Trên đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài. Do hạn chế về mặt thời gian và kinh nghiệm nên nội dung đề tài còn hạn hẹp và chưa thể đề cập một cách có chi tiết, cụ thể từng loại giải pháp huy động vốn ở Việt Nam; trong giới hạn của một đề án môn học, nội dung bài viết mới chỉ đi sâu vào một số các giải pháp huy động vốn mà có thể huy động được một cách có hiệu quả nhất, góp phần nhận dạng các giải pháp huy động vốn của các DNVVN , giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận biết được từng giải pháp và vận dụng linh hoạt lựa chọn các giải pháp huy động vốn thích hợp với doanh nghiệp của mình nhất. Thêm vào nữa là các DNVVN phải bổ sung sửa đổi hoàn thiện tổ chức quản lý doanh nghiệp một cách có hiệu quả, tạo điều kiện để huy động vốn một cách dễ dàng, thu hút được các nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
43 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiếu kỹ năng quản lý và điều hành nên việc quản lý và sử dụng lao động vô cùng khó khăn dẫn đến hiệu quả hoạt dộng của DNVVN không cao, năng suất lao động thấp, thu nhập không ổn định
Việc tiếp cận với thông tin về văn bản pháp luật, thị trường, tiến bộ công nghệ… còn tản mạn và hạn chế. Khi áp dụng hiệp định GATT/WTO (từ cuối tháng 9-2003), sẽ là một khó khăn cho các DNVVN Việt Nam, bởi đây là một hiệp định khá phức tạp mà các nước đều phải giành thời gian mới có thể tạo được thuận lợi cho mình.
Tình trạng thiếu vốn của các DNVVN , đây là một vấn đề bức xúc và đáng lo ngại nhất hiện nay. Sự suy giảm của kinh tế khu vực sau cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ diễn ra cuối năm 97 đầu năm 98 đã có tác động trực tiếp tới nền kinh tế nước ta đặc biệp là các DNVVN . Một số nhà đầu tư nước ngoài đã rút vốn đầu tư ở VN về khôi phục kinh tế trong nước, một số khác do e ngại về sự ổn định của nền kinh tế trong nước và khu vực (đây là thị trường chủ yếu của các DNVVN ) không đầu tư thêm hoặc rút vốn đầu tư sang thị trường khác dẫn đến sự sụt giảm khủng khiếp của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Và cuối cùng các DNVVN là người gánh chịu trực tiếp hậu quả của việc suy giảm nguồn vốn này. Hơn nữa việc tiếp cận với các nguồn vốn khác lại rất khó khăn, trong đó nguồn vốn chủ yếu đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại nhưng thực tế hiện nay lại có rất ít các doanh nghiệp đủ các điều kiện thế chấp, bảo đảm tiền vay theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các DNVVN chỉ chiếm 20% nhu cầu vốn hoạt động. Nhìn chung các DNVVN đều dựa vào nguồn vốn tự có là chính hoặc huy động từ các nguồn khác như bạn bè, người thân… Việc các DNVVN không tiếp cận và sử dụng được các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn nhất đối với sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Các chính sách vĩ mô, vi mô nhằm hỗ trợ DNVVN còn hạn chế, nặng về hình thức, thiếu hướng dẫn cụ thể như chính sách đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, các hệ thống thông tin, các dịch vụ tư vấn về mặt hàng, thị trường, công nghệ, thiết bị, môi trường luật pháp, thông lệ quốc tế về kinh doanh… không đáp ứng được các nhu cầu của các DNVVN.
Những khó khăn phiền toáI đối với DNVVN xung quanh các thủ tục kê khai hải quan, thủ tục tín dụng vay vốn, tính thuế, hoàn trả thuế, nhà đất … vẫn còn là nỗi lo lắng, băn khoăn của các doanh nghiệp.
II. Thực trạng công tác huy động vốn DNVVN
1. Những thuận lợi và khó khăn do môi trường đem lại cho công tác huy động vốn DNVVN Việt Nam.
1.1. Thuận lợi :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự tài trợ bên ngoài là hết sức hạn chế. Do tính chất nhỏ bé dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ bé nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản suất kinh doanh. DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có hoặc đi vay bạn bè, người thân dễ dàng mà khi nhu cầu thị trường thay đổi tình thế để thích ứng.
Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi nhanh, do đó DNVVN đã tạo nên sự hấp dẫn trong đầu tư của nhiều cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Hơn nữa, còn được chính phủ từng bước tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của DNVVN :
Thông qua tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN Việt Nam được thành lập tháng 5/1999, chính phủ nắm bắt kịp thời thực trạng DNVVN Việt Nan và các hoạt động hỗ trợ của các đoàn thể và tổ chức quốc tế để từ đó quy các nguồn vốn này vào một đầu mối để dễ quản lý, doanh nghiệp dễ tiếp cận khi cần vay vốn. Trên thực tế, hiện nay chỉ có khoảng 2 quỹ hỗ trợ phát triển thực sự cho hiệu quả đối với các DNVVN . Bên cạnh các chính sách ưu đãi về tài chính quy định tại các luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các DNVVN còn nhận được sư hỗ trợ khác từ Nhà Nước với mục tiêu trợ giúp DNVVN về vốn. Chính phủ đã có quyết định số 193/2001/QD-TTG ngày 20/2/2001 ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN
1.2. Khó khăn
Đối với các DNVVN ở bất kỳ nước nào, không chỉ riêng Việt Nam, vốn vẫn là mối quan tâm hàng đầu của họ. Do thành lập DNVVN tương đối dễ dàng nên số DNVVN ngày càng nhiều, lại tập trung vào những ngành những sản phẩm không đòi hỏi vốn qúa lớn nên cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt, mức lợi nhuận ngày càng mỏng đi, khó tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh. Trong khi đó DNVVN lại không có đủ tài sản, nhất là bất động sản, để làm vật đảm bảo vay vốn ở các ngân hàng. Đặc biệt là nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng lại càng nan giải hơn.
Khó khăn về vốn để hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ có lẽ là điều bất lợi nghiêm trọng nhất của DNVVN vì nó hạn chế năng lực của họ để cho được những dịch vụ cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động. DNVVN thường buộc phải trả giá cao hơn về nguyên vật liệu hoặc giá thấp hơn về sản phẩm, cuối cùng vì họ bị phụ thuộc tài chính vào các nguồn cung cấp nguyên liệu hoặc người môi giới. Họ có thể phải chịu thiếu một hạng mục thiết bị mà lẽ ra nhờ nó họ có thể giảm chi phí cho sản phẩm của họ hoặc cải tiến được chất lượng sản phẩm, chỉ bởi vì không đủ mua thiết bị đó.
Mặt khác, lãi suất cho vay hiện nay ở các ngân hàng vẫn còn đang ở mức quá cao so với tỷ suất lợi nhuận của mọi doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Thời gian vay quá ngắn (thường chỉ từ 3-12 tháng) so với chu kỳ sản suất kinh doanh (nếu tính đầu tư mới mở rộng sản suất kinh doanh thì phải 3-5 năm). Hơn nữa các DNVVN không đủ tài sản thế chấp khi vay những khoản tiền lớn cho nhu cầu phát triển sản xuất.
Vì thế, điều nghịch lý đó đã diễn ra: Các doanh ngiệp cần vốn nhưng không dám vay ngân hàng, ngược lại các ngân hàng thừa vốn dù phần lớn là vốn ngắn hạn nhưng khó tìm được khách hàng vay chân chính. Và những khách hàng vay chủ yếu của các ngân hàng có lẽ vẫn là các doanh nghiệp lớn của các “đại gia” hơn là các DNVVN .
