Hình thành và không ngừng bổ xung danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN và tiến hành xúc tiến đầu tư có địa chỉ theo lộ trình thích hợp, trong đó xác định rõ yêu cầu về đối tác dự án, sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi cần thiết.
Lập kế hoạch chương trình xúc tiến đầu tư hàng năm cho từng lĩnh vực, địa bàn, đối tác cụ thể; tổ chức các cuộc hội thảo, đối thoại với nhà đầu tư và trao đổi kinh nghiệm xúc tiến vận động đầu tư. Thúc đẩy mạnh việc vận động xúc tiến đầu tư hướng vào các thị trường trọng điểm, các đối tác có tiềm lực về công nghệ, tài chính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hàn Quốc.
Tổ chức tốt hệ thống Marketing về ĐTNN tại Việt Nam để giúp các nhà đầu tư, các DN, các nhà quản lý và lao động nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến FDI theo giác độ của mình, kể cả tuyên truyền luật pháp chính sách, tình hình ĐTNN tại Việt Nam. Đặc biệt coi trọng nghiên cứu xu hướng phát triển của thị trường vốn đầu tư trên thế giới; chính sách đầu tư của các khối, các nước, các tập đoàn Cty lớn để có đối sách thích hợp đối với hoạt động thu hút FDI, cần chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn vốn từ các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mỹ, Tây Âu. để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại.
Ngoài ra, đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù, tăng cường áp dụng hình thức đầu tư mới có sử dụng vốn ĐTNN như BOT/BTO/BT, PPP. trong đầu tư xây dựng các công trình kết cầu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ,nhằm xúc tiến một số dự án lớn, trọng điểm (Khu công viên công nghệ sinh học, Trung tâm công nghệ thông tin - xử lý dữ liệu.).
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2017 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến nguồn vốn FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài sự an tâm về sở hữu và quyền chai…)
3.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm hệ thống pháp luật về đầu tư và các chính sách quan trọng như chính sách thương mại, chính sách tiền tệ, các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ
Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư bao gồm các văn bản luật, các văn bản quản lí hoạt động đầu tư ( như hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lí các hoạt động đầu tư…) nhằm tạo lên hành lang pháp lí đồng bộ thuận lợi nhất cho hoạt động FDI.
Các quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia ( đảm bảo pháp lí đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đẩu tư được dễ dàng ). Nội dung của hệ thống của luật ngày càng đồng bộ chặt chẽ, không chồng chéo, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn FDI càng cao.
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa, để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các mày móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như sản phẩm tức đảm bảo sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà ĐTNN
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỉ giá tác động trực tiếp đến dòng chày của FDI với tư các là các yếu tố quyết định giá trị đẩu tư vào mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của dòng vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỉ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đẩu tư, đồng thời lại tỉ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong – ngoài nước, trong – ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rui ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đẩu tư cao làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỉ giá hối đoái linh hoạt phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ơ từng giai đoạn, thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đẩu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống
Các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ dành cho đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án đầu tư có tỉ lệ vốn nước ngoài cao
3.4. Cơ sở hạ tầng xã hội
Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mĩ, đạo đức… là những yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, chúng có tác động không nhỏ đến hoạt động thu hút vốn ĐTNN.
Sự bất đông về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả khôn lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà ĐTNN. Các nhà ĐTNN sẽ không muốn đàu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác nhau, nhiều lễ hội, nhiều điều kiêng kỵ bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động kinh doanh.
Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là yếu tố quan trọng để chủ ĐTNN chọn các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Một ngân hang của Anh thiết kế màu xanh lá cây trong biểu tượng của mình, nhưng khi đặt chi nhánh tại Singapore đã phải thay đổi màu bởi ở nước này màu xanh lá cây bị coi là màu tang tóc.
4. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một số nước
4.1. Kinh nghiệm thu hút vốn của Trung Quốc
Trung quốc có diện tích 9,6 triệu km2, dân số đến năm 2006 là 1300 triệu người. trước đây, nền kinh tế trung quốc rất thấp kém và khủng hoảng trầm trọng nhưng từ năm 1987 bắt đầu thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế trong đó đặc biệt coi trong thu hút FDI nên đã có những bước phát triển với tốc độ cao. Sau gần 30 năm cải cách và mở cửa Trung Quốc đã đạt được những thành tựu thu hút FDI khiến thế giới phải chú ý, nhất là sau khi trớ thành thành viên của WTO. Để làm được điều đó Trung Quốc đã có nhiều biện pháp nhằm cải thiện môi trường trong nước thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là:
a. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo đồng bộ, minh bạch, thông thoáng.
Năm 1979 bộ luật đầu tư hợp tác quốc tế được ban hành. Luật lien doanh nước ngoài, luật doanh nghiệp hợp tác nước ngoài và nhiều văn bản quy đinh, hướng dẫn được ban hành. Năm 2000 Trung Quốc đã sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, thường xuyên rà soát và tiến hành bãi bỏ hoặc sửa đổi những văn bản không còn phù hợp. các văn bản pháp luật được sửa đổi bổ sung hay ban hành mới đều đảm bảo tính thực thi nghiêm túc, dễ hiểu,và thống nhất cả về từ ngữ và dịch thuật ra tiếng nước ngoài; đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài không bịn thay đổi hoặc bất lợi theo quy định mới; thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp luật; xóa bỏ những quy định có tính chất nội bộ, trái với quy định chung của nhà nước.
Trung Quốc cũng phân chia ngành nghề đầu tư thành bốn loại: khuyến khích, được phép, hạn chế và cấm. đến nay danh mục các ngành nghề được khuyến khích mở rộng từ 186 lên 262 khoản mục, trong khi đó ngành nghề hạn chế giảm từ 112 xuống còn 75. dặc biệt Trung Quốc tập chung thu hút đầu tư vào công nghệ phục vụ nông nghiệp, công nghệ cao, vận tải, năng lượng, vật liệu mới, các ngành cơ bản, bảo vệ môi trường…
b. Tăng cường các ưu đãi tài chính, tiền tệ.
Trung Quốc thực hiện chính sách ưu đãi thuế có khuyến khích cao. Tỉ lệ thuế thu nhập áp dụng chung cho doanh nghiệp FDI là 33%, nhưng nếu đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu CNC và khu vực ưu tiên khác thì chỉ 15%; đầu tư vào khu vực miền tây và miền trung được miễn trong 2 năm sau khi có lãi, và chỉ nộp 50% trong 6 năm tiếp theo; doanh nghiệp có công nghệ cao xuất khẩu vượt tỉ lệ quy định được giảm một nửa. doanh nghiệp mua thiết bị trong nước hoặc nếu thiết bị nhập khẩu thuộc danh sách miễn thuế thì cũng được giảm thuế thu nhập. từ 1/1/1994 doanh nghiệp FDI được áp dụng thuế doanh thu, thuế tiêu thụ và thuế kinh doanh tương tự như đối với doanh nghiệp trong nước. từ 1991 đến 2001, tỷ lệ thuế nhập khẩu đã được giảm 8 lần, chỉ còn 16,5 %.
