Đề án Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt Nam

Trong tình hình thị trường trôi nổi trong và ngoài nước xuống giá, giá thấp sẽ không đủ bù chi phí sản xuất và tái sản xuất mở rộng hàng nông sản, mặt khác khi giá xuống thì muốn tăng giá sau này là rất khó. Điều này cần giải pháp tình thế từ chính phủ là mua tạm trữ nông sản giữ giá và chờ giá lên. Còn đối với lượng nông sản đã dự trữ thì trong lúc thị trường chưa ổn định chính phủ có thể kéo dài thời gian tạm trữ từ 6 tháng đến 1 năm và cho phép các doanh nghiệp mua tạm trữ được luân chuyển xuất khẩu và mua bù vào phần đã xuất Nhà nước cấp cho doanh nghiệp toàn bộ lãi xuất vay ngân hàng để mua tạm trữ theo giá để nông dan ít bị thua thiệt, khi xuất khẩu mà giá thị trường thế giới xuống thấp hơn giá mua thì Nhà nước có biện pháp bù đăp thiệt hại. Nhưng việc thu mua nông sản kiểu này chỉ là những giải pháp tình thế và không lâu vì dữ trữ thì cũng có một giới hạn nhất định, nếu dự trữ mãi thì sẽ bán di đâu.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4349 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Chúng ta đang sống trong một xã hội mới với những tư tưởng mới khác xa với thời xa xưa. Mọi thứ thay đổi từng ngày từng giờ, mọi thứ đều hoạt động và không có gì đứng yên cả. Đặc biệt là hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay, đây là lĩnh vực sôi nổi, cạnh tranh quyết liệt, ai cũng muốn chiến thắng trên con đường tranh đua đến với lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu, là động lực và là kết quả của hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thị trường. Doanh nghiệp nào sản suất và kinh doanh được hàng hóa mà thị trường chấp nhận, sản phẩm được tiêu thụ thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Điều đó không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể làm được. Nhất là hiện nay khi mà trên thị trường “trăm người bán vạn, người mua”. Hàng hóa dịch vụ không còn khan hiếm nữa, nó đủ dư thừa tương đối. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để sản suất kinh doanh được sản phẩm mà thị trường chấp nhận, tức là hàng hóa của mình sản suất kinh doanh phải được lưu thông phải được khách hàng chấp nhận. Điều đó có nghĩa là hàng hóa đó phải được tiêu thụ. Có làm được như vậy doanh nghiệp mới thu hồi được chi phí đã bỏ ra, doanh thu được trả bằng tiền và lợi nhuận sẽ dương. Điều này có nghĩa rằng nếu sản phẩm được tiêu thụ thì quy trình sản suất kinh doanh có thể quay vòng, doanh nghiệp sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Như vậy tiêu thụ sản phẩm là khâu không thể thiếu trong chu kỳ sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay thì điều này càng có ý nghĩa, nó quyết định sự sống còn của mỗi sản phẩm sản suất để bán. Không nằm ngoài ý nghĩa đó thị trường sản phẩm nông sản đang là nỗi lo lắng của không ít người. Khác các mặt hàng khác, nông sản là một sản phẩm đặc thù của ngành nông nghiệp mặt hàng này phân bố rải rác khắp nơi do vậy nguồn hàng không tập trung mà tính chất sản phẩm lại khó bảo quản. ở nước ta hiện nay với xấp xỉ 70% dân số sống bằng nghề nông do vậy sản suất nông sản có ý nghĩa vô cùng to lớn. Vấn đề tiêu thụ mặt hàng này hiện nay đang là bài toán khó giải cho các nhà tiêu thụ. Nông sản đang trong tình trạng ứ động chưa có đầu ra ổn định, giá cả bấp bênh mà khả năng mở rộng thị trường là rất khó . Để tìm hiểu sâu hơn về tiêu thụ nông sản hiện nay ở nước ta, cũng như muốn học hỏi thêm một lĩnh vực được sự quan tâm của rất nhiều chủ thể kinh tế hiện nay. Điều đó rất hữu ích cho một sinh viên kinh tế. Do vậy em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt nam” làm đề tài nghiên cứu cho đề án của mình. Với trình độ hạn chế của bản thân, đề án chắc không tránh khỏi khiếm khuyết, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để cho đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương II: Thực trạng tiêu thụ nông sản hiện nay 1. Đặc điểm sản phẩm nông sản Nông sản là một sản phẩm đặc biệt, có nguồn sản xuất phân bố phân tán và rộng khắp trên mọi miền của lãnh thổ. Hàng nông sản gắn liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân, Giá chênh lệch giữa nơi sản xuất và nơi tiêu dùng khá lớn, nếu nắm bắt thông tin kịp thời sẽ rất có lãi. Nhưng đồng thời quan hệ cung – cầu về mặt hàng này rất phức tạp cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm sản phẩm, nơi sản xuất và thị trường có nhu cầu nông sản lớn từ đó sẽ vạch hướng kinh doanh cho các kênh tiêu thụ sản phẩm. Và chủ yếu phải nghiên cứu những đặc điểm chính của hàng nông sản như sau. 1.1Tính thời vụ. Sản xuất nông sản có tính thời vụ rõ ràng: Vụ Đông, vụ Hè, vụ Chiêm, vụ Mùa… Tuỳ từng thời vụ mà có những sản phẩm nông sản đặc trưng cũng như giá cả khác nhau, nông sản trái mùa sẽ có giá cao hơn nông sản vào mùa thu hoạch. Đồng thời khác các loại hàng hoá khác để sản xuất được sản phẩm nông sản cần có một thời gian nhất định để cay, con sinh trưởng, vòng quay sản xuất tương đối dài. Do vậy trong khoảng thời gian từ vụ yhu hoạch này tới vụ thu hoạch sau là một khoảng thời gianvà sản phẩm nông sản lúc đó tương đối hiếm. Còn vào thời điểm thu hoạch thì lượng sản phẩm nông sản rất dồi dào và phong phú. Do vậy người kinh doanh hàng nông sản cần phải biết quy luật sản xuất các mặt hàng này để làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến mùa thu hoạch thì tập trung lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm. 1.2Tính phân tán. Sản phẩm nông sản được sản xuất bởi các hộ nông dân, và được trồng ở nông thôn nơi mà hàng triệu người nông dân sinh sống. Họ sản xuất nông sản theo từng gia đình và với số lượng nhỏ. Do vậy nguồn nông sản phải cóp nhặt từ các hộ gia đình này và từ nhiều nơi khác nhau. Trong khi đó sức tiêu