Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam

Thứ nhất: Năng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản bằng các biện pháp: - Đầu tư nâng cao thiết bị máy móc ở ngay khâu đánh bắt, bảo quản sản phẩm ở khâu chế biến. - Phổ biến giống và công nghệ nuôi trồng thuỷ sản tiến tiến để đảm bảo sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kinh nghiệm nuôi trồng cho thấy sử dụng nguồn nước ô nhiễm, sử dụng các chất kích thích đều làm khó các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu. - Các công ty thuỷ sản nên lập các phòng phát triển sản phẩm, phòng này có chức năng tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị trường đồng thời kiểm tra được chất lượng sản phẩm. - Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sao cho để tăng giá trị xuất khẩu. - Liên doanh đầu tư với nước ngoài nhằm tăng nguồn vốn đầu, cải thiện kỹ thuật tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị trường. - Trong chế biến thủy sản: + Cần kiểm tra chất lượng nguyên liệu thuỷ sản đầu vào nhằm đảm bảo ngay từ đầu chất lượng sản phẩm. Xây dựng hệ thống HACCP trong quá trình sản xuất nhằm giảm chi phí, đồng thời giảm giá sản phẩm nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường và làm tăng khả năng xuất khẩu khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận HACCP. + Áp dụng tiêu chuẩn vùng nuôi an toàn, mô hình nuôi sạch và hướng dẫn người nuôi thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm .Tăng cường kiểm tra chất lượng, kiểm dịch giống, thức ăn, thuốc phòng bệnh cho tôm cá .Đối với các hộ nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu các mô hình tổ chức hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nuôi trồng theo cộng đồng để cùng nhau quản lý tốt về thức ăn, chế phẩm sinh học, sử dụng thuốc kháng sinh, quản lý môi trường Thứ hai: Nâng cao tính cạnh tranh về giá cả sản phẩm. - Tổ chức bảo quản sản phẩm ngay sau khâu thu hoạch để giảm lượng hàng thuỷ sản bị mất phẩm chất, bị trả lại khi xuất khẩu. - Nâng cao hiệu quả, sử dụng công xuất của các nhà máy chế biến ổn định. - Phối hợp tổ chức sản xuất phụ từ phế liệu của ngành hải sản làm kèm: nước mắm, mắm, đây cũng là biện pháp làm giảm giá thành sản phẩm. - Tận dụng giá nhân công rẻ để tạo ra những sản phẩm tinh chế có thể sử dụng được ngay.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Mở đầu Phần I: Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm 1 Sản phẩm 1.1 Khái niệm 1.2 Các thuộc tính sản phẩm 2 Chất lượng sản phẩm 2.1 Các quan niệm về chất lượng sản phẩm 2.2 Vai trò của chất lượng sản phẩm 2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm 2.3.1 Những nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp 2.3.2 Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp 3 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm 3.1 Đứng trên góc độ người tiêu dung 3.2 Đứng trên góc độ nhà sản xuất Phần II : Thực trạng chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam 1 Đặc điểm các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam 2 Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam 2.1 Những quy định chung về chất lượng thuỷ sản 2.2 Thực trạng chất lượng thuỷ sản của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam hiện nay 2.2.1 Nguồn nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản 2.2.2 Các cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp chế biến thuỷ sản 2.3 Thành tựu 2.4 Những tồn tại về chất lượng sản phẩm thuỷ sản ở Việt Nam 3 Đánh giá chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam Phần III : Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam. 1 Đối với Doanh nghiệp 2 Kiến nghị với nhà nước Kết luận Đề án : Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam. Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm Sản phẩm 1.1. Khái niệm : *Theo ISO 9000 : 2000,sản phẩm là kết quả của các hoạt động hay các quá trình. 1.2.Các thuộc tính sản phẩm - Thuộc tính hữu hình: Phản ánh giá trị sử dụng của sản phẩm như các chức năng, công dụng của sản phẩm. - Thuộc tính vô hình: Các dịch vụ đi kèm theo sản phẩm cung cấp các giá trị gia tăng cho khách hàng, đáp ứng những nhu cầu tinh thần, tâm lý xã hội của khách hàng - Vai trò của các thuộc tính vô hình của sản phẩm: Vô cùng quan trọng, là một yếu tố chủ yếu thu hút khách hàngàTạo nhiều lợi thế trong cạnh tranh. Chất lượng sản phẩm 2.1. Các quan niệm về chất lượng: a) Xuất phát từ sản phẩm: Chất lượng được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó.àĐồng nghĩa chất lượng với số lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm. b) Của các nhà sản xuất: Là sự hoàn hảo và phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách đã xác định trước. Ưu điểm : Cụ thể, mang tính thực tế cao. Đảm bảo nhằm mục đích sản xuất ra những sản phẩm đạt yêu cầu tiêu chuẩn đã đề ra từ trước, tạo cơ sở thực tiễn cho các hoạt động điều chỉnh các chỉ tiêu chất lượng. Nhược điểm : Chỉ phản ánh mối quan tâm của người sản xuất đến việc đạt được những chỉ tiêu chất lượng đặt ra. c) Theo hướng thị trường - Xuất phát từ người tiêu dùng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử dụng của người tiêu dùng. “Quality is free”: Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu – Yêu cầu của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng TS. W Deming - Xuất phát từ mặt giá trị: Chất lượng là đại lượng đo bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ tiêu dùng sản phẩm và chi phí bỏ ra. - Xuất phát từ tính cạnh tranh: Chất lượng là những thuộc tính mang lại lợi thế cạnh tranh nhằm phân biệt nó với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. d) Chất lượng tổng hợp Tiêu chuẩn ISO 9000 : “Chất lượng là mức độ thoả mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu cầu” Có hai yếu tố của chất lượng: Là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm làm khách hàng hài lòng. Không sai lỗi trong quá trình sử dụng, tiêu dùng sản phẩm! 2.2. Vai trò của chất lượng - Quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh - Nâng cao năng suất lao động xã hội - Tăng uy tín, niềm tin cho khách hàng - Tiết kiệm chi phí: DN, xã hội, người tiêu dùng - Tăng doanh thu, lợi nhuận a) Khả năng cạnh tranh: Thể hiện qua hai chiến lược cơ bản: - Khác biệt hóa sản phẩm - Chi phí thấp. àNâng cao Chất lượng là một yêu cầu bắt buộc khi tham gia thị trường quốc tế. b) Nâng cao năng suất lao động xã hội: Do giá trị sử dụng, lợi ích KT_XH trên 1 đơn vị đầu vào tăng lên, tiết kiệm nguồn lực sản xuất. à Nâng cao chất lượng, nâng cao năng suất. c) Tăng uy tín, niềm tin cho khách hàng: Sản phẩm có chất lượngàtạo uy tín, thương hiệu cho DN; niềm tin của người tiêu dùng vào nhãn mác sản phẩmàTác động đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. - Nâng cao chất lượngàNâng cao vị thếànâng cao khả năng duy trì và mở rộng thị trường, phát triển lâu dài. d) Tiết kiệm chi phí: DN, xã hội, người tiêu dùng Sản phẩm công cụ, phương tiện sản xuất - Chi phí vận hành là một thuộc tính chất lượng quan trọng. Sản phẩm chất lượng thì mức tiêu hao nhiên liệu càng ít, tiết kiệm chi phí cho DN. Chất lượng cao, tạo điều kiện giảm phế thải trong quá trình sản xuất, tiêu dùngàGiảm các nguồn ô nhiễm môi trườngàTiết kiệm chi phí cho xã hội. e) Tăng doanh thu, lợi nhuận: Nâng cao chất lượng sản phẩmà Tăng khả năng tiêu thụàTăng doanh thu, lợi nhuận. DN có khả năng mở rộng thị trường. Người tiêu dùng hài lòng. Nhà nước tăng ngân sách. 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm 2.3.1. Những nhân tố bên ngoài DN - Mức độ cạnh tranh trên thị trường: Cạnh tranh càng gay gắt, khốc liệtàcàng thể hiện vai trò của chất lượng đối với các DN. - Trình độ tiến bộ khoa học, công nghệ Chất lượng không thể vượt quá giới hạn khả năng của khoa học – công nghệ của một giai đoạn lịch sử nhất định. Thể hiện ở các chỉ tiêu kỹ thuật đối với sản phẩm. Chỉ tiêu kỹ thuật phụ thuộc : Trình độ kỹ thuật. Công nghệ sử dụng để sản xuất sản phẩm Lợi thế của phát triển khoa học- công nghệ Sản phẩm luôn có các thuộc tính ngày càng hoàn thiện do tiến bộ KH- CN là không có giới hạn. Tiến bộ KH- CN tạo phương tiện điều tra, nghiên cứu KH chính xác, xác định đúng đắn yêu cầu của khách hàng. - Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia Là một trong các yếu tố của môi trường kinh doanh của doanh nghiệp – Môi trường pháp lý. Với những chính sách và cơ chế quản lý kinh tếàcó tác động trực tiếp và to lớn đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm của DN. Cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của các quốc gia Cơ chế quản lý KT tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư nghiên cứu nhu cầu, thiết kế sản phẩm. Tạo sức ép thúc đẩy DN phải nâng cao chất lượng thông qua cơ chế khuyến khích cạnh tranh. Môi trường lành mạnh, công bằng đảm bảo quyền lợi cho các DN đầu tư, cải tiến nâng cao năng suất, chất lượng. Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng. Kích thích DN đẩy mạnh đầu tư, nâng cao chất lượng. - Các yêu cầu về văn hóa, xã hội Yếu tố VH- XH có ảnh hưởng lớn đến yêu cầu của khách hàngàảnh hưởng chất lượng sản phẩm. Ảnh hưởng gián tiếp thông qua các quy định bắt buộc sản phẩm phải thỏa mãn các đòi hỏi phù hợp truyền thống, đạo đức, văn hóa, xã hội của công đồng dân cư. Chất lượng là các đặc tính thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng. Những đặc tính chất lượng chỉ thỏa mãn toàn bộ nhu cầu cá nhân nếu nó không ảnh hưởng lợi ích xã hội. àChất lượng phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường văn hóa xã hội của từng quốc gia. 2.3.2. Những nhân tố bên trong DN - Trình độ quản lý Lãnh đạo DN Quản lý chất lượng dựa trên quan điểm hệ thống. Một DN là một hệ thống trong đó có sự phối hợp đồng bộ thống nhất giữa các bộ phận chức năng. àChất lượng hoạt động quản lý tác động trực tiếp đến hoạt động của DNàảnh hưởng chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà DN cung cấp. - Chất lượng đội ngũ lao động Con người có vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng phụ thuộc vào trình