Chính sách tiền tệ: doanh nghiệp FDI được cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối để mở tài khoản ngoại tệ ở các ngân hang trong nước hay các tổ chức tài chính ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc. doanh nghiệp FDI được quyền vay vốn từ các ngân hang trong nước với sự bảo lãnh của các cổ đông nước ngoài, bãi bỏ yêu cầu sử dụng ngoại tệ hoặc bảo lãnh bằng ngoại tệ của các ngân hàng khi giải quyết vay vốn của các doanh nghiệp FDI.
c. Đa dạng hóa các ngành, lĩnh vực vùng kinh tế trong thu hút FDI.
Giai đoạn đầu Trung Quốc chủ yếu mở cửa thu hút FDI vào các ngành công nghiệp nhẹ, ngành dệt, sau đó từng bước mở rộng sang lĩnh vực năng lượng, nguyên liệu thô, xây dựng cơ sở hạ tầng lĩnh vực dịch vụ mới như bán lẻ, ngoại thương, bảo hiểm, du lịch, tài chính được mở cửa. Trung Quốc liên tục mở rộng các ngành được khuyến khích thu hút FDI, tận dụng cơ hội gia nhập WTO để tăng thu hút FDI, trong đó chú trọng thu hút các TNCs đầu tư vào các ngành công nghệ cao, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và triển khai (R & D) Để giải quyết tình trạng thiếu cân đối giữa các vùng, Trung Quốc có chính sách khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn như miền Trung và miền Tây. Ngoài ra, Trung Quốc ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị trong khu vực này, cho phép các địa phương được sử dụng các biện pháp phù hợp để thu hút FDI.
Nhằm giảm bớt rủi ro Trung Quốc thực hiện mở cửa từng bước và vững chắc từng khu vực. lúc đầu thành lập 5 đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, Chu lai, Hải Nam, Hạ Môn và Sán Đầu ở tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Năm 1984, tiếp tục mở của 14 thành phố duyên hải, đầu những năm 1990 Phố Đông của Thượng Hải và một số thành phố của vùng châu thổ sông Hoàng Hà, Gia Đông và vùng phía trong lục địa cũng từng bước được mở cửa. tại các khu kinh tế Trung Quốc đầu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị, nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm công cộng. cho phếp mọi địa phương khai thác mọi khả năng để có vốn đầu tư cơ sở hạ tầng.
d. Khuyến khích tham gia vào quá trình tái cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước
Để đẩy mạnh việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc cho phép bán một phần cổ phiếu các doanh nhiệp nhà nước cho các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả doanh nghiệp nhà nước chủ chốt, trừ những doanh nghiệp đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc gia và kinh tế. ví dụ: ngân hàng Hoa Kỳ đã mua 9% của ngân hàng xây dựng Trung Hoa với số tiền 2,5 tỉ đô la Mỹ; ngân hàng hoàng Gia Scotlan mua 15% cổ phần của ngân hàng Trung Hoa lớn thứ hai Trung Quốc.
e. Tăng cường phân cấp và phát triển dịch vụ doanh nghiệp
Công tác quản lí doanh nghiệp FDI thực hiện theo từng cấp từ trung ương tới các tỉnh, thành phố, khu tự trị. Trung Quốc có các biện pháp ngăn ngừa các khoản chi phí bất hợp lí cho các doanh nghiệp, nghiêm cấm các hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hoặc áp đặt thuế hay xử phạt sai quy định. Thủ tục đầu tư được cải tiến đơn giản, từ chỗ phải có vài chục con dấu trước kia đến nay chỉ còn một dấu. quyền hạn cấp phép của cấp tỉnh cũng được mở rộng, chẳng hạn dự án thuộc loại khuyến khích và cho phếp trước đây cấp tỉnh chỉ được cấp phép với dự án không quá 10 triệu đô la Mỹ, sau nâng lên 30 triệu đô la Mỹ và hiện nay là 100 triện đô la Mỹ.
Các tỉnh, thành phố, khu tự trị thành lập ác trung tâm dịch vụ đầu tư nước ngoài theo cơ chế một cửa, từ tư vấn pháp lý, phê chuẩn dự án, thành lập doanh nghiệp với thủ tục khá đơn giản. nhiều địa phương đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư; cải cách quản lý nâng cao hiệu quả thông quan; tăng cường hiệu quả thu thuế và dịch vụ chuyển ngoại tệ; cải thiện cơ chế giải quyêt khiếu nại từ các doanh nghiệp FDI; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau.
4.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của Đài Loan
Đài loan là một trong bốn con rồng châu Á, quá trình phát triển kinh tế đã có những thành tựu nổi bật: từ năm 1953 đến 1997 bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm 8,7%.
Trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, Đài Loan cũng đã từng thu hút mạnh vốn ĐTNN. ĐTNN vào Đài Loan có những đặc điểm sau:
- Thương gia nước ngoài đầu tư vào Đài Loan có Hoa Kiều và người nước ngoài. Ngay từ năm 1952 đã có Hoa Kiều và đến năm 1954 chính phủ Đài Loan tuyên bố “điều lệ ĐTNN”. Năm 1955 ban bố “điều lệ đầu tư Hoa Kiều”. Hơn nửa thế kỉ qua, vốn đầu tư vào Đài Loan tăng nhanh nhất là thập kỷ 70-80.
Qua thực tế ở Đài Loan thấy quan hệ giữa quy mô vốn kinh doanh của người nước ngoài và quy mô đầu tư của họ chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm kỹ thuật cảu ngành sản xuất, kỹ thuật sản xuất được sử dụng và mức không chế cổ phần của họ. Nhà ĐTNN vào Đài Loan mục đích chung là thu lợi nhuận nhưng mỗi thời kỳ thể hiện khác nhau.
Nhìn chung Đài Loan có nhiều thuận lợi, hấp dẫn đầu tư, ít rủi ro kể cả rủi ro về chính trị.
- Hai yếu tố tiền lương và mức thu nhập quốc dân ở Đài Loan là lợi thế cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư vào Đài Loan vừa lợi dụng được cả hai yếu tố đó ở mức độ khác nhau trong từng thời kỳ phát triển khác nhau.
Vốn ĐTNN đã có những tác động ảnh hưởng trên một số mặt với mức độ khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở Đài Loan.
- Quá trình phát triển kinh tế của Đài Loan là không lệ thuộc vào vốn nước ngoài,vốn nước ngoài chỉ bổ sung một phần nhỏ nguồn vốn.
- Năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của vốn nước ngoài cao hơn trong nước, sức cạnh tranh cao hơn, đã có tác động lớn đối với xuất khẩu, tạo việc làm cho Đài Loan.
II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀO HÀ NỘI
1. Giới thiệu sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội
Hà Nội là thủ đô và là trung tâm kinh tế chính tri lớn nhất trong cả nước.