thụ thì tập trung ở thành phố, khu công nghiệp lớn. Nông sản phải vận chuyển từ nông thôn ra thành thị, đòi hỏi bố trí điểm thu mua đặt địa điểm chế biến đều phải thuận lợi cho quá trình vận chuyển nông sản. 1.3Tính khu vực. Sản xuất nông sản gắn liền với địa hình, tuỳ theo tính chất địa hình mà có thể nuôi, trồng những loại con, cây khác nhau. Thường mỗi loại sản phẩm nông sản chỉ thích ứng trên mỗi địa hình đặc trưng riêng như đất đai, khí hậu, con người. Tuỳ theo địa hình, khu vực mà nơi thì thích ứng trồng bông, mía nơi thì trồng cà phê, chè, cao su… Do đặc điểm tự nhiên này mà hình thành những khu vực sản xuất khác nhau với tính chất sản phẩm khác nhau(chè Thái Nguyên thì khác chè ở Tuyên Quang, Hà Giang…) chính vì thế có những khu vực sản xuất sản phẩm nông sản rất khác nhau với tỷ lệ khác nhau: Như Đồng Bằng sông Cửu Long và Đồng Bằng sông Hồng là hai khu vực sản xuất phần lớn sản lượng lúa, gạo trong cả nước. 1.4Tính tươi sống. Hàng nông sản phần lớn là động vật, thực vật tươi sống khó bảo quản do dễ bị hỏng, ôi, dập nát, dễ giảm phẩm chất. Đặc biệt với rau quả và sản phẩm khác thì nhu cầu sử dụng sản phẩm tươi sống là rất cao, tỷ trọng nông sản tiêu thụ ở dạng này chiếm tương đối lớn. Khi tiêu thụ sản phẩm nông sản cần chú ý đặc điểm này và khi thu mua cần phân loại theo chất lượng sản phẩm, khả năng chế biến, bảo quản sản phẩm cũng như cần có hình thức vận chuyển nhanh chóng đảm bảo độ tươi sống hao tppnr. 1.5Tính không ổn định. Ngành nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc lớn vào thời tiết, dịch bệnh, giống, kỹ thuật nuôi trồng…mà thời tiết là một yếu tố mà con người khó kiểm soát và khó dự báo, lúc thì nắng, lúc thì mưa, lúc hạn hán, lúc lũ lụt. Điều này gây nên tính không ổn định của sản phẩm nông sản: sản lượng nông sản lên xuống thất thường, năm được mùa, năm mất mùa và cùng một năm thì có vùng được mùa và có vùng mất mùa. Khiến cho nguồn hàng, giá hàng không ổn định, khó kiểm soát. Vụ được mùa: số lượng nông sản lớn thì giá lại rẻ. Còn lúc mất mùa giá nông sản tăng cao thì lại không có nông sản mà bán. Tính không ổn định này nhiều lúc gây ra rất nhều khó khăncho vấn đề tiêu thụ như sản phẩm nông sản thường bị tư thương ép giá vào lúc được mùa, hợp đồng ký bị vi phạm do không đủ hàng giao lúc mất mùa… Dù vậy nông sản vẫn có nhu cầu tiêu dùng tương đối lớn bởi nó gắn liền với bản thân người tiêu dùng, đòi hỏi tự nhiên con người phải dùng sản phẩm nông sản để tồn tại và phát triển. 2. Thực trạng tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt Nam. 2.1 Khối lượng nông sản tiêu thụ. Việt Nam là một nước nông nghiệp lâu đời, nông dân có truyền thống và kinh nghiệm thâm canh lâu năm, mà Việt Nam lại có tới gần 70% dân số sống bằng nghề nông do vậy khối lượng nông sản được sản xuất và tiêu thụ là tương đối lớn. Năm 2000 nông sản được tiêu thụ như: Sản lượng lương thực:35,5 triệu tấn; hạt điều: 26,4 ngàn tấn; cà phê: 700 nghìn tấn; hồ tiêu:45 ngàn tấn; giá trị rau xuất khẩu: 250 triệu USD. Giá trị nông sản xuất khẩu chiếm 30% toàn bộ giá trị xuất khẩu toàn quốcvà tăng 15%/năm. Vào năm 2001 + Lượng gạo xuất khẩu là 23 triệu tấn, dự tính là 28 triệu tấn vào năm 2002. + Cà phê dự kiến 2002 xuất khẩu là 850 ngàn tấn. + Rau quả: Xuất khẩu năm 2001 là 330 triệu tấn và dự kiến năm 2002 là 360 triệu tấn. 2.2 Thị trường tiêu thụ nông sản. Nông sản được tiêu thụ ở khắp nơi trên đất nước cũng như nước ngoài, chỗ nào có dân cư sống là nơi ở đó nông sản được tiêu thụ. Nhưng chủ yếu nông sản được tiêu thụ ở những thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh… nơi mà dân cư đông đúc và nhu cầu tiêu thụ của người dân là lớn. Ngioài tiêu thụ trong nước còn tiêu thụ nước ngoài: Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan… Những thị trường này tiêu thụ một lượng hàng nông sản lớn ở Việt Nam như chè, cao su, cà phê, hạt tiêu, hồ tiêu… Đặc biệt từ năm 1999 trở lại đây Trung Quốc luôn là thị trường lớn nhất của rau quả Việt Nam và thường chiếm tỷ trọng 40% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Vì vậy thị trường Trung Quốc cần phải được coi trọng, coi đó là thị trường mang tính chiến lược và ổn định lâu dài với ngàng rau quả Việt Nam. 2.3 Nhịp độ tiêu thụ nông sản chậm chạp và thường bị tồn đọng. Do tính chất sản phẩm nông sản khó bảo quản, vận chuyển cũng như nông sản có tính thời vụ, chưa đến vụ thì thiếu hàng trầm trọng dẫn đến đột biến giá cả, nhưng khi vào vụ thu hoạch thì thừa hàng, tồn đọng, giá nông sản giảm mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất và kinh doanh. Ví dụ: Theo số liệu của Bộ Thương mại, 6 tháng đầu năm 99 tồn đọng một lượng lớn các loại nông sản mà chưa có cách nào để tiêu thụ, trong đó nổi lên là 3 mặt hàng có lượng tồn đọng lớn là lúa, mía, cà phê. Nhà nước đã phải chỉ đạo cho các doanh nghiệp mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo, 100 nghìn tấn đường và hỗ trợ các đơn vị sản xuất cà phê để chờ lên giá. 2.4 Lực lượng tiêu thụ sản phẩm. 2.4.1 Tiêu thụ nông sản trực tiếp. Tiêu thụ trực tiếp là hình thức các hộ nông dân đem sản phẩm của mình bán ra trực tiếp trên thị trường cho người tiêu dùng. Hình thức tiêu thụ này thu được lợi nhuận trên sản phẩm cao do không phải qua trung gian. Nhưng chỉ áp dụng với hộ gia đình sản xuất nông sản với quy mô nhỏ, trừ lượng nông sản không lớn và thường là tiêu thụ ở ngay tại khu vực sản xuất. 2.4.2 Tiêu thụ nông sản qua tư thương Trong tất cả các kênh phân phối liên quan dến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân ở nông thôn đều có sự tham gia rất phổ biến của tư thương. Tư thương có thể làm nông dân rảnh tay trong giải quyết đầu ra. Nhưng vì qua tư thương mà nông sản bị ép giá bán hàng hoá với giá rẻ. Bởi do nông dân không nắm bắt được đặc điểm thị