Mối quan hệ với các DNVVN với ngân hàng còn lỏng lẻo. Sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng đối với các DNVVN còn yếu. Mặc khác, các DNVVN khi quan hệ với các ngân hàng để vay vốn tín dụng thường thiếu sư thuyết phục cần thiết về luận chứng kinh tế kỹ thuật cần thiết đối với ngân hàng.
2. Thực trạng huy động vốn tại DNVVN Việt Nam
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tình hình khá phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp là tình trạng thiếu vốn. Đối với các DNVVN tình trạng thiếu vốn là một tất yếu không thể tránh khỏi. Theo số liệu điều tra ở Hà Nội năm1994 có hơn 60% doanh nghiệp thiếu vốn chỉ đáp ứng được một phầm nhỏ nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Đó là do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến là sự tác động của tình trạng lạm phát, sự biến động của giá cả trong nước và thế giới trong một thời gian dài làm cho sau mỗi chu kỳ sản xuất không đủ tái tạo, không bù đắp được số vốn ban đầu hoặc sự dư ra không đáng kể. Sự thiếu vốn vòn do nhiều doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí có nơi có lúc không hiệu quả, làm cho lượng vốn hao hụt, mất dần (thâm hụt vốn); tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, nợ nần lòng vòng, dây dưa giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đang diễn ra rất nghiêm trọng (trong giai đoạn II của quá trình thanh toán công nợ , số nợ phải xử lý lên tới 18000 tỷ đồng). Nhưng đáng chú ý nhất là sự thiếu vốn tương đối đang diễn ra trên bình diện rộng và khá gay gắt. Đó là những trường hợp doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng kinh doanh hoặc yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, để có thể đứng vững trong cạnh tranh phát triển, nhưng không có nguồn cung ứng vốn(vốn trong dân không huy động được, vốn ngân hàng cho vay rất hạn chế). Cụ thể nguồn vốn cho DNVVN được thể hiện ở bảng dưới đây.
Bảng 1: Cơ cấu của các DNVVN ở một số tỉnh
Nguồn vốn
Hà Nội
Quảng Ninh
Hải phòng
Tổng số trung bình
Vốn chủ sở hữu
45,6
49,3
46,7
47,2
Vay người thân, bạn bè
24,7
24,5
22,3
24,3
Vay nóng
2,2
2,5
2,15
2,4
Vay ngân hàng
24
20,5
21,5
21,1
Đóng góp công nhân
1,9
2,3
3,5
2,5
Các nguồn khác
1,6
1,7
3,8
2,2
Nguồn : Tổ chức lao động thế giới(1998)
Từ bảng trên ta thấy, lượng vốn huy động được của các DNVVN chủ yếu từ các nguồn cá nhân như của chủ doanh nghiệp, bạn bè, người thân và các khoản vay không chính thức khác, chiếm7 5,2%; lượng vốn vay từ ngân hàng và đóng góp của công nhân chỉ chiếm một lượng nhỏ 23,6%, còn lại là từ một số nguồn khác 2,2%. điều này chứng tỏ các DNVVN gặp khó khăn trong việc huy động vốn để sản xuất kinh doanh nhất là từ phía ngân hàng.
ở Hà Nội, hiện tại chỉ có khoảng 25% doanh nghiệp ngoài quốc doanh được vay vốn ngân hàng; 11,9% doanh nghiệp vay vốn từ các hợp tác xã tín dụng… những cản trở ở tầm vĩ mô dẫn đến việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp hiện nay đang trở thành vấn đề bức xúc. Mặt khác, thị trường vốn trung và dài hạn chưa phát triển, không thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội nhằm đáp ứng cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp.
Để cụ thể hơn ta hãy xem xét thực trạng tình hình huy động vốn của DNVVN từ các nguồn vốn sau:
2.1. Vốn chủ sở hữu:
Là loại vốn thường được tạo ra từ vốn riêng của các nghiệp chủ, vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng…nguồn vốn này chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển của các DNVVN .
Thực tế ta thấy hiện nay các DNVVN thường sử dụng phần lớn nguồn vốn này vào việc kinh doanh chiếm khoảng 47,2% trên tổng số vốn toàn bộ doanh nghiệp.
Để huy động được nguồn vốn này, doanh nghiệp đã gặp phải rất nhiều khó khăn:
- Do đặc điểm của các DNVVN là ở chỗ người chủ doanh nghiệp chỉ có phương tiện tài chính ở một mức độ nhất định nên họ khôngthể bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ đã đóng góp và doanh nghiệp, lượng vốn này thường không đổi trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy mà nguồn vốn này chưa được tận dụng một cách triệt để, trong khi các doanh nghiệp đang ở tình trạng đói vốn thì lượng tiền “chết” vẫn nằm trong túi của người dân khá lớn.
2.2. Nguồn vốn chính thức
Nguồn vốn này được đánh giá là có triển vọng trong tương lai. Nhưng hiện nay các DNVVN còn chưa tiếp cần được nhiều và triệt để với nguồn vốn này, tỉ trọng các DNVVN vay được từ nguồn vồn chính thức chỉ chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn so với các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp lớn khác.
2.2.1. Doanh nghiệp với nguồn vốn vay ngân hàng.
Xét trên tổng thể, các số liệu rút ra từ một tài liệu do ngân hàng trung ương ấn hành cho thấy phần tín dụng trung và dài hạn so với toàn bộ các loại tín dụng mà hệ thống ngân hàng đã cấp trong 9 tháng đầu năm 1997 chiếm 19%. Con số này chỉ là con số trung bình và hiển nhiên là không tính đến sự khác biệt rất lớn giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng có kỳ hạn. Tuy nhiên con số này cho phép nhận thấy rằng nhìn chung phần tín dụng có kỳ hạn vẫn còn thấp và các ngân hàng còn trả được tỉ lệ 20% tính dụng có kỳ hạn trên tổng số tín dụng ngân hàng nhà nước yêu cầu. Nhu cầu vay vốn của các DNVVN khá cao trong đó ngân hàng không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đó.
Bảng 2: Mức độ vay vốn từ ngân hàng
Mức độ vay vốn từ ngân hàng
1995
1996
1997
1998
Không vay được từ ngân hàng
55,9
35,5
28,4
22,5
< 10% tổng số DNVVN vay được vốn
5,3
6,3
8,2
9,4
10% - 30% cầu về vốn của DNVVN
20,1
35,1
38,6
41,2
30% - 50% cầu về của DNVVN
12,3
15,5
16,5
17,7
>50% cầu về vốn của DNVVN
6,4
7,6
8,3
9,2
Nguồn : UNIDO- MPI(1998)
Ta thấy số DNVVN vay được vốn qua các năm tăng lên nhưng còn rất chậm do các hình thức vay ngân hàng phải trải qua các thủ tục nghiêm ngặt, phiền hà và thế chấp chặt chẽ, phải có luận chứng cụ thể của phương án kinh doanh… trên thực tế chỉ có khoảng 30-40% số chủ doanh nghiệp có yêu cầu được vay. Hơn nữa lãi suất vay vốn của ngân hàng chưa khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Trong khu vực kinh tế quốc doanh, DNVVN chịu chung cơ chế quản lý vốn của nhà nước :
Thứ nhất, doanh nghiệp được giao vốn và bảo toàn vốn.
