Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH còn mang tính tự cung, tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi hình thành đội ngũ cán bộ có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Nhận thức được tác dụng to lớn của kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước ta qua nhiều năm đổi mới đã quyết định phát triển nền kinh tế nước ta theo con đường kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh bước đi này hoàn toàn đúng đắn .
Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc tăng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta khác xa so với các nền kinh tế thị trường khác, nó không phải là kinh tế thị trường TBCN cũng không phải là kinh tế thị trường XHCN mà là kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng ta đang trên con đường xây dựng CNXH vì vậy một mặt phát triển kinh tế mặt khác phải giữ vững định hướng XHCN. Chính vì vậy vai trò của nhà nước cùng với thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng về những nhân tố dảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi xã hội đều có cơ cấu kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới - XHCN ở nước ta.
Mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế- xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có sự khác biệt và những mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn như các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất giải quyết việc làm nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại lợi ích chung của xã hội. Vì vậy kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
c. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị trước hết là quan hệ sở hữu quyết định…. Quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thể hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX). Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, tập thể, cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng.
Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hoặc tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
Về nguyên tắc phân phối, đại hội IX của Đảng đã khẳng định: "Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào trong sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội “(1).
Việc khẳng định nguyên tắc phân phối này rõ ràng là kết quả của sự kế thừa bổ xung và phát triển những nguyên tắc đã được lần lượt đề ra qua các đại hội VI, VII, VIII của Đảng trước đó. Có thể xem đây là nguyên tắc phân phối phù hợp với thực tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta lấy kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột có cuộc sống ấm lo hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đó.
d. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN.
Tại đại hội VII của Đảng đã xác định: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN”(3). Và được đại hội IX phát triển thành chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh… giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, hầu hết tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư bản mà là nhà nước
(1) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2001,trang 86.
XHCN của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm "sửa chữa những thất bại" của thị trường thực hiện các mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan tự vân động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thể hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế còn cơ chế thị trường sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế.
Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kế hoạch có ưu điểm là tập trung được các nguồn lực cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch hoá khó bao quát được hết tất cả các yêu cầu đa dạng và luôn biến đổi của đời sống kinh tế đồng thời sự điều chỉnh của kế hoạch không được nhanh nhậy. Trong khi sự điều tiết của cơ chế thị trường lại nhanh nhậy, nó kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế đáp ứng nhu cầu đa dạng của đời sống văn hoá. Song khuyết điểm cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát nên có thể đưa đến sự mất cân đối gây tổn hại cho nền kinh tế. Vì thế cần có sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thị trường là căn cứ để kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch đưa ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thể hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. ở tầm vi mô thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung- cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất, sản xuất ra sản phẩm gì? sản xuất cái gì và cho ai? Cũng nhờ đó mà các doanh nghiệp lựa chon được cơ cấu sản xuất cơ cấu đầu tư cho mình. ở tâm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định nhưng kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly được tình hình bất động của thị trường. Thoát ly thị trường kế hoạch hoá vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch hoá vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn tổng thể của kinh tế như tổng cung tổng cầu sản xuất- tiêu dùng, hàng hoa- tiền tệ. Kế hoạch hoá vĩ mô có thể tác động đến cung cầu để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng của kế hoạch.
2. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.
“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền kinh tế thị trường TBCN thế giới mà còn khác về trình độ phát triển, nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát triển cao, hiện đại”(1).
Do có sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật- công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới là yếu tố tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta nhằm phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền kinh tế thị trường thế giới bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn tư tưởng trong nước với tư tưởng khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập, tự chủ và bảo vệ được lợi ích quốc gia, độc lập trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
(1) Tạp chí cộng sản số 20 (tháng 10 năm 2004) – trang 28
Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, phải đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới chú trọng htị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quên thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra các thị trường mới cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
3. Phân biệt kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trường TBCN.
Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay là một bước tiến dài trên con đường nhận thức về mô hình kinh tế mà Việt Nam hướng tới- mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nếu cách đây 16 năm trên bình diện lý luận về mô hình kinh tế vẫn còn phân biệt giữa kế hoạch là đăc trưng só một và quan hệ thị trường là đặc trưng số hai của cơ chế kinh tế mới thì hiện nay tư tưởng nhất quán là xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự thành công về kinh tế của 16 năm qua cũng làm dịu đi những phản ứng của một số nhà lý luận kinh tế phương Tây về định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn.