Theo số liệu thống kê năm 2007 Hà Nội có diện tích 920,97 km2, dân số là 3444,8 (nghìn người).
Trong giai đoạn 2000-2005, kinh tế đối ngoại của Hà Nội liên tục phát triển. Xuất khẩu tăng bình quân 15,3%/năm so với 11-12% trong 10 năm trước đó. Tổng kim ngạch đạt 10 tỷ USD, riêng năm 2005 tăng 23% lên 2,8 tỷ USD. Hà Nội đã mở quan hệ giao thương với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ..
Thành phố đã dặt ra mục đích tăng trưởng xuất khẩu 15-17%/năm cho giai đoạn 2006-2010.
Năm 2007 GDP : 42.695 tỷ đồng. Tốc độ tăng GDP 12,08%( cả nước là 8,44%), GDP bình quân đầu người 31,8 triệu đồng ( cả nước là 13,4 triệu đồng)
Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp FDI.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Đơn vị
Tổng thu ngân sách nhà nước
-trong nước
-ĐTNN
30748
27658
3090
38613
35148
3465
54441
48536
5905
tỷ đồng
FDI đóng góp vào GDP
Cơ cấu đóng góp
13.522
17,8
17.551
19,3
21.010
19,5
tỷ đồng
%
Các ngành dịch vụ, du lịch và bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố.
Trong lĩnh vực công nghiệp, Hà Nội đã xây hoàn chỉnh 9 khu công nghiệp và 11 cụm công nghiệp vừa và nhỏ( Năm 2005). Nhiều sản phẩm công nghiệp trong đó có một số sản phẩm mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp phần mềm, chế tạo khuôn mẫu..., đã đứng vững trên thị trường. Trong khi tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, nông nghiệp phải chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản tăng, ước tính đạt 56,2 triệu đồng/ha, thúc đẩy phát triển nông thôn và đời sống của nông dân.
Đầu tư tăng cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng các tuyến đường, nút giao thông quan trọng. Những năm qua, Hà Nội dẫn đầu cả nước về chỉ số phát triển con người, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp nhất (hiện còn dưới 1%) và cũng hoàn thành xóa hộ nghèo diện chính sách, thực hiện xóa phòng học cấp 4, phổ cập trung học cơ sở, chính sách khuyến học, khuyến tài được coi trọng.
Năm 2005 Hà Nội có 54 trường đại học, cao đẳng; năm 2006 là 58 và 2007 là 58. Với số lượng đó hiện Hà Nội đang nắm giữ một lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao.
Thời gian tới, thành phố Hà Nội sẽ tiếp tục chuyển mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp, phát triển các ngành, các lĩnh vực và sản phẩm công nghệ cao. Đồng thời, phát triển công nghiệp có chọn lọc, ưu tiên phát triển các ngành: tự động hoá, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, tập trung phát triển các ngành và nhóm sản phẩm có lợi thế, thương hiệu.
Bên cạnh đó, thành phố cũng phát triển thêm và cải tạo chất lượng các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ chất lượng cao như: công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng và y tế.
Phát triển con người, đào tạo và thu hút nhân tài, phát triển cộng đồng cũng được đề cập đến trong mục tiêu phát triển chung của thành phố.
2. Kết quả thu hút fdi vào hà nội trong những năm qua
2.1. Kết quả thu hút đầu tư vào Hà Nội
Kết quả thu hút FDI vào Hà Nội được thể hiện qua những mặt sau:
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô
Trong điều kiện kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực có tác động to lớn đến sự chuyển dịch đó. GDP của Hà Nội đã thay đổi từ 38%, thương mại dịch vụ 58,2%, nông lâm nghiệp,thuỷ sản 3,8% trong giai đoạn 1996-2000 sang tương ứng 41,21%; 57,38%; 1,41% của năm 2006 và 41,22%; 57,46%; 1,32% của năm 2007. Tuy nhiên tốc độ này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nếu chưa nói là quá chậm.
Góp phần tăng trưởng GDP, đặc biệt là giai đoạn 1996-2000, do trong giai đoạn này ĐTNN chiếm một tỷ trọng lớn (khoảng 37,6%) trong tổng vốn đầu tư xã hội tại Hà Nội. Sang giai đoạn 2001-2005, vai trò của ĐTTNN đối với tăng trưởng GDP thành phố có giảm sút do tổng vốn ĐTTNN trong tổng đầu tư xã hội trên địa bàn giảm, chỉ còn 12,1%; GDP Hà Nội tăng bình quân 11,12%/năm, cao hơn mức tăng bình quân 5 năm trước là 10,72% và vượt kế hoạch đề ra là từ 10,0-11,0%. Sang năm 2006, 2007 tỷ trọng vốn ĐTTNN trong tổng đầu tư xã hội Hà Nội tiếp tục tăng 13,4% và 15,4%, giúp cho GDP Hà Nội tăng trưởng lần lượt là 11,5% và 12,07%.
Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước thành phố thông qua các loại thuế. 20 năm qua, các dự án ĐTTNN đã đóng góp cho ngân sách hơn 1.839 triệu USD. về tỷ trọng phần trăm, nếu so năm 2005 với năm 2000 thì khu vực có vốn ĐTTNN có tỷ trọng trong tổng thu ngân sách tăng lên từ 5,8% lên 10%. Năm 2006 chỉ số này giảm còn là 9,6% và năm 2007 ước bằng 8,3% do các khoản thu khác như thuế công thương nghiệp, lệ phí trước bạ, thu từ các doanh nghiệp quốc doanh trên địa bàn đều tăng với tốc độ cao hơn khu vực ĐTTNN.
Tiếp nhận công nghệ tiên tiến và thiết bị hiện đại
Trong điều kiện cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng, ĐTTNN thực tế là một kênh chuyển giao công nghệ đặc biệt quan trọng.Trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại của các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy mà thời gian qua, Hà Nội đã tiếp nhận được một số công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, điện tử, sản xuất ôtô, hoá chất, xây dựng khách sạn quốc tế, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm…Đặc biệt công nghệ một số ngành viễn thông, điện tử, dịch vụ khách sạn đã vươn lên ở mức tiên tiến so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Làm tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu (KNXK)
Tính từ năm 1989 đến hết năm 2007, KNXK của khối doanh nghiệp có vốn ĐTTNN ước đạt 5.937 triệu USD. Đặc biệt, trong các năm cuối đã tăng rất nhanh và cao hơn tốc độ tăng trương trung bình KNXK chung của toàn thành phố. tốc độ tăng KNXK khu vực có vốn ĐTTNN giai đoạn 2001-2005 đạt bình quân 49%/ năm, cao hơn so với bình quân tăng KNXK chung toàn thành phố là 17%/năm và cao hơn giai đoạn 5 năm trước 1996-2000 chỉ là 9%/năm. tỷ trọng của khu vực có vốn ĐTTNN trong tổng KNXK thành phố cũng tăng đáng kể, từ 13% năm 2000 lên 31,8% năm 2005, 37,5% năm 2006, và năm 40% năm 2007. sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khối doanh nghiệp ĐTTNN là hệ thống điện xe ôtô, linh kiện máy ảnh, linh kiện kỹ thuật số…
Thu hút, đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật tay nghề cho người lao động.