độ, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức và tinh thần hiệp tác trong sản xuất. Chất lượng không chỉ thỏa mãn khách hàng bên ngoài mà còn phải thỏa mãn khách hàng bên trong doanh nghiệp. Hình thành và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu về chất lượng là một nội dung cơ bản của quản lý chất lượng trong giai đoạn hiện nay. - Hệ thống trang thiết bị, máy móc, công nghệ Trình độ hiện đại máy móc thiết bị và quy trình sản xuấtàtác động lớn đến chất lượng sản phẩm. Quản lý thiết bị tốtàtạo điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. - Chất lượng nguyên vật liệu, dịch vụ đầu vào Cấu thành sản phẩm và hình thành các thuộc tính chất lượngà Chất lượng nguyên vật liệu quyết định chất lượng sản phẩm. Tính đồng nhất và tiêu chuẩn hóa NVL là cơ sở quan trọng để chất lượng sản phẩm ổn định. - Hệ thống cung ứng NVL Đảm bảo NVLàPhải tổ chức tốt hệ thống cung ứng cho quá trình sản xuất. Đảm bảo đúng chủng loại, chất lượng số lượng và quan trọng là cả thời gian. Hệ thống cung ứng tốtàCó sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa bên cung ứng và DN sản xuất. Tạo mối quan hệ tin tưởng, ổn định với nhà cung ứng là biện pháp quan trọng trong đảm bảo chất lượng NVL 3) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm 3.1. Đứng trên góc độ người tiêu dùng. Chất lượng “cảm nhận”. Chất lượng cảm nhận là chất lượng mà người tiêu dùng cảm nhận được từ tiêu dùng sản phẩm. Người tiêu dùng chỉ có thể cảm nhận được chất lượng sản phẩm thông qua quá trình đánh giá dựa trên các tính chất bề ngoài của sản phẩm như hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp, đặc điểm của quá trình sản xuất… Chất lượng “đánh giá”. Chất lượng đánh giá là chất lượng khách hàng có thể kiểm tra trước khi mua hàng. Có thể kiểm tra chất lượng sản phẩm thông qua các đặc tính tiêu dùng. Thông thường đó là những sản phẩm mà chất lượng của nó được đặc trưng bởi các chỉ tiêu mùi vị, màu sắc… Chất lượng “kinh nghiệm”. Chất lượng kinh nghiệm là chất lượng mà khách hàng chỉ chỉ thể đánh giá thông qua tiêu dùng sản phẩm. Trong điều kiện thiếu thông tin về sản phẩm mà sản phẩm lại không mang những đặc trưng đáp ứng đòi hỏi của chất lượng cảm nhận và đánh giá người tiêu dùng tìm đến phương pháp đánh giá chất lượng “ kinh ngiệm”. Chất lượng “tin tưởng”. Một số loại dịch vụ mang đặc trưng là khó đánh giá được chất lượng của nó ngay cả sau khi đã tiêu dùng chúng nên người tiêu dùng tìm đến chất lượng “tin tưởng”. Tức là, họ dựa vào tiếng tăm của doanh nghiệp cung cấp mà tin tưởng vào chất lượng của dịch vụ do doanh nghiệp đó cung cấp. Như vậy, với mỗi một loại sản phẩm khác nhau người tiêu dùng có các cách đánh giá chất lượng khác nhau dựa trên cảm tính của người tiêu dùng, uy tín của doanh nghiệp, hình thức của sản phẩm… Hơn nữa chất lượng của sản phẩm còn phụ thuộc vào sự hiểu biết của người tiêu dùng về sản phẩm. 3.2. Đứng trên góc độ của nhà sản xuất Chất lượng sản phẩm thường được đánh giá trên cả ba phương diện là Marketinh, kỹ thuật và kinh tế. Trên cơ sở đó mà nhà sản xuất đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua các chỉ tiêu, thông số kinh tế kỹ thuật cụ thể. Đó bao gồm các tiêu thức: Các thuộc tính kỹ thuật phản ánh công dụng, chức năng của sản phẩm. Nhóm này đặc trưng cho các thuộc tính xác định chức năng tác dụng chủ yếu của sản phẩm được quy định bởi các chỉ tiêu kết cấu vật chất, thành phần cầu tạo và đặc tính về cơ – lý - hóa của sản phẩm. Các yếu tố này được thiết kế theo những tổ hợp khác nhau tạo ra chức năng đặc trưng cho hoạt động của sản phẩm và hiệu quả của quá trình sử dụng sản phẩm đó. Các yếu tố thẩm mỹ đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức, dáng vẻ, kết cấu, kích thước, sự hoàn thiện, tính cân đối, màu sắc trang trí, tính thời trang…. Tuổi thọ của sản phẩm. Đây là yếu tố đặc trưng cho tính chất của sản phẩm giữ được khả năng làm việc bình thường theo đúng tiêu chuẩn thiết kế trong một thời gian nhất định trên cơ sở đảm bảo đúng các yêu cầu về mục đích, điều kiện sử dụng và chế độ bảo dưỡng quy định. Tuổi thọ là một yếu tố quan trọng trong quyết định lựa chọn mua hàng của người tiêu dùng. Độ tin cậy được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất phản ánh chất lượng của sản phẩm và đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng duy trì và phát triển trên thị trường. Độ an toàn của sản phẩm. Những chỉ tiêu an toàn trong sử dụng sản phẩm, an toàn đối với sức khỏe người tiêu dùng và môi trường là yếu tố tất yếu, bắt buộc đối với mỗi sản phẩm trong điều kiện tiêu dùng hiện nay. Thuộc tính này đặc biệt quan trọng đối với những sản phẩm trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng như: thực phẩm ăn uống, thuốc chữa bệnh…Khi thiết kế, chế tạo hay sản xuất sản phẩm thì nhà sản xuất phải đặc biệt quan tâm tới yếu tổ này bởi đặc tính này quyết định sản phẩm đó có được chấp nhận- tiêu dùng trên thị trường hay không. Tính tiện dụng phản ánh những đòi hỏi về tính sẵn có, tính dễ vận chuyển, bảo quản, dễ sử dụng của sản phẩm và khả năng