Vậy giữa mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn có gì khác các mô hình kinh tế thị trường phổ biến trên thế giới hiện nay.
Trước hết, về mặt lý luận chúng ta thừa nhận rằng hàng hoá, thị trường phải gắn liền với các phạm trù cung- cầu, giá cả, giá trị lợi nhuận, cạnh tranh… phản ánh các mối quan hệ chung của cơ chế thị trưòng, phản ánh tổng thể các quan hệ giữa con người với con người phát sinh trong quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng. Hàng hoá là hàng hoá, giá cả là giá cả… chúng không nói lên đặc trưng gì về chính trị xã hội. Mặt khác chúng ta lại thấy rằng các thuật ngữ và pham trù trên đây luôn tồn tại gắn liền với một nền kinh tế hiện thực của mỗi dân tộc trên một vùng lãnh thổ cụ thể.
Vì mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội, phong tục tập quán khác nhau nên cũng có mô hình kinh tế khác nhau, vừa phản ánh các quan hệ chung bản chất, vừa phản ánh các quan hệ đặc thù trong từng phương thức sản xuất và sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế.
Tóm lại, không có một mô hình thị trường nào là bản sao của mô hình kinh tế thị trường khác và trong chừng mực nhất định khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: tăng trưởng bền vững, cân bằng và hiệu quả XHCN…
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam vừa mang những cái phổ biến của mô hình thị trường nói chung và các đặc thù của mô hình trong kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế chịu tác động hàng ngày hàng giờ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… chứ không phải là những quy luật mang tính hình thức như trong mô hình kinh tế cũ.
Thứ hai, cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu vì chỉ thông qua cơ chế thị trường mới liên kết được các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc gia, cạnh tranh là yếu tố tất yếu để tồn tại của doanh nghiệp.
Thứ ba, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp luật.
Thứ tư, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc làm sống động thị trường.
Thư năm, trong nền kinh tế thị trường tiền tệ đóng vai trò quan trọng. Đồng tiền được phát huy đầy đủ các chức năng của mình (chức năng lưu thông, thước đo giá trị, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ thế giới) đồng tiền quốc gia từng bước hoà nhập vào đồng tiền thế giới.
Thứ sáu, thị trường bao gồm thị trường hàng hoá dịch vụ và thị trường các yếu tố sản xuất
Thứ bẩy, thị trường quốc gia là một thể thống nhất không thể chia cắt theo ranh giới hành chính, thị trường quốc gia từng bước hòa nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
.Thứ tám, nhà nước điều khiển thị trường thông qua hệ thống luật lệ và chính sách, trong đo luật thương mại được xem như luật chơi cơ bản của thị trường. Bên cạnh những đặc điểm chung của một nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm rất đặc trưng, khác với các nền kinh tế thị trường TBCN. Cụ thể:
Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đó là: phát triển kinh tế để đạt tới một xã hội công bằng, văn minh dân chủ và giầu mạnh.
Nếu như nền kinh tế tự do TBCN phục vụ lợi ích của các nhà tư bản xây dựng cơ sở cho CNTB bảo vệ và phát triển CNTB thì kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu; phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội lực tự thúc đẩy tiến trình kinh tế- xã hội. Đến lượt mình chúng ta dùng cơ chế đó kích thích sản xuất khuyến khích tinh thần năng động sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy CNH- HĐH, xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc từng bước thực hiện lý tưởng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức, một kiểu vận hành kinh tế mà một mặt luôn tuân theo quy luật kinh tế thị trường mặt khác dựa trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt cơ bản của một nền kinh tế – xã hội: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về chế độ sở hữu: trong thị trường TBCN tồn tại chủ yếu chế độ sử hữu tư nhân TBCN về TLSX còn sở hữu của nền kinh tế định hướng XHCN là đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ công hữu về TLSX chủ yếu.