Một trong những mục tiêu chiến lược của việc tiếp nhận ĐTTNN là phải tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. tính đến cuối năm 2006, các dự án ĐTTNN ở Hà Nội đã thu hút được khỏng 78.000 lao động và đến đầu năm 2008 đã có gần 90.000 lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTTNN. Đa số trong số đó được đào tạo và tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lí tiên tiến. do vậy, khu vực này không chỉ giải quyết được việc làm đối với một phần đáng kể lực lượng lao động có kỹ thuật mà còn từng bước hình thành nên một đội ngũ lao động quản lý, kỹ thuật có đủ năng lực, trình độ, kỉ luật công nghiệp để điều hành, quản lý kinh doanh theo cơ chế thị trường, đáp ứng được những nhu cầu mới trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2. Đánh giá theo các giai đoạn
FDI trên địa bàn Hà Nội từ năm 1989-2007
Đơn vị: 1000 USD
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
Tỷ lệ %
1989
4
48,170
0
0
1990
8
295,088
12,582
4,26
1991
13
126,352
28,444
22,51
1992
26
301,000
54,692
18,17
1993
43
836,912
108,933
13,02
1994
62
989,781
386,340
39,03
1995
59
1.0058
519,458
49,10
1996
45
2,461,000
605,000
24,58
1997
50
913,000
712,000
77,98
1998
46
673,000
525,000
78,01
1999
45
345,000
182,000
52,72
2000
41
100,000
80,000
80,00
2001
44
120,000
85,000
70,83
2002
66
148,689
97,500
65,57
2003
75
145,000
195,000
134,48
2004
75
300,000
220,000
73,73
2005
110
1,840,000
393,000
21,39
2006
133
541,000
66,543
12,3
2007
234
2,500,000
987,690
39,5
Tổng
1,007
13,381,533
5,295,182
2.2.1. Giai đoạn tìm hiểu thị trường (1989 - 1992).
Đây là giai đoạn đầu, số dự án chưa nhiều, quy mô vốn còn nhỏ, chưa có tác động rõ rệt, nhưng đã góp phần tạo tiền đề cho quá trình đẩy mạnh thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nội cho các năm tiếp theo. Sở dĩ như vậy vì trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài chưa có đủ thông tin và thời gian để tìm hiểu về tiềm năng và cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Số vốn FDI vào Hà Nội rất thấp: 51 dự án FDI, với tổng số vốn đăng ký 770,61 triệu USD (bình quân một dự án nhỏ chỉ 15,11 triệu USD), trong đó vốn thực hiện 95,72 triệu USD (bằng 12,4% vốn đăng ký). Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòng cho thuê; lĩnh vực sản xuất công nghiệp hầu như không có dự án lớn. Hình thức xí nghiệp liên doanh được các nhà đầu tư lựa chọn nhiều nhất.
2.2.2. Giai đoạn tăng trưởng mạnh theo chiều rộng (1993 - 1996).
Có thể nói, giai đoạn này được đánh giá là tăng nhanh và cao nhất cả về số dự án và vốn FDI. Trong giai đoạn này, Hà Nội có 209 dự án, với tổng số vốn đăng ký gần 5,3 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện 1,62 tỉ USD (bằng 30,6% vốn đăng ký). So với giai đoạn trước, quy mô một dự án trong giai đoạn này đã tăng lên đáng kể, từ 15,11 triệu USD lên 25,36 triệu USD. So với cả nước và các giai đoạn khác, giai đoạn này Hà Nội có tỷ lệ thu hút FDI cao nhất: số dự án (chiếm 14,8%) và số vốn đăng ký (chiếm 26,8%).
2.2.3. Giai đoạn suy thoái (1997 - 2000).
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á và sự cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trong thu hút FDI đã làm cho nguồn vốn FDI vào Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng giảm rất mạnh. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác như: Thủ đô chưa lập xong hoặc chưa phê chuẩn các quy hoạch chi tiết, quy hoạch khu vực, quy hoạch ngành khiến các chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư; sau nhiều năm vốn FDI tăng liên tục đã gây ra tâm lý thỏa mãn với kết quả đã đạt được, nên tiến trình cải thiện môi trường đầu tư bị chậm lại, không được xúc tiến mạnh mẽ như những năm trước... Trong khi đó các nhà đầu tư nước ngoài lại có nhiều sự lựa chọn ở những thị trường mới, với những chính sách hấp dẫn đem lại lợi nhuận cao hơn.
Vì vậy, cả giai đoạn này, Hà Nội thu hút được 182 dự án, với tổng số vốn đăng ký 2,03 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện gần 1,5 tỉ USD (bằng 73,8% vốn đăng ký). So với giai đoạn trước, quy mô một dự án trong giai đoạn này đã giảm đi rất nhiều, từ 26,439 triệu USD xuống chỉ còn 11,159 triệu USD, thấp hơn cả giai đoạn tìm hiểu thị trường.
2.2.4. Giai đoạn phục hồi (từ năm 2001 đến nay).
Trước tình hình suy giảm đầu tư trong giai đoạn trước, Hà Nội đã có một loạt nỗ lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư, cùng với chuyển biến thuận lợi của tình hình quốc tế, dòng vốn FDI vào Hà Nội bước vào giai đoạn phục hồi.
Hiện nay có tới hơn 40 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Hà Nội, trong đó Xin-ga-po, Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm tổng cộng 60% tổng FDI đăng ký ở Hà Nội. Năm 2004, các dự án FDI chiếm 21% tổng XK Hà Nội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 12% GDP, 17% tổng đầu tư xã hội và tạo ra khoảng 45.000 việc làm. Năm 2004, số DN có vốn đầu tư nước ngoài có lãi là 29%, bị lỗ là 11%, còn lại hoạt động cầm chừng, hòa hoặc chưa rõ kết quả. Đặc biệt, các DN có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN và KCX trên địa bàn Hà Nội chiếm 16% tổng số dự án, 18% tổng vốn đăng ký, song đã chiếm tới 43% tổng doanh thu, 88% tổng kim ngạch XK, 18% tổng nộp ngân sách nhà nước và 35% số việc làm mà các dự án FDI tạo ra tính đến 10/3/2005. Ước tính 9 tháng năm 2007 Hà Nội thu hút được 236 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1.128 triệu USD (chưa kể các kết quả thu hút FDI trong các KCN và KCX do Ban quản lý các KCN và KCX TP. Hà Nội phụ trách), trong đó: Cấp mới 210 dự án với vốn đầu tư đăng ký là 940 triệu USD; Bổ sung tăng vốn là 26 dự án với vốn đầu tư đăng ký là 188 triệu USD; So với cùng kỳ năm 2006, số dự án tăng 80% (236/131 dự án), số vốn đầu tư tăng 40% (1128/801,24 triệu USD). So với kế hoạch định hướng cả năm 2007 đã giao theo QĐ 233/2006/QĐ-UB của UBND TP. Hà Nội (vốn đầu tư đăng ký 1.300 triệu USD với 210 dự án, trong đó cấp mới là 800 triệu USD với 145 dự án, bổ sung tăng vốn là 500 triệu USD với 65 dự án; vốn đầu tư thực hiện 400 triệu USD; doanh thu 2.900 triệu USD), số dự án đã vượt kế hoạch cả năm là 12% (236/210), còn về tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 87% (1128/1300 triệu USD). Hiện một số dự án đầu tư lớn trên địa bàn Hà Nội đang tiếp tục hoàn chỉnh hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc tăng vốn trong các tháng cuối năm 2007, đầu 2008 như: Dự án Cổng Tây Hà Nội - LD của Vigracera với Nhật bản (233 triệu USD); dự án Khách sạn 5 sao Keangnam - Hàn quốc tăng vốn 300 triệu USD,Công viên Yên Sở - Tập đoàn Gamuda, Ma-lai-xia (711 triệu USD), Khu công nghệ cao sinh học - Pacific Land Limited, Irland (1 tỷ USD).