Thứ hai, khả năng tạo vốn không được thông qua quỹ khấu hao cơ bản, qua lợi nhuận để lại trích quỹ phát triển.
Thứ ba, vay ngân hàng : Khả năng vay ngân hàng của các DNVVN quốc doanh chỉ có thể thực hiện được nếu triển vọng doanh thu của doanh nghiệp cho phép trả nợ trong 2-3 năm. Vì vậy chỉ có một số rất ít có thể làm được trong mấy năm.
Đối với ngân hàng quốc doanh :
Các DNVVN chiếm khoảng 70% khách hàng của các ngân hàng quốc doanh, phần tín dụng có kỳ hạn mà các DNVVN này nhận được có thể được đánh giá bằng khoảng 15% toàn bộ các khoản tín dụng mà các ngân hàng này cung cấp. Một trong các lý do giải thích lượng tín dụng có kỳ hạn do các ngân hàng quốc doanh cấp không cao là ở chỗ các ngân hàng này không có đủ nguồn lực tài chính dài hạn. Nhưng gần đây một số ngân hàng được giao quản lý “ nguồn tài trợ” do đối tác nước ngoài cấp, do đó các ngân hàng sẽ có nguồn tài chính cần thiết để cấp tín dụng có kỳ hạn cho những khách hàng đáp ứng được một số điều kiện nhất định. Các DNVVN sẽ có cơ hội vay được nhiều vốn hơn
Đối với ngân hàng cổ phần
Các ngân hàng này chủ yếu hướng hoạt động vào tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên DNVVN khó vay được nguồn vốn này do ít có tài sản thế chấp, hơn nữa vấn đề khó khăn cơ bản mà các ngân hàng thường gặp phải đó là thiếu nguồn tài chính dài hạn, dẫn đến gây khó khăn cho việc đi vay.
Đối với ngân hàng liên doanh
Hoạt động trong việc cấp tín dụng có kỳ hạn phần này chiếm trung bình khoảng 20% so với toàn bộ lượng tính dụng mà ngân hàng liên doanh cấp. Tuy vậy, các ngân hàng này quan tâm nhiều đến khách hàng là những doanh nghiệp quốc doanh lớn và những doanh nghiệp liên doanh hay 100% vốn nước ngoài hơn là các DNVVN .
Các khoản tín dụng có kỳ hạn mà các ngân hàng này cấp cho DNVVN là các doanh nghiệp quốc doanh nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân có quy mô tương đối lớn.
Đối với ngân hàng nước ngoài
Các khoản vay được ghi bằng ngoại tệ, cũng như ngân hàng liên doanh. Các DNVVN ở Việt Nam hầu như không thể huy động được vốn từ nguồn này.
2.2.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn thuê mua tài chính.
Hiện nay có các công ty thuê mua tài chính được thành lập ở Việt Nam:
Các công ty do ngân hàng Việt Nam lập ra: 3 công ty có nguồn gốc từ Vietcombank, VBARD;BIDV.
Các công ty liên doanh có : “Vietnam International leasing company Ltd”(VILC) “VENA leasing Company” (VENA); “Vietnam leasing Coampany Ltd”(VLC).
Trong đó đối tác Việt Nam là : đối tác với VILC là Incombank; đối tác VENA, Trường Thành trading &series company Ltd”. Các công ty 100% vốn nước ngoài.
Các DNVVN có thể đề nghị các công ty này cho thuê động sản và bất động sản mà họ dự kiến ký hợp đồng với các công ty cho thuê tài chính và có sự hứa hẹn về bất động sản tuỳ theo tình hình. Đây là những hình thức cung cấp vốn rất có khả quan cho DNVVN ở Việt Nam, ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng sử dụng vốn trong khi chưa có đủ vốn cam kết trả vốn lẫn lãi theo định kỳ đã thoả thuận với công ty cho thuê tài chính. Quy trình xét duyệt cho thuê tài chính được các công ty này quy định.
Khó khăn trong khi thuê mua tài chính là:
+ Các DNVVN chưa quen với việc huy động nguồn vốn này.
+ Các DNVVN khi đi thuê phải chịu một lãi suất cao (bù phần khấu hao máy móc nguyên vật liệu).
+ Các DNVVN còn phải thuyết trình kế hoạch sản xuất cung cấp thông tin của doanh nghiệp cho các công ty thuê mua tài chính biết. Đây chính là một hạn chế lớn đối với DNVVN tìm kiếm đến nguồn vốn này.
2.2.3. Quỹ hỗ trợ phát triển
Hoạt động thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo, quỹ tíndụng nhân dân, quỹ phát triển nông thôn, liên hiệp hợp tác xã, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia.
Đến tháng 9 năm 1998, trong cả nước có gần 5 tỷ USD nhàn rỗi, hàng nghìn tỷ của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chưa sử dụng, hàng chục nghìn ha đất, nhà xưởng chưa sử dụng đúng. Nhìn cung nguồn vốn chính thức này đáp ứng được 25,6% nghiên cứu vốn của các DNVVN . Năm 1998 ngành ngân hàng dành tới 35% (4500 tỷ đồng), tổng dư nợ cho các DNVVN song tỷ lệ này còn ở mức thấp. Sau khi Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của chính phủ ra đời, quỹ hỗ trợ phát triển đã đạt được một số kết qủa khả quan như : năm 2000 đã thẩm định gần 1000 dự án, ký hơn 1300 hợp đồng tín dụng có giá trị hơn 6800 tỷ đồng và giải ngân hơn 4700 tỷ đông, thực hiện cho vay lại 765 triệu USD bằng vốn ODA, bước đầu đã hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho 49 dự án với số tiền là 11,5 tỷ đồng.
Tuy vậy, việc vay vốn từ nguồn này vẫn gặp phải những khó khăn còn tồn tại sau : Đối tượng còn ở phạm vi hẹp nhất là với các doanh nghiệp thuộc tỉnh, thành phố không thuộc vùng khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn ; về thế chấp (bảo đảm tiền vay) cũng là những yếu tố mà các chủ đầu tư không thể khắc phục được, đó là chưa kể đến mức vay tối đa từ 50-70% so với nhu cầu của dự án, chủ dự án phải bỏ ra số còn thiếu quá nhiều nên lúng túng không biết xoay vào đâu. Một khó khăn nữa đối với các DNVVN là thông tin, các chủ đầu tư không được tiếp xúc với các văn bản về cơ chế tín dụng đầu tư phát triển, nói cách khác là không cơ quan nào phổ biến các nghị quyết, nghị định và các văn bản của nhà nước về tín dụng đầu tư và phát triển ; khó khăn này còn đặc biệt hơn đối với các doanh nghiệp dân doanh vì không có cơ quan cấp trên.
2.2.4. Nguồn vốn phi chính phủ và chính phủ
Hiện nay có nhiều tổ chức quốc tế như ILO, UNIDO, ZDH tổ chức phát triển Hà Lan, việc Friedrich erbert (Đức, ESCAP…) rất quan tâm tới sự phát triển của các DNVVN ở Việt Nam . Cụ thể :
- Dự án VIE/98/MO2/SID : Giữa chính phủ Việt Nam (qua VCCI – phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) với chính phủ Thuỵ Điển – ILO. Có trị giá 1,7 tr USD là dành cho DNVVN .