Về tổ chức quản lý: Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng tất cả đều do nhà nước quản lý, kinh tế nhà nước luôn luôn là thành phần kinh tế chủ đạo hướng các thành phần kinh tế khác tới mục tiêu XHCN. Bất kỳ một chế độ quản lý nào dù trực tiếp hay gián tiếp đều có sự quản lý của nhà nước nhưng nền kinh tế định hướng XHCN được quản lý bằng nhà nước XHCN nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN. Đối với thị trường TBCN giữ vai trò quản lý là nhà nước TBCN.
Về chế độ phân phối: kinh tế thị trường TBCN phân phối theo tư bản phục vụ lợi ích tối đa của nhà tư bản. Phù hợp với nền kinh tế định hướng XHCN trong giai đoạn hiện đại chúng ta thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu cùng với một số hình thức khác với mục đích vừa khuyến khích lao động vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản cho nhân dân nhằm từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với những nội dung và đặc trưng cơ bản nêu trên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta xây dựng là nền kinh tế vận hành theo hướng nhân văn hoá bản chất cũng như tất cả các quan hệ KT- XH nhằm phát triển một xã hội đảm bảo các tiêu chí tiến bộ và nhân đạo. Thực chất đó là tiến tới một xã hội phát triển dựa trên cơ sở một nền sản xuất đại công nghiệp xoá bỏ chế độ TBCN thiết lập chế độ công hữu về TLSX và thực hiên một nền kinh tế có kế hoạch, một xã hội phân phối theo lao động thực hiện công bằng và bình đẳng đối với mọi người, một xã hội giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột có điều kiện phát triển toàn diện hài hoà và phát huy tối đa mọi tiềm năng bản chất người, tạo ra một xã hội có chất lượng sống cao và phát triển hài hoà tất cả các mặt của cuộc sống.
4. Những nhân tố đảm bảo định hướng XHCN ở nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường mới đầu hình thành còn sơ khai còn ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ đồng bộ. Mặt khác kinh tế thị trường ở nước ta mang tính định hướng XHCN nó khác với thị trường TBCN. Do vậy một mặt ra sức thúc đẩy kinh tế một mặt chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN đó là:
a. Sự lãnh đạo của ĐCS và vai trò quản lý của nhà nước XHCN.
ĐCS cùng với sự quản lý của nhà nước là nhân tố quan trọng đảm bảo định hướng XHCN vì:
- ĐCS và nhà nước XHCN là những thành tố cơ bản của hệ thống chính trị của kiến thúc thượng tầng. “Không có ĐCS và nhà nước XHCN quản lý thì không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN mà đó sẽ chỉ là kinh tế thị trường TBCN”(1)..
- Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát TBCN. Chỉ có ĐCS lãnh đạo bằng đường lối chủ trương đúng đắn phù hợp với sự quản lý của nhà nước bằng chính sách, pháp luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô (tài chính, tín dụng, kế hoạch, quy hoạch…) mới hạn chế được tính tự phát TBCN đảm bảo được định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
(1) Tạp chí cộng sản số 31 (tháng 11 năm 2003) trang 15.
thực hiện được sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong mỗi bước phát triển.
- Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt trái của kinh tế thị trường mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Vì vậy sự lãnh đạo của ĐCS và quản lý của nhà nước sẽ phát huy được mặt tich cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
- ĐCS và nhà nước XHCN là những lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội. Những lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng những quy luật kinh tế khách quan chuyển hoá chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật… để tổ chức thực hiện các mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Với nhiệm vụ quan trọng của mình, nhà nước XHCN có vai trò sau:
Một là: nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị kinh tế và xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế vì: ổn định chính trị xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy luật chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp luật mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ.
Hai là: nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết cho các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế- xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Nhà nước phải xây dựng chính sách tài chính và tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Ba là: nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường của con người. Vì vậy nhà nước phải thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài dể nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền nhằm nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế.
Bốn là: nhà nước phải hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại các giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động mang lại sự phân phối công bằng trong thu nhập. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam bao gồm:
Một là: quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiếh lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học cần phân tích đúng thực trạng kinh tế- xã hội xây dựng rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
Hai là: kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược, kế hoạch xây dựng mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
Ba là: tổ chức. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ các chức năng và quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp.