Năm 2007, Hà Nội cũng như Việt Nam đang trở thành điểm đến đầy hứa hẹn của các nhà đầu tư nước ngoài (đứng thứ 6 thế giới về sự hấp dẫn ĐTNN trong lĩnh vực CNTT theo xếp hạng của một tổ chức nghiên cứu của Ấn Độ).
3. Đánh giá các giải pháp thu hút đầu tư mà Hà Nội đã áp dụng
Hà Nội đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ để hỗ trợ doanh nghiệp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ thành phố Hà Nội nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế .
Các quận, huyện và sở, ban ngành toàn thành phố đã triển khai đồng bộ, có hiệu quả cơ chế "một cửa" trong giải quyết thủ tục hành chính như đơn giản hóa các thủ tục trong việc cấp phép đầu tư, cho thuê đất, cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
UBND TP. Hà Nội đã đề ra 5 giải pháp chính để thu hút đầu tư, đó là: đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư; tiếp tục cải cách hành chính về thủ tục cấp phép; xây dựng quy chế, ưu đãi thu hút doanh nghiệp FDI; xây dựng các khu đô thị mới, các cụm chung cư, nhà cao tầng, dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị, giao thông công cộng bằng xe buýt, xe điện; cân đối nguồn vốn.
4. Nhận xét
4.1. Các kết quả đạt được
Về thủ tục hành chính
Cụ thể: rút thời hạn cấp giấy phép đầu tư xuống còn một nửa thời gian quy định còn 25 ngày đối với các dự án khuyến khích đầu tư ( quy định là 45 ngày); 15 ngày đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư ( quy định là 30 ngày); thủ tục xem xét, thẩm định dự án đầu tư gọn nhẹ, không gây phiền hà cho nhà đầu tư; nội dung xem xét thẩm định dự án rút từ 26 tiêu chí xuống còn 5 tiêu chí ; trợ giúp công tác giải ngân cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn để thực hiện dự án.
Đến nay 100% cơ quan hành chính của thành phố Hà Nội đã thực hiện quy chế “một cửa”, công khai thủ tục hành chính và thực hiện quy chế “ một cửa liên thông” trong các lĩnh vực xây dựng cơ bản và đất đai.
Hiện nay thành phố đã tiến hành rà soát, phân loại thủ tục hành chính để công khai. Theo đó đã có 78 thủ tục thuộc thẩm quyền của thành phố, 227 thủ tục thuộc các sở ban ngành, 56 thủ tục thuộc quận huyện và 67 thủ tục thuộc cấp xã phường.
Ngoài ra thành phố cũng đã nối mạng tin học giữa các bộ phận tiếp nhận hồ sơ “một cửa” và trả kết quả giải quyết công việc của các đơn vị từ cấp quận trở lên thông qua cổng giao tiếp điện tử của thành phố.
Hiện có 32 trong tổng số 39 đơn vị đã công khai tất cả các danh mục, quy trình, thời gian, phí và lệ phí giải quyết thủ tục hành chính trên cổng giao dịch điện tử của thành phố.
Về cơ sở hạ tầng: Hà Nội xây dựng 5 khu công nghiệp tập trung là: Nội Bài-Sóc Sơn, Sài Đồng A, Sài Đồng B, Thăng Long, Đài Tư với tổng diện tích 748 ha và tổng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng trên 250 triệu $.
Năm 2007 Hà Nội có: 20 nhà máy cấp nước; 77,9 km kênh thoát nước; 44,4 km sông thoát nước; xây dựng mới 58,3 km đườmg.
4.2. Các hạn chế và vướng mắc
Một số dự án FDI, trong đó có cả dự án lớn, sau khi cấp phép nhưng không triển khai hoặc triển khai chậm gây lãng phí quỹ đất và ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư thủ đô.
Một số dự án khác gặp khó khăn trong triển khai các thủ tục đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng, cho thuê đất…chậm đựơc các cơ quan nhà nước thành phố và trung ương phối hợp giúp đỡ giải quyết làm mất cơ hội của các nhà đầu tư.
Tỷ trọng vốn thực hiện so với tổng vốn đăng kí đạt thấp, không phù hợp vớí tiềm năng và đáp ứng nhu cầu đề ra, nhất là trong giai đoạn hiện nay cần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế mang tính đột phá.
Với vị trí trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Hà Nội chưa thu hút được những dự án lớn như: về công nghệ nguồn mang tính đột phá; về dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế; về giáo dục đào tạo phù hợp với tiềm năng nhân lực và định hướng đến một nền kinh tế tri thức sánh vai cùng quốc tế.
Các nhân tố liên quan đến quá trình sản xuất trên địa bàn Hà Nội có giá tương đối cao so với các địa phương khác đã gây khó khăn cho quá trình tái sản xuất mở rộng đối với nhà đầu tư nước ngoài rõ nhất là giá đất, giá dịch vụ điện, nứoc, chi phí thuê văn phòng.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là giao thông, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất – kinh doanh công nghiệp hiện đại.
Các cơ chế chính sách, điều kiện cần thiết của nền kinh tế thị trường tương đối thuận lợi cho ĐTTNN song chưa hoàn chỉnh và đồng bộ.
4.3. Nguyên nhân của hạn chế và vướng mắc chưa được tháo gỡ
- Về phía nhà nước:
Chưa có những biện pháp thực sự hiệu quả để tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Còn sự phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Hệ thống văn bản pháp luật chồng chéo, không mang tính chất ổn định gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình đăng kí và thực hiện dự án.
-Về phía Hà Nội.
Hà Nội chưa tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu những khó khăn vướng mắc của các nhà đầu tư để giải quyết một cách thỏa đáng và kịp thời.