trường không biết đầu mối tiêu thụ mà nông sản khó để lâu, khó bảo quản nên phải bán cho tư thương chấp nhận với giá rẻ. Điểm nổi bật trong phân phối nông sản là qua nhiều khâu trung gian làm chậm quá trình lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo. 2.4.3 Tiêu thụ nông sản qua Nhà nước. Hoạt động tiêu thụ nông sản của Nhà nước khác hoạt động tiêu thụ thị trường khác. Mục tiêu của Nhà nước tiêu thụ nông sản không phải do vấn đề lợi nhuận mà hoạt động của Nhà nước là lợi ích đến người nông dân, cố gắng đảm bảo ổn định cho nông dân bằng cách bình ổn giá cả, chính sách chi phí sản xuất nông sản(giảm thuế) cho nên giá đầu vào thấpdẫn đến khả năng cạnh tranh và tiêu thụ nông sản được nâng cao. Hình thức tiêu thụ của Nhà nước thường là mua nông sản dự trữ gạo, cà phê…vào lúc dồi dào, giá nông sản giảm. Ngoài ra tiêu thụ nông sản của Nhà nước thường là với chính phủ khác(như thoả thuận của Bộ Thương mại Việt Nam vừa ký với Cục Lương thực Inđônêsia mua bán 500 ngàn tấn gạo từ năm 2002 - 2004), trên cơ sở đó giao cho một số doanh nghiệp tham gia thực hiện dưới hình thức đấu thầu hoặc bảo đảm không lỗ. 2.5 Thị trường nông sản đầu ra không ổn định. 2.5.1 Giá nông sản bấp bênh. Ai cũng biết trong nông nghiệp một trong những động lực kích thích nông dân hăng hái phát triển sản xuất là giá cả hợp lý, một trong những nỗi lo lớn nhất của nông dân là nông sản làm ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá bất lợi nhất là trong tình hình hiện nay hiều nông sản giá hạ thấp không hợp lý thậm chí có những loại giá rớt “tới đáy” Ví dụ: Hiện nay giá xuất khẩugạo của các doanh nghiệp Việt Nam đã ở mức thấp nhất so với giá của các nước xuất khẩu gạo chủ yếu khác. Một giải pháp giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm với giá cả hợp lý vf doanh nghiệp thu mua được nông sản xuất khẩu là cơ chế hợp đồng. Trong thực tế có nhiều thị trườngường hợp không thực hiện được hợp đồngđã ký kết do sự biến động của giá cả thị trường. Khi giá thị trường cao hơn giá hợp đồng, nông dân muốn giữ lại nông sản để đưa ra thị trường với giá cao, doanh nghiệp không mua được hoặc không mua đủ nông sản để chế biến và xuất khẩu. Ngược lại khi giá thị trường thấp hơn giá hợp đồng, doanh nghiệp không muốn mua hpặc mua ít nông sản của nông dân mà mua ở thị trường, nông dân không bán được hoặc bán được với số lượng ít, dẫn đến thiếu vốn để sản xuất. Vì vậy khi ký kết hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp, hai bên phải tính toán đầy đủ sự biến động của giá cả thị trường, quy định rõ trách nhiệm và quyền lực của mỗi bên. Kinh nghiệm của nhiều địa phương cho thấy hợp đồng phải được bàn bạc và ký kết trước 1 đến 2 tháng trước khi vào vụ sản xuất. Nội dung của hợp đồng phải ghi rõ số lượng, chất lượng thời gian và địa điểm giao nộp đặc biệt là giá cả. Để đảm bảo tính khả thi của hợp đồng, phải tính toán đầy đủ các chi phí sản xuất về tư liệu sản xuất và lao động để sản xuất ra sản phẩm. Giá nông dân bán cho doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng là chi phí thực tế để sản xuất ra sản phẩm cộng với tiền nộp thuế(nếu có) cộng với chi phí lưu thông(nếu nông dân phải vận chuyển sản phẩm tới doanh nghiệp) lãi dự tính(khoảng 20%) để nông dân có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng. Giá ký kết trong hợp đồng phải là hai bên(doanh nghiệp và nông dân) thoả thuận. Nếu do sự biến động giá cả thị trường thì hai bên phải bàn bạc với nhau tránh tình trạng nông dân không bán hoạc không bán đủ sản phẩm trong hợp đồng và doanh nghiệp không mua hoặc không mua đủ như đã xảy ra trong thực tế. 2.5.2 Chất lượng nông sản không đồng đều. Với tính phân tán của sản phẩm nông sản, thu mua nông sản ở nhiều nơimà mỗi nơi sản phẩm nông sản sản xuất ra có đặc tính chất lượng không giống nhau. Do vậy nguồn hàng tạo ra có chất lượng không đồng đều như gạo, chè… Điều này cũng do đặc tính giống sản xuất, mỗi giống nông sản cho kết quả sản phẩm khác nhau. Nhiều khi để đảm bảo số lượng nông sản mà người ta thu gom cả những sản phẩm có giống khác nhau tạo nên tính không đồng đều của chất lượng nông sản. Như “Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh, sản xuất tập trung tạo ra nguồn xuất khẩu nông sản tươi hay làm nguyên liệu cho các nhà máy chế biếnvà xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu Việt Nam không đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô hàng vì thế mà bị ép giá cao”. 2.5.3 Nhu cầu nông sản không ổn định. Cùng với sự biến đông nhu cầu hàng hoá khác, nông sản có nhu cầu không ổn định, đặc biệt nhu cầu ngoài nước,khi mà thị trường thế giới biến động, giá cả không ổn định, giá nông sản một số mặt hàng Việt Nam cao hơn các nước khác làm cho nhập khẩu nông sản Việt Nam giảm rõ rệt. Thị trường nước ngoài là thị trường khó tính họ yêu cầu vấn đề chất lượng tương đối cao mà nhiều khi sản phẩm Việt Nam không đáp ứng được, trong khi đó chất lượng nông sản sản xuất của một số nước đang tăng do giống, khoa học kỹ thuật cao hơn. Điều này làm cho khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp giảm. 2.5.4. Nông sản Việt Nam chưa theo kịp cơ chế thị trường +Sản xuất nông sản nhỏ lẻ chưa tập trung Việt Nam là một nước phát triển chưa mạnh nền nông nghiệp sản xuất còn lạc hậu và làm ăn thủ công tương đối nhiều, lối sản xuất nông nghiệp là nhỏ lẻ, manh mún. Các cơ sở sản xuất đều có quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu chủ yếu sản xuất thủ công vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo, chất lượng sản phẩm chưa cao nên khả năng tiêu thụ còn hạn chế. Hộ sản xuất Việt Nam có quy mô nhỏ rất phổ biến, kinh tế trang trại chưa phát triển, khả năng liên kết nhau cùng sản xuất, cùng tiêu thụ là chưa cao nên sảy ra tình trạng tranh