- Dự án “ tài chính nông thôn” : Dự án này với thời hạn dự kiến là 4 năm được tài trợ nhờ một khoản vay 120 triệu USD do “ Hiệp hội phát triển quốc tế “(IDA) cấp cho Nhà nước Việt Nam. Mục đích của dự án là hỗ trợ những cố gắng của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện đời sống tại các vùng nông thôn. Để làm được điều đó các mục tiêu được đề ra như sau :
+ Khuyến khích đầu tư ở khu vực tư nhân.
+ Tăng cường khả năng tài trợ cho đầu tư thuộc khu vực tư nhân.
+ Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người nghèo tại các vùng nông thôn.
Qua góc độ mà chúng ta quan tâm, dự án này thể hiện dưới hình thức một “ nguồn tài trợ” trị giá 100 triệu USD. Gọi là quỹ phát triển nông thôn, quỹ này dùng để tái tài trợ cho các khoản vay ngắn, trung và dài hạn do các ngân hàng trong nước cấp cho các hộ kinh doanh, các DNVVN tại vùng nông thôn.
- Quỹ phát triển DNVVN (SMDF): Dự án này có thời gian 3 năm do cộng đồng Châu âu tài trợ, mục tiêu của dự án này là giúp đỡ Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Để thực hiện được mục tiêu này, nhiều hoạt động được đề ra nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân vừa và nhỏ trong 24 tỉnh thành, nhằm tăng cường phát triển kinh tế, xã hội đặc biệt là tạo công ăn việc làm. Dự án có một quỹ tài chính khoảng 25 triệu USD để tái tài trợ, một phần dành cho các khoản vay có kỳ hạn mà nhiều ngân hàng trong nước được tham gia cấp cho các DNVVN đáp ứng đủ yêu cầu.
- Nguồn tài trợ Mê Kông (MFL) : Đây là nguồn tài trợ trị giá 5 triệu USD do công ty tài chính quốc tế (SFI) trực tiếp vận hành và quản lý, SFI là một trong những công ty của ngân hàng thế giơí quản lý và hỗ trợ thành lập quỹ phát triển DNVVN .
Dự án MPDF với thời gian vận hành 5 năm, đã mở rộng hoạt động của mình sang Việt Nam, Lào, Campuchia. Dự án có mục đích thúc đẩy thành lập và phát triển DNVVN địa phương. Một mặt bằng cách cung cấp hàng loạt các dịch vụ tư vấn phong phú giúp đỡ các tổ chức địa phương. Một mặt bằng cách cung cấp hàng loạt các dịch vụ tư vấn phong phú giúp đỡ các tổ chức địa phương có hoạt động ảnh hưởng phát triển doanh nghiệp.
- Qua thực tế nghiên cứu các nguồn tài trợ về vốn của các dự án trên ta thấy các DNVVN còn gặp một số những khó khăn sau:
+ Nguồn vốn của các dự án còn hạn hẹp chưa đủ đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp.
+ Mức độ cung cấp chỉ giới hạn trong một số doanh nghiệp nhất định.
+ Thời gian tài trợ ngắn hạn 3-5 năm, không đủ để các doanh nghiệp phát triển doanh nghiệp, quay vòng vốn trong chu kỳ hoạt động kinh doanh.
+ Thủ tục cho vay còn nhiều vướng mắc.
+ Các tổ chức quản lý nguồn vốn còn phân tán, không đồng bộ, không quy được về một đầu mối quản lý để DNVVN tiếp cận một cách dễ dàng.
2.3. Nguồn vốn phi chính thức (PCT)
ở Việt Nam có các hình thức huy động vốn phi chính thức như : Vay nhân thân bạn bè, người quen, nhân viên trong doanh nghiệp , hụi họ, cầm cố tài sản; Vay người cho vay chuyên nghiệp ; ứng trước vốn bằng bán non; ứng trước hàng hoá; nguyên vật liệu; bán trả chậm.
Kết quả điều tra 5 tỉnh thành phố ta thấy trong 316 doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thì có tỷ lệ các doanh nghiệp vay với hình thức phi chính thức như bảng dưới đây :
Bảng 3: Các hình thức huy động vốn phi chính thức của DNVVN
TT
Các hình thức huy động vốn PCT
Tỷ lệ doanh nghiệp vay
1
Vay nhân thân, bạn bè
48,4
2
Huy động qua hụi họ
3,2
3
ứng trước vốn của người bao tiêu sản phẩm
13,3
4
ứng trước vốn của người cung cấp NVL
20,9
5
Huy động thêm vốn để thực hiện doanh vụ
6,0
6
Vay người lao động trong DN
6,3
7
Hình thức khác
6,0
Nguồn : Báo cáo điều tra 5 tỉnh, thành phố của nhóm nghiên cứu (10/1998)
Theo các chuyên gia tài chính, khó có thể định lượng chính xác quy mô vốn phi chính thức, nhưng có thể ước tính dựa vào tỷ trọng tiền mặt trong tổng lượng tiền lưu thông (M3). Tỷ trọng tiền mặt chiếm khoảng 33% tổng lương M3, hiện nay đó là 45%, tỷ lệ này là khá cao với các nước ASEAN(15%). Từ đó có thể thấy rằng quy mô vốn phi chính thức là khá lớn, chiếm khoảng 25% tổng vốn kinh doanh của DNVVN .
Tuy nhiên về hình thức huy động vốn phi chính thức vẫn còn gặp nhiều khó khăn : lớn nhất đó là chưa có môi trường pháp lý thuận lợi, do đó một số hìng thức huy động vốn loại này thường dẫn đến đổ vỡ như hụi, họ, vay nóng… Ngoài ra còn có các khó khăn như lãi suất cao và thời hạn vay ngắn.
Kết quả điều tra nhóm nghiên cứu thu được như sau : khó khăn lớn nhất là chưa được pháp luật bảo hộ (44,5% DN), tiếp đến lãi suất cao (31,6% DN); thời gian vay ngắn (24,7% DN), khó khăn khác (4,3%). Nhìn chung các hình thức huy động vốn phi chính thức chưa định hình cả về quy mô, lãi suất … Sự gặp gỡ giữa người vay và người cho vay mang tính tự phát, khi gặp trở ngại thường dẫn đến việc tự giải quyết với nhau, nên thường dẫn đến hậu quả khó lường trước.
Phạm vi và quy mô nguồn vốn này không lớn, vì vậy khi vay chủ doanh nghiệp phải cân nhắc các nhận xét cá nhân của những người giúp đỡ tài chính, gây nên mối quan hệ tài chính cá nhân cao, thậm chí va chạm tới sự độc lập trong kinh doanh.
3. Nhận xét chung.
Như vậy, qua thực trạng phân tích ở trên ta thâý đối với các DNVVN thì vốn đang trở thành một vấn đề bức xúc nhất hiện nay. Việc vay vốn là một khó khăn lớn mà không phải DNVVN nào cũng làm tốt được, điều này gây cản trở lớn đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ vấn đề này, ta hãy tìm hiểu tại sao DNVVN lại gặp khó khăn trong việc huy động vốn.
Nguyên nhân
- Trước tiên phải nói đến đó là do chính đặc điểm của loại hình DNVVN là : Vốn ít, trình độ quản lý, năng lực công nghệ còn hạn chế, mức độ rủi ro của đầu tư khá cao vì vậy chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư và thiếu vốn là một tất yếu.