Công tác vận động đầu tư và quản lý các dự án có vốn ĐTNN tại Hà Nội còn phân tán, chưa rõ rang. Tổ chức hoạt động xúc tiến ĐTNN chưa có hệ thống và chưa đạt kết quả cao, thiếu một tổ chức chuyên trách công tác này( ngày 22/11/2007 UBND thành phố mới kí quyết định số 4676/QĐ-UBND về thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc sở KHĐT Hà Nội, với chức năng chủ yếu là tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút vốn trrong nước và nước ngoài thực hiện các dự án đầu tư theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội )
Việc giải quyết cấp giấy phép đầu tư các dự án ĐTNN phải qua nhiều công đoạn, chưa thực sự tập trung một đầu mối.
Chưa có những chính sách ưu đãi cụ thể, hấp dẫn nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn.
Chưa chú trọng đầu tư xây dựng, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng-điều đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các công ty và tập đoàn lớn.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY THU HÚT FDI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
1. Phương hướng thu hút fdi trên địa bàn Hà Nội
- Đẩy mạnh hợp tác xúc tiến đầu tư tập chung vào hợp tác kinh tế với thủ đô các nước có nền kinh tế phát triển,nơi tập chung các tập đoàn đầu tư quốc tế.
Với vị thế là một thủ đô của một quốc gia, Hà Nội có nhiều thuận lợi trong việc tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, thương mại với thủ đô cá quốc gia khác trên thế giới. Hầu hết các tập đoàn, các công ty tầm cỡ quốc tế đều có trụ sở hoặc văn phòng đại diện nằm tại thủ đô của nước mình, vì đây thường là nơi khai sinh ra nó và hội tụ các điều kiện thuận lợi cho việc chỉ huy, điều phối mọi hoạt động đến các chi nhánh trực thuộc ở khắp các khu vực trên thế giới. Trong khu vực châu Á, các công ty tập đoàn quốc tế nắm giữ những bí quyết công nghệ tiên tiến, có tiềm lực kinh tế lớn, có nhiều kinh nghiệm đầu tư nước ngoài, phần lớn tập chung ở các quốc gia và lãnh thổ như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore là những nước có nền văn hóa có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Xây dựng mối quan hệ mật thiết với thủ đô các nước nói trên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc và vận động các công ty, tập đoàn quốc tế đầu tư vào Hà Nội. bên cạnh việc ưu tiên thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực châu Á, cần khai thác triệt để nguồn vốn của các công ty, tập đoàn trên thế giới. thông qua ASEM, APEC, WTO Hà Nội có rất nhiều cơ hội để xúc tiến hợp tác với các quốc gia có nền kinh tế phát triển với thủ đô của họ về nhiều mặt, trong đó có lĩnh vực đầu tư.
-Lựa chọn các đối tác đầu tư đáp ứng được với định hướng phát triển kinh tế bền vững và lâu dài của Hà Nội.
Xuất phát từ đặc thù là thủ đô của một nước, song quỹ đất của Hà Nội có thể giành cho việc xây dựng các khu công nghiệp về lâu dài bị hạn chế, do vậy việc lựa chọn đối tác đầu tư cần được cân nhắc kỹ. nên mở rộng cửa chào đón các tập đoàn, công ty tầm cỡ quốc tế, nắm trong tay các bí quyết công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, có khả năng đầu tư trang, thiết bị hiện đại, để không những tạo nên năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, mà còn giải quyết việc làm và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho một số lượng lớn cán bộ, công nhân. Để các đối tác mà chúng ta lựa chọn bằng long đầu tư vào Hà Nội, các cơ qaun có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành cơ chế ưu đãi riêng giành cho các đối tác này.
-Thành lập công viên công nghệ cao-kinh tế mở Hà Nội, tăng cường thu hút các loại đầu tư này.
Có ba lý do để thành phố thành lập công viên công nghệ cao kết hợp với kinh tế mở:
Một là: với vị trí địa lý của mình, Việt Nam là cửa ngõ giúp các nước thuộc lưu vực sông Mê Kông thông thương với thế giới bên ngoài. Tại thời điểm hiện nay, các “con rồng” châu Á ( Thái Lan, Singapore, Malaysia) đang có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường phát triển ngành dịch vụ, một số lợi thế so sánh đang giảm dần, đồng thời tình hình chính trị có những biến động( Thái Lan, Indonesia), bởi vậy các nhà đầu tư đầu tư các cơ sở sản xuất công nghiệp công nghệ mới ra các nước khác trong khu vực có tình hình chính trị ổn định. Việc thành lập công viên công nghệ cao – kinh tế mở Hà Nội, có thể đón nhận sự chuyển hướng đầu tư những cơ sở sản xuất công nghiệp công nghệ cao này.
Hai là: mặc dù các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện nay chưa được lấp đầy nhưn nó sẽ tiếp tục phát triển trên địa bàn các huyện ngoại thành trong tương lai. Tuy nhiên hoạt động của nó mới chỉ hạn chế ở lĩn vực sản xuất công nghiệp, chưa được mở rộng theo mô hình: công nghệ cao kết hợp thương mại – du lịch- tài chính – ngân hàng – hạ tầng xã hội… công viên công nghệ cao kết hợp kinh tế mở, được thiếp lập theo mô hình trên và có cơ chế hoạt động thông thoáng sẽ hấp dẫn các nhà ĐTNN hơn.
Ba là: công viên công nghệ cao kết hợp kinh tế mở Hà Nội, là địa bàn thích hợp cho việc thí điểm thực hiện cơ chế quản lý mới, theo dõi hoạt động của nó, chúng ta sẽ đúc kết được những kinh nghiệm để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp hơn, giúp cho phát triển các khu công nghiệp của thành phố hiện nay. Cho đến nay, trên thế giới đã xuất hiện mô hình công viên công nghệ cao ở một số quôc gia ( thung lũng Silic của Mỹ, công viên công nghệ cao Kulim của Malaysia, công viên công nghệ cao Tân Trúc Đài Loan…) thực chất đây là những công viên công nghệ cao thúc đẩy sự ra ddowiwf của các tập đoàn xuyên quốc gia, tạo ra những bước đột biến mới về thành tựu khoa học công nghệ, đẩy nhanh nền công nghiệp của các nước phát triển.
2. Giải pháp thu hút fdi vào Hà Nội
2.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính
Hà Nội cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong thủ tục đầu tư xây dựng; tăng cường hoạt động của tổ công tác tiếp nhận và giải quyết ban đầu các dự án đầu tư và tổ công tác liên thông giải quyết thủ tục, để đảm bảo kịp thời tiếp nhận đề xuất và giải quyết tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư.
2.2. Nâng cao chất lượng lao động
Chất lượng lao động là một trong những yếu tố quyết định đến việc thu hút FDI đối với một địa phương. Tuy Hà Nội là một địa phương có lực lượng lao động có thể coi là có trình độ và hung hậu hơn so với các địa phương khác trên cả nước nhưng vẫn chưa xứng tầm với nhưng gì mà nó đang có. .
Hiện số lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế của Hà Nội gần 1.440 triệu người.
