Đề án Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và một số giải pháp

Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện nay , Nhật Bản là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam nhiều năm qua và chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ hai sau Mỹ. Hiện nay Nhật Bản được đánh giá là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới hiện nay, với những con số nhập khẩu khổng lồ. Mặc dù kim ngạch xuát khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Nhật luôn tăng trong những năm qua nhưng đó mới chỉ là một con số vô cùng nhỏ bé so với tiềm năng phát triển quan hệ thương mại hai nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản, không nắm hết tiềm năng nhu cầu của thị trường , không hiểu rõ hệ thống chất lượng sản phẩm và các luật lệ thương mại của Nhật Bản Điều này làm các doanh nghiệp không thể xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu dài để có thể cạnh tranh và tồn tại cũng như phát triển trên một môi trường đầy năng động và cạnh tranh khốc liệt này. Đây là một vấn đề đã và đang đặt ra nhiều câu hỏi cho ngành thuỷ sản nói riêng và các ngành sản xuất hàng xuất khẩu nói chung để có những giải pháp nhằm nghiên cứu , xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược phát triển cho hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.

doc74 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gần đây thị trường Nhật Bản có sự thay đổi lớn trong cơ cấu các mặt hàng thủy sản nhập khảu : Tôm, tôm hùm, cua, cá ngừ, cá hội, cá philê là các mặt hàng cao cấp có mức nhập khẩu giảm dần cả về khối lường và giá nhập khẩu trung bình. Trong khi đó, họ lại tăng mức nhập khẩu các sản phẩm bình dân như cá biển nguyên liệu các loại. Người tiêu dùng Nhật Bản chuyển dần sang mua cá sản phẩm bình dân nhiều hơn là cá mặt hàng thủy sản cao cấp. Dự báo xu hướng này của thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, Mỹ đã tăng xúât khẩu các mặt hàng bình dân như cá biển các loại vào Nhật Bản. Các nước dẫn đầu về xuất khẩu thủy sản vào Nhật Bản hiện nay là Trung Quốc, Mỹ, Nga, Hàn Quốc đều lấy cá là sản phẩm xuất khẩu chính. Đây là điều mà các doanh nghiệp và các nhà chế biến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cần lưu tâm. Sau khi đã xuống đến đáy của cuộc khủng hoảng tháng giêng năm 2002, năm 2003 đã đánh dấu sự phục hồi của kinh tế Nhật Bản với mức tăng trưởng dự đoán ở vào khoảng 2,2-2,5%, chi tiêu dùng của người dân chiếm đều đặn 60% GDP và tăng đều trong các quý dù không nhanh. Đây là một dấu hiệu khả quan cho hợp tác kinh tế giữa 2 nước Việt Nam- Nhật Bản nói chung và cho lĩnh vực xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam nói riêng vào thị trường này. Những lợi thế của Việt Nam khi xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Nhật Bản : *Về điều kiện tự nhiên cho khai thác và nuôi trồng thủy sản : Như đã phân tích trong tiềm năng thủy sản Việt Nam, nước ta được thiên nhiên ban tặng một điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản : Với bờ biển dại 3.260 km ; 12 đầm, phá; 112 cửa sông, lạch; hệ thông với 4000 hòn đảo, đặc biệt 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa có thể xây dựng được các cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác xa bờ, nuôi trồng thủy sản. Biển Việt Nam bao gồm nội triều và vùng lãnh hải rộng 226.000 km2, vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km2... do sự hạn chế về công nghệ chế biến nên chủ yếu là chúng ta chỉ xuất khầu hàng thủy sản qua sơ chế chứ chưa phải là những sản phẩm hoàn thiện, mà trong khi đó thị trường Nhật Bẩn có số lượng tiêu thụ hàng thủy sản hàng năm hơn 8 triệu tấn lại có công nghiệp chế biến hiện đại nên rất cần nguồn nguyên liệu bên ngoài cho công nghiệp chế biến trong nước. Điều này mang lại lợi ích cho cả hai phía trong điều kiện của mỗi nước. Hiện nay, nhiều tỉnh trong nước đang phát triển nuôi tôm với hình thức công nghiệp, bán thâm canh, nuôi sinh thái quảng canh cải tiến và các hình thức nuôi kết hợp tôm- lúa, tôm – rừng, phù hợp với điều kiện sinh thái và môi trường, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao và giá thành cạnh tranh. Nuôi trồng thủy sản công nghiệp ở nước ta còn có thể đầu tư phá triển mạnh hơn không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái nếu ngay từ bây giờ có các biện pháp chủ động cả về quy hoạch và công nghệ. Mặt khác, các loài thủy sản ở Việt nam rất đa dạng, vì vậy, cùng với việc phát triển nuôi công nghiệp, thực hiện đa canh trong nuôi trồng sẽ là một trong các biện pháp vừa nâng cao hiệu quả nuôi, vừa giữ được môi trường nuôi tránh được ô nhiễm, dịch bệnh. Ngòai tôm sú, các loại tôm khác như tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng sẽ tăng nhanh về khối lường sản phẩm. Ngoài các loại cá quen thuộc đã có thị trường xuất khẩu, sẽ còn thêm nhiều loại các biển và các dòng nuôi được đưa vào danh mục hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Nuôi sinh thái là hướng đi sẽ được đẩy mạnh trong giai đoạn tới để vừa giữ gìn môi trường, vừa tạo ra nguồn nguyên liệu có giá trị cao, thỏa mãn được những yêu cầu và tiêu chuẩn “sạch” của các thị trường khó tính. Hiện sản lượng thủy sản Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng qua các năm do sản xuất ngày càng đi vào chiều sâu, trong đó hướng đi vào môi trường vẫn là chủ yếu, đặc biệt là những vùng nước lợ, mặn. *Về nguồn lao động trong ngành thủy sản : Việt nam thuộc vào nước đông dân trên thế giới ( đứng thứ 13). Năm 2002, dân số nước ta đã đạt 80 triệu người, nhịp độ tăng trưởng bình quân là 1,7%/năm. Có khảng 75% dân số sống ở nông thôn, tại những vùng đồng bằng, trung du, cao nguyên, ven biển,... trong đó dân cư sống vên biển có nhiệp độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cá nước *khoảng 2,2%). Nước ta cso 25 tỉnh tiếp xúc trực tiếp với biển. Dân cư ở vùng này chiếm 51% dân số toàn quốc, trong đó số người trực tiếp sống bằng nghề đánh cá chiếm 1,4% dân số toàn quốc, mà về cơ cấu giới tính nam lại cao hơn nữ (52/48). Nhìn chung dân cư Việt Nam là trẻ. Đó là một lợi thế bởi tuổi trẻ luôn năng động, dễ thích nghi. Đặc biệt, với dân cư vùng biển, do tỷ lệ sinh đẻ cao, đời sông thấp kém, tuổi thọ khong cao nên tỷ trọng sức trre của nguồn lao động trong ngành thủy sản ngày càng một lớn. Tuy nhiên, hiện nay lợi thế này chưa phát huy tốt vì trình độ văn hóa cũng như trình độ chuyên môn của lực lượng lao động này còn thấp. Như vây, với trạng thái dân số như trên, Việt nam có khả năng cung cấp sức lao động dồi dào cho mọi ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân, trong đó có ngành thủy sản. Mặt khác với mức trả cho lao động rẻ hơn nhiều so