Bốn là: chỉ huy và phối hợp. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chủ thể khác nhau vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường có hiệu quả cần có sự chỉ huy thống nhất. Để có thể chỉ huy thống nhất nền kinh tế phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà phối hợp các hoạt động của nền sản xuất xã hội giải phóng kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
Năm là: khuyến khích và trừng phạt. Bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch. Muốn vậy phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích, ngược lại, không làm theo đúng kế hoạch làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
Để thực hiện tốt vai trò của mình nhà nước cần xây dựng các công cụ điều tiết của nhà nước XHCN ở Việt Nam như sau:
- Hệ thống pháp luật. Đây cũng là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế- xã hội bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp, về hợp đồng kinh tế, về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường… các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
- Kế hoạch hoá, cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực. Còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở của thị trường bao quat tất cả các thành phần kinh tế. tất cả các quan hệ kinh tế kể cả quan hệ thị trường.
- Chính sách tài chính và tiền tệ. Đối với nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lý bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ:
Về chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế- xã hội. Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng cơ cấu hạ tầng đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiên các chức năng của mình. Nội dung của ngân sách bao gồm các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng.
Về chính sách tiền tệ. Đây là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung- cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân sách có tác động trực tiếp tới nền kinh tế.
Một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước XHCN đó là:
b. Các lực lượng kinh tế của nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng công cụ pháp luật kế hoạch hoá mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng và bền vững. Nhờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế- xã hội do kế hoạch đặt ra.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển ổn định và bền vững theo định hướng XHCN”(1).
Thật vậy, kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về TLSX (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo then chốt đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật.
Việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng sau:
1- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
2- Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần lắm 100%
3- Giao, bán, khoán, cho thuê … các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần lắm giữ.
(1) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.
4- Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Về mặt quản lý kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn của nhà nước giao cho hội đồng quản trị quyền đại diện trực tiếp quyền sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiên tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước với doanh nghiệp .
Tóm lại, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN ổn định và phát triển kinh tế chính trị- xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
II. Thực trạng về những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta. Những yếu kém và giải pháp khắc phục.
1. Về vai trò của nhà nước.
a. những thàmh tích đã đạt được.
Trải qua bao nhiêu năm từ khi đổi mới đến nay ĐCS cùng với vai trò quản lý của nhà nước ngày càng khẳng định được niềm tin của mình trong nhân dân.
Cùng với sự tin tưởng đó vai trò của nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa nhà nước và thị trường (bàn tay hữu hình - bàn tay vô hình), giữa nhà nước và doanh nghiệp, giữa nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trước đây nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu. Nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thì hiện nay là thiết kế luật chơi, hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và nếu trước đây thực hiện kế hoạch hoá trực tiếp thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng công cụ quản lý vĩ mô.
Nhà nước một mặt siết chặt các biện pháp kỷ luật đối với các cá nhân và thành phần tham gia kinh tế. Mặt khác lại khuyến khích tham gia kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Nếu trước đây kinh tế tư nhân cá thể không được thừa nhận thì từ sau đại hội VI của Đảng, nhà nước đã thừa nhận và khuyến khích phát triển- nhà nước đã ban hành nhiều luật như luật công ty (12/1990), luật doanh nghiệp tư nhân (12/1990) nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các công dân Việt Nam, không hạn chế về vốn đầu tư và số lượng lao động (điều 21 hiến pháp 1992) và đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư kinh doanh tại Việt Nam (Điều 25 Hiến pháp 1992).
Trong nông nghiệp, theo nghị quyết 10 của Bộ chính trị, đã thực hiện chính sách khoán và giao nộp sản phẩm. Nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, tự do bán sản phẩm của mình trên thị trường. Các hợp tác xã cho đơn vị hộ nông dân sản xuất. Điều này đã làm nông dân phấn khởi vì họ được sở hữu ruộng đất mà trước kia họ chỉ là người làm thuê, do đó khuyến khích họ tham gia sản xuất đạt được năng suất cao.