mua, tranh bán gây thiệt hại cho cả hai bên. +Một điểm yếu nữa của nền nông nghiệp Việt Nam là nông dân chỉ bán sản phẩm mình sản xuất ra, không bán sản phẩm theo nhu cầu của thị trường. Trong khi đó thị trường là nơi mà người sản xuất phải hướng tới lợi ích người tiêu dùng, phải bán cái thị trường cần chứ không phải là bán cái mình có. Dù biết rằng nông sản là mặt hàng thị trường luôn cần nhưng nhu cầu của khách hàng thì rất phong phú, đa dạng , chất lượng cao. Còn người nông dân thường sản xuất hàng nông sản theo chức năng vụ mùa, mùa nào trồng, nuôi được cây, con nào thì sẽ sản xuất mặt hàng đó cho dù vụ này thị trường có cần mặt hàng đó không họ không cần biết. Chính điều này là một phần nguyên nhân gây ứ đọng hàng nông sản hiện nay. Ngay việc xuất khẩu của chúng ta cũng chỉ là chủ yếu dựa vào sản phẩm dư thừa chứ chưa dựa trên nhu cầu thị trường. Trong khi đó thị trường quốc tế luôn luôn biến động cả về số lượng, giá cả lẫn chất lượng. Nó làm khoảng cách giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng xa. Đây là điểm bất lợi trong vấn đề sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản của Việt Nam, làm hàng của chúng ta thường ở trong tình trạng tồn đọng, tiêu thụ kém. 2.6. hoạt động tiêu thụ nông sản hiện nay 2.6.1. Tiêu thụ nông sản tươi Nông sản tiêu thụ tươi thường là rau- quả -hoa tươi và phần lớn là tiêu thụ nội địa. Vào thời kỳ 1986-1995 hoa quả thường được xuất sang thị trường Đông Âu. Sau khi thị trường Đông Âu không ổn đình, xuất khẩu rau-quả gặp nhiều khó khăn, thị trường bị thu hẹp, kim ngạch xuất khẩu giảm đi đáng kể chỉ đạt khoảng 17 triệu rúp mỗi năm. Từ năm 1995 đến nay việc xuất khẩu hoa quả đã có những chuyển biến năm 1996 các công ty rau quả đã xuất khẩu sang 43 nước và đạt doanh số 20 triệu USD, Năm 1997 xuất khẩu đạt khoảng 38 nghìn tấn gồm cả quả tươi và đã qua chế biến. Còn mức tiêu thụ bình quân đầu người nước ta chỉ đạt 30-40kg/người/năm, trong khi đó trên thế giới là 70kg/người/năm. Như vậy năng suất và tiêu thụ bình quân đầu người của Việt Nam là quá thấp Nhưng có điểm mạnh trong rau quả của ta là có tính đa dạng là được nhiều thị trường ưa chuộng như thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông....với thị trường tiêu thụ lớn nhất là thị trường Trung Quốc. 2.6.2. Tiêu thụ nông sản chế biến Nông sản chế biến có giá trị lớn trong vấn đề tiêu thụ nông sản hiện nay. Các nông sản chế biến này có hương vị riêng biệt được thị trường nước ngoài ưa chuộng như long nhãn, vải khô trên thị trường Trung Quốc, Hà Lan, Singapore, Hồng Kông, mơ-mận muối trên thị trường Nhật Bản ....Tuy nhiên các cơ sở sản xuất đều có quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu chủ yếu sản xuất thủ công, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa dảm bảo, chất lượng sản phẩm chưa cao nên khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng bị hạn chế. Đặc biệt năm 2000 do có nhiều biến động trên thị trường vải, nhãn sấy khô, long nhãn ...nên hoạt động của một số cơ sở chế biến phải ngừng hoạt động Mặc dù đã có rất nhiều cố găng trong lĩnh vực chế biến rau quả song cho đến nay ở nước ta tỷ lệ rau quả bảo quản, chế biến còn ở mức thấp (6,0-7,0% tổng sản lượng) đặc biệt các loại rau vụ đông như cà chua, rau cải ...vẫn chưa có phương thức chế biến ổn định, tình trạng được mùa mất giá hàng năm vẫn xảy ra Còn với mặt hàng gạo và cà phê...chế biến thì đạt những kết quả đáng kể : tiêu thụ gạo suất khẩu đạt 23 triệu tấn năm 2001 mặc dù lúc đó một số nước đang lâm vào khủng hoảng, Tuy vậy lượng xuất khẩu này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của chúng ta. Một trong những nguyên nhân đó là giá thành còn cao, đòi hỏi nhà nước cần có những biện pháp cụ thể như miễn giảm phụ thu và thuế nhập khẩu Một trong những nhân tố gây khó khăn cho xuất khẩu gạo là giá thành của ta còn cao, ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ gạo. Do đó nhà nước cần có những chính sách giảm chi phí đầu vào cho ngành nông nghiệp như miễn giảm thuế đất, giảm thuế nhập khẩu phân bón. Còn với mặt hàng cà phê thì ảnh hưởng nhiều của tình hình suy thoái kinh tế thế giới và nó còn chưa rõ ràng ,thị trường cà phê trong những năm qua chịu ảnh hưởng chủ yếu của quan hệ cung cầu trong đó cung vượt cầu trong 3 niên vụ gần đây. Điều đó làm cho giá cà phê giảm, vấn đề tiêu thụ gặp nhiều khó khăn… Như vậy sản xuất nông nghiệp của chúng ta vẫn là sản xuất nhỏ, quy mô gia đình, dựa trên phương thức canh tác và quản lý truyền thống nên chất lượng hạng hóa còn thấp, không đồng đều và chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, do sức cạnh tranh không cao, giá bán thường thấp hơn giá cả các nước khác từ 20-30%. Do bị hạn chế về khă năng tài chính đầu tư cho việc chế biến, đóng gói, bảo quản nên các hộ nông dân có rất ít cơ hội để sơ chế và kéo dài thời gian bảo quản bán hàng vào thời điểm cao giá nhất 3. Những kết quả tiêu thụ đạt được trong những năm gần đây 3.1. Giải quyết công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động trong nước. Việt Nam là một nước mà phần lớn người dân làm nông nghiệp, họ sống và gắn bó cả cuộc đời mình với ngành nông nghiệp. Sản phẩm họ làm ra là nông sản, đời sống của họ phụ thuộc vào việc có tiêu thụ được nông sản được hay không. Trong những năm gần đây mặc dù tiêu thụ nông sản chưa cao nhưng đã giải quyết việc làm cho không ít lực lượng lao động làm nghề nông nghiệp, đời sống nông dân đã khá lên. Đó là sự đầu tư của nhà nước, nhờ hoạt động của tư thương... Ngoài ra tiêu thụ sản phẩm còn giải quyết công ăn việc làm cho một lớp lao động làm công tác tư thương, lực lượng buôn bán nông sản và đội ngũ công nhân viên chế biến nông sản. 3.2. Đáp ứng nhu cầu nông sản trong nước. Những năm gần đây chúng ta không phải nhập khẩu nông sản từ nước ngoài nữa như gạo, đường...chúng ta đã tự sản xuất và tự đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước vè cả số lượng lẫn chất lượng. 