thay thế khi có những bộ phận nào bị hư hỏng. Mức độ gây ô nhiễm môi trường. Cũng giống như độ an toàn, mức độ gây ô nhiễm môi trường được coi là yếu tố bắt buộc của các nhà sản xuất phải tuân thủ khi đưa sản phẩm của mình ra thị trường. Tính kinh tế của sản phẩm: đây là yếu tố rất quan trọng đối với những sản phẩm khi sử dụng có tiêu hao nguyên liệu, năng lượng. Tiết kiệm nhiên liệu, năng lượng trong sử dụng là một trong những yếu tố quan trọng phản ánh chất lượng sản phẩm và khả năng cạch tranh của các sản phẩm trên thị trường. Ngoài những tiêu thức hữu hình trên thì các yếu tố vô hình như: tên sản phẩm, nhãn hiệu, thương hiệu, danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp…cũng thể hiện chất lượng sản phẩm, chúng tác động tới tâm lý mua hàng của người tiêu dùng. Và ngày nay khi mà thì trường có rất nhiều loại sản phẩm tiêu dùng gần giống nhau được sản xuất bởi các nhà sản xuất khác nhau thì yếu tố dịch vụ đi kèm đặc biệt và dịch vụ bán hàng và sau bán hàng trở thành nhân tố quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định tiêu dùng sản phẩm của khách hàng. Trong mỗi sản phẩm các tiêu thức trên có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, nhưng vai trò của các tiêu thức là khác nhau, nó phản ánh đặc trưng, chất lượng của từng loại sản phẩm đó. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng sản phẩm cần phải lựa chọn các tiêu chí quan trọng, cân đối giữa các yếu tố để sản phẩm được đánh giá đúng chất lượng. Phần II : Thực trạng chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam Đặc điểm các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam Hiện nay,trên cả nước có khoảng 700 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản.Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản lớn hiện nay có thể kể đến như Công ty CP Thủy sản Hùng Vương, Công ty CP Nam Việt, Công ty CP xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre, Công ty CP thủy hải sản Minh Phú và Công ty CP XNK Thủy sản An Giang… Mỗi doanh nghiệp thì có nhiều đặc điểm,tuy nhiên có thể điểm ra những đặc điểm chung của doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam hiện nay : - Quy mô nhỏ lẻ. - Kinh doanh thiếu tính chiến lược. - Công nghệ chế biến và bảo quản chưa cao. - Sảm phẩm kém tính cạnh tranh. - Năng lực quản lý điều hành kém thực tế,chậm tìm ra giải pháp tháo gỡ tình thế… Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam 2.1) Những quy định chung về chất lượng thủy sản Thủy sản là một ngành kinh tế cung cấp các sản phẩm thực phẩm cho người tiêu dùng nên điều kiện quan trọng về sản phẩm khi cung ứng ra thị trường là sản phẩm phải đảm bảo chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng. Theo điều 2 quyết định số 07/2005/QĐ-BTS của Bộ trưởng Bộ thuỷ sản về việc ban hành danh mục hoá chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thuỷ sản quy định: “Không được phép trộn lẫn quá 02 loại hoạt chất kháng sinh trong 01 sản phẩm thuốc, hóa chất; không cho phép trộn lẫn các hoạt chất cùng nhóm Fluoquinolone với nhau. Trong trường hợp một sản phẩm có chứa 02 loại hoạt chất kháng sinh, cơ sở sản xuất phải có đủ bằng chứng khoa học và thực tiễn để đảm bảo việc trộn lẫn không làm giảm tính năng tác dụng của từng loại và không làm phát sinh tác dụng xấu đối với động vật nuôi và môi trường….”. Tại khoản a điều 6 chỉ thị số 03/2005/CT- BTS ban hành ngày 07/03/2005 của Bộ trưởng Bộ thuỷ sản về việc tăng cường kiểm soát dư lượng hoá chất, kháng sinh có hại trong hoạt động thuỷ sản có ghi: “Các doanh nghiệp chế biến thủy sản cần tăng cường kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm trong toàn bộ quá trình sản xuất từ nguyên liệu đến thành phẩm. Tuân thủ nghiêm túc các quy định của Bộ thủy sản về kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thủy sản, đặc biệt là kiểm sóat dư lượng các loại hóa chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng”. Tuy nhiên, thuỷ sản là ngành tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia nên ngoài việc đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm trong nước thì sản phẩm thuỷ sản còn phải đáp ứng các yêu cầu về chất lượng khi xuất khẩu sang thị trường bạn. Đặc biệt là thị trường EU, Canada, Mỹ, Nhật- những thị trường được cho là “kỹ tính” về an toàn thực phẩm. Điều 6 chỉ thị số 03/2005/CT- BTS có quy định: - Tại khoản b: “Tuyệt đối không được sử dụng nguyên liệu thuỷ sản không rõ nguồn gốc vào chế biến các lo hàng xuất khẩu vào EU, Canada và những thị trường có yêu cầu tương đương. Từng lô nguyên liệu nhập vào nhà máy phải có phiếu kiểm tra hoá chất, kháng sinh. Trong trường hợp chưa có phiếu kiểm tra, phải lấy được mẫu kiểm tra để biết chắc lô nguyên liệu đó không chứa kháng sinh cấm (đặc biệt là Malachite Green)”. - Tại điều c: “Các lô hàng thuỷ sản nuôi xuất khẩu vào EU, Canada, và các thịt trường có yêu cầu tương đương phải được chứng nhận không nhiễm dư lượng hoá chất, kháng sinh, đặc biệt là Malachite Green, Leucomalachite Green”. Đó là một vài yêu cầu, quy định của Bộ thuỷ sản, của Chính phủ … về các tạp chất, kháng sinh,… không được lẫn trong sản phẩm thủy sản. Còn về phía các thị trường nhập khẩu, họ có những yêu cầu rất cao về chất lượng thuỷ sản nhập khẩu. Với Mỹ, luật pháp Mỹ quy định: thực phẩm sạch và tươi, an toàn khi sử dụng, được sản xuất trong các điều kiện về sinh tốt, được ghi nhãn và đóng gói đúng, đầy đủ thông tin và không gây nhằm lẫn cho người tiêu dùng. Các nhà sản xuất phải có và đăng ký thực hiện kế hoạch HACCP, phải đăng ký với Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ… Còn để được vào thị trường EU, các nhà sản xuất, chế biến phải tuân thủ các quy định bắt buộc và tự nguyện của EU, và của từng thành viên EU. Để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng EU quy định “cấm” sử dụng 16 loại hoá chất trong đó có chloramphenicol và nitrofuran trong thực phẩm tức là “dư lượng kháng sinh bằng 0”, thực tế EU cho phép dư lượng đó dưới 0,3 là đạt yêu cầu…. Hiện nay, thuỷ sản đang đứng trước khó khăn phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật mới từ phía nhà nhập khẩu, đặc biệt là luật mới: Luật IUU (Quy định về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định) bắt đầu có hiệu lực từ 1.1.2010. Theo luật này, các sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu vào EU phải có giấy chứng nhận đánh bắt. Cơ quan chức năng của nước có tàu đánh bắt phải xác nhận thuỷ sản đánh bắt được trên tàu là phù hợp với quy định của pháp luật và các quy định quốc tế về quản lý vào bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản. Đặc biệt, luật nêu rõ các quốc gia thành viên EU phải áp dụng việc xử phạt ở mức tối thiểu gấp 5 lần giá trị của sản phẩm thuỷ sản sai phạm thu hồi được khi phát hiện vi phạm quy định nói trên… 2.2. Thực trạng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam hiện nay 2.2.1. Nguồn nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản Về khai thác nguồn lợi thủy sản: Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển khoảng 4,2 triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn / năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương. Hàng năm cho khả năng khai thác tối đa 1.670 triệu tấn; cùng với cá biển, nguồn lợi tôm biển có trữ lượng 58 ngàn tấn, cho khả năng khai thác tối đa 29 ngàn tấn; với mực các loại, số tương ứng là 123 ngàn tấn và 50 ngàn tấn… Sản lượng khai thác hải sản tuy không tăng nhiều qua các năm, nhưng cơ cấu sản phẩm khai thác có sự thay đổi theo yêu cầu của thị trường nhất là cho xuất khẩu, ngư dân đã chuyển dần từ việc khai thác theo số lượng, khai thác ven bờ, hướng sang khai thác những đối tượng có giá trị xuất khẩu và khai thác xa bờ. Bên cạnh đó việc bảo quản sau thu hoạch cũng được quan tâm thêm một bước. Nhiều nơi, ngư dân đã đầu tư tàu hậu cần dịch vụ để phục vụ cho tàu khai thác hải sản xa bờ bám biển dài ngày hơn, giảm chi phí đi về, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu trong sản lượng khai thác đã tăng từ dưới 20% năm 1998 lên khoảng 27% vào năm 2003. b. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản được xác định là nguồn chính cung cấp nguyên liệu cho Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản , cho an ninh thực phẩm, xoá đói giảm nghèo và là ngành có nhiều tiềm năng để phát triển nhanh trong thời gian tới. Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90, nuôi trồng thuỷ sản đã bắt đầu khởi sắc, tuy nhiên, phải đến 4 năm gần đây nuôi trồng thuỷ sản mới thực sự có bước phát triển mới cả về diện tích nuôi lẫn phương thức và đối tượng nuôi. Năng suất và sản lượng liên tục tăng lên, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn và ven biển, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển nông thôn, giảm sức ép gia tăng cường lực khai thác hải sản. Đối tượng nuôi được mở rộng, trong đó đã chú ý nuôi các đối tượng có giá trị xuất khẩu: tôm sú, tôm hùm, tôm càng xanh, cá tra, ba sa, cá song... Tuy nhiên, đối tượng chính để xuất khẩu vẫn tập trung vào tôm sú, cá tra, ba sa. Các đối tượng khác chỉ nuôi ở mức sản lượng thấp cho tiêu dùng trong nước, giá thành sản xuất cao. 2.2.2. Các cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp chế biến thuỷ sản Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản ngày một phát triển cả về công suất và công nghệ chế biến, tạo thế chủ động hơn về thị trường, nâng cao hiệu quả chế biến xuất khẩu thuỷ sản, đến nay đã có 171 đơn vị xuất khẩu đi EU, gần 300 đơn vị áp dụng HACCP đủ điều kiện xuất khẩu Mỹ và các thị trường lớn khác. Chính thành công đó đã tạo niềm tin để hình thành một sự đổi mới lớn trong hầu hết các cơ sở chế biến thuỷ sản. Một số đơn vị được cơ quan kiểm tra chất lượng hải sản của Hoa Kỳ cấp chứng chỉ HACCP, tạo điều kiện để sản phẩm của các đơn vị này trực tiếp đi vào hệ thống các siêu thị, nhà hàng của các tập đoàn lớn của Mỹ như Cotsco, Sysco 2.3. Thành tựu Chế biến thủy sản là lĩnh vực có nhiều thay đổi, các nhà máy chế biến của Việt Nam đạt trình độ khu vực và được phép cung cấp sản phẩm vào các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Mỹ… Lĩnh