Tháng 10/1987 nhà nước ban hành quyết định 217/HĐBT về đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Nội dung cơ bản của nghị quyết này là nhà nước xoá bỏ tất cả các khoản bao cấp trực tiếp và trao quyền tự chủ về tài chính, về sản xuất kinh doanh cũng như trách nhiệm cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hạch toán đầy đủ theo hướng lời ăn lỗ chịu. Tháng 11/1997 nhà nước cũng ban hành nghị định 338/HĐBT về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước, đưa ra chủ trương thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ở khu vực này.
Mặt khác Đảng và nhà nước ta khuyến khích sự liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, nhất là giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác vì đây chính là con đường dẫn tới xã hội hoá quan hệ sản xuất phù hợp với tiến trình xã hội hoá lực lượng sản xuất, phát huy các mặt tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một hình thức liên kết như vậy. Điều này hạn chế và kiểm soát được độc quyền kinh doanh.
b, Những hạn chế.
Từ khi đổi mới tới nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam từng bước được hình thành. Qua đó sự quản lý của nhà nước về kinh tế cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên tất cả mới chỉ là bước đầu và còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất: sự quản lý của nhà nước về kinh tế còn yếu kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý chưa cao.
Thứ hai: hệ thống luật pháp chính sách chưa đồng bộ và chưa nhất quán, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm.
Thứ ba: công tác ngân hàng còn nhiều sơ hở.
Thư tư: cải cách còn chậm, rườm rà và chưa kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh trùng lặp chức năng với nhiều tầng lớp trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế- xã hội và làm giảm động lực phát triển.
Thứ năm: nhà nước thực hiện chưa tốt các chức năng: định hướng sự đầu tư tập trung vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN.
Thứ sáu: Đảng và nhà nước chưa thực sự tạo được sự tin tưởng từ phía đối tác nước ngoài khi đầu tư vào thị trường Việt Nam. Và cả những người dân muốn phát triển sản xuất.
Trên thực tế, những người này rất muốn tham gia vào thị trường nhưng họ lại chưa tin tưởng vào chính sách của Đảng và nhà nước ta, chưa yên tâm vào việc thực thi chính sách luật pháp ở các ngành các cấp, do đó còn ngần ngại trong việc bỏ vốn đầu tư phát triển kinh doanh lâu dài.
Thứ bẩy: trong đội ngũ cán bộ vẫn còn tồn tại những tư tưởng quan liêu tham ô, tham nhũng…
Những yếu kém trong sự quản lý của nhà nước là do nhiều nguyên nhân:
Một là: năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước còn thấp so với yêu cầu của thực tiễn quản lý.
Hai là: Cán bộ và các cấp chính quyền vẫn còn can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
Ba là: Tư tưởng của Đảng chưa thực sự quán triệt, tuyên truyền rộng khắp đến từng người dân. Từ đó dẫn tới những tư tưởng sai lệch của họ…
Trên cơ sở những hạn chế đã được nêu trên chúng ta cần phải có những biện pháp để khắc phục những điều đó
c, Giải pháp tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm giữ vững định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện có hiệu quả vai trò và chức năng của nhà nước chúng ta phải tích cực cải cách bộ máy và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước, sửa đổi và bổ xung một số điều của hiến pháp 1992 triển khai đồng bộ chương trình cải cách hành chính. Tiếp tục hoàn thiên hệ thống pháp luật về kinh tế. Trong quản lý nền kinh tế hiện nay chúng ta cũng phải quan tâm xử lý thật tốt các mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức xã hội bao gồm: các đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội- chính trị, các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố tư tưởng đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai chưa dồng bộ, vì vậy phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường.
Một giải pháp tiếp theo là tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hoá nâng cao chât lượng công tác, xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Tiếp theo, phải tiến hành làm trong sạch bộ máy nhà nước. Tuân thủ dưới sự lãnh đạo của ĐCS và tuyên truyền những tư tưởng chính sách của Đảng tới từng người dân. tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực được giác ngộ tư tưởng cách mạng.
Với những giải pháp đã được hoạch định cùng với sự kiên định của ĐCS nhất định chúng ta sẽ giải quyết được những hạn chế đã mắc phải.