3.3.Giá trị nông sản xuất khẩu Trong những năm gần đây, nhiều chính sách đổi mới nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể. Năm 2000 GDP nông thôn tăng 4,5% sản lương thực đạt 35,5 triệu tấn, xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn. Sản lượng nông sản khác cũng tăng mạnh, cà phê 700 nghìn tấn, hồ tiêu 45 ngàn tấn, hạt điêu nhân 26,4 ngàn tấn, giá trị rau quả đạt 205 triệu USD . Giá trị nông sản chiếm 30% toàn bộ giá trị xuất khẩu toàn quốc và tăng khoảng 15%/năm. Giá trị một số mặt hàng nông sản cụ thể Với mặt hàng gạo: Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu, năm 2001 giá trị xuất khẩu đạt 23 triệu tấn, dự kiến là 23500 vào năm 2002 và giá gạo xuất khẩu có thể tăng. Với mặt hàng cà phê : Năm 2000 ta xuất khoảng 734 ngàn tấn, đạt kim ngạch 501,4 triệu USD tăng 52% về lượng so với năm 1999. Dự kiến năm 2002 đạt 850 ngàn tấn. Nhưng giá cà phê có xu hướng giảm Năm 1999 giá cà phê xuất khẩu là 1.213 USD/tấn Năm 2000 giá cà phê xuất khẩu là 683 USD/tấn (giảm 43%) trong đó vào tháng 1/2000 là 948 USD/tấn, đến tháng 12/2000 là 483 USD/tấn Năm 2002 giá cà phê xuất khẩu dự kiến vẫn ở mức thấp khoảng 400 USD/tấn và dự kiết sẽ tăng vào năm 2003 là không đáng kể Với mặt hàng rau quả : giá trị xuất khẩu ngày càng tăng góp phần giải quyết đầu ra cho nông dân, ngoại tệ vì thế mà cũng tăng. Năm 2001 xuất khẩu đạt 330 triệu USD tăng 54% so với năm 2000 ( 213 triệu USD ) . Năm 2002 dự kiến xuất khẩu 360 triệu USD tăng 9% so với 2001 . Đồng thời xuất khẩu sang hơn 50 nước thường tập trung vào thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… Chương III : Giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay 1.Tổ chức sản xuất nông sản hợp lý 1.1.Chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hang hóa đáp ứng nhu cầu thị trường . Như ta đã thấy những khó khăn, thua thiệt về tiêu thụ nông sản đã bộc lộ rõ chỗ yếu cơ bản của nền nông nghiệp nước ta là sản xuất chưa bám sát nhu cầu thị trường và sản phẩm còn kém sức cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả. Do đó ngành nông nghiệp cần điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất, hình thành và phát triển các vùng chuyên môn hóa sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường và lợi thế sản xuất của nước ta. Trên cơ sở đó cần phân loại các mặt hàng nông sản để từ đó định hướng thị trường và sản xuất phù hợp cũng như có những chính sách tác động hợp lý. Nhóm các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao và cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm lúa gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu…mặt hàng cạnh tranh trung bình và có triển vọng như cao su, tơ tằm, chè, lạc, rau quả , nhóm cạnh tranh yếu là sữa, đường, bông,thuốc lá, cây có dầu. Sau khi phân loại khả năng tiêu thụ của từng loại mặt hàng chúng ta sẽ có những chiến lược cụ thể khi đưa sản phẩm tham gia tiêu thụ trên thị trường . Trước hết đòi hỏi người nông dân phải hiểu được nhu cầu, quy luật phát triển nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu thị trường từ đó lựa chọn, bố trí cây trồng, vật nuôi, ngành nghề cho phù hợp. Muốn thế cần phải hướng hỗ trợ nông dân chuyển dịch cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường, trước hết Nhà nước cần điều chỉnh quy hoạch tổng thể vè sủ dụng đất. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc an ninh lương thực. Đồng thời các nhà chức năng phải hoạch định, chuyển diện tích cây trồng không hiệu quả sang nuôi trồng những cây, con khác có thị trường tiêu thụ, thực hiện tốt quy hoạch nuôi trồng ghép ở các vùng đồng bằng cũng như miền núi. Đưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng xuất sản xuất cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; phát triển nhanh cây, con có khả năng cung cấp nguyên liệu chế biến như bông dâu tằm,thuốc lá, ngô, đậu tương và sản phẩm ép dầu, bột giấy, nuôi bò sữa…chuyển dịch cây cà phê vối sang trồng cây cà phê chè có phẩm chất tốt hơn ở những vùng có điều kiện. Đánh giá lại hiệu quả của các nông, lâm trường có phương án thích hợp để sủ dụng tốt nhất tài nguyên, đất đai và phát triển kinh tế – xã hội trên từng địa bàn Khai thác mọi nguồn lực để phát triển sản xuất và công nghiệp chế biến rau quả đảm bảo vững chắc vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến. Đầu tư tập trung vào những ngành mũi nhọn, tạo ra những sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao để phục vụ xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu. Chú trọng phát chế biến nhỏ ở nông thôn kết hợp và phát huy các loại hình chế biến một cách có hiệu quả, hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác giữa nông dân , hợp tác xã và các doanh nghiệp … tạo ra các trung tâm công – dịch vụ ở vùng nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu nông sản xuất khẩu phù hợp với yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới, đáp ứng số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Từ đó trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp chúng ta phải ưu tiên, lưa chọn những nông sản có giá trị cao như gạo có chất lượng cao, chè đặc sản, cà phê arabica, dứa cayen, lợn siêu lạc,cho phép trên mỗi đơn vị diện tích cây trồng và trên mỗi đầu gia súc từ đó sẽ thu được nhiều kim ngạch xuất khẩu. Như vậy có thể với số diện tích cây trồng trọt không lớn lắm, với số đầu gia súc không nhiều nhưng chúng ta vẫn thu được kim ngạch xuất khẩu cao. Đó là xu thế xuất khẩu hiện đại. Khắc phục tình trạng sản xuất phân tán và manh mún, thu mua gom nông sản ở nhiều nơi để xuất khẩu, làm giảm