Cần phải khẳng định việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế giá trị gia tăng ở nước ta là một sự nỗ lực , cố gắng lớn của đảng , chính phủ , đặc biệt nó thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong công tác tài chính nói chung và trong ngành thuế nói riêng . Song trong quá trình thực hiện nảy sinh những vướng mắc , khó khăn là điều không tránh khỏi . Do đó cần có sự xem xét nghiên cứu những vướng mắc , hạn chế , đồng thời trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cho việc xử lý , giải quyết những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả từ đó phát huy những ưu điểm của thuế giá trị gia tăng.
53 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thuế giá trị gia tăng trong Thương mại dịch vụ và vai trò của nó trong thúc đẩy kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huế suất thấp hoặc kinh doanh những mặt hàng có chi phí ít, giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn. Ví dụ:
+ Sản phẩm cơ khí với thuế suất thuế doanh thu 1 –2%, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất 10% , thì số thuế giá trị gia tăng phỉa nộp tăng gấp 3 lần so với thuế doanh thu.
+ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, khách sạn, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng với thuế suất 20%, mức thuế cao nhất trong biểu thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu 10% cũng được kiến nghị là quá cao. Kết quả tính thử số thuế phải nộp trong 6 tháng đầu năm theo luật giá trị gia tăng so với thuế doanh thu nộp ở 40 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ dulịch, khách sạn cho thấy: đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch lữ hành, số thuế phải nộp tăng gấp 2 lần; còn đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, mức thuế tăng từ 1,6 – 1,8 lần.
+ Đối với nghành điện tử, tin học: mức thuế doanh thu của nghành điện tử là 4% và tin học là 1%. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng , thuế suất 10%. Theo tính toán của Tổng công ty điện tử – tin học, số thuế giá trị gia tăng phải nộp sẽ tăng lên 2 lần so với thuế doanh thu nếu như mọi điều kiện khác không thay đổi. Theo số liệu tính thử cho năm 1999, số thuế giá trị gia tăng mà tổng công ty này phải nộp là 32,4 tỷ đồng, so với thuế doanh thu là 17,2 tỷ.
Bảng một số Tổng công ty có số thuế giá trị gia tăng phải nộp tăng so với thuế doanh thu .
(Đơn vị : triệu đồng)
Tên đơn vị
Thuế doanh thu
Thuế GTGT
Chênh lệch
TCT Vật tư nông nghiệp
6.342
79.456
73.114
TCT xăng dầu
508.176
1.156.188
648.012
Liên hiệp đường sắt Việt Nam
46.756
70.787
24.031
TCT tầu thuỷ
76.000
85.000
9.000
TCT hàng hải
120.000
158.000
38.000
( Nguồn: Bộ Tài chính)
Việc chuyển từ thuế doanh thu với 11mức thuế suất (từ 0% - 30%)sang thuế giá trị gia tăng với 4 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 20%) tất yếu dẫn đến tình trạng có mặt hàng chịu thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu, có mặt hàng được hưởng thuế suất thấp hơn, do đó số thuế doanh nghiệp phải nộp
cũng thay đổi. Nhiều trường hợp được nộp thuế thấp hơn nên rất phấn khởi trong việc thực hiện luật thuế mới. Ngược lại, có không ít nghành phải nộp thuế cao hơn so với thuế doanh thu nên rất băn khăn lo lắng. Đặc biệt, trong hoàn cảnh phải đương đầu với bao thách thức, khó khăn như nghành cơ khí, kinh doanh khách sạn, du lịch, ăn uống, bảo hiểm, tư vấn, vì được khấu trừ thuế đầu vào không đáng kể.
1.2. Tổ chức thực hiện:
*Tổ chức bộ máy chỉ đạo triển khai thực hiện:
Chấp hành chỉ thị số 44CT/TƯ ngày 4/11/1998 của Bộ Chính Trị và Nghị quyết số 18 năm 1998/QH ngày 25/11/1998 của Quốc Hội, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 208/1998/QĐ-TTg ngày 26/10/1998 về việc thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ do một phó thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các bộ: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục Hải quan, Tổng Cục thuế. Bộ phận thường trực của ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới của Chính phủ được đặt tại Bộ Tài chính. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị số 41/CT-TTg ngày7/2/1999 về việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới. Căn cứ vào chỉ thị số 41/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các địa phương đã thành lập ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới do một đồng chí Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND làm trưởng ban, thành viên là lãnh đạo các sở, nghành có liên quan.
Các ban chỉ đạo triển khai thực hiện các luật thuế mới đều có chương trình hành động, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận để chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai thựchiện các luật thuế mới, chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới.
* Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Sau khi Quốc hội thông qua các luật thuế mới, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ, các ban soạn thảo đã tích cực chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành các luật thuế mới và các luật có liên quan như: Luật ngân sách, luật khuyến khích đầu tư trong nước…
Đến ngày31/12/1998 đã có trên 70 văn bản mang tính pháp quy về cơ bản đã đủ để hướng dẫn thi hành các luật thuế mới; Các văn bản hướng dẫn đã bảo đảm
đúng luật, phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
* Tổ chức công tác hướng dẫn, tuyên truyền.
Đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn về mục đích, ý nghĩa, nội dung, tác dụng và quy trình nghiệp vụ quản lý thuế cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, địa phương, cho cán bộ nghành tài chính và ngành thuế, cho các doanh nghiệp quốc
doanh, việc tuyên truyền về thuế đã được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức: Trên các phương tiện thông tin đại chúng (Đài báo trung ương, đài báo địa phương, hệ thống thông tin phường, xã…), in sách, phát hành tờ rơi, xây dựng phim truyện, hội thảo.
Ban tư tưởng văn hoá TW đã có văn bản hướng dẫn thục hiện chỉ thị số 41CT/TW của Bộ Chính trị, tổ chức tập huấn về thuế cho các tổng biên tập báo, cho ban tuyên huấn của các bộ, địa phương để phục vụ cho công tác tuyên truyền, phối hợp với Bộ tài chính soạn thảo thông tin vắn tắt về thuế để làm tài liệu sinh hoạt trong công tác chi bộ Đảng.
* Tổ chức bộ máy, nghiệp vụ quản lý thuế.
Cấp mã số cho đối tượng nộp thuế: Việc cấp mã số cho đối tượng nộp thuế nhằm mục đích quản lý số lượng đối tượng nộp thuế và là khâu đầu trong công tác đưa tin học vào quản lý thuế. Đến hết quý I/1999 đã cấp mã số thuế cho 985.194 cơ sở kinh doanh, trong đó có 485.517 cơ sở kinh doanh được phép thành lập và có đăng ký kinh doanh, số còn lại chưa có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn cấp mã số để quản lý thu thuế.
Về hoá đơn, chứng từ: Hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện tính thuế, kê khai thuế, nhất là trong việc tính thuế giá trị gia tăng. Bộ tài chính đã in và cung cấp đủ hoá đơn cho các địa phương, các cơ sở kinh doanh. Đến hết tháng 3/1999 số lượng hoá đơn đã phát hành là 636.315 quyển (trong đó có 434.400 quyển hoá đơn giá trị gia tăng; 201.915 quyển hoá đơn thông thường) và cho gần 700 cơ sở kinh doanh tự in và sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng. So với năm 1998, viêc sử dụng hoá đơn của các doanh nghiệp tăng lên nhiều .
Về công tác tin học phục vụ cho công tác quản lý thuế : Việc đưa tin học vào công tác quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế . Ngay từ khi các luật thuế mới được thông qua , nghành thuế đã tiến hành xây dựng chương trình quản lý thuế bằng máy vi tính đến ngày 17/1/1999 , các cục thuế đã được trang bị đầy đủ máy tính cần thiết phục vụ cho đối tượng nộp thuế , nhập tờ khai , kiểm tờ khai, in thông báo thuế , lưu trữ dữ liệu về thuế.
Ngành thuế cũng đã tổ chức lại bộ máy quản lý thuế ở cục thuế, chi cục thuế để phù hợp với nghiệp vụ, kỹ thuật quản lý các loại các loại thuế mới. Đã thành lập phòng thuế quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ ở các cục. Các chi cục thuế chỉ quản lý các hộ kinh doanh cá thể nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp. Việc thay đổi tổ chức bộ máy quản lý thuế đã giúp cho nghành thuế nắm chắc trên
90% số thu ở cục thuế, đồng thời tạo điều kiện từng bước đưa công tác tin học vào quản lý thuế.
Ngoài ra, nghành còn xây dựng quy trình quản lý các loại thuế mới, quy trình quản lý thuế đối với cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh. Nghành hải quan cũng đã xây dựng quy trình tự kê khai, tự tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu.
Nhìn chung, do có sự chỉ đạo sát sao của Trung ương Đảng, Bộ chính trị, uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, đã cùng với các bộ, nghành, địa phương chuẩn bị thực hiện các luật thuế mới tương đối cụ thể, đồng bộ từ khâu chuẩn bị tổ chức bộ máy chỉ đạo, xây dựng văn bản, hướng dẫn, tuyên truyền về thuế đến khâu tổ chức quản lý thuế.