2. Về thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước.
Sau khi giành được độc lập thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ xây dựng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Để khắc phục những hậu quả của chiến tranh thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đã đề ra cơ chế quản lý kinh tế bằng kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp … toàn bộ nền kinh tế do nhà nước quản lý cấp phát theo chế độ tem phiếu. Cơ chế quản lý này đã tỏ ra phù hợp trong một thời gian khi mà nền kinh tế cần huy động tổng thể các nguồn lực. Nhưng đến đầu thập kỷ 80 với sự biến động có chu kỳ của nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế đóng cửa của nước ta đã bộc lộ những nhược điểm, nếu cứ tiếp diễn nền kinh tế sẽ đi vào tụt hậu.
Trước tình hình đó, tại Đại hội VI (1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của năm thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần tạo nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế đa thành phần.
Tại các Đại hội VII, VIII, IX, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy nhìn nhận một ngày một rõ nét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mặc dù trong quá trình đổi mới kinh tế nhà nước phải đương đầu với rất nhiều khó khăn thách thức. Nhưng nhìn chung tỷ trọng của kinh tế nhà nước luôn chiếm một phần lớn trong cơ cấu GDP. Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Năm
1986
1990
1995
2000
Kinh tế nhà nước
39.7
31.8
40.2
39
Ngoài nhà nước
60.3
68.2
53.5
43.7
Đầu tư nước ngoài
0.0
0.0
6.3
13.3
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (% theo giá hiện hành).
NXB thống kê Hà Nội 2001.
a) Những mặt tích cực mà kinh tế nhà nước đã đạt được:
Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 BCHTW khoá IX đã khẳng định: "Trong bối cảnh Thế giới có nhiều diễn biến phức tạp nền kinh tế có nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách đứng vững và không ngừng phát triển góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển tốt nhất, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH theo định hướng XHCN". Cụ thể như sau:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước, cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội tăng thế và lực cho đất nước.
Thứ hai: kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch suất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Năm 2000 các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp 39.9 % tổng sản phẩm, 39.2% tổng thu ngân sách và hơn 50% kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp đã chiếm 98% các dự án liên doanh với nước ngoài. Từ năm 1991 đến 2000 các doanh nghiệp nhà nước đã nộp thuế thu nhập gần 64.000 tỷ đồng.
Thứ ba: kinh tế nhà nước khẳng định vai trò chủ đạo của mình thông qua các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm đưa nhiều sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng và an ninh.
Thứ tư: mặc dù có sự thu gọn đầu mối đáng kể hệ thống doanh nghiệp nhà nước nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân và đạt bình quân trong 10 năm là 11%/năm (1991- 2000).
Thứ năm: kinh tế nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường, năng lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống người lao động được cải thiện. Vốn tự tích luỹ bổ sung từ chỗ không đáng kể đến nay chiếm 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu: sự chiếm lĩnh của kinh tế nhà nước ngày càng rộng trong nhiều lĩnh vực: kết cấu hạ tầng, đầu tư mới, công nghiệp lớn và liên doanh hợp tác với nước ngoài… đã đóng góp rất lớn vào thành công của Việt nam trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái…
Thứ bảy: nhờ có đầu tư tín dụng nhà nước nên nhiều vùng núi, vùng xa và đồng bào khó khăn nước ta đã được mở mang ngành nghề, tìm kiếm thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại dân cư.
Thứ tám: kinh tế nhà nước đã có sự đổi mới tích cực trong quá trình đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá. Tính đến tháng 11/2001 cả nước đã cổ phần hoá được trên 700 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp bằng khoảng 13% tổng số doanh nghiệp hiện có. Theo báo cáo của doanh nghiệp cổ phần hóa có thời gian hoạt động trên một năm, đại đa số sản xuất phát triển. Tính chung, doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên tăng 5,1%.
Bên cạnh những mặt đã đạt được kinh tế nhà nước vẫn còn tồn tại những hạn chế.
b) Những mặt yếu kém còn hạn chế của kinh tế nhà nước.
Thứ nhất: năng lực cạnh tranh hiệu quả chung của kinh tế nhà nước chưa cao và gần đây có xu hướng giảm mạnh. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, tình trạng không hiệu quả của số lớn doanh nghiệp nhà nước đã làm thất thoát vốn của nhà nước.