chất lượng sản phẩm và tăng chi phí, cần xây dựngvà phát triển các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu có quy mô lớn như hình thành các vùng chuyên môn hóa với quy mô lớn. Trong thập kỷ tới phát triển mạnh mẽ kinh tế hợp tác với nhiều loạihình, quy mô và mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác giữa các thành phần kinh tế với phương châm thiết thực và hiệu quả. Đây là yêu cầu khách quan của quá trình sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp nông thôn nói chung và sản xuất hàng hóa của hộ nông dân nói riêng, khuyến khích các hộ nông dân hình thành các hội, các hiệp hội theo ngành nghề, theo sản phẩm …Cần chú ý các hình thức tổ chức mới ra đời phải dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng và thực sự cùng có lợi. Sự ra đời và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác kiểu mới tạo không gian hoạt động kinh tế tốt hơn để phát triển kinh tế hộ, trang trại . 1.2.Phân bố sản xuất nông sản phù hợp với thế mạnh từng vùng Vấn đề giúp sản phẩm có thể cạnh tranh tốt trên thị trường không gì bằng chât lượng và giá cả. Trong nông nghiệp điều này phụ thuộc phần lớn vào năng xuất sản xuất và sự thích hợp cây, con với vùng sản xuất. Điều này đòi hỏi chúnh ta phải xác định được thế mạnh từng vùng về địa hình, khí hậu, tính chất đất, trình độ kỹ thuật của con người . Từ đó phân bố sản phẩm nuôi, trồng và lưu thông sản phẩm theo từng thế mạnh đó. Việt Nam là một nước có tiềm năng phát triển hàng nông sản. Với khí hậu nhiệt đới và ôn đới cùng với 7 vùng sinh thái khác nhau, chúng ta có thể sản xuất mặt hàng nông sản phong phú, do đó cần phân bố cây, con thích hợp như ở Trung du, miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chè, chuối, dứa, vải, nhãn, xoài, đậu côve, súp lơ xanh, xu hào, khoai tây…ở Đồng bằng sông Hồng có thể trồng nhãn, cam, quýt, na, chuối, xoài, các loại rau đặc biệt là trồng lúa nước. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng lúa, vải,nhãn, xoài, sầu riêng, măng cụt, cam, quýt, dứa….Miền đông Nam Bộ và Tây Nguyên có thể trồng cao su, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, dứa, chuối, mít, chôm chôm, bơ, thanh long.. Sau khi xác định được thế mạnh và phân bố cây, con vào từng vùng cụ thể, chúng ta có thể bắt đầu đầu tư vào từng địa phương, từng sản phẩm trong từng khoảng thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu xác định, tránh dàn trải phân tán mà đầu tư trực tiếp theo từng vùng từng dự án. Xây dựng và phát triển các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu có quy mô lớn như các vùng lúa gạo, vùng ngô, vùng cây công nghiệp, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, chè, mía đường, bông, rau-quả, vùng chăn nuôi bò sữa, nuôi lợn..Trong các vùng đó cần gắn khâu sản xuất nguyên liệu, chế biến, bảo quản, vận chuyển bốc xếp, tiêu thụ sản phẩm thông qua các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp chế biến, nông hộ hợp tác xã, trang trại sản xuất nguyên liệu, việc phát triển các vùng sản xuất nông sản xuất khẩu tập trung sẽ góp phần quan trọng đảm bảo số lượng, tăng chất lượng và hạ giá thành nông sản xuất khẩu giảm tình trạng đầu cơ, đảm bảo giá mua bán hợp lý có lợi cho cả nông dân sản xuất nguyên liệu và người tiêu thụ, chế biến nông sản . 1.3.Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm nông sản . Nhu cầu thị trường ngày càng tăng về số lượng, cơ cấu và tính kịp thời. Sở dĩ các nông sản phẩm của ta khó cạnh tranh được với các loại sản phẩm cùng loại của nước ngoài là do chất lượng sản phẩm của ta chưa cao, mặc dù giá thành không thua kém. Để cao khả năng cạnh tranh thì phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng chất lượng cây, con giống, kỹ thuật canh tác, gieo trồng chăn nuôi. + Nâng cao chất lượng giống Do nhiều lý do, Việt Nam không được sớm tiếp xúc với cuộc Cách mạng công nghiệp xanh trên thế giới cho nên đến nay các loại nông sản của chúng ta thường là sản phẩm truyền thống tuy có khả năng chống chịu sâu bệnh và thời tiết bất thuận nhưng năng suất rất kém và không ổn định ví dụ : rau – quả của chúng ta chỉ đạt sản lượng trung bình khoảng 9-10 tấn/ha trong khi đó thế giới là 30-40 tấn/ha. Nông sản không những năng suất thấp mà chất lượng cũng không cao, kích thước nhỏ. Trên thế giới nhờ có sự lai tạo, lựa chọn được nhiều giống cây có năng suất chất lượng cao ( dứa cayen năng suất bình quân đạt 64 tấn/ha tỷ lệ thu hồi thịt quả khi đóng hộp đạt 70% và mầu trắng đẹp, ít đường độ chua phù hợp ; sầu riêng đạt 30-40 tấn/ha tỷ lệ múi đạt 60-70%; chôm chôm thì dóc hạt; xoài tím hạt lép…) Để khắc phục tình trạng này chúng ta cần nhập giống mới từ nước ngoài vào để áp dụng. Trước hết chúng ta phải tổ chức khảo sát, đánh giá điều kiện khí hậu- sinh thái với từng loại giống nội và ngoại nhập việc này cần phải được tiến hành đồng bộ dựa trên sự đầu tư hỗ trợ vốn, kỹ thuật của Nhà nước. Từ đó nghiên cứu lai tạo lựa chọn đầu tư giống có năng suất cao, chất lượng xuất khẩu tốt có khả năng chống chịu sâu bệnh, đặc biệt giống cây lương thực, cây công nghiệp mới, cây ăn quả, giống gia xúc, gia cầm Sau đó đẩy mạnh triển khai nhân giống, tập trung đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, chú trọng phát triển trung tâm giống đảm bảo nhân giống giữ được chất lượng và giá trị thương phẩm cao,bằng cách sủ dụng các phương pháp công nghệ tiên tiến như cấy mô, chiết ghép, biến đổi ghen … để có thể nhanh chóng mở rộng diện tích, hạn chế dịch bệnh, phát triển độ đồng đều của nông sản tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến phát triển. Các trung tâm này sẽ là hạt nhân cho vấn đề phát triển rau quả, vừa cung cấp giống vừa hướng dẫn kỹ thuật canh tác tới hộ sản xuất theo các hợp đồng kinh tế có ràng buộc trách