- Nguyên nhân bắt nguồn từ bên ngoài doanh nghiệp :
+ Môi trường kinh doanh chưa ổn định : tỷ lệ lạm phát cao, tỷ lệ gửi và cho vay trung và dài hạn thấp (từ 4-6% tổng mức cho vay ). Còn nhiều rối loạn do quá trình làm ăn chuyển đổi (là ăn chụp giựt …) tỷ lệ tiết kệm thấp (15%) là cản trở lớn đối với việc huy động vốn.
+ Chính sách, pháp luật : Tạo ra vấn dề bất bình đẳng khi cho vay vốn đối với DNVVN và doanh nghiệp khác. Mức độ đầu tư vốn cho các DNVVN còn hạn chế, các trung tâm hỗ trợ, tài trợ DNVVN được thành lập nhưng do không bám sát thức tế hoạt động còn mờ nhạt kém hiệu quả.
+ Nhà nước chưa thành lập được một tổ chức chặt chẽ dể hỗ trợ vốn cho DNVVN như nhiều quốc gia khác dã làm, chưa có được các chính sách hỗ trợ ưu tiên phát triển DNVVN tạo hành lang pháp lý cho các DNVVN . Các nguồn vốn lớn ( ODA < FID) thì giành cho các công trình lớn.
+ Ngân hàng : Huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán, đang còn trong giai đoạn sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, khả năng thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân còn yếu kém. Vì vậy các ngân hàng thường lâm vào tình trạng thiếu vốn để cho vay. Các ngân hàng thiếu sự liên thông, liên kết trong việc kiểm soát mọi hoạt động chu chuyển vốn của doanh nghiệp, các nhân viên ngân hàng chưa đủ kinh nghiệm kiến thức trong việc thẩm định các dự án của doanh nghiệp để ngân hàng cung cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. DNVVN khi vay tiền ngân hàng thường cao, mà các DNVVN thường thiếu tài sản thế chấp, quyền sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng nhất là quyền sử dụng đất còn chưa được lâu dài.
+ Thị trường vốn, thị trường chứng khoán hiện nay đã có nhưng hoạt động còn ở mức độ sơ khai, chưa phát triển, chưa thể trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp.
Chương III:
Giải pháp huy động vốn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ
I. Kinh nghiệm tham khảo chính sách huy động vốn đối với DNVVN ở một số nước.
Nhật Bản và các nước châu á láng giềng khác đánh giá cao vai trò của DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế của họ và xét theo quan điểm thúc đẩy kinh tế thị trường thì tất cả những nước này đều tích cực khuyến khích phát triển các DNVVN ngay từ giai đoạn ban đầu. Đối với các nước này, chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển thành công của các DNVVN .
Chẳng hạn như đối với nước Đức, khu vực DNVVN đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức, nó tạo ra gần 50% GDP, chiếm hơn một phần hai doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các loại hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Để đạt được những thanh tựu đó, chính phủ Đức đã áp dụng hàng loạt chính sách và chương trình thúc đẩy DNVVN trong việc huy động các nguồn vốn.
Công cụ chính để thực hiện các chính sách và chương trình hỗ trợ này là thông qua các khoản tín dụng ưu đãi, có sự bảo lãnh của nhà nước. Các khoản tín dụng này được phân bổ ưu tiên đặc biệt cho các dự án đầu tư thành lập DN, đổi mới công nghệ và vào những khu vực kém phát triển trong nước. Do phần lớn các DNVVN không đủ tài sản thế chấp để có thể nhận được khoản tín dụng lớn bên cạnh các khoản tín dụng ưu đãi, ở Đức còn phát triển khá phổ biến các tổ chức bảo lãnh tín dụng. Những tổ chức này được thành lập và bắt đầu hoạt động từ những năm 1950 với sự hợp tác chặt chẽ của các phòng thương mại, hiệp hội DN, ngân hàng và chính quyền liên bang. Nguyên tắc hoạt động cơ bản là vì khách hàng, DNVVN nhận được khoản vay từ ngân hàng với sự bảo lãnh của một tổ chức bảo lãnh tín dụng. Nếu DN làm ăn thua lỗ, tổ chức này sẽ có trách nhiệm hoàn trả khoản vay đó cho ngân hàng. Ngoài ra, các khoản vay này có thể được chính phủ tái bảo lãnh. Với các cơ chế và chính sách hỗ trợ như vậy, các DNVVN ở Đức đã khắc phục được khá nhiều khó khăn trong quá trình huy động vốn.
Đối với Đài Loan lại có những khác biệt. Ngay trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Đài Loan đã áp dụng nhièu biện pháp chính sách khuyến khích phát triển các DNVVN trong một số ngành sản xuất như : nhựa, dệt, kính, xi măng, gỗ. Năm 1981, Đài Loan đã thành lập ra cục quản lý DNVVN thuộc bộ kinh tế. Hiên nay số lượng DNVVN ở Đài Loan chiếm khoảng 96% tổng số DN. Chúng tạo ra khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và chiếm hơn 70% chỗ làm việc. Để đạt được những thành tựu dó, Đài Loan đã dành nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ huy động vốn cho các DNVVN . Cho đến nay, rất nhiều ngân hàng nhà nước và tư nhân ở Đài Loan có quy định một tỷ lệ tài trợ nhất định cho các DNVVN và tỷ lệ này có xu hướng tăng dần sau mỗi năm. Đồng thời cũng lập ra 3 quỹ là : Quỹ phát triển, Quỹ Sino- US và quỹ phát triển DNVVN nhằm tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN thông qua các ngân hàng trên. Nhận thức được sự khó khăn của các DNVVN trong việc thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, năm 1974 đã thành lập quỹ này là cùng chia sẻ rủi ro với các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng đã ngày càng tin tưởng hơn vào việc tài trợ cho vay đối với các DNVVN . Kể từ khi thành lập đến nay quỹ đã bảo lãnh cho 1,3 triệu trường hợp với tổng số vốn cho vay rất lớn. Ngoài ra Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp khác như: giảm lãi suất đối với những khoản vay phục vụ mục đích mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh, mời các chuyên gia đến giúp DNVVN nhằm tối ưu hoá cơ cấu vốn và tăng cường các điều kiện vay vốn
Trong kế hoạch phát triển tổng thể lần thứ hai của Malaysia (1991-2000) đã khẳng định rõ vai trò của các DNVVN trong công cuộc hiện đại hoá đất nước. Do vậy, trong thời kỳ này chính phủ đã thông qua chương trình hỗ trợ phát triển DNVVN như các chương trình về thị trường và hỗ trợ công nghệ thông tin. Mục đích của chương trình cho vay là nhằm giúp các DNVVN có được một lượng vốn cần thiết để thúc đẩy tự động hoá và hiện đại hoá, để cải tiến chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng trong các ngành sản xuất phụ tùng ô tô, linh kiện điện tử, máy móc, nhựa, dệt, đồ gỗ lương thực, thực phẩm… chương trình này được thực hiện theo kế hoạch phân bổ hàng năm của Malaysia thông qua quỹ cho vay ưu đãi, cấp tín dụng trực tiếp cho các nhà sản xuất là các DNVVN thuộc các lĩnh vực ưu tiên nói trên.
Với kinh nghiệm trên, mặc dù Đức, Đài Loan, Malaysia có chênh lệch nhau về trình độ phát triển kinh tế song chính phủ các nước này đều dành sự quan tâm đặc biệt trong chính sách hỗ trợ huy động vốn đối với các DNVVN . Thực tế đã chứng tỏ sự thành công của các chính sách hỗ trợ này . Do đó đây có thể là những bài học kinh nghiệm tham khảo hay mô hình chính sách mà Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng để tìm ra những giải pháp thích hợp giúp DNVVN phát triển hơn nữa.