- Đến nay cả nước có 5.655 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn trên 126.000 tỷ đồng.
- Năm 1998 khi phân loại hiệu quả doanh nghiệp có 40% doanh nghiệp làm ăn hiệu quả; 40% doanh nghiệp khi lỗ, khi lãi; 20% doanh nghiệp lỗ liên tục và không hiệu quả.
- Năm 2000 số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng chỉ lớn hơn 40%; số doanh nghiệp khi lỗ, khi lãi còn 31%; số doanh nghiệp lỗ liên tục chiếm 29%.
- Sức cạnh tranh của hàng hoá rất yếu, có những mặt hàng như phân bón, xi măng, sắt thép giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu từ 10 đến 20%.
Thứ hai: cơ cấu kinh tế nhà nước còn nhiều bất hợp lý chưa thể hiện rõ là hạt nhân của quá trình CNH- HĐH.
- Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước được giao đảm đương vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng trên thực tế cơ cấu kinh tế nhà nước, cơ chế vận hành nền kinh tế, vấn đề thể chế hóa sở hữu nhà nước như thế nào để nó đem lại hiệu quả hơn hẳn các thành phần kinh tế khác vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ.
- Các doanh nghiệp nhà nước phân bố dàn trải không chỉ ở các ngành công ích mà còn ở một số lĩnh vực kinh doanh khác.
- Công nghệ trong khu vực kinh tế nhà nước đa phần lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm.
- Phẩm chất của cán bộ quản lý trong khu vực kinh tế nhà nước cũng là một điều cần lưu ý. Do đó, phải có cơ chế đào tạo bổ nhiệm hợp lý.
Thứ ba: tình trạng khá biệt lập của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế dân doanh. Tình trạng độc quyền và đặc quyền trong một số doanh nghiệp nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân làm yếu đi sức mạnh và vai trò sở hữu nhà nước trong nền kinh tế
Thứ tư: nhà nước chưa thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các loại thị trường, chưa điều tiết thị trường và hướng dẫn doanh nghiệp với công cụ kinh tế là chính. Những năm gần đây cùng với sự tập trung nguồn tài chính trong tay nhà nước đã khôi phục kinh tế "xin- cho" với vốn ngân sách và tín dụng. Từ đó kéo theo bất công trong phân phối và nạn tham nhũng công lộng hành.
Thứ năm: Hệ thống ngân hàng tài chính còn lạc hậu so với yêu cầu đổi mới cũng như so với các nước trong khu vựcvà đang tiềm ẩn nhiều thách thức.
- Hệ thống ngân hàng tài chính ngân hàng tài chính của Việt Nam tuy đã có sự đổi mới nhanh về hình thức theo thị trường, những thành tích chống lạm phát do tổng thể cuộc đổi mới đem lại đã giấu đi những yếu kém. Cùng với đó, bộ máy nhà nước về kinh tế chưa có sự đổi mới nào đáng kể. Các chính sách nhiều khi không nhất quán đặc biệt còn thiếu chính sách tài chính dài hạn.
- Sự yếu kém trong hệ thống an ninh dẫn đến nguồn lực bên trong bị kìm hãm và lãng phí, các doanh nghiệp yếu kém, tham nhũng, hối lộ móc nối với các quan chức nhà nước và ngân hàng nhà nước.
Như vậy, với những yếu kém nêu trên, nếu không giải quyêt thoả đáng những vấn đề đó thì chẳng những khu vực kinh tế nhà nước không thể đảm đương vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà còn là trở ngại lớn trong việc thúc đẩy CNH- HĐH đất nước.
Tại hội nghị lần thứ tư của BCHTW khoá IX đã chỉ ra những mặt hạn chế của kinh tế nhà nước và cũng nêu ra những nguyên nhân của những yếu kém đó:
Một là: chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước có nhiều vấn đề chưa rõ ràng, còn nhiều ý kiến khác nhau chưa được tổng kết thực tiễn.
Hai là: quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, cải cách hành chính còn chậm.
Ba là: cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với tư tưởng định hướng XHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động.
Bốn là: sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ đối với việc sửa đổi và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chưa tương ứng với nhiệm vụ quan trọng và phức tạp này.