nhiệm, quyền lợi với sản phẩm cuối cùng. + Nâng cao chất lượng chế biến và bảo quản hàng nông sản. Chất lượng hàng nông sản tiêu thụ, đặc biệt là nông sản đóng hộp thì khâu chế biến có ảnh hưởng nhất định. Để nâng cao nông sản qua chế biến ta cần thực hiện những vấn đề sau -Để khâu chế biến và bảo quản được thực hiện tốt thì ngay từ khâu thu hái chúng ta phải huấn luyện cho ngượi nông dân quy trình thu hoạch đúng độ chín, không để xây xát, không làm ảnh hưởng tới vụ thu hoạch sau. Trong khâu vận chuyển cũng phải đảm bảo hư hỏng ít nhất, đến cơ sở chế biến cần phân loại nông sản để chế đóng gói khác nhau, bao bì phải có tính bảo quản cao. Thường muốn bảo quản tốt hàng nông sản nên để hàng trong môi trường lạnh kể cả trong kho và trên đường vận chuyển. - Một điểm cần lưu ý là chọn công nghệ phải thích hợp với nhu cầu thị trường và từng loại nông sản *Với khu vực nguyên liệu tập trung : diện tích chuyên canh lớn (2000-2500 ha) bố trí dây truyền hiện đại, công suất lớn ( 5.000-20.000 tấn/năm ). Thực hiện cả 3 loại hình công nghệ với hàng rau quả : chế biến nước quả cô đặc, bột quả phục vụ xuất khẩu, chế biến nước quả ép, đồ hộp, mứt…phục vụ nội địa và một phần xuất khẩu. *Vùng nguyên liệu phân tán : chế biến bằng các công nghệ đơn giản, sản phẩm chủ yếu là sấy, đóng lọ…phục vụ nội địa là chính, một số có thể sủ dụng để xuất khẩu thông qua các trung tâm chế biến lớn, thực tế đã chứng tỏ như ở khu vực Đồng bằng Sông Hồng : cơ sở chế biến rau quả quy mô nhỏ đóng vai trò quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm rau quả cho nông dân.Sản phẩm chủ yếu của các cơ sở này là ở dạng chiên sấy, muối và một số loại đóng hộp, trong đó sản phẩm chiên sấy là chủ yếu (72,1% số cơ sở chế biến sản xuất sản phẩm này). Các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây đã hình thành làng nghề chế biến rau quả như sản xuất long nhãn ở Tiên Lữ (Hưng Yên), vải sấy khô ở Thanh Hà(Hải Dương), rau quả sấy, muối ở Hoài Đức(Hà Tây). Các sản phẩm chế biến này có hương vị riêng biệt rất được thị trường nước ngoại ưa chuộng Tuy nhiên khi lưa chọn công nghệ chế biến phải thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng và phải có giá thành vừa phải. Do vậy trong tất cả các nhà máy chế biến phải tổng hợp lợi dụng các phần nguyên liệu khác nhau để tạo ra thêm các sản phẩm mới. Và một điều đặc biệt chú ý là tất cả các sản phẩm làm ra phải bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh quốc gia và quốc tế. Đây là điều rất quan trọng giúp sản phẩm nông sản đứng được trên thương trường quốc tế. 2. Tổ chức lưu thông, tiêu thụ sản phẩm nông sản 2.1. Nắm bắt thông tin kịp thời. *Thông tin thị trường Như ta đã biết tình trạng ứ đọng hàng nông sản hiện nay có một nguyên nhân quan trọng nhất là do công tác dự báo, nắm bắt thị trường của Việt Nam rất kém. Chúng ta không chịu nghiên cứu và tìm hiểu thị trường : như tại sao giá nông sản lại giảm mà “chúng ta lại cứ ngồi mà hồi hộp mong ngóng chờ nước khác mất mùa, lũ lụt để hàng mình có giá”(1). Chính vì không nắm bắt kịp thông tin thị trường mà nhiều khi có những sản phẩm mà thị trường người ta thừa rồi mà mình cứ lao vào, cái người ta cần thì mình lại không có thông tin. Thực tế đó buộc chúng ta nghiên cừu thông tin về thị trường một cách cập nhật hơn, cần xem xét thị trường có nhiều hay ít người cùng sản xuất một loại sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường như thế nào ? xem xét đối thủ cạnh tranh là ai, tiềm năng của họ ra sao, từ đó mình có chiến lược sản xuất –kinh doanh phù hợp với thị trường. Đặc biệt cần có sự quan tâm tới những thị trường truyền thống như Đông Âu, SNG, Trung Quốc… Sau đó cần có chủ chương và cơ chế để thực hiện có hiệu quả việc xúc tiến thị trường gồm: + Giữ vững thị trường truyền thống + Phân loại thị trường để thích ứng + Phát triển thị trường mới Ngoài ra để có thể tận dụng triệt để đầu mối tiêu thụ sản phẩm, người nông dân cần quan tâm tới các chợ đầu mối, đây là nơi nối kết người bán và người mua, hình thành giá cả, dịch vụ. Qua đây ta có thể nắm bắt thông tin về giá cả, thị trường quốc tế, giúp ta có thể hoạch định chiến lược tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn. Để khâu nắm bắt thông tin thị trường tốt hơn thì hoạt động dự báo thị trường cần có sự hỗ trợ của Nhà nước và các cơ quan chuyên nghiên cứu và dự báo về thị trường dài hạn, trung hạn, ngắn hạn … thông báo kịp thời cho địa phương và doanh nghiệp liên quan. Đồng thời khuyến khích các đơn vị cá nhân, việt kiều tham gia sự báo thị trường hạn chế sản xuất tràn lan cung vượt xa cầu hoặc chưa có cầu đã tổ chức cung.Từ đó hướng dẫn người sản xuất nông sản tìm kiếm những khả năng và ký những hợp đồng thương mại lớn để tạo cơ hội cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường lớn, tạo nhiều triển vọng tiêu thụ hàng xuất khẩu của nông sản Việt Nam. *áp dụng chính chính sách của Nhà nước. Người sản xuất phải nắm được những chinh sách của Nhà nước có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ nông sản phẩm như chính sách thuế, hỗ trợ khen thưởng xuất khẩu, chính sách tài chính tín dụng vay và lãi xuất, chính sách khuyến nông và áp dụng khoa học kỹ công nghệ. Nhà nước phải có đầu tư đích đáng để nâng cao trình độ sản xuất và tiếp cận thị trường cho người sản xuất để họ có thể tự chủ trong sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Còn đối với người nông dân thì cần phải nhanh nhạy, nắm bắt nhanh các chính sách để chớp thời cơ sản xuất –tiêu thụ. 2.2. Xây dựng chiến lược marketing, bán hàng, lập thương hiệu, đặc trưng. Như phần II đã nói vấn đề xúc tiến bán hàng có vai trò quan trọng quyết định một phần sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra có tiêu thụ được hay không ? -Chiến lược marketing