II. Một số giải pháp huy động vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để huy động vốn, về nguyên tắc ta có thể đưa ra nhiều cách khác nhau. Xuất phát từ thực trạng của vấn đề huy động vốn đã nêu trên cùng với những khó khăn chính các DNVVN , ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm huy động vốn một cách có hiệu quả nhất cho DNVVN .
1. Giải pháp 1: Tăng cường nguồn vốn chủ sở hữu.
Đây là một biện pháp đơn giản nhất, ít tốn kém nhất đối với doanh nghiệp. Thật vậy “nguồn vốn chủ sở hữu “ là vốn đóng góp của các cổ đông hay người chủ duy nhất, điều đáng chú ý nhất là số vốn này không gây ra chi phí đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là : đối với các DNVVN giải pháp này khi thực hiện gặp phải khó khăn ở chỗ người chủ hoặc các hội viên chỉ có phương tiện tài chính hạn chế và như vậy họ không thể bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ đã đóng góp và doanh nghiệp được. Để giải quyết khó khăn này ta có thể thành lập một tổ chức với chức năng tăng cường vốn chủ sở hữu cho các DNVVN bằng cách tham gia góp vốn với thời gian hạn chế trong doanh nghiệp. Việc tham gia của các tổ chức này sẽ cho phép doanh nghiệp có được một số vốn nhiêu hơn để có thể tham gia vượt qua một giai đoạn mới trong quá trình phát triển và ngay khi bắt đầu hoạt động, tổ chức này sẽ nhượng lại phần góp vốn của mình cho các hội viên khác khi mức độ lợi nhuận doanh nghiệp đạt được cho phép doanh nghiệp có đủ phương tiện mua lại.
Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động bằng cách: phát hành cổ phiếu, trái phiếu, kêu gọi sự đầu tư vốn bên ngoài vào doanh nghiệp, tham gia thị trường chứng khoán, thị trường vốn.
Để sự tham gia góp vốn của các cổ đông cơ sự thuận tiện. Các DNVVN nên cung cấp thông tin của doanh nghiêp. Ngoài ra doanh nghiệp cũng nên tận dụng nguồn vốn ngay chính trong doanh nghiệp, công ty mình bằng cách khuyến khích người lao động, công nhân tham gia góp vốn vào công ty.
2. Giải pháp 2: Vay có kỳ hạn
Đây là giải pháp cổ điển mà các doanh nghiệp thường nghĩ tới. Với tên gọi “ Vay trung và dài hạn” có thể có rất nhiều cách thức khác nhau mà các doanh nghiệp thường bị thiếu thông tin.
Thật vậy cần phải biết rằng tuỳ theo tổ chức tài trợ và nguồn tài trợ những điều kiện mà một doanh nghiệp hay một dự án đầu tư phải thoả mãn cũng như những điều kiện kèm theo thay đổi rất nhiều. Do đó tuỳ theo đặc điểm nguồn tài trợ và đặc điểm dự án đầu tư mà doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ để có thể gửi hồ sơ xin vay đến tổ chức thích hợp nhất.
Vay ngân hàng
Đây là nguồn huy động vốn có khả năng đạt được kết quả cao nhất và là nguồn có tính chất phát triển lâu dài cho DNVVN . Tuy nhiên vấn đề huy động từ nguồn này lại gặp rất nhiều khó khăn ( như đã phân tích ở trên ) vì vậy để giải quyết những khó khăn vướng mắc trên ta có thể đưa ra một vài giải pháp sau:
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
+) Các DNVVN cần chủ động đào tạo, đào tạo lại dưới nhiều hình thức thích hợp nhằm trang bị nâng cao kiến thức chuyên môn, tay nghề, trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý nhất là các ông chủ và đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp. Các DNVVN phải chấp hành nghiêm túc pháp lệnh kế toán – thống kê. Chỉ có như vậy mới có thể thực hiện các yêu cầu về xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, thực hiện quản lý và xử lý thông tin trong quá trình hoạt động, thực hiện quản lý tài chính chặt chẽ tạo lập được lòng tin từ phía các ngân hàng thông qua quá trình hoạt động và quan hệ vay trả.
+) Các DNVVN phải khai thác tối đa nguồn vốn tự lực của mình và huy động nguồn vốn khác phục vụ cho các phương án sản xuất kinh doanh với yêu cầu tiết kiệm đúng mục đích, đúng đối tượng và có hiệu quả.
+) Các DNVVN phải có chính sách thu hút và động viên khai thác tối đa nguồn lực từ đội ngũ cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất, chú trọng đúng mức tới lợi ích, tinh thần của người lao động.
Về phía ngân hàng
+) Cần chủ động tích cực tham mưu, tư vấn cho chính phủ sớm thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN : Quỹ này đã hoạt động thí điểm ở Bắc Giang và đã đem lại nhiều kết quả tốt.
Quỹ bảo lãnh tín dụng có vai trò là một tổ chức trung gian giữa ngân hàng và doanh nghiệp, hoạt động trên cơ sở bảo lãnh một phần nhằm hỗ trợ DNVVN tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung và dài hạn ( bao gồm cả gốc lẫn lãi ) tại các tổ chức tín dụng, thông qua việc cấp bảo lãnh tái bảo lãnh tín dụng, khuyến khích các hoạt động tín dụng lành mạnh; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín dụng, ngân hàng, cả ba phải làm đúng chức năng và thiện chí thì quy trình tạo vốn cho các DNVVN mới sớm được khai thông một cách tích cực.
+) Xây dựng cơ chế đầu tư cho vay đối với các DNVVN :
Thứ nhất về các điều kiện vay vốn: Đối với vác DNVVN hiện nay như phân tích ở trên là còn nhiều bất cập về điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành chế độ kế toán thống kê…
Trong đó đang quan tâm là điều kiện về tài sản thế chấp để được vay vốn. Đây là vấn để nan giải với các DNVVN , trong điều kiện quan trọng để đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án kinh doanh, dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp. Điều đó cho phép chúng ta có thể tìm giải pháp khắc phục tình trạng thiếu tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng. Có thể phân định một số dạng cụ thể như sau:
Đối với các doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đảm bảo nợ đủ theo yêu cầu.
Đối với donh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì yêu cầu dùng tài sản hình thành bằng vốn vay, tiếp tục đảm bảo cho nợ vay còn lại.
Đối với vác DNVVN không đáp ứng đủ điều kiện như hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn bằng cách thông qua hội đồng tín dụng. Trong đó các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn yêu cầu, để quyết định nên đầu tư hay không và mức độ bao nhiêu.
Như vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ thẩm định không chỉ tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn mà còn phải hiểu biết rộng rãi các nghiệp vụ bổ trợ như chuyên môn các ngành kỹ thuật và các ngành kinh tế khác. Đồng thời cần nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác về các phương án, dự án vay vốn.
Thứ hai về thời hạn cho vay: Các DNVVN có nhu cầu về vốn trung và dài hạn lớn do phải thay đổi công nghệ, thiết bị nhiều do đó các ngân hàng cần lưu ý trong việc xác định thời hạn cho vào phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của thiết bị. Các ngân hàng không nên gò ép về mặt thời gian cho vay theo chủ quan sẽ dẫn đến áp lực về tài chính đối với các DNVVN .