với lao động ngành thủy sản của Nhật Bản nên đây lại là một lợi thế không nhỏ khiến Nhật Bản tăng khả năng nhập khẩu hàng thủy sản Việt Nam. Khi đó, với việc nhập khẩu thủy sản của ta nghĩa là Nhật Bản đã tiết kiệm được chi phí khá cao cho đầu tư vào khai thác, nuôi trồng thủy sản của mình. *Về phía các cơ quan nhà nước : Trước hết các cơ quan chủ quản cao nhất của ngành chính là Bộ thủy sản- đơn vị xây dựng và chỉ đạo việc thực hiện chiến lược phát triển ngành thủy sản – thông qua các cơ chế chính sách và hệ thống luật pháp đồng thời nghiên cứu các giải pháp để thúc đẩy ngành thủy sản phát triển theo hướng ngày càng tăng về hiệu quả kinh tế- xã hội. Dưới Bộ Thủy sản là các cơ quan, các viện, trường, các cơ sở- những đơn vị trực tiếp giúp Bộ hoàn thành các mục tiêu đề ra. Với việc giá trị ngành thủy sản Việt Nam tạo ra trong những năm qua đã đóng góp một phần không nhỏ vào GDP cả nước (năm 2003 là trên 2,5% ) đã và đang tiếp tục nhận được sự quan tâm của Nhà nước trong trực tiếp chỉ đạo cũng như xây dựng định hướng phát triển lâu dài cho một ngành có nhiều tiềm năng của Việt Nam. Ngay trong những năm 1999-2000, với các quyết định số 251/1998/QĐ-TTg và 224/1999/QĐ-TTg, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển thủy sản đến năm 2010 phấn đấu sản lượng thủy sản trên 2.000.000 tấn cá, giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 2,5 tỉ USD... Ngoài ra, Chính phủ thường xuyên ban hành các nghị quyết, chỉ thị để điều hành họat động ngành thủy sản phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Cho đến nay, hệ thông luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý đã và đang được hoàn thiện, góp phần quan trọng để hình thành hành lang pháp lý cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn ngành. *Về hợp tác kinh doanh : Nhật Bản là một đất nước châu á gần với Việt Nam nên đã góp phần giúp cho ác doanh nghiệp Việt Nam trong việc giảm giá cước vận tải hàng hóa, giảm chi phí và giá thành từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu vào thị trường này. Bên cạnh đó, Nhật Bản là một thị trường truyền thống nhiều năm qua của ta, do vậy các doanh nghiệp Việt Nam đã hiểu khá rõ về nhu cầu của thị trường này để có thể đáp ứng một cách tốt nhất. Với việc ra đời của các hiệp hội quần chúng như Hội Nghề Cá, Hội Nuôi Trồng Thủy Sản, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) góp phần thức đẩy nhịp độ tăng trưởng chung của ngành. Trong vấn đềphân phối sản phẩm trên thị trường Nhật Bản với sự hợp tác của Phòng thương mại- công nghiệp Việt Nam (VCCI), Cục xúc tiến Thương mại, hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam(VASEP) với cá tổ chức, các nhà phân phối có uy tín của Nhật như JETRO, hay các phòng, sở thương mại Nhật Bản... đã tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội lớn để thúc đẩy xuất khẩu thủy sản nước ta vào thị trường này. *Về công nghệ khoa học kỹ thuật : Công nghệ chế biến thủy sản ở Việt Nam đã dạt chất lượng tương đối khá. Cácdoanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản đã chủ động thâm nhập thị trường, tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, đa dạng hóa sản phẩm cũng như thay đổi cơ cấu mặt hàng, đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm, linh hoạt đối phó với các yếu tố bất lợi của thị trường, phấn đấu đạt được chứng chỉ HACCP. Từ nay đến 2010, ngành thủy sản Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những trung tâm sản xuất , chế biến thủy sản lớn của cả nước sẽ đầu tư khoảng 2000 tỷ đồng để phát triển ngành chế biến thủy sả xuất khẩu. Bên cạnh đó, Cục quản lý chất lượng vệ sinh và thú y thủy sản cũng đang xúc tiến để ký thỏa thuận song phương với cơ quan thẩm quyền kiểm soát chất lượng thủy sản của cả nước về việc công nhận lẫn nhau nhằm tháo gỡ các rào cản kỹ thuật và an toàn vệ sinh thực phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Những khó khăn, thách thức đối với xuất khẩu hàn thủy sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản : *Mặc dù đã có nhiều cuộc đàm phán gần đây nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chưa đi đến một thỏa thuận để gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đó là một khó khăn thách thức rất lớn đối với xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng thủy sản nói riêng sang Nhật. Có thể chúng ta đã có thuận lợi hơn khi Nhật Bản đã giành cho ta quy chế tối huệ quốc đầy đủ MFN nên mức thuế mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này đã giảm đi đáng kể (từ 1-4%), nhưng nước ta vẫn chưa được hưởng những ưu đã đặc biệt giành cho các nước thành viên WTO. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việ nam với các nước khác cùng xuất khẩu vào Nhật, đặc biệt là Trung quốc đã là thành viên WTO từ năm 2001. Hiện Việt Nam đang nỗ lực đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO trong thời gian không xa, có thể là vào năm 2005. *Thị trường Nhật Bản là một thị trường “khó tính”, các quy định về nhập khẩu của Nhật Bản khá chặt chẽ. Đó là những trở ngại phi thuế quan như cá yêu cầu về chất lượng, nhãn mác, xuất xứ cá quy đình về an toàn vệ sinh thực phẩm , về kiểm dịch, về trách nhiênm sản phẩm... Bên cạnh đó các chi phí cho xuất khẩu vào thị trường này cũng là một rào cản khá lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ như việc lấy xác nhận trước về chất lượng đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nó góp phần rất lớn vào việc giảm chi phí phát sinh trong quấ trình lưu thông hàng hóa tại Nhât. Chi phí lưu kho lạnh tại Nhật có thể lên tới 80USD/ngày cho 1 container, chi phí giám định khoảng 130 USD. Nếu không có giấy xác nhận của hệ thống Precertification, hàng hóa có thể phải lưu kho tới 7 ngày. Trong khi đó, nếu có giấy xác nhận , hàng hóa có thể được thông quan trong ngày, tiết kiệmk được ít nhất 500 USD cho 1 container 20 feet. Điều này đòi hỏi ngành thủy sản cần có sự quan tâm và quản lý chặt chẽ mặt hàng thủy sản ngay từ khâu nuôi trồng để đảm bảo có nguồn nguyên liệu sạch xuất khẩu và có chất lượng cao, làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị gia tăng của sảnphẩm trong khâu chế biến. *Sự cạnh tranh giữa các mặt hàng thủy sản trên thị trường Nhật Bản là rất gay gắt. Nền kinh tế Nhật Bản mới trong giai đoạn phục hồi sau sự suy thoái trầm trọng, thu nhập của người dân Nhật Bản đã bị giảm đi kéo theo đó là sự chi tiêu mua sắm cũng giảm dần. Bên cạnh đó hàng thủy sản nhập khẩu vào Nhật Bản có nhiều nước có công nghiệp chế biến rất hiện đại như Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt nam lại là hàng sơ chế, lại nhỏ lẻ về số lượng nên khả năng cạnh tranh là rất thấp. Điều này đã và đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cho ngành thủy sản. Cần phải đầu tư vào phát triển công nghiệp chế biến nhằm nâng chất lượng sản phẩm. *Ngoài những khó khăn, thách thức từ phía thị trường Nhật Bản còn phải kể đến nhiều khó khăn xuất phát từ tình hình, đặc điểm chung của ngành thủy sản trong nước : Về vấn đề quản lý : Đến nay vẫn chưa có quy hoạch tổng thể của toàn ngành hoàn chỉnh, quy hoạch phát triển thủy sản cho từng vùng, từng địa hương cũng còn chắp và, chưa hoàn chỉnh. Trong thời gian qua phát triển còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ, chuyển đổi hàng loạt dẫn đến thiệt hại đáng kể trước mắt và lâu dài. Việ củng cố hoàn thiện các loại hình doanh nghiệp trong ngành còn nhiều vấn đề bất cập như cổ phẩn hóa các doanh nghiệp Nhà nước chậm chạp, một số doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hiệu quả chưa cao... Trong hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều lúng túng khi lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và quản lý dự án đầu tư, hiệu quả đầu tư chưa cao... Cơ sở hạ tầng còn yếu, chưa đồng bộ, cùng với trình độ công nghệ chưa thể coi là tiên tiến trong khai thác, nuôi trồng, chế biến dẫn đến năng suất và hiệu quả còn thấp. Trong nuôi tỏng thủy sản , nhiều vấn đề kỹ thuật còn nan giải, đặc biệt là chưa đảm bảo được nguồn giống thuần chủng chất lượng cao. Về khai thác, công nghệ khai thác xa bờ còn chưa đủ sức tiếp cận, mang lại hiệu quả cao, đầu tư cho khai thác chưa đồng bộ. Trong chế biến thủy sản vẫn còn đến 2/3 doanh nghiệp quy mô nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn thực phẩm. Trong thương mại thủy sản, công tác xúc tiến thị trường còn kém ở nhiều doanh nghiệp. Sự hiểu biết về luật lệ làm căn cứ của các thị trường nhập khẩu chủ lực còn nhiều hạn chế. Trình độ nguồn nhân lực còn khá thấp. Phần lớn các ngư dân tuổi trung niên có trình độ văn hóa thấp, trình độ chuyên môn rất hạn chế, lao động trong nghề chế biến và nuôi trồng thủy sản có khá hơn nhưng vẫn cần đào tạo, huấn luyện thường xuyên. Những vấn đề nảy sinh về môi trường tự nhiên như ô nhiễm môi trương, cạn kiệt nguồn thủy sản, thiên tai... cũng là những vấn đề thách thức không nhỏ cho ngành thủy sản đảm bảo khối lượng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Những mục tiêu và định hướng phát triển xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản. 3.1. Những mục tiêu và định hướng chung của ngàh thủy sản Việt Nam. 3.1.1 Những mục tiêu: * Những mục tiêu chiến lược : Mục tiêu chiến lược quan trọng nhất là huy động tổng hợp mọi tiềm năng để phát triển ngành thủy sản nhằm đóng góp có hiệu quả của nền kinh tế quốc dân và nâng cao điều kiện kinh tế, xã hội của cư dân và nông dân làm nghề cá. Cụ thể là: Không ngừng tăng phần đóng góp của nghành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của cộng đồng dân cư làm nghề cá. Trên cơ sở phát triển kinh tế biển, hải đảo góp phần tích cực và thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ an ninh và chủ quyền Tổ quốc. Đóng góp tích cực và đảm bảo an toàn thực phẩm quốc gia, nâng cao mức dinh dưỡng của nhân dân bằng cách góp phần tăng mức cung cấp thuỷ sản cho thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân ven biển có thể tiếp xúc với mọi loại thức phẩm. Đưa nghành Thuỷ sản trở thành một nghành sản xuất sớm được công nghiệp hoá và hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển, tạo ra hiệu quả kinh tế cao phát huy những lợi thế so sánh, đòng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựnh một nghành Thuỷ sản được quản lý tốt bằng Luật Thuỷ sản và một bộ máy dầy hiệu lực nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Tích cực đưa cá Việt Nam hội nhập đầy đủ hệ thống kinh tế khu vực và thế giới. * Những mục tiêu cụ thể Trên cơ sở tốc độ tăng trưởng đã đạt được qua các năm, đặc biệt là những kết quả và những biến động của giai đoạn 1996-2001, có tính đến các mục tiêu chiến lược và các giải pháp (sẽ trình bày ở phần sau), mục tiêu cụ thể của nghành từ nay dến năm 2010sẽ là: -Không tăng sản sản lượng khai thác mhiều, chỉ giữ ở mức 1,2 – 1,4 triệu tấn/năm (trong đó khai thác cá, tôm ở mức khoảng 1,3 triệu tấn, nhuyễn thể khoảng 100.000 tấn), nhưng tăng nhanh sản lượng nuôi trồng ở giai đoạn 2006-2010. -Kim ngạch xuất khẩu tăng vơis tốc độ trung bình từ 15-20%/năm, trong đó giai đoạn 200-2005 tăng 20-22%/năm, còn giai đoạn 2005-2010 tăng 10-15%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 1,7 tỷ USD năm 2001; 3-5 tỷ USD năm 2005 vadf 4,5 tỷ USD vào năm 2010. Số lao động (năm 2001), 3,9 triệu lao động (năm 2005) và 4,4 triệu lao động năm 2010. Lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến thuỷ sản tăng gấp 2 lần. Các mục tiêu cơ bản của nghành Thuỷ sản trong giai đoạn 2001-2010. Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2005 Năm 2010 1. Tổng sản lượng (1000 tấn) Trong đó: Nuôi trồng Khai thác 2. Kim ngạch xuất khẩu(triệuUSD) 3. Lao động (triệu người) 2279 884 1395 1777,6 3,5 2550 1150 1400 3000 3,9 3400 2000 1400 5000 4,4 Nguồn: Tính toán trên cơ sở Quy hoạch tổng thể của Bộ Thuỷ sản được Chính phủ phê duyệt kết hợp với diieù chỉnh chi tiêu kế hoạch 5 năm 2001-2005. 3.1.2. Nội dung các định hướng phát triển ngành Thuỷ sản * Định hướng phát triển khai thác hải sản Xuất phát từ thực trạng khai thác hải sản trong những năm qua có tính đến yêu cầu phát triển hiệu quả và bền vững trong những năm tới của ngành Thuỷ sản Việt Nam nói chung, định hướng khai thác hải sản phải được xây dựng dựa trên các quan điểm sau: - Khai thác hải sản phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, sinh thái biển. - Khai thác hải sản phải đạt hiệu quả kinh tế cao nhờ đảm bảo tính đồng bộ trong chuỗi mắt xích tìm kiếm ngư trường-tàu thuyền và thuỷ thủ – dịch vụ hậu cần trên biển và cảng cá. - Khai thác gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, an ninh Tổ quốc, đồng thời phải đảm bảo tính an toàn cho ngư dân trước thiên tai địch hoạ và nạn cướp biển. Trên cơ sở quan điểm trên đây, mục tiêu của ngành khai thác hải sản Việt Nam từ nay đến năm 2010 phải đạt được là bảng sau: Những mục tiêu chủ yếu của lĩnh vực khai thác hải sản Việt Nam đến năm 2010 Chỉ tiêu 2005 2010 1. Sản lượng khai thác (tấn) Trong đó: Gần bờ Xa bờ Trong đó: Mực Tôm 2. Lao động (người) 3. Vốn khai thác xa bờ(tỷ đồng) 1.350.000 650.000-700.000 630.000-650.000 50.000-85.000 30.000 615.000 996 1.400.000 700.000 680.000-700.000 100.000-115.000 30.000 680.000 419 Nguồn: Quy hoạch tổng thể của bộ Thuỷ sản Để đạt được mục tiêu trên, đối với khai thác Thuỷ sản Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: - Quy hoạch lại các vùng khai thác hải sản - Tiếp tục đầu tư để thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ - Tăng hiệu quả của dịch vụ hậu cần khai thác hải sản - Xắp xếp lại các nghề cá ven bờ - Mở rộng hợp tác, liên kết với nước ngoài - Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi, đảm bảo phát triển bền vững * Định hướng phát triển nuôi trồng Thuỷ sản Xuất phát từ thực tế nuôi trồng thuỷ sản trong những năm quavà yêu cầu phát triển cho những năm tới, định hướng nuôi trồng thuỷ sản phải được xây dựng dựa trên những quan điểm sau: - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn liền với việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh cho các đối tượng nuôi, mà động lực thúc đẩy kỹ thuật nuôi bán công nghiệp và công nghiệp. - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản gắn với phát triển kinh tế – xã hội của các vùng, các địa phương, góp phần chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, cảI thiện đời sống cho người lao động, là yếu tố quan trọng để ổn định an ninh, chính trị-xã hội vùng biển vùng núi, vùng sâu vùng xa. - Tăng cường sử dụng hợp lý, có hiệu quả các loài mặt nước nhờ vận dụng đồng bộ các chính sách và iện pháp quản lý cơ cấu sử dụng mặt nước, đối tượng nuôi trồng và công nghệ nuôi trồng. - Khuyến khích mọi thành phần kinh tế hợp tác, kinh tế gia đình, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao năng suất nuôi trồng, tạo ra nhiều nguồn cung cấp nguyên vật liệu lớn, ổn định cho chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Để thực hiện chiến lược phát triển ngành Thuỷ sản Việt Nam đến năm 2010, mục tiêu của lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản được xác định như bảng sau: Bảng mục tiêu phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2005-2010 Chỉ tiêu 2005 2010 1. Diện tích nuôi (ha) Trong đó : Nước mặn, lợ Nước ngọt 2. Sản lượng (tấn) Trong đó: Cá nước ngọt Tôm Cá biển Nhuyễn thể Sản phẩm khác 1.200.000 700.000 500.000 1.150.000 600.000 225.000 38.000 185.000 102.000 1.300.000 750.000 550.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 Nguồn: Quy hoạch tổng thể của Bộ Thuỷ sảnvà báo cáo bổ sung điều chỉnh kế hoạch 5 năm 2005-2010. -Về đối tượng nuôi sẽ tập trung vào năm nhóm chính là tôm (sú, càng xanh,hùm,họ tôm he), cá biển (giò, mú, hang, tráp, vược, măng…), cá nước ngọt (ba sa, chép, rô phi, bống tượng, tra, rôhu, catla, tai tượng,sặc rằn, lóc, rô, trôi, trắm cỏ, mè vược…), nhuyễn thể (nghêu, ngao, sò, trai ngọc, vẹm, điệp, ốc hương…) và rong tảo (rong câu,rong sụn). Để đặt được các mục tiêu trên, ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam phải thực hiện một loạt các biện pháp sau đây: + Đẩy mạnh công tác quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản. + Giải quyết tốt khâu giống cho nuôi trồng thuỷ sản. + Đảm bảo thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản. + Làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh. + Làm tốt công tác khuyến ngư. + Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất, đa dạng hóa các loài nuôi. + Các giải pháp hỗ trợ từ phía nhà nước. * Định hướng phát triển chế biến và thương mại thuỷ sản Việt Nam Những mục tiêu : - Tiếp tục đầu tư nâng cấp theo kế hoạch, chương trình cụ thể đã đưa ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản đủ sức cạnh tranhtrên thị trường thế giới, đáp ứng các tiêu chuẩn cao về an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Nâng cấp các cơ sở chế biến đã có, xây dựng mới có chọn lọc một số cơ sở chế biến lên 2000 tấn vào năm 2005 và 3000 tấn vào năm 2010. - Thu hút mọi nguồn vốn đầu tư vào việc tăng năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ nhằm đạt được tốc độ tăng giá trị kim ngạch xuất khẩukhoảng 18-20% cho mỗi chu kỳ 5 năm và nâng dần tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng tới 60-65%. Cụ thể kim ngạch xuất khẩu vào năm 2005 phải đạt 3 tỷ USD và năm 2010 là 5 tỷ USD. - Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước từ 18-20 kg/người/năm dến năm 2005 và từ 20-22 kg/người/năm vào năm 2010. - Hướng dẫn các cơ sở chế biến thực hiện chương trình quản lý chất lượng GMP, SSOP, HACCP. Phấn đấu đến năm 2005 toàn bộ các cơ sở chế biến thuỷ sản đều thực hiện hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Đến năm 2010, tất cả đều có chứng chỉ ISO 9000-ISO 9002. - Xây dựng, ban hànhvà bắt buộc áp dụng các tiêu chuẩn Nhà nước, tiêu chuẩn ngành về điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh tối thiểu với các cơ sở chế biến thuỷ sản, cảng cá, chợ cá. Phấn đấu đến cuối năm 2005, toàn bộ các cơ sở chế biến thuỷ sản phải đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của Bộ Thuỷ sản. Đến năm 2005, 50% số doanh nghiệp phải được EU công nhận vào danh sách xuất khẩu thuỷ sản vào khu vực này. - Duy trì và giữ vững thị trường truyền thống, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường mới. - Tăng cường hoàn thiện năng lựcvà hoạt động của cơ quan Nhà nước có thêm quyền về kiểm tra và chứng nhận về an toàn thực phẩm. Các giải pháp : - ổn định thị trường và phát triển nguồn nguyên liệu cả về khối lượng lẫn chất lượng. - Nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản. + Nâng cấp công nghệ chế biến của doanh nghiệp. + Đầu tư đổi mới công nghệ đồng thời phải đi đối với nâng cấp điều kiện sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo đúng quy định của ngành cũng như các tiêu chuẩn quốc tế. Phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh của hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị, kho lạnh , cấp thoát nước, bảo hộ lao động… xây dựng chế độ giám sát kiểm tra thường xuyên. Các doanh nghiệp phải đặt mục tiêu cấp bách thực hiện chương trình quản lý chất lượng theo GMP, SSOP và HACCP. Tăng tính cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Thâm nhập sâu rộng vào mọi thị trường. 3.2. Một số mục tiêu định hướng xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản trong những năm tới. Bộ thuỷ sản đang tập trung triển khai thực hiện các giải pháp như nâng cao năng lực xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu thuỷ sản cho một số mặt hàng chủ yếu như tôm cá tra , cá basa . Đồng thời tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo, đẩy mạnh tham gia các cụôc triển lãm quốc tế nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu. Mục tiêu của các giải pháp này là tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật bản lên 720 triệu USD vào năm 2004 ,800 triệu USD vào năm 2005 và đạt ngưỡng 1 tỷ USD vào năm 2010 chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nứơc. Về cơ cấu cần tăng các sản phẩm tinh chế và hàng phôi chế đóng gói nhỏ cho siêu thị , tôm , cá ngừ tươi sống và đông, các sản phẩm thủy sản khác. Theo dự báo của Bộ thuỷ sản, tốc độ tăng trưởng của hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản sẽ còn tăng trong những năm tới. Hiện nay, hai mặt hàng thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật là tôm và mực đông lạnh. Trong vài năm gần đây, xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật đã tăng trung bình 11% năm. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia hội chợ thực phẩm quốc tế FOODEX vừa được tổ chức tại Chiba (Nhật Bản)nhằm giới thiệu quảng bá những sản phẩm mới đến người tiêu dùng Nhật Bản. Đây là môt cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường này. II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy khả năng xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng vào thị trường Nhật Bản: 1. Những biện pháp về phía chính phủ: * Hoàn thiện hệ thống luật pháp của Việt Nam nhằm tạo ra môi trường pháp lý tương ứng với luật pháp Nhật Bản: Vừa qua, Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua luật thuỷ sản với nhiều đièu khoản tích cực, khuyến khích cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam có điều kiện thuận lợi và tự do hơn trong xuất khẩu hàng hoá. Điều đó thể hiện ở nội dung 3 khoản mục trong điều 46- Luật Thuỷ sản Việt Nam. Trong đó quy định nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt đọng xuất khẩu và Bộ Thuỷ sản phối hợp với các bộ ngành có liên quan, xây đựnh và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển thi trường xuất khẩu thuỷ sản, tổ chức cung cấp thông tin về thị trường, công nghiệp chế biến, pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuỷ sản cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thuỷ sản. Bên cạnh luật thuỷ sản, từ tháng 9/200, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã được mở cho tất cả các thương nhân (trước đây chỉ mở đến các doanh nghiệp). Phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cũng không còn phụ thuộc vào hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nữa. Các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể từ tháng 1/2002, cũng đã có quyền xuất khẩu hàng hoá gần như thương nhân Việt Nam. Đây là những biện pháp hết sức quan trọng, góp phần đa dạng hoá chủ thể xuất khẩu đồng thời tăng cả về số lượng chủ thể xuất khẩu, qua đó khơi dậy và làm tăng không khí sôi động trong tất các thành phần kinh tế. Tuy nhiên đó mới chỉ nằm trong một số ngành trọng yếu. Do vậy, hệ thống luật pháp còn chưa đồng bộ, chưa mang tính thống cao, điều đó đòi hỏi các cơ quan chức năng phải lưu tâm để tiíen tới hoàn thiện hơn hệ thống luật pháp đẻ tạo ra một hành lang pháp lý phù hợp, góp phần thúc đẩy khuyến khích xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng sang thị trường Nhật Bản. Riêng về mặt hàng hoá thuỷ sản, trong luật thuỷ sản Việt Nam cũng có đièu khoản qui định về chất lượng và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho các sản phảm thuỷ sản xuất khẩu tương ứng với các luật an toàn vệ sinh thực phẩm của Nhật, nhưng chưa có sự cụ thể hoá rõ ràng.(Điều 45 chương VI- Luật Thuỷ sản Việt Nam ). *Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản về thông tin thị trường và thúc tiến thương mại: Như đã phân tích ở các chương trước, điểm yếu của các doanh ngiệp Việt Nam khi xâm nhập thị trường Nhật Bản là sự hiểu biết, thông tin về thị trường Nhật bản, do vậy thường không nắm được về nhu cầu, thị hiếu tiêu ding để kịp thời đáp ứng. Chính đó là một nguyên nhân dẫn đến sự kém cỏi trong cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam với các nước khác trên thị trường Nhật Bản. Nhìn chung trong tất cả các mặt hàng xuất khẩu thì vấn đề thông tin phải luôn dặt lên hàng đầu, nó là điều kiện tiên quyết cho sự thắng lợi khi bước chân vào một thị trường lớn và có cạnh tranh khốc liệt như thị trường Nhật Bản. Từ thực tế đó trong những năm gần đây với sự phối hợp của Bộ Thương Mại cụ thể là cục xúc tiến Thương Mại và phòng Thương Mạivà công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã phối hợp Bộ kinh tế, thương mại và công nghiệp(METI). Tổ chức xú tiến thương mại JETRO để tìm kiếm , trao đổi sâu hơnvề thị trường hai nước qua đó cung cấp các thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu hàng hoá sang Nhật. Hiện nay, khi mà nền kinh tế Nhật Bản đã có sự phục hồi sau cuộc khủng hoảng năm 1997 thì đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường có sức tiêu thụ lớn nhất thế giới này, lúc đó thông tin là yếu tố then chốt cần được cung cấp thường xuyên và kịp thời. Khi đã nắm được thông tin thì xúc tiến thương mại là biện pháp quan trọng , nó sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường và nâng cao năng lực của chính mình, giúp các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường , bạn hàng để đẩy mạnh công tác xuất khẩu … Nói một cách khái quát, xúc tiến thương mại (Trade promotion) là những hoạt động bổ trợ thiết yếu , tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và phân phối lưu thông hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu giao thương ngày càng cao của xã hội. Trong hoạt động xúc tiến thương mại bao gồm các hoạt động chủ yếu: Nghiên cứu , phát triển, mở rộng thị trường và sản phẩm. Thu thập , xử lý và phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp. Tư vấn về kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tham vấn với các doanh nghiệp. Tổ chức , hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ , triển lãm thương mại. Trao đổi các phái đoàn kinh doanh, khảo sát thị trường. Tổ chức các trung tâm thương mại ở nước ngoài. Đào tạo và huấn luyện cán bộ kinh doanh. Hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về xúc tiến thương mại. Để đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp Việt Nam có thể thông qua sự hỗ trợ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), cục xúc tiến thương mại (VIETRADE), hay tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO). Năm 2002,để thực hiện chỉ thị số 2001/TT- Ttg ngày 13/12/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Bộ Thương mại đã tổ chức các phái đoàn đi khảo sát thị trường trong đó có Nhật Bản. điều đó thể hiện sự quan tâm đến vấn đề xúc tiến thương mại của chính phủ cũng như các bộ ngành có liên quan. Nhìn chung hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng sôi động và có nhiều hình thức mới và có ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các chương trình xúc tiến của Nhà nước. *Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu quả hơn : gần đây, trong quá trình cải cách hành chính, một số thủ tục giấy phép trong lĩnh vực quản lý xuất khẩu đã được đơn giản hoá hoặc được bãi bỏ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến vẫn đề nghị phải đi xa hơn, bãi bỏ hoàn toàn mọi thủ tục, giấy phép, mọi biện pháp quản lý hạn ngạch, đầu mối…. để tạo ra sự thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu, phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu. Việc bãi bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan là một trong những giải pháp lớn để khuyến khích phát triển xuất khẩu. Tuy nhiên, việc bãi bỏ phải tuân thủ một số nguyên tắc và trình tự thời gian nhất định, không thể là hành động tuỳ tiện khi điều còn chưa cho phép . nếu việc duy trì chế độ giấy phép, them chí chế độ đầu mối để đảm bảo các mục tiêu vĩ mô là việc cần thiết thì vẫn phải duy trì. Vấn đè nằm ở chỗ, không phải có cấp giấp phép hay không cấp giấy phép, mà là chế đọ cấp giấy phép có được ccong khai hay không, có dẽ hiểu và dễ thi hành hay không và có lộ trìng để loại bỏ nó trong tương lai hay không? Nếu có cơ sở vững chắc để duy trì giấy phép, chế độ cấp lại rõ ràng, đày đủ, thủ tục cấp lại đơn giản không phiền hà thì không có lý do gì để bãi bỏ chế độ đó. Đó là chưa kể đến việc duy trì một số hàng rào nhất định sẽ tăng cường thêm vị thế “ mặc cả” của Việt Nam trong các cuọc đàm phán song phương và đa phương. Đay là định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu. * Tiếp tục có chính sách hỗ trợ thương mại mạnh mẽ hơn nữa đói với việc xuất khẩu hàng hoá và hàng thuỷ sản nói riêng vào thị trường Nhật Bản: Để tiếp tục hạ giá thnàh và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu, nhiều loại chi phí liên quan đến xuất khẩu đã được xem xét miễn giảm, ví dụ như: Lệ phí kiểm dịch động vật, lệ phí hạn ngạch, lệ phí hải quan, lệ phí cấp C/O và cấp giấy chứng nhận cho giầy dép xuất khẩu cho EU. Từ tháng 2/2002, chế độ hoàn thuế GTGT đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Ngày 10/10/2002, Sau một năm nghiên cứu, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư hướng dẫn chế độ thuế áp dụng cho một số doanh nghiệp vệ tinh cung ứng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Thông tư này đã đánh dấu một bước đi quan trọng trong tiến trình thúc đẩy sự hình thành mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp tham gia sản xuất khẩu. Về vấn đề cắt giảm chi phí đầu vào cho xuất khẩu, theo điều tra, mức phí hiện nay của các cảng ở Việt Nam là khá cao. Đặc biệt là hai cảng lớn Sài Gòn và Hải Phòng, nếu tính cả phí kho bãi và tác đọng của hiệu xuất cảng thấp thì người xuất khẩu phải chịu thiệt tới 50 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Sài Gòn và 29 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Hải Phòng. Với sự bất hợp lý hiện nay, các doanh nghiệp sẽ phải mất rất nhiều chi phí, làm cản trở đến khả năng cạnh tranh. Để giải quyết những bất hợp lý này, sau báo cáo của Bộ Thương mại, Chính phủ đã đưa ra nghị quyết 05/2002 giao cho Bộ Tài chính và các ban ngành liên quan rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào và các loại phí thu vào hàng xuất khẩu, tuy nhiên việc này còn tiến triển rất chậm. 2. Những biện pháp về phía các doanh nghiệp: 2.1. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới hiện nay, là một thị trường tiềm năng. Nhưng như đã nghiên cứu , đây lại là một thị trường rất khó tính. Để có thể tồn tại trên một môi trường cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ lớn mạnh như Mỹ , EU, Trung Quốc, Hàn Quốc… Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường cần phải đi sâu , nghiên cứu đầy đủ và chính xác về các thông tin cần thiết trước khi muốn tham gia hoạt động xuất khẩu vào thị trường này. Các doanh nghiệp cần tìm hiểu các thông tin về nhu cầu thị trường, đặc điểm người tiêu dùng Nhật Bản, các thủ tục hải quan, các quy định về chất lượng, các luật lệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu của Nhật Bản… * Nghiên cứu nhu cầu và đặc điểm người tiêu dùng Nhật Bản. Các doanh nghiệp phải tìm kỹ lưỡng về phong tục, tập quán, văn hoá tiêu dùng, sở thích, niềm tin, mức độ chi trả và các xu hướng thay đổi của người tiêu dùng. Như đã nghiên cứu ở trên, người tiêu dùng Nhật có nhu cầu và thị hiếu rất đa dạng tuỳ theo lứa tuổi và giới tính. Nhưng nhìn chung họ ưa thích các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Một khi đã có được lòng tin của họ thì họ sẽ mua các sản phẩm đó lâu dài. Hiện nay, người dân Nhật đang có xu hướng ưa chuộng các sản phẩm rẻ tiền nhưng lại vẫn phải theo các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản. Riêng đối với mặt hàng thuỷ sản , nhất là tôm đông lạnh, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng đến nghiên cứu phong tục, tập quán tiêu dùng của người dân Nhật. Ngày nay, họ có nhu cầu về các sản phẩm thuỷ sản cao hơn các sản phẩm thực phẩm khác. * Về các thủ tục hải quan và các quy định về chất lượng, các luật lệ thương mại đối với hàng hoá nhập khẩu của Nhật. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể trực tiếp khảo sát tại thị trường Nhật hoặc cũng có thể tìm kiếm thông tin qua các cơ quan hữu quan chuyên trách của nước ta như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) , Cục xúc tiến Thương mại hay qua các cơ quan của Nhật Bản như Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản JETRO, Bộ kinh tế , Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI)… Nhìn chung các thủ tục nhập khẩu và các quy định về hàng hoá của Nhật là một trở ngại khá lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong vấn đề thủ tục hải quan, các doanh nghiệp cần nhanh chóng xin được giấy phép nhập khẩu, qua giám định của hệ thống Precertification . Còn về các quy định hàgn hóa , các doanh nghiệp cần tìm hiểu và tìm cách đáp ứng về các tiêu chuẩn JIS, JAS, ECOMARK hay các luật lệ về trách nhiệm sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm, luật kiểm dịch… * Về các kênh phân phối : đây là điều mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý quan tâm nhiều hơn, khi mà các hệ thống phân phối hiện nay của Nhật là rất rộng. Các hàng hoá nhập khẩu hầu như đều phải qua nhiều khâu phân phối mới đến được tay người tiêu dùng Nhật Bản. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tìm kiếm những đối tác đáng tin cậy. Họ nên tìm đến sự tư vấn, liên kết hợp tác tại các cơ quan , tổ chức chuyên trách của nước ta hoặc của phía Nhật Bản như đã nhắc đến ở trên. 2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu cũng như hàng thuỷ sản nói riêng : Với công nghệ sản xuất trong nước hiện nay, nhiều mặt hàng chủ yếu của ta xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chưa thể đáp ứng các nhu cầu cao cấp cũng như về khả năng cạnh tranh với các nước khác có nền côngnghiệp phát triển như Mỹ , Trung Quốc, Hàn Quốc… Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu là một vấn đề có tính sống còn cho vị trí của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu Nhật Bản. * Cần phải tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng thực phẩm, thuỷ sản. Hiện nay, các mặt hàng thuỷ sản của ta bị đánh giá là có mức giá cao hơn các nước xuất khẩu khác vào thị trường Nhật Bản. Một nguyên nhân chủ yếu là do giá nguyên liệu đầu vào của ta quá cao, chúng ta không chủ động được khâu cung ứng các nguyên liệu đầu vào cho chế biến hàng hoá xuất khẩu. Về vấn đề này, các doanh nghiệp nên đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để tìm ra các giống thuỷ sản có chất lượng phục vụ cho công tác nuôi trồng thuỷ sản, tránh được sự bị động do phải nhập khẩu giống từ bên ngoài vừa tốn kém lại khôngchắc chắn về chất lượng và hiệu quả. Trong ngành khai thác thuỷ sản cần đầu tư cơ sở hạ tầng cho đánh bắt xa bờ, nâng cao sản lượng khai thác cho công nghiệp chế biến. Nhìn chung, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nên triệt để khai thác các yếu tố đầu vào ở trong nước vừa chủ động nguyên liệu tạichỗ, vừa đỡ tốn chi phí nhập khẩu từ bên ngoài. * Nâng cao tính cạnh tranhvề chất lượng của hàng hoá và đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm : Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật hầu hết là qua sơ chế chứ không phải là hàng tinh chế. Chất lượng các mặt hàng chưa cao. Mặt khác, số lượng các doanh nghiệp của Việt Nam đạt được các chứng chỉ sản xuất theo hệ thống chất lượng quốc tế lại không nhiều. Đâylà một cản trở cho hàng xuất khẩu của ta khi bước chân vào thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng này. Điều này đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải phải áp dụng các quy trình theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế có uy tín như GMP, SOSS, HACCP… hoặc theo các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản như JIS, JAS… Trong lĩnh vực thủy sản, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Các mặt hàng thuỷ sản khi nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản đều gặp phải các hàng rào về luật vệ sinh an toàn thực phẩm hay luật trách nhiệm sản phẩm, luật kiểm dịch… Do vậy, các doanh nghiệp thuỷ sản của ta phải đầu tư đổi mới công nghệ chế biến và kể cả nuôi trồng thuỷ sản sao cho có thể đáp ứng được nhu cầu về chất lượng sản phẩm do hệ thống kiểm soát nhập khẩu của Nhật đặt ra. * Nâng cao tính cạnh tranh về giá đối với mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu : Để hạ giá thành sản phẩm, bên cạnh việc giảm chi phí đầu vào đã đựơc trình bày ở trên thì biện pháp cũng không kém phần quan trọng là lựa chọn hình thức và kênh phân phối để giao dịch hàng hoá trên thị trường Nhật Bản. Như đã phân tích, hàng hoá thủy sản của Việt Nam để xâm nhập vào thị trường Nhật Bảnphải qua rất nhiều khâu phân phối, phải qua các trung gian, các nhà buôn rồi mới đến các siêu thị , các thị trường bán lẻ và cuối cùng khi đến tay người tiêu dùng thì giá cả bị đẩy lên rất cao. Do vậy, cần phải có giải pháp để thoát ra khỏi tình trạng này. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm tại thị trường Nhật Bản nhiều năm, bên cạnh đó lại có sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng trong nứơc về thông tin, về các đối tác hợp tác nên các doanh nghiệp nên tìm cách buôn bán, giao hàng theo phương thức trực tiếp , không cần thông qua các khâu trung gian. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp giảm một cách đáng kể các chi phí phát sinh trong lưu thông hàng hoá góp phần hạ giá thành sản phẩm nhưng nó cũng đòi hỏi sự nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡngvà sâu sắc. * Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm Việt Nam : hiện nay, vấn đề xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm hàng hoá đang trở nên phổ biến và ngày càng cần thiết. Đó là một biện pháp quan trọng nhằm xây dựng hình ảnh của doanh nghiệp Việt Nam với các bạn hàng thế giới. Một doanh nghiệp xuất khẩu lớn, có uy tín và hiệu quả cao luôn gắn liền với các sản phẩm có thương hiệu mạnh. Nó thể hiện ở niềm tin của người tiêu dùng khi nhìn vào sản phẩm, và tiêu dùng nó. Với một thị trường như Nhật Bản thì ngoài việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chất lượng và các quy định khác nên gắn với việc xây dựng một thương hiệu riêng cho sản phẩm đó. Đến khi các doanh nghiệp Việt Nam đã gây dựng được niềm tin trong người tiêu dùng Nhật thì thương hiệu chính là giá trị của sản phẩm, tạo ra lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp. Để thực hiện biện pháp này, các doanh nghiệp có thể thông qua các tổ chức , các cơ quan chuyên trách trong nước. Mặc dù vậy , họ cần đặc biệt quan tâm đến đăng ký sở hữu công nghiệp tại Nhật Bản cho sản phẩm của mình. 2.3. Đẩy mạnh tham gia các công tác xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản. Để thực hiện điều này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể thông qua sự hỗ trợ của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục xúc tiến Thương mại, hay tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản JETRO là một cơ quan chính phủ hoạt động phi lợi nhuận thuộc Bộ kinh tế , Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI). Biện pháp này bao gồm các hoạt động như : Thành lập văn phòng đại diện hay chi nhánh tại Nhật Bản và tham gia các hội chợ triển lãm thương mại quốc tế. Trong đó khi thành lập văn phòng đại diện hay chi nhánh tại Nhật , các doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ các thủ tục và trình tự thực hiện. Từ việc xin cấp giấy chứng nhận cư trú tại Cục Quản lý Nhập cảnh thuộc Bộ tư pháp , nộp đơn đăng ký tại cơ quan đăng ký của Cục tư pháp đến các công việc như mở tài khoản ngân hàng , thông qua lãnh sự quán tại Nhật… Trong các hoạt động xúc tiến , các doanh nghiệp nên tích cực tham gia các hội chợ triển lãm thương mại quốc tế để giới thiệu quảng bá sản phẩm thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, ký kết và tìm kiếm đối tác, tìm hiểu thêm thông tin, kiến thức để nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2.4. Thúc đẩy sự phát triển thương mại thông qua Internet : Từ sự khác biệt về môi trường văn hoá và công nghiệp nên một số mặt hàng có thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế, việc cung cấp thông tin về công dụng của sản phẩm , cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng của sản phẩm trở nên rất quan trọng. Trong cuộc sống hiện đại như ngày nay, công nghệ thông tin dường như đã trở thành phổ biến, giúp cho các doanh nghiệp có thể buôn bán và trao đổi hàng hoá trở nên dễ dàng và thuận tiện bất kể khoảng cách về không gian và thời