Năm là: tổ chức và phương hướng hoạt động của Đảng tại doanh nghiệp nhà nước chậm đổi mới.
c) Giải pháp điều chỉnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trên cơ sơ lý luận về kinh tế nhà nước và vai trò của nó hiện nay, để vừa xác lập và nâng cao tính chủ đạo, vừa thúc đẩy được tất cả các thành phần kinh tế khác theo đúng đường lối của Đảng và nhà nước, chúng ta cần phải thực hiện khẩn trương và đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Phải nhận thức đúng đắn về kinh tế thị trường và định hướng XHCN.
Thứ hai: Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô thông thoáng thuận lợi để khu vực ngoài quốc doanh có điều kiện phát triển nhằm xây dựng nền kinh tế đa thành phần.
Thứ ba: Cải cách hệ thống ngân hàng tài chính. Từng bước hình thành thị trường tài chính với các thể chế hợp lý nhằm tạo môi trường kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp dưới sự điều tiết và kiểm soát có hiệu lực của nhà nước về mặt tài chính, phải sớm cải cách hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp, cải cách chế độ kiểm toán kế toán tạo khả năng cho nhà nước và xã hội kiểm soát được tài chính của tất cả các doanh nghiệp.
Thứ tư: Sắp xếp và đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Thứ năm: Nâng cao phẩm chất và năng lực quản lý của các cán bộ lãnh đạo then chốt trong khu vực kinh tế nhà nước.
Thứ sáu: Xây dựng cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các doanh nghiệp nhà nước với khu vực doanh nghiệp dân doanh.
Thứ bảy: Gắn cải cách hành chính với cải cách kinh tế.
Thứ tám: Nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho xã hội, vừa dựa trên nền kinh tế thị trường, vừa bảo đảm vai trò quản lý của nhà nước.
Thứ chín: Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, làm tốt công tác an ninh xã hội.
Thứ mười: Tập trung phát triển nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu mà các thành phần kinh tế khác không đủ điều kiện hoặc không muốn đầu tư như: kết cấu hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi…
Tóm lại, vai trò của nhà nước cùng với thành phần kinh tế nhà nước là những nhân tố chính đảm bảo cho tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
C. kết luận
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH còn mang tính tự cung, tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi hình thành đội ngũ cán bộ có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Nhận thức được tác dụng to lớn của kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước ta qua nhiều năm đổi mới đã quyết định phát triển nền kinh tế nước ta theo con đường kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh bước đi này hoàn toàn đúng đắn .
Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc tăng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta khác xa so với các nền kinh tế thị trường khác, nó không phải là kinh tế thị trường TBCN cũng không phải là kinh tế thị trường XHCN mà là kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng ta đang trên con đường xây dựng CNXH vì vậy một mặt phát triển kinh tế mặt khác phải giữ vững định hướng XHCN. Chính vì vậy vai trò của nhà nước cùng với thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong khuôn khổ của bài viết này, em chỉ đề cập được một phần nào đó của nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo- người hướng dẫn em làm bài đề cương này. Và em biết rằng trong bài viết này vẫn còn nhiều thiếu sót, mong thầy bổ sung và sửa chữa giúp em, để em rút kinh nghiệm cho những bài viết sau.
Mục lục:
A. Lời nói đầu ………………………………………………...……1
B. Nội dung. ………………………………………………………3
I/ Tính tất yếu về nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN. …...…….3
Khái quát về kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta………..…3
2) Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập……………………………………………………………..8
3) Phân biệt về KTTT định hướng XHCN ở nước ta với KTTT TBCN. …………………………………………………………………...9
4) Nhữnh nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta. .…12
II/ Thực trạng về những nhân tố dảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta. …………………………………………………...……………17
1) Về vai trò của nhà nước……………………………………17
2) Về thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước…………….20
C. Kết luận. ………………………………………………….……27
Danh sách các tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình KTCT Mác- Lenin.
2. Văn kiện ĐH Đảng VIII, IX.
3. Tạp chí cộng sản.
4. Tạp trí triết học.
5. Thông tin khoa học- xã hội.
6. Tạp chí kinh tế và phát triển.
7. Những vấn đề kinh tế thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28059.doc