3. Giải pháp 3: Cho thuê tài chính.
Loại hình cho thuê (Leasing) ra đời từ lâu nhằm thoả mãn nhu cầu đổi mới công nghệ song nó hoạt động mạnh mẽ vào thập kỷ 50 ở Mỹ, Châu âu và Nhật Bản đến nay đã được quốc tế hoá.
Cho thuê có nghĩa là người chủ sở hữu tài sản cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định, người sử dụng có thể thuê tiếp, mua hoặc không mua tài sản đó tuỳ theo các điều kiện đã thoả thuận. Hình thức tín dụng thuê mua có ưu điểm rất cơ bản là nó giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích. Do đặc điểm của các DNVVN là trình độ công nghệ lạc hậu, và tay nghề công nhân nhìn chung là không cao do vậy thêm vào đó là không có đủ vốn để mua các trang thiết bị sản xuất. Khi DNVVN ký hợp đồng thuê mua các công ty tài chính, doanh nghiệp không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết. Doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị có thể tránh được những tổn thất do mua máy thiết bị không đúng yêu cầu, không kiểm tra kỹ hoặc do mua nhầm (mua phải máy móc lạc hậu ). DNVVN sử dụng được may móc thiết bị cẩn thiết mà không phải đầu tư một lần với vốn lớn. Mặt khác DNVVN có thể sử dụng máy móc, thiết bị có thể giảm được tỷ lệ nợ/ vốn,. Vì tránh phải vay tiền ngân hàng thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị DNVVN có thể thoả thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua : ở Việt Nam, hình thức này hứa hẹn một tiềm năng huy động vốn sẽ phát triển, và là một cơ hội để DNVVN có điều kên phát triển doanh nghiệp. Năm 1993 công ty dệt Việt Thắng thuê 5 triệu USD thiết bị dệt của Hàn Quốc và Nhật Bản, tiền tính vào giá thành, sản phẩm được bên cho thuê bao tiêu. Nhà máy chế tạo biến thế Hà Nội đạt được thoả thuận leasing với đối tác Thuỵ Sĩ : toàn bộ thiết bị, nguyên liệu, bán thành phẩm được liên doanh mua lại trị giá 1,8 triệu USD.
Như vậy cho thấy hoạt động leasing ở Việt Nam hiện nay rất phát triển khá thành công tuy nhiên theo đánh giá thì thị trường thuê mua vẫn còn bị bỏ ngỏ nhiều, nhà nước không thu được thuế cá nhân, bên đi thuê mua phải chịu một lãi suất khá cao. Vì vậy nhà nước cần thống nhất quản lý được hoạt động này. Đó là :
- Cần có sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt động ở các doanh nghiệp khi thực hiện nghiệp vụ này.
- Để tránh rủi ro, các bên thống nhất mua lại phí bảo hiểm nào đó để bảo đảm lợi ích của các bên, phí bảo hiểm chủ sở hữu mua rủi ro được bồi thường chủ sở hữu có trách nhiệm phục hồi tài sản.
- Mở rộng hơn nữa nghiệp vụ cho thuê về giá trị, loại tài sản áp dụng thử nghiệm một số hình thức cho thuê vận hành, thuê tài sản. Mở rộng hành vi này đối với các DNVVN , các doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh nông nghiệp.
- Tìm ra mối quan hệ giữa các nguồn vốn, thông qua công ty thuê mua để giải ngân theo các nguyên tắc của hợp đồng thuê mua một hay nhiều bên như nguồn vốn ODA cho vay lại, vốn tín dụng của ngân sách nhà nước. Theo phương pháp này thì vẫn bảo toàn được nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp, mà khả năng thất thoát vốn rất thấp, hiệu quả đồng vốn cao hơn so với các hình thức thông thường.
Để tránh thua thiệt trong các hợp đồng thuê mua với nước ngoài, các hợp đồng, thiết bị nhập khẩu nhất thiết phải có sự thẩm định và kiểm tra.
Đối với các DNVVN thường xuyên gặp khó khăn trong việc vay vốn trung và dài hạn ngân hàng thì thuê tài chính có thể được xem là một giải pháp thay thế đơn giản, thuận tiện cho tín dụng trung và dài hạn.
4. Giải pháp 4: Huy động vốn từ nguồn vốn phi chính thức
Nguồn vốn huy động phi chính thức có ý nghĩa là nguồn bổ sung cho hình thức huy động chính thức.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động bằng nguồn vốn phi chính thức có ưu điểm là :
Thủ tục và điều kiện vay vốn đơn giản, đáp ứng nhanh nhạy kịp thời vốn kinh doanh cho các DNVVN . Bổ sung kịp thời cho nguồn vốn chính thức hoặc trả nợ đến hạn. Bên cạnh các nguồn vốn thông thường như vậy nhân thân, vay ban bè, vay của những người cho vay chuyên nghiệp, vay cầm cố, chơi hụi (họ) … DNVVN có thể huy động vốn bằng cách:
- Tín dụng thương mại trước nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào diễn ra đồng thời nên tín dụng thương mại xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiêp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại. DNVVN có thể sử dụng hình thức tín dụng thương mại chủ yếu sau:
+) Thứ nhất, DNVVN có thể mua may móc, thiết bị theo phương thức trả chậm. Sẽ chỉ có được hình thức tín dụng này nếu được ghi nợ trong hợp đồng mua bán về giá cả số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả tiền. Như thế doanh nghiệp có máy móc thiết bị sử dụng ngay nhưng tiền lại chưa phải trả ngay, số tiền chưa phải trả là số tiền doanh nghiệp chiếm dụng được của nhà cung ứng.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả ngay được coi là một chiến lược Marketing của người bán hàng cho nên doanh nghiệp dễ dàng tìm được nguồn vốn tín dụng loại này. Đặc biệt, khi thị trường có nhiều nhà cung cấp cạnh tranh với nhau, doanh nghiệp càng có lợi thế về giá cả và kỳ hạn trả… Khi quá trình này diễn ra một cách thường xuyên thì nguồn tín dụng này đóng vai trò như một nguồn tín dụng trung và dài hạn. Với phương thức tín dụng này doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không ảnh hưởng ddến tình hình tài chính của doanh nghiệp mình. Hình thức tín dụng mua trả chậm này có ý nghĩa rất lớn đối với DNVVN thiếu các điều kiện để vay vốn từ các nguồn khác và không đủ tài chính để mua máy móc thiết bị.
+) Thứ hai, vốn khách hàng ứng trước.
Trong quá trình kinh doanh, khi ký hơp đông khách hàng phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung ứng sản phẩm( dịch vụ ) cho khách hàng. Tuỳ theo lượng mua hàng của khách, thông thường DNVVN có thể chiếm dụng được vốn từ hai nguồn sau:
ã Vốn ứng trước của khách hàng lớn.
ã Vốn ứng trước của người tiêu dùng .
Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản xuất sản phẩm (dịch vụ) doanh nghiệp phải đặt hàng ( nguyên vật liệu…) nên lại người cấp hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng theo hình thức này nên nếu các qúa trình kinh doanh diễn ra bình thường thì số dư vốn chiếm dụng hình thức này là không lớn.
Tuy nhiên, kinh doanh trong thị trường hiện tại đòi hỏi DNVVN phải tính toán, cân nhắc thận trọng để có thể tân dụng được lượng vốn khách hàng đặt cọc trước và bên cạnh đó hạn chế lượng tiền khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh nghiệp mà nếu không để ý nhiều khi là rất lớn.