Trong số hơn 1,4 triệu lao động có 10.000 người có trình độ tiến sĩ ( 0,714%), 29.000 thạc sĩ ( 2,07%) , 394.000 ( 28,14%) người có trình độ đại học và 467.000 ( 33,36%) người được đào tạo tại các trường cao đẳng, trung cấp, dạy nghề.
Tuy nhiên, mặt bằng trình độ lao động giữa các đơn vị ở Hà Nội còn chênh lệch nhau khá nhiều. Thành phố còn 24,9%, tương ứng với 538.000 lao động chưa qua đào tạo.
Trong thời gian tới Hà Nội cần tích cực hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng lao động nhằm đẩy mạnh thu hút FDI.
2.3. Nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
So với nhiều địa phương trên cả nước, Hà Nội tuy có hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn nhưng vẫn chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài . thời gian tới, Hà Nội cần đẩy mạnh việc nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có và xây dựng cơ sở hạ tầng mới, bên ngoài hàng rào các khu công nghiệp, khu chế xuất. khó khăn lớn nhất mà Hà Nội gặp phải là đòi hỏi về vốn để thự hiện chủ trương này là rất lớn, trong khin ngân sách của thành phố lại có hạn. để khắc phục vấn đề này, Hà Nội cần thực hioeenj một số giải pháp sau:
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA làm cơ sở cho việc thu hút vốn FDI. Thành phố cần chú trọng khai thác thật triệt để nguồn vốn ODA, sử dụng nó một cách hiệu quả vào đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng, các công trình trọng điểm, làm nền tảng để thu hút FDI. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của Hàn Quốc là: “bản thân nợ không phải là vấn đề đáng lo ngại mà điều quan trọng là sử dụng vốn vay như thế nào để có khả năng trả được nợ và tăng trưởng kinh tế nhanh”. Như vậy, rõ ràng điều đáng lo ngại không phải là gánh nặng nợ nần mà chính là việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không phát huy được hiệu quả.
- Cần có chính sách cho việc tập trung vốn cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng ở các khu vực trọng điểm, nơi quy hoạch dành riêng cho các dự án đầu tư qui mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn, trung tâm tài chính, dịch vụ thương mại có tác dụng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Để tạo sự tăng trưởng đồng đều về kinh tế xã hội giữa các vùng, thành phố cũng cần có chính sách ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng cho các địa bàn còn khó khăn để phát triển kinh tế( các huyện ngoại thành còn nghèo), nhưng có tiềm năng lớn về đất đai và thuận lợi về địa lý.
- Khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, bằng cách cho hưởng các ưu tiên về thuế( miễn thuế thu nhập trong thời hạn nhất định và giảm mức thuế này ở những năm tiếp theo), được phép phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn.
- Cần có cơ chế ưu tiên đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đầu tư. Cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Bởi vậy ngay khi cấp giấy phép đầu tư, thành phố phải bố trí vốn giành cho việc xây dựng mạng lưới hạ tầng. có thể coi đây là nguồn vốn đối ứng với FDI, vì vậy nếu thành phố không đủ khả năng cấp thì cho phép bộ phận đảm nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng vay ưu đãi, hoặc phát trái phiếu công trình. Nguồn thu từ thuế của các doanh nghiệp FDI, là khoản dùng để thanh toán cho việc huy động vốn nói trên. Trường hợp yêu cầu các doanh nghiệp có vốn FDI ứng trước, để xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, thì phải xác định rõ thời gian hoàn trả vốn cho họ và thực hiện việc thanh toán nghiêm túc theo đúng quy định.
- Đối với các hình thức BOT, BTO, BT để vận động các nhà ĐTNN, thành phố cần nghiên cứu, xây dựng quy chế ưu đãi cụ thể. Một khi nhìn thấy khả năng thu được lợi nhuận nhờ những ưu đãi, các nhà đầu tư sẽ mạnh dạn xuất vốn đầu theo các hình thức trên, khi đó cái lợi mà chúng ta thu được là việc tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn thiện, có chất lượng cao trong các khu công nghiệp. đặc biệt cần nghiên cứu để vận dụng hình thức này, khi thực hiện dự án công vien công nghệ cao kết hợp kinh tế mở.
Việc thành phố chủ động xuất vốn, kết hợp với khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, sẽ nhanh chóng cải thiện được điều kiện làm việc cũng như các yếu tố phục vụ sản xuất. qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
2.4. Hoàn thiện chính sách thuế và các ưu đãi tài chính.
Hoàn chỉnh theo hướng điều chỉnh những bất hợp lý trong chính sách thuế hiện hành, bổ sung các ưu đãi thiết thực, có sức hấp dẫn cao đối với các lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư. Chính sách thuế và cơ chế ưu đãi tài chính là một trong những yếu tố chủ yếu cấu thành tnhs hấp dẫn của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vậy càn tiếp tục hoàn thiện nó theo hướng đảm bảo tính hệ thống, sự ổn định và phù hợp với các nước trong khu vực, nhanh chóng loại bỏ những hạn chế do chính sách thuế và cơ chế ưu đãi tài chính hiện hành gây ra. Cùng với việc thực hiện các giải pháp trên, Hà Nội phải ban hành nhiều hơn nữa các chính sách ưu đãi về kinh tế - tài chính cho các nhà ĐTNN đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, để khuyến khích họ tăng cường và mở rộng qui mô các dự án. Sau đây là một số biện pháp cụ thể cho công tác hoàn thiện :
Thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập công ty là hai đạo luật thuế được áp dụng trong giai đoạn đầu để đưa hoạt động thu thuế đối với các dự án đầu tư nước ngoài đi vào ổn định. Bộ phận chị trác nhiệm thu thuế cần thực thi tốt hai đaọ luật này, đồng thời nghiên cứu để đề xuất với chính phủ phương hướng bổ sung, sửa đổi cho phù hợp cới quy định của WTO.
Thực hiện nguyên tắc “không hồi tố”, giảm thuế lợi tức xuống 5% và cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI có quyền lập quỹ dự phòng, miễn thuế giá trị gia tăng cho các phương tiện vận tải, không phân biệt được sản xuất ở Việt Nam hay nước ngoài và ngyueen, vật liệu nhập ngoại.
Xem xét giảm thuế suất đối với thuế thu nhập doanh nghiệp( hiện tại là 18% xuống còn 25% như một số nước trong khu vực) và tăng mức thu nhập phải chịu thuế đối người nước ngoài( giảm thuế thu nhập cá nhân từ 40% xuống còn 35% để tương đồng với các nước trong khu vực).
Tăng cường ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư thông qua việc áp dụng hệ thống giá hợp lý ( như giá điện, nước, cước vận tải bưu điện, hàng không). Cho phép bên Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nộp thuế chậm, được bảo lãnh để vay vốn góp vào dự án hoặc được liên kết để tăng khả năng tài chính.