vực an toàn vệ sinh thủy sản được cải thiện nhiều qua các hoạt động hỗ trợ quốc tế với nhiều nước mà trước tiên là Chương trình quản lý chất lượng thủy sản HACCP được giới thiệu và áp dụng thành công ở Việt Nam từ những năm đầu của thấp kỉ 90. Nhiều phòng thí nghiệm ở địa phương, trong đó có 6 trung tâm vùng thuộc NAFIQAVED- Cục Quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thú y thủy sản Việt Nam- cũng được hỗ trợ trang thiết bị tiên tiến để kiểm tra chất lượng theo HACCP, đồng thời tạo điều kiện để áp dụng Quy trình phân tích dư lượng kháng sinh và hóa chất. Các thỏa thuận về công nhận hệ thống kiểm tra chất lượng song phương với Hàn Quốc, Trung Quốc đã chứng tỏ uy tín của hệ thống kiểm tra chất lượng hàng thủy sản của Việt Nam. Đặc biệt, nhiều cán bộ của Việt Nam đã được đào tạo về các phương pháp kiểm tra chất lượng, phân tích dư lượng kháng sinh…. Đến nay cả nước có khoảng 700 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu, trong đó có 171 doanh nghiệp được xếp vào danh sách 1 xuất khẩu vào EU, 300 doanh nghiệp áp dụng quy trình quản lý chất lượng sản phẩm theo HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 222 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Hàn Quốc, 295 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Trung Quốc… Chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều và đang dần ngang tầm với các nước lớn trên thế giới. Đó là sự cố gắng của toàn ngành thuỷ sản, từ các cơ quan quản lý chất lượng thuỷ sản tới các nhà máy chế biến và ở thành tựu đó có một phần không nhỏ của những người nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản. Họ đã tạo ra nguồn nguyên liệu thuỷ sản sạch cho công tác chế biến rồi từ đó cung ứng sản phẩm sạch ra thị trường. Tất cả tạo nên một hệ thống chất lượng thuỷ sản ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hiện nay các doanh nghiệp chế biến thủy sản còn tồn tại những yếu kém về chất lượng sản phẩm thủy sản 2.4. Những tồn tại về chất lượng sản phẩm thủy sản ở Việt Nam Chất lượng và an toàn vệ sinh nguyên liệu thủy sản vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của thị trường, công tác quản lý đối với khu vực sản xuất và thương mại ở khâu trước chế biến thể hiện nhiều bất cập. Hậu quả là chất lượng sản phẩm thủy sản của Việt Nam chưa ngang tầm với thế giới, xuất khẩu tuy vẫn tăng hàng năm nhưng tỷ lệ tăng trưởng không ổn định và tiềm ần nhiều nguy cơ. Các doanh nghiệp khi xuất khẩu thủy sản còn lo lắng khi mà không biết sản phẩm thủy sản của doanh nghiệp mình có đáp ứng được yêu cầu cầu của thị trường nhập khẩu hay không. Chất lượng thuỷ sản xuất khẩu luôn là mối quan tâm trong công tác chỉ đạo sản xuất kinh doanh của ngành. Hiện nay vấn đề lớn nhất đối với chất lượng sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đó là nguyên liệu thuỷ sản có lẫn tạp chất hoá học và việc sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh trong nguyên liệu thuỷ sản. Về thực trạng thuỷ sản nhiễm tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Đã xuất hiện hoạt động gian lận thương mại nhằm kiếm lời bất chính từ năm 1983- 1995, bắt đầu từ việc đưa đinh hoặc chì vào thân tôm tại 3 tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu. Vào những năm 1996- 1997 tình trạng bơm các loại chất lỏng vào nguyên liệu tôm bắt đầu xuất hiện và lan nhanh đến mức trở thành phổ biến ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trước tình hình đó, Thanh tra các bộ, Vụ kỹ thuật và trung tâm KCS đã tăng cường kiểm tra, kiểm soát rất chặt chẽ. Nhưng chỉ được một thời gian thì tình trạng trên lại tiếp tục và ngày càng phát triển tinh vi hơn, có tổ chức riêng và sử dụng những chất khó phát hiện hơn. Trên thực tế, cũng đã nảy sinh hiện tượng các tổ liên ngành của địa phương lợi dụng quyền hành làm sai hoặc thông đồng kiềm lợi nên đã gây phiền hà và thiệt hại kinh tế cho các đại lý nguyên liệu, mặt khác do công tác đấu tranh chống tệ nạn này đạt hiệu quả không cao, không kiểm soát liên tục nên vấn nạn trên chưa được khắc phục. Về việc sử dụng hoá chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng trong nguyên liệu thuỷ sản. Việc sử dụng hoá chất kháng sinh để phòng bệnh cho vật nuôi là yêu cầu của nghề nuôi thuỷ sản. Cùng với sự phát triển của khoa học và sự gia tăng mối quan tâm về bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng thực phẩm, ngày càng có nhiều loại hoá chất kháng sinh được các nước phát triển đưa vào danh sách cấm và hạn chế sử dụng, điển hình là chính sách “dư lượng bằng không” của EU. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường, Bộ thuỷ sản đã ban hành nhiều văn bản quy định các hoá chất kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng, xuất Thủ tướng Chính phủ họp để thống nhất giải pháp quản lý việc nhập khẩu, buôn bán và sử dụng hoá chất kháng sinh. Tháng 3 năm 2005, Bộ thuỷ sản đã ký chỉ thị số 03/2005/CT-BTS về việc tăng cường kiểm soát dư lượng hoá chất, kháng sinh có hại cho hoạt động thuỷ sản. Đồng thời, Bộ cũng đã ban hành Quyết định số 07/2005/ QĐ- BTS về danh mục 17 hoá chất kháng sinh cấm sử dụng và 34 hoá chất, kháng sinh hạn chế sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh thuỷ sản. Mặc dầu vậy, tình trạng sử dụng hoá chất, kháng sinh bị cấm và hạn chế sử dụng vẫn còn dai dẳng, gây nhiều bức xúc trong dư luận và đã tác động xấu đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. Đầu năm 2005, thị trường EU đã phát hiện 30 lô hàng bị nhiễm malachite green và leucomalachite green, 2 lô hàng nhiễm fluoroquinolone; thị trường Canada phát hiện 48 lô hàng nhiễm malachite green và leucomalachite, 5 lô hàng nhiễm fluoroquinolone. Tại thị trường Hoa Kì, qua kiểm tra của Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho thấy hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam có tỷ lệ nhiễm hoá chất, kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng. Đến tháng 11/2005 đã có 9 lô hàng nhiễm chloramphenicol, 7 lô hàng nhiễm malachite green và leuco -malachite green, 7 lô hàng nhiễm fluoroquinolone. Từ khi Nhật Bản áp dụng lệnh kiểm tra 100% đối với mặt hàng mực của Việt Nam cừ cuối tháng 7/2005, chỉ trong vòng tháng 8, Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản lại liên tiếp phát hiện thêm gần 10 trường hợp khác của 7 doanh nghiệp có lô hàng có dư lượng chloramphenicol và có vi trùng đường ruột, những chất không được phép có trong thực phẩm theo Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật. Điều này đồng nghĩa với việc buộc các doanh nghiệp xuất khẩt Việt Nam phải thu hồi hoặc tiêu huỷ tại chỗ các lô hàng này. Tổng cộng là 20 tấn mực đông lạnh. Đến cuối năm 2005, chất lượng các lô hàng xuất khẩu đã được cải thiện. Tuy nhiên, số lô hàng đi EU vẫn được duy trì kiểm soát dư lượng kháng sinh chloramphenicol (CAP), nitrfurans (NTRs) và malachite Green (MR), leucoma- lachite green (LMG). Tại thị trường Hoa Kì, thông qua hoạt dộng kiểm tra chứng nhận đối với các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ, NAFIQAVED đã thực hiện kiểm tra 995 lô hàng (14.473 tấn) phát hiện 12 lô không đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm xuất khẩu, chủ yếu do bị phát hiện dư lượng MG, LMG,CAP, trong đó có 3 lô cá basa, 9 lô tôm đông lạnh. Tại thị trường Canada, NAFIQAVED đã thực hiện kiểm tra và cấp giấy chứng nhận đẻ xuất khẩu vào Canada cho 191 lô hàng (2,739 tấn) và phát hiện 1 lô tôm đông lạnh có chứa dư lượng CAP. Thức ăn, thuốc, hoá chất cung ứng cho nuôi trồng thủy sản ngày càng phong phú về chủng loại, đã có nhiều cải thiện tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi lựa chọn. Tuy nhiên, việc quản lý đối với các cơ sở sản xuất thức ăn, cơ sở kinh doanh thuốc, hoá chất còn nhiều bất cập. Tình trạng người nuôi trồng thuỷ sản tuỳ tiện sử dụng thuốc, hóa chất bị cấm vẫn xảy ra gây ảnh hưởng không tốt đến chất lượng sản phẩm thuỷ sản. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sản phẩm thuỷ sản bị nhiễm hoá chất, kháng sinh. Đánh giá chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản ở Việt Nam Là một mặt hàng tiêu thụ trên thị trường, sản phẩm thuỷ sản chủ yếu được dùng làm thực phẩm, chất lượng của sản phẩm thuỷ sản được đáng giá trên cả hai phương diện người tiêu dùng và cả nhà sản xuất. Người tiêu dùng đánh giá chất lượng thuỷ sản thông qua việc tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản trong đó chất lượng “tin tưởng” thường được dùng làm chỉ tiêu đánh giá. Thực tế người tiêu dùng cũng không am hiểu nhiều về các thành phần có trong thực phẩm tiêu dùng, họ không biết nhiều về các chất có hại cho sức khoẻ có thể lẫn trong thực phẩm do vậy khi tiêu dùng khách hàng chủ yếu dựa vào danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp cung cấp sản phẩm trên thị trường. Còn việc cung cấp sản phẩm sạch như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào “cái tâm của nhà sản xuất”. Sản phẩm thuỷ sản sạch, đảm bảo an toàn cho sức khoẻ người tiêu dùng sẽ đem lại lòng tin, độ tin cậy cho người tiêu dùng. Đó là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng thuỷ sản. Đứng trên góc độ của nhà sản xuất, chất lượng thuỷ sản được đáng giá qua các chỉ tiêu: độ tin cậy, độ an toàn khi tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản và mức độ gây ô nhiễm môi trường. Qua thực trạng về chất lượng thuỷ sản nói trên có thể thấy chất lượng thuỷ sản Việt Nam nhìn chung chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng của các thị trường tiêu thụ, thuỷ sản cung cấp chưa đem lại lòng tin với các nhà nhập khẩu. Đó là còn tồn tại nhiều lô hàng còn dư lượng kháng sinh, hoá chất… những chất được coi là ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Tuy thực trạng trên đã giảm nhưng các nhà nhập khẩu vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào chất lượng thuỷ sản Việt Nam nên vẫn kiểm tra các lô hàng nhập khẩu. Đến tháng 10/2006 Nhật công vố tăng cường biện pháp kiểm tra tôm nhập khẩu từ phía Việt Nam với mức độ kiểm tra 50% thay vì trước đó chỉ có 5%, Mỹ và Canada chỉ công nhận thuỷ sản