Để đảm bảo cho nguồn vốn huy động phi chính thức diễn ra một cách thuận lợi và khắc phục được những khó khăn khi huy động nguồn vốn phi chính thức, DNVVN phải đa dạng hoá các nguồn huy động, chủ động tìm kiếm các nguồn vốn, hạn chế rủi ro khi đi vay. Muốn vậy DNVVN phải có các giải pháp sau đây:
+ Phải xây dựng chiến lược (kế hoạch) huy động vốn phù hợp với thực trạng thì trường và môi trường kinh doanh trong từng thời kỳ. Đồng thời trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải lấy được chiến lược kế hoạch làm công cụ định hướng hành động của mình.
+ Tạo niềm tin nơi cung ứng vốn, uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp với khách hàng là tài sản vô giá của doanh nghiệp không phải chỉ trên thị trường tiêu thụ mà cả trên thị trường tài chính.
+ Chứng minh mục đích sử dụng vốn. Doanh nghiệp phải xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật vững chắc cho các dự án đầu tư cụ thể.
+ Huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau, đối tượng khác nhau đảm bảo phân tán rủi ro và đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
+ Xác định được tính hiệu quả của sử dụng vốn.
Bên cạnh các giải pháp trên thì cần phải có giải pháp để tạo môi trường an toàn và thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh và giải quyết những khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 4: Những khó khăn trọng việc huy động vốn và giải pháp tháo gỡ:
Những khó khăn
Giải pháp tháo gỡ
DN khó tiếp cận với nguồn vốn
- Hạn chế độc quyền hoạt động kinh doanh của NH
- Chính sách tài chính – tiền tệ nới lỏng : giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chuyển sang lãi suất thị trường có sự điều tiết của nhà nước( nhà nước không nên định lãi suất trần)
- Khuyến khích huy động mọi nguồn vốn vào kinh doanh.- Mở rộng mạng lưới, hình thức huy động vốn.- Phát triển quỹ tín dụng nhân dân
Thời gian vay ngắn
- ổn định kinh tế vĩ mô ( chống lạm phát)- Tăng huy động tiền gửi dài hạn
- Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, thiết lập các định chế tài chính cho vay dài hạn như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung và dài hạn.
Môi trường pháp lý chưa đảm bảo
- Tạo lập môi trường pháp lý an toàn ; tạo lập khuôn khổ pháp lý đối với vác hình thức huy động vốn mới ra đời.
- Thực hiện tốt luật dân sự.
- Xử lý nghiêm các hình thức không hợp pháp- Nâng cao vai trò của chính quyền địa phương, các tổ chức.
Thủ tục rườm rà
- Chuyển các ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.- Hạn chế sự độc quyền cho vay vốn của ngân hàng
Khả năng hoàn trả vốn thấp
- Khuyến khích các DNVVN phát triển mạnh dần lên- Hỗ trợ tín dụng: trực tiếp hoặc thông qua giảm lãi suất.- Hỗ trợ gián tiếp thông qua chính sách, cơ sở hạ tầng
Doanh nghiệp khó tiếp cận NH
- Thông tin về doanh nghiệp, khuyến khích làm ăn công khai
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng.
III. Một số kiến nghị với nhà nước.
Để tạo điều kiện cho huy động vốn của các doanh nghiệp. Trước hết, nhà nước cần sớm quy hoạch và định hướng chiến lược cho sự phát triển của các DNVVN . Điều này rất quan trọng trong việc khuyến khích các nghiệp vụ bỏ vốn kinh doanh, yên tâm đầu tư trung và dài hạn. Thông qua tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN được thành lập 5/1999, Chính phủ nắm bắt được thực trạng DNVVN và các hoạt động của các đoàn thể, tổ chức quốc tế hỗ trợ tín dụng từ đó quy nguồn vốn này vào một đầu mối dễ bề quản lý, doanh nghiệp dễ tiếp cận khi vay vốn. Trên thực tế hiện nay chỉ có khoảng 2 quỹ hỗ trợ phát triển là thực sự có hiệu quả đối với DNVVN
dựa vào kinh nghiệm một số nước như Đài Loan, Đức, Singapo … về các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN và đánh giá được thực trạng những khó khăn của DNVVN .Chính phủ nên thành lập “ quỹ đâù tư vốn cho DNVVN ”
Các chính sách khuyến khích DNVVN có thể sẽ không thành công nếu không có sự hỗ trợ về mặt tài chính của Nhà nước thông qua quỹ đầu tư vốn. Mục tiêu trọng tâm của quỹ này là : Nhà nước sẽ góp vốn vào các DNVVN có triển vọng thông qua việc mua cổ phần hoặc trái phiếu chuyển nhượng đều với mục tiêu của chiến lược kinh doanh hoặc ngành ưu tiên do chính phủ quy định. Loại mục tiêu nhằm khuyến khích DNVVN bao gồm: Khuyến khích xuất khẩu phát triển thị trường, giới thiệu công nghệ mới, hỗ trợ doanh nhân khởi động kinh doanh. Trong điều kiện thị trường vốn chưa phát triển thì đây là một hình thức cung cấp vốn hữu hiệu cho các DNVVN không có khả năng huy động vốn trên thị trường. Quỹ đầu tư vốn sẽ tích cực tham gia vào việc quản lý các doanh nghiệp được đầu tư và đóng một vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng chúng. Nguồn vốn của quỹ bao gồm: vốn cấp từ ngân sách nhà nước ; vốn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; vốn góp của các tổ chức tài chính ; vốn góp của các nhà đầu tư khác (cá nhân và doanh nghiệp).
Kết luận
Trên đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài. Do hạn chế về mặt thời gian và kinh nghiệm… nên nội dung đề tài còn hạn hẹp và chưa thể đề cập một cách có chi tiết, cụ thể từng loại giải pháp huy động vốn ở Việt Nam; trong giới hạn của một đề án môn học, nội dung bài viết mới chỉ đi sâu vào một số các giải pháp huy động vốn mà có thể huy động được một cách có hiệu quả nhất, góp phần nhận dạng các giải pháp huy động vốn của các DNVVN , giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận biết được từng giải pháp và vận dụng linh hoạt lựa chọn các giải pháp huy động vốn thích hợp với doanh nghiệp của mình nhất. Thêm vào nữa là các DNVVN phải bổ sung sửa đổi hoàn thiện tổ chức quản lý doanh nghiệp một cách có hiệu quả, tạo điều kiện để huy động vốn một cách dễ dàng, thu hút được các nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, với một nền kinh tế năng động và phát triển, các DNVVN ngày càng khẳng định được vị thế phát triển của mình, các hình thức huy động vốn ngày càng phong phú, đa dạng. Đòi hỏi doanh nghiêp phải luôn luôn cập nhật thông tin, năng động tìm kiếm các nguồn cung ứng khác nhau. Với giác độ là những người nghiên cứu, đánh giá các vấn đề, điều đó buộc các chuyên viên kinh tế phải nghiên cứu và tìm ra các giải pháp huy động vốn có hiệu quả hơn, phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản trị kinh doanh
2. Giáo trình quản trị chiến lược
3. Quản trị tài chính DN
4. Tạp chí doanh nghiệp
5. Tạp chí kế toán
6. Tạp chí ngân hàng
7. Phát triển kinh tế
8. Tạp chí thương mại
9. Kinh tế và dự báo
10. Thông tin tài chính
11. Thời báo kinh tế Sài Gòn
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35570.doc