Nghiên cứu và ban hành các qui định cụ thể để giải quyết nhanh khâu hoàn thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo thuận lợi cho họ chuyển lợi nhuận về nước và tiến hành góp vốn dễ dàng, khấu trừ khoản thuế đầu vào khi họ mua hàng của các doanh nghiệp trong nước.
Hộ trợ cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư, bằng cách cho hưởng mức thuế lợi tức mới, giá thuê đất mới và tiếp tục miễn, giảm thuế doanh thu cho những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn.
Rà soát lại các chính sách thuế để sửa đổi những bát hợp lý, đảm bảo tính ổn định của các chính sách này, nhằm một mặt nâng cao hiệu lực pháp lí đối với lĩnh vực thuế, mặt khác làm yên tâm các nhà ĐTNN. Xem xét lại 12 sắc thuế từ 0 – 100% cùng với quy định thuế suất theo tỷ lệ nội địa hóa với giá quy định của WTO. Nhanh chóng khắc phục tình trạng thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, linh kiện cho sản xuất trong nước cao hơn thuế nhập khẩu thành phẩm. Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động có hiệu quả.
Hộ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực sự gặp khó khăn, thông qua việc tạo điều kiện cho vay tín dụng theo nguyên tắc thuế chấp tài sản thiết bị, nhà xưởng,…
Nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn doanh nghiệp có vốn ĐTNN phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng quy mô đầu tư. Tạo điều kiện cho một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư, được thành lập công ty quản lý vốn, để đảm bảo cung cấp tài chính đẩy đủ cho việc triển khai hoạt động của các dự án. Các nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, ngành nghề đầu tư và linh hoạt xét duyệt việc chuyển đổi các hình thức đầu tư.
Đối với các doanh nghiệp liên doanh sử dụng công nghệ cao, sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp gặp khó khăn, cần linh hoạt cho phép họ chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp gặp khó khăn, cần linh hoạt cho phép họ chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, được cổ phần hóa kêu gọi đóng góp vốn đầu tư của nước ngoài
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần hóa, để tăng vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng cường các khuyến khích, hỗ trợ ưu đãi, chủ động thu hút nhiefu hơn nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, dịch vụ thương mại, tài chính tín dụng, không nhất thiết phải ấn định tỷ lệ nguồn vốn, mà cần tranh thủ mọi nguồn vốn cho phát triển kinh tế của Thủ đô. Tăng cường phát triển thị trường vốn, thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thành lập các công ty cổ phần, công ty quản lý vốn và có cơ chế tạo thuận lợi cho tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu được tham gia thị trường chứng khoán. Việc làm này sẽ tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều cơ hội tham gia đầu tư vào thị trường trong nước, qua đó tăng cường khả năng thu hút FDI.
Cần tận thu các loại phí để thu hồi vốn, những trách tình trạng thu tùy tiện, muốn vậy thành phố phải kịp thời ban hành chính sách thu phí thông nhất chung và khuyến khích các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào Hà Nội.
Tham gia hợp tác và ký kết các hợp tác thương mại song phương, tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động thuận lợi, mở rộng việc tham gia thị trường chứn khoán để khắc phục khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp.
2.5. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Hình thành và không ngừng bổ xung danh mục các dự án gọi vốn ĐTNN và tiến hành xúc tiến đầu tư có địa chỉ theo lộ trình thích hợp, trong đó xác định rõ yêu cầu về đối tác dự án, sản phẩm, công suất, tiến độ, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, địa bàn thực hiện dự án, các chính sách khuyến khích, ưu đãi cần thiết...
Lập kế hoạch chương trình xúc tiến đầu tư hàng năm cho từng lĩnh vực, địa bàn, đối tác cụ thể; tổ chức các cuộc hội thảo, đối thoại với nhà đầu tư và trao đổi kinh nghiệm xúc tiến vận động đầu tư. Thúc đẩy mạnh việc vận động xúc tiến đầu tư hướng vào các thị trường trọng điểm, các đối tác có tiềm lực về công nghệ, tài chính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Đài Loan, Hàn Quốc... Tổ chức tốt hệ thống Marketing về ĐTNN tại Việt Nam để giúp các nhà đầu tư, các DN, các nhà quản lý và lao động nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin cần thiết liên quan đến FDI theo giác độ của mình, kể cả tuyên truyền luật pháp chính sách, tình hình ĐTNN tại Việt Nam. Đặc biệt coi trọng nghiên cứu xu hướng phát triển của thị trường vốn đầu tư trên thế giới; chính sách đầu tư của các khối, các nước, các tập đoàn Cty lớn để có đối sách thích hợp đối với hoạt động thu hút FDI, cần chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn vốn từ các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mỹ, Tây Âu... để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại.
Ngoài ra, đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù, tăng cường áp dụng hình thức đầu tư mới có sử dụng vốn ĐTNN như BOT/BTO/BT, PPP... trong đầu tư xây dựng các công trình kết cầu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ,nhằm xúc tiến một số dự án lớn, trọng điểm (Khu công viên công nghệ sinh học, Trung tâm công nghệ thông tin - xử lý dữ liệu...).
KẾT LUẬN
FDI ngày càng thể hiện những đóng góp lớn lao của nó trong sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Trong những năm qua Hà Nội đã có nhiều cố gắng để đẩy việc thu hút FDI và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, vấn đề thu hút FDI vào Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi. Điều này đòi hỏi sự cố gắng hơn nữa của chính quyền Hà Nội, Chính Phủ và toàn thể nhân dân nhằm đẩy mạnh hơn nũa các dự án FDI cả về số lượng và chất lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.LATS Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- Nguyễn Thị Kim Nhã-2005
2. LATS. Hoàn thiện cơ chế chính sách để thu hút FDI ở Hà Nội trong giai đoạn 2001-2010- Vương Đứac Tuấn-2006
4. LVTS. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn Hà Nội-Bùi Thuý Vân-2005
5. Niên giám thống kê 2005- nxb Thống Kê
6. Niên giám thống kê 2006-nxb Thống Kê
7. Niên giám thống kê 2007- nxb Thống Kê
8. Niên giám thống kê thành phố Hà Nội năm 2005- cục thống kê thành phố Hà Nội
9. Niên giám thống kê thành phố Hà Nội năm 2006- cục thống kê thành phố Hà Nội
10. Niên giám thống kê thành phố Hà Nội năm 2007- cục thống kê thành phố Hà Nội
11. Tạp chí thương mại số 1/2008
12. Tạp chí thương mại số 33/2008
13. Tạp thí thông tin cải cách nền hành chính nhà nước tháng 10/2006- Bộ Nội Vụ, Viện nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước
14. 20 năm đầu tư nước ngoài nhìn lại và hướng tới ( 1987-2007)- nxb Tri Thức
ĐC TRANG WEB
http:// www. vietbao.vn/kinh-te/10-đia-phuong-dan-dau-ca-nuoc-ve-thu-hut-fdi-nam-2—6/65079982/87/
http:// www.ncseif.gov.vn/default. aspx?mod=news$cat=12&nid=4240
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22383.doc