được nhập khẩu sau khi đã qua kiểm tra tại Cục quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thuỷ sản Việt Nam- Naviqaved,… Phần III : Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam. Đối với doanh nghiệp: Thứ nhất: Năng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản bằng các biện pháp: - Đầu tư nâng cao thiết bị máy móc ở ngay khâu đánh bắt, bảo quản sản phẩm ở khâu chế biến. - Phổ biến giống và công nghệ nuôi trồng thuỷ sản tiến tiến để đảm bảo sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kinh nghiệm nuôi trồng cho thấy sử dụng nguồn nước ô nhiễm, sử dụng các chất kích thích đều làm khó các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu. - Các công ty thuỷ sản nên lập các phòng phát triển sản phẩm, phòng này có chức năng tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị trường đồng thời kiểm tra được chất lượng sản phẩm. - Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sao cho để tăng giá trị xuất khẩu. - Liên doanh đầu tư với nước ngoài nhằm tăng nguồn vốn đầu, cải thiện kỹ thuật tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị trường. - Trong chế biến thủy sản: + Cần kiểm tra chất lượng nguyên liệu thuỷ sản đầu vào nhằm đảm bảo ngay từ đầu chất lượng sản phẩm. Xây dựng hệ thống HACCP trong quá trình sản xuất nhằm giảm chi phí, đồng thời giảm giá sản phẩm nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường và làm tăng khả năng xuất khẩu khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận HACCP. + Áp dụng tiêu chuẩn vùng nuôi an toàn, mô hình nuôi sạch và hướng dẫn người nuôi thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm .Tăng cường kiểm tra chất lượng, kiểm dịch giống, thức ăn, thuốc phòng bệnh cho tôm cá .Đối với các hộ nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu các mô hình tổ chức hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nuôi trồng theo cộng đồng để cùng nhau quản lý tốt về thức ăn, chế phẩm sinh học, sử dụng thuốc kháng sinh, quản lý môi trường… Thứ hai: Nâng cao tính cạnh tranh về giá cả sản phẩm. - Tổ chức bảo quản sản phẩm ngay sau khâu thu hoạch để giảm lượng hàng thuỷ sản bị mất phẩm chất, bị trả lại khi xuất khẩu. - Nâng cao hiệu quả, sử dụng công xuất của các nhà máy chế biến ổn định. - Phối hợp tổ chức sản xuất phụ từ phế liệu của ngành hải sản làm kèm: nước mắm, mắm,… đây cũng là biện pháp làm giảm giá thành sản phẩm. - Tận dụng giá nhân công rẻ để tạo ra những sản phẩm tinh chế có thể sử dụng được ngay. Thứ ba: Quản lý an toàn nguyên liệu thuỷ sản nhằm cung cấp nguyên liệu sạch cho chế biến - Chủ động hơn với những yêu cầu của các nước nhập khẩu thuỷ sản nhằm cung cấp những thông tin kịp thời cho các công ty chế biến cũng như người nuôi trồng thuỷ sản để khi xuất khẩu hàng các doanh ngiệp không phải lo lắng: “Không biết sản phẩm của doanh nghiệp mình có đáp ứng được tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu không?”. - Quản lý, kiểm tra chặt chẽ quá trình sản xuất, chế biến sản phẩm cũng như trong kiểm tra nguyên liệu trước khi đưa vào chế biến, tránh kiểm tra sản phẩm ở khâu cuối cùng - thực hiện tốt quan điểm kiểm soát hệ thống. Kiến nghị với Nhà nước Chính sách về quản lý chất lượng sản phẩm - Nhanh chóng phân cấp thẩm quyền, tập trung xây dựng năng lực các cơ quan kiểm soát địa phương để đủ sức đảm nhận việc quản lý toàn bộ các khâu sản xuất và kinh doanh nguyên liệu thuỷ sản khu vực trước chế biến - Huy động các phương tiện thông tin đại chúng trên địa bàn từng tỉnh và vận động, giáo dục đấu tranh chống các hành bi gian lận, bơm chích tạp chất hoặc vi phạm các tiêu chuẩn, quy định về an toàn thực phẩm. - Xây dựng các tiêu chuẩn, các quy định về trình tự thủ tục kiểm tra công nhận để đưa vào hướng đẫn thực hiện, sớm cửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về sử phạt hành chính phù hợp với thực tiễn. 2.2 ) Xây dựng chương trình phát triển bền vững Trong chương trình hành động quốc gia về phát triển bền vững ngành Thuỷ sản giai đoạn 2010-2012, ngành đã đặt ra hàng loạt giải pháp, mục tiêu cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng đến an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và thương mại thuỷ sản. Mục tiêu mà ngành Thủy sản đặt ra đến năm 2012 là đảm bảo 90% cá tra và tôm nuôi có thể truy nguồn gốc xuất xứ; 70% thuỷ sản khai thác có nhật ký theo dõi, 90% cơ sở chế biến thuỷ sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng. Bởi vậy, để đảm bảo mục tiêu này, bên cạnh việc phổ biến kịp thời các thông tin hội nhập WTO và quốc tế về an toàn dịch bệnh, thực phẩm và thương mại thuỷ sản ngành sẽ lên chương trình phát triển cụ thể, ưu tiên đầu tư các sản phẩm chủ lực như: tôm, cá tra, cá ngừ, nhuyễn thể… Cùng với đó, ngành Thủy sản sẽ hỗ trợ về kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng và an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu cung cấp giống và thức ăn, nuôi thuỷ sản, thu hoạch, xử lý, chế biến và phân phối sản phẩm…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26225.doc
Tài liệu liên quan