phải đảm bảo gây ấn tượng cho người tiêu dùng bằng dùng thử, khuyến mãi, chào hàng …Chúng ta phải làm cho người tiêu dùng phải chú ý tới sản phẩm và đặc tính của nó, có như thế cơ hội tiêu thụ sản phẩm mới cao -Chiến lược bán hàng được xây dựng trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng bằng thái độ nhân viên bán hàng, và đặc biệt là xây dựng được mức giá bán hợp lý bảo đảm lượng sản phẩm được tiêu thụ là tối đa. -Tài sản vô hình của doanh nghiệp là uy tín của nó điều này được đánh giá bằng sự nổi tiếng của thương hiệu. Nói đến tên một thương nào đó điều này như một sự bảo đảm về giá cả, chất lượng và mẫu mã cũng như sự tín nhiệm của khách hàng trong lần mua hàng sau. Do vậy chúng ta cần xây dựng được thương hiệu đặc trưng cho sản phẩm như cà phê Trung Nguyên, chè Tân Cương… Đồng thời có biện pháp bảo vệ thương hiệu tránh sự đánh cắp thương hiệu gây thiệt hại cho doanh nghiệp 2.3. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Trong tiêu thụ sản phẩm chúng ta đã bỏ ngỏ một số thị trường chưa khai thác hết, chưa giải quyết lượng nông sản tồn đọng, cùng với sự giữ vững những thị trường mà chúng ta đã chiếm lĩnh, chúng ta cần mở rộng thị trường tiêu thụ hơn nữa. Bằng cách phấn đấu từng ngày từng giờ để có những sản phẩm mới với chất lượng tốt, giá thành thấp, đủ sức cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường mới. Đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu trực tiếp nông sản trên cơ sở bảo đảm chất lượng sản phẩm và hiệu quả xuất khẩu, mở rộng lưu thông, buôn bán trên các thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian tới với thị trường nước ngoài cần duy trì và mở rộng thị trường Châu A, EU, Trung Đông, khôi phục thị trường Nga và thị trường Đông Âu, phát triển thị trường Trung Quốc, đồng thời từng thâm nhập thị trường Mỹ và Mỹ La Tinh. 3.Các giải pháp từ chính phủ. 3.1. Hỗ trợ đầu tư vốn Do đặc tính của mặt hàng nông sản là tính thời vụ cao dễ hư hỏng, khó bảo quản vì vậy lúc cao điểm của mùa thu hoạch, hàng sản xuất ra nhiều nhưng không tiêu thụ kịp thời, người nông dân thường bị tư thương ép giá, gây ra tình trạng ách tắt trong tiêu thụ. Để giảm bớt sự ách tắc đó Nhà nước phải chủ độngcan thiệp bằng cách đầu tư vốn cho thu mua hàng nông sản vào vụ thu hoạch rộ ở các vùng sản xuất chuyên canh, mua hàng khi giá rớt đảm bỏa bù đắp chi phí, tạo vốn sản xuất cho nông dân. Đồng thời cần có sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp Nhà nước tham gia vào việc thu mua nông sản phẩm như cấp tín dụng ưu đãi. Nhà nước cũng cần gấp rút xây dựng nhiều nhà máy chế biến nông sản hiện đại, cần cấp vốn lưu động bổ xung hoặc cho vay vốn tín dụng ưu đãi cho những doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản dùng vào việc xây dựng kho tàng máy móc thiết bị cho việc bảo quản, chế biến hàng nông sản. Điều này sẽ hạn chế sự ách tắc trong tiêu thụ ở thời điểm vụ mùa, góp phần điều hoà cung ứng nông sản về mặt thời gian cũng như nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản. Nhà nước nên đầu tư vốn cho việc nghiên cứu xúc tiến thương mại, đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần giải quyết tình trạng tiêu thụ sản phẩm nông sản hiện nay. Ngoài ra chính phủ cần có chính sách ưu đãi với người sản xuất nông sản xuất khẩu như tạo điều kiện thuận lợi cho họ vay vốn ngân hàng với thủ tục đơn giản trong thời gian trung hạn và dài hạn lãi xuất ưu đãi, quy mô vay vốn ... đủ để làm nông sản xuất khẩu. Trợ giá cước hàng xuất khẩu cũng như điều chỉnh thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với những nông sản xuất khẩu chủ lực. 3.2.Thu gom nông sản, giữ giá ổn định Trong tình hình thị trường trôi nổi trong và ngoài nước xuống giá, giá thấp sẽ không đủ bù chi phí sản xuất và tái sản xuất mở rộng hàng nông sản, mặt khác khi giá xuống thì muốn tăng giá sau này là rất khó. Điều này cần giải pháp tình thế từ chính phủ là mua tạm trữ nông sản giữ giá và chờ giá lên. Còn đối với lượng nông sản đã dự trữ thì trong lúc thị trường chưa ổn định chính phủ có thể kéo dài thời gian tạm trữ từ 6 tháng đến 1 năm và cho phép các doanh nghiệp mua tạm trữ được luân chuyển xuất khẩu và mua bù vào phần đã xuất Nhà nước cấp cho doanh nghiệp toàn bộ lãi xuất vay ngân hàng để mua tạm trữ theo giá để nông dan ít bị thua thiệt, khi xuất khẩu mà giá thị trường thế giới xuống thấp hơn giá mua thì Nhà nước có biện pháp bù đăp thiệt hại. Nhưng việc thu mua nông sản kiểu này chỉ là những giải pháp tình thế và không lâu vì dữ trữ thì cũng có một giới hạn nhất định, nếu dự trữ mãi thì sẽ bán di đâu. 3.3. Tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông sản Tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông sản sẽ giải quyết được sự tồn đọng của nông sản, Nhà nước tham gia vào cùng các doanh nghiệp tìm kiếm khai thác thị trường mới sẽ là biện pháp đâỳ hiệu quả. Đòi hỏi chính phủ tích cực tìm kiếm và xúc tiến ký kết các hợp đồng chính phủ về buôn bán nông sản , tạo cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện nganh chóng vươn ra tiếp cần với các “thị trường kỳ hạn” nhằm loại bỏ những rủi ro do những biến động của giá cả trong ngắn hạn gây ra thông qua thoả thuận trước về mức giá cho sản phẩm được giao trong tương lai. Đây chính là biện pháp phân tán rủi ro, chuyển rủi ro ra nước thị trường ngoài, hạn chế mức thấp nhất về giá cả cho người sản xuất trong nước. Ngoài ra chính phủ cần có chính sách tăng đầu tư cho hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trượng từ đó dự báo cung cầu của thị trường tạo cơ sở đầu tiên để quy hoạch và điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông sản một cách kịp thời, đáp ứng thị trường

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36107.doc
Tài liệu liên quan