gian . Các doanh nghiệp thực hiện biện pháp này thông qua việc xây dựng riêng cho mình một trang WEB trên mạng Internet cũng như tham gia các hoạt động xuất khẩu thông qua mạng Internet , để thu thập thông tin, giao dịch… 2.5. Các biện pháp khác : Ngoài các biện pháp kể trên, các doanh nghiệp xuất khẩu , đặc biệt là về lĩnh vực thuỷ sản cần chú trọng đến các biện pháp nhằm tăng khả năng sản xuất sản phẩm xuất khẩu dựa trên đổi mới công nghệ , áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật , các phương thức sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng như ISO- 9000, hay ISO- 9002, tổ chức nghiên cứu khoa học tạo ra các nguồn đầu vào có chất lượng cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất, quản lý trong các doanh nghiệp , tăng cường mở rộng đadạng hoá loại hình sản phẩm xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của các nước có nền công nghiệp phát triển. Kết luận Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản . với tiềm năng to lớn do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên mang lại cùng với những chính sách hợp lý của Chính phủ và sự năng động sáng tạo của hàng ngàn đơn vị sản xuất và kinh doanh thuỷ sản, hàng triệu lao động nghề cá, trong những năm qua, ngành thuỷ sản Việt Nam đã thực sự có một chỗ đứng ngày càng vững chắc trên thị trường thế giới, góp phần vào tăng trưởng kinh tế trong nước, giải quyết công ăn việc làm và đổi mới đời sống cho nhân dân các tỉnh ven biển. Để tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của ngành, giúp ngành phát triển hiệu quả và bền vững, khắc phục được những tồn tại trong thời gian qua, cần xây dựng một định hướng phát triển đúng đắn, có tính đến đầy đủ các yếu tố tác động bên trong và bên ngoài trên cơ sở lý luận, thực tiễn cả trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đó, phải xây dựng một hệ thống các giải pháp để thực hiện được các định hướng đã vạch ra. Với tầm quan trọng của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân, thì vấn đề phát triển thị trường xuất khẩu đã và đang trở thành một sự thiêt yếu và hêt sức quan trọng, trong đó thị trường Nhật Bản là một thị trường có tiềm năng lớn . Thị trường nàyđã và sẽ là thị trường xuất khẩu thuỷ sản số một của Việt Nam. Với sự phát triển mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng giữa Việt Nam và Nhật Bản thì việc tăng cường nghiên cứu tìm hiểu và kinh doanh trên thị trường Nhật Bản là rất quan trọng nó đòi hỏi cần có sự tham gia của các doanh nghiệp trong mọi ngành sản xuất nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng trong giai đoạn tới, khi mà các quan hệ kinh tế thế giới hình thành nhiều cơ hội mới nhưng mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên đadạng và khốc liệt hơn. Lời nói đầu Trong tác phẩm “ Của cải của các dân tộc “ A.Smith đã chỉ rõ : Thươngmại quốc tế là một trong những hình thức đem lại sự giàu có và thịnh vượng cho mỗi dân tộc, là nhân tố đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngày nay , Thương mại quốc tế còn là công cụ để hội nhập nền kinh tế các nước và hình thành kinh tế toàn cầu với một không gian rộng lớn, nhờ dó hiệu quả kinh tế xã hội không ngừng tăng lên làm tăng chất lượng cuộc sống trên toàn thế giới cũng như ở mỗi quốc gia. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới với xu hướng hội nhập kinh tế ngày càng cao nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất thường đẫ và đang đặt ra những cơ hội và thách thức cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung cũng như ngành thuỷ sản nói riêng của Việt Nam . Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện nay , Nhật Bản là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam nhiều năm qua và chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ hai sau Mỹ. Hiện nay Nhật Bản được đánh giá là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới hiện nay, với những con số nhập khẩu khổng lồ. Mặc dù kim ngạch xuát khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Nhật luôn tăng trong những năm qua nhưng đó mới chỉ là một con số vô cùng nhỏ bé so với tiềm năng phát triển quan hệ thương mại hai nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản, không nắm hết tiềm năng nhu cầu của thị trường , không hiểu rõ hệ thống chất lượng sản phẩm và các luật lệ thương mại của Nhật Bản… Điều này làm các doanh nghiệp không thể xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu dài để có thể cạnh tranh và tồn tại cũng như phát triển trên một môi trường đầy năng động và cạnh tranh khốc liệt này. Đây là một vấn đề đã và đang đặt ra nhiều câu hỏi cho ngành thuỷ sản nói riêng và các ngành sản xuất hàng xuất khẩu nói chung để có những giải pháp nhằm nghiên cứu , xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược phát triển cho hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Xuất phát từ thực tiễn mang tính cấp thiết của vấn đề, qua sự tham khảo những tài liệu có liên quan, em đã lựa chọn đề tài “ Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và một số giải pháp “ để làm nội dung nghiên cứu cho đề án môn học Kinh tế Thương mại của mình. Do những hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo nên bài viết của em có thể chưa được hoàn chỉnh, em mong nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy để những bài viết sau của em được hoàn chỉnh hơn. Kết cấu của đề án gồm các nội dung như sau : * Lời mở đầu. * Chương I : Những vấn đề chung về thị trường Nhật Bản và sự cần thiết xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản. * Chương II : Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. * Chương III : Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng sang thị trường Nhật Bản. * Kết luận. Tài liệu tham khảo 1. Kinh tế xã hội Việt Nam 2002 – kế hoạch 2003 – tăng trưởng và hội nhập. 2. Phát triển thuỷ sản Việt Nam – những luận cứ và thực tiễn PGS- TS Hoàng Thị Chỉnh. Nhà xuất bản Nông Nghiệp TP. Hồ Chí Minh- 2003. 3. Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. TS. Lê Thị Anh Văn. Nhà xuất bản Lao Động- 2003. 4. Kinh tế 2003- 2004 Việt Nam & Thế giới. Đặc san Thời báo Kinh tế Việt Nam. 5. Tạp chí Thuỷ sản các số báo năm 2002, 2003, 2004. 6. Tạp chí Kinh tế và dự báo. 7. Tạp chí Con số & Sự kiện. 8. Các trang WEB tham khảo: - Bộ Thương mại : - Bộ Thuỷ sản Việt Nam : - Bộ Kế hoạch và đâu tư . - Trung tâm thông tin KHKT và KT thuộc Bộ thuỷ sản - Trung tâm xúc tiến thương mại Kiên Giang - Cục xúc tiến thương mại – Bộ thương mại: - Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) - Và các báo điện tử - Trung tâm TTTM (VCTI) Mục lục :

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33784.doc
Tài liệu liên quan