 1999, đấu thầu một phần hạn ngạch hàng dệt may đã được áp dụng thí điểm nhưng đây chưa phải là giải pháp tốt nhất trong giai đoạn hiện nay vì nếu đấu thầu hạn ngạch, sẽ có hiện tượng “thoả thuận ngầm” của một số doanh nghiệp lớn trong cả nước để thắng thầu và giữ toàn bộ hạn ngạch của cả nước. Đương nhiên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn sẽ lâm vào tình trạng bế tắc. Để khắc phục nhược điểm này, trong giai đoạn hiện nay nên áp dụng phổ biến hơn nữa cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu vào thị trường không hạn ngạch của doanh nghiệp. Như vậy sẽ khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình đồng thời tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra việc cấp hạn ngạch cũng nên chú ý ưu tiên đối với các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước. Hạn ngạch dệt may năm 2000 không tăng nhiều so với năm 1999 nhưng quy chế phân bổ hạn ngạch có 4 thay đổi lớn nhằm khuyến khích xuất khẩu, cụ thể: tỉ lệ ký hạn ngạch công nghiệp, giao quyền phân bổ cho UBND Hà Nội và UBND thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện đấu thầu thống nhất trong cả nước và phí hạn ngạch được tính bằng VNĐ. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, Nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa Nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu quy chế tín dụng xuất khẩu vào Mỹ, chế độ ưu đãi phổ cập (102-103) để khai thác nguồn vốn này mua sắm nguyên liệu. Trong chiến lược phát triển ngoại thương của nước ta hiện nay đến năm 2010, hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo vì nó rất phù hợp với điều kiện lao động và sản xuất của Việt Nam. Bước sang những năm đầu của thế kỷ mới, nhất là lúc chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ thực hiện hàng loạt những cam kết quốc tế và khu vực về hội nhập mà vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu là cắt giảm thuế quan. Để đối phó với sự cạnh tranh bình đẳng nhưng khốc liệt hơn rất nhiều khi chúng ta là hội viên chính thức của các tổ chức quốc tế, Nhà nước Việt Nam cùng với ngành dệt may phải thực hiện một cách nhanh chóng và đồng bộ hệ thống các chính sách, biện pháp về quản lý và sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng. Kết luận Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất toàn cầu, là thị trường tiềm năng của nhiều nước xuất khẩu vì không những thị trường này có dung lượng lớn, mà hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại và chất lượng. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh trên thị trường Mỹ diễn ra rất quyết liệt vì thị trường Mỹ hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh, hàng hoá của Mỹ nhập khẩu từ hơn 150 nước. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đã được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc, có tốc độ tăng khá nhanh về kim ngạch cũng như chủng loại sản phẩm. Tuy nhiên, tính cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam không cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Mehico và có thể phải chịu những quy chế ngặt nghèo của Mỹ như chế độ theo dõi đặc biệt va áp dụng biện pháp chống bán phá giá như hiện nay…điều này gây cản trở cho việc thâm nhập sâu và rộng vào thị trường này. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mặc dù có những điểm mạnh nhưng cũng có những điểm yếu, có những cơ hội tốt để phát triển nhưng cũng có những nguy cơ đe dọa. Cho nên, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ cần áp dụng những giải pháp vừa mang tính đặc thù của ngành vừa mang tính chất chung mà bất cứ ngành hàng nào muốn đẩy mạnh xuất khẩu cũng phải áp dụng. Ngoài nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành, thì cần sự hỗ trợ trực tiếp cũng như gián tiếp của Nhà nước để hàng dệt may Việt Nam có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường Mỹ. Thâm nhập thành công ở thị trường Mỹ là một bước tiền giúp Việt Nam khẳng định mình trên thị trường kinh tê thế giới, tạo điều kiện đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thành công ở khu vực và toàn cầu. Tài liệu tham khảo Sách Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ Tạp chí nghiên cứu và trao đổi Thời báo kinh tế Việt Nam Trang thông tin thương mạ Các trang Web: www.moi.gov.vn www.vnexpress.net www.ethitruong.com www.vinanet.vn Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11093.doc
Tài liệu liên quan