2. Kết quả sau thời gian thực hiện thuế giá trị gia tăng .
Sau thời gian thuế giá trị gia tăng đi vào cuộc sống, về cơ bản đã đạt được những yêu cầu đề ra. Luật thuế giá trị gia tăng đã phát huy được tác dụng, vai trò trong nền kinh tế quốc dân.
* Những nét chung qua thời gian thực hiện.
2.1. Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế giá trị gia tăng của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng. Do đó chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Mặt khác, khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng . Từ khi thực hiện nghị định số 78/NĐ-CP, giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế giá trị gia tăng các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào, bình quân chỉ còn khoảng 1 –2% , thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu , thậm chí còn được hoàn thuế.
Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại, thì không hoàn thuế giá trị gia tăng , nếu thuộc vốn ODA vay thì được hoàn thuế giá trị gia tăng trong 3 ngày kể từ ngày nộp tờ khai.
Thực hiện thuế giá trị gia tăng còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá phát triển do thuế giá trị gia tăng chỉ thu rhêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng, với hai phương pháp tính thuế (phương pháp khấu trừ vàphương pháp trực tiếp). Với phương
pháp tính như thế đã khắc phục được nhược điểm thuế chồng lên thuế, thúc đẩy công nghiệp hoá, hợp tác sản xuất, nhất là trong lĩnh vực sản xuất cơ khí như sản xuất , lắp ráp xe đạp, xe máy, ôtô, điện tử…
Trong quá trình thực hiện, có một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ gặp khó khăn do thuế giá trị gia tăng cao hơn doanh thu, nhưng chưa được chuyển đổi kịp cho phù với cơ chế thuế mới và chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực như: than , cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), kéo kim loại, máy vi tính, hoá dược, vận tải, bốc xếp , xây dựng, lắp đặt, khách sạn, ăn uống, du lịch…đãđược Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính thực hiện các biện pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn như: giảm mức thuế nhập khẩu của 569 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế giảm gần 1000 tỷ đồng, giảm mức thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng.
Bằng những nội dung chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, luật thuế giá trị gia tăng đã góp phần khuyến khích đầu tư và ổn định sản xuất kinh doanh.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong thời gian thuế giá trị gia tăng đi vào hoạt động, nhưng tình hình sản xuất kinh doanh vẫn đạt được những thành tựu đáng kể.
Nhiều sản phẩm quan trọng có mức tăng khá, cả về sản xuất và tiêu thụ như: dầu thô, điện, than sạch, xi măng, thép, phân đạm, giấy, hàng may mặc, vải, đường mật, dầu thực vật…Đặc biệt, nhiều loại sản phẩm cơ khí đã tăng đáng kể do chất lượng được nâng lên, thị trường tiêu thụ có cải thiện như: động cơ điện ( năm 2000 tăng 12,1%), động cơ Điêzen (năm 2000 tăng 9,2%), quạt điện (năm 2000 tăng 17,6%), bơmthuốc trừ sâu (năm 2000 tăng 33,3%), máy công cụ (năm 2000 tăng 21,2%), máy biến thế (năm 2000 tăng 14,5%)…
Hầu hết các mặt hàng có mức tăng trưởng khá là những mặt được giảm 50%
mức thuế suất, thuế giá trị gia tăng như: than, thép, các sản phẩm cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), giấy in báo, vận tải , du lịch….Đối với sản xuất đường mật, nhà nước gần như là giảm 100% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng .
Một tác động rõ nét nhất là với thuế suất 0% việc hoàn thuế giá trị gia tăng đã thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua giảm bớt được giá thành, tạo điều kiện cạnh tranh thuận lợi hơn trên thương trường quốc tế. Thuế giá trị gia tăng đánh vào hàng nhập khẩu đã tích cực bảo vệ sản xuất kinh doanh nội địa và phát huy tiềm năng của nội lực kinh tế. Việc thuế giá trị gia tăng không đánh vào vốn đầu tư và thuế TNDN có các mức miến giảm thuế
phải nộp khác nhau trong thời gian đầu cơ sở sản xuất kinh doanh mới được thành lập đã góp phần khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư.
2.2. Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất kinh doanh trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế.
Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế suất 0%. Một số loại hàng hoá chịu thuế xuất khẩu như: Gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ trồng rừng, sản phẩm chế biến từ kim loại trong năm 1999 cũng được giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với các biện pháp xuất khẩu như: Cho phép các doanh nghiệp sản xuất trong nước được xuất khẩu trực tiếp, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu…. Thì việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng có tác dụng rõ nét nhất trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo quy định của luật thuế giá trị gia tăng hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá xuất khẩu thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Nhờ tác động của các cơ chế, chính sách và sự nỗ lực cố gắng của các nghành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nên tổng giá trị xuất khẩu của nước ta năm 1999 tăng so với năm 1998 là 23,15%; Năm 2000 là 14308 triệu USD; Năm 2001 đạt 15027 triệu USD; Năm 2002 đạt 16706 triệu USD ; Năm 2003 đạt khoảng 19500 triệu USD; Năm 2004 (Kế hoạch) là 21700 triệu USD. Việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2700 tỷ
đồng, năm 2000 là 5000tỷ đồng trong đó những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như: Cao su 37,2%; Cà phê 27,6%; Gạo 21,4%; Thuỷ sản 14,1%; rau quả 39,6%; giầy dép 36,4%; dệt may 15,1%; Thủ công mỹ nghệ là 48,6%; Điện tử 17,5%.
Thuế giá trị gia tăng đánh vào hàng hoá nhập khẩu đã cùng với thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ có hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nước , đây là biện pháp hết sức quan trọng .
Việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt: Hợp lý hoá và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đạt và vượt mức lợi
nhuận trung bình xã hội .Thông qua việc ưu đãi đầu tư và các luật thuế mới đã khuyến khích việc đầu tư vào các lĩnh vực, nghành nghề, vùng kinh tế theo định hướng phát triển của nhà nước, thúc đẩy chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Không còn đánh trùng thuế như thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: Nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ …do được khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3% - 5% khi mua hàng của nông dân. Trường hợp nông sản , lâm sản , hải sản xuất khẩu nếu có thuế giá trị gia tăng đầu vào cũng được hoàn thuế.
2.3. Không gây biến động về giá và lạm phát .
Thông thường giá cả và lạm phát tăng hay giảm do nhiều yếu tố tác động , cả về kinh tế và xã hội .Trong cơ chế thị trường , quy luật cung cầu , quy luật giá trị cũng có tác động rất lớn dến giá cả và lạm phát . Trước khi áp dụng thuế giá trị gia tăng , có người cho rằng , việc ban hành thuế giá trị gia tăng sẽ làm tăng giá cả và tăng lạm phát . Tuy nhiên , ở nhiều nước , trong quá trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuế giá trị gia tăng đối với giá cả , lạm phát , người ta đi đến kết đến nay , chưa có căn cứ khoa học nào để khẳng định rằng bản thân thuế giá trị gia tăng có thể gây lạm phát . Nếu có ảnh hưởng nào đó đến giá cả, thì những ảnh hưởng này sẽ chỉ là một phần, chứ không thể là tất cả. Để có được kết luận trên, các nhà kinh tế thế giới đã tiến hành nghiên cứu bằng thực nghiệm những thay đổi chỉ số giá tiêu dùng, tín dụng và tiền lương ở 35 nước trong vòng 2 năm, cả trước và sau ngày ban hành thuế giá trị gia tăng. Kết quả cho thấy có 22 nước ( 63% số nước được nghiên cứu ) gần như không có hoặc có rất ít ảnh hưởng của việc ban hành thuế giá trị gia tăng đến chỉ số giá tiêu dùng. Có 8
nước có sự tăng giá là do bị ảnh hưởng đáng kể bởi thuế giá trị gia tăng như : Đan Mạch, Pháp, NiuDiLân, NaUy, Tây Ban Nha , Ecuađo, Panama, Urugoay. Giá cả tăng lên còn do nhiều nguyên nhân, như thay đổi các loại thuế khác, tăng lãi xuất tín dụng, tiền lương, tình trạng cung cầu hàng hoá, khả năng quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, tính độc quyền, tâm lý của các tầng lớp dân cư trước những điều chỉnh về chính sách kinh tế – xã hội …
Về lý thuyết, thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá. Vì vậy, việc ban hành thuế giá trị gia tăng có liên quan và tác động trực tiếp đến giá cả là tất nhiên, không thể phủ nhận. Vấn đề là đối với từng ngành nghề, từng loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, cũng như trên toàn cục của nền kinh tế, việc ban hành ảnh hưởng đến giá cả trong phạm vi hẹp hay rộng, còn tuỳ thuộc vào kết cấu hệ thống thuế suất, nội dung và tổ chức thực
hiện có phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội, với trình độ dân trí và khả năng đóng góp của tầng lớp dân cư hay không. Về nguyên tắc, khi thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng với mức động viên cuối cùng như nhau thì ảnh hưởng của thuế giá trị gia tăng ngang với ảnh hưởng của thuế doanh thu đối với giá. Tuy nhiên, nếu nhà nước không có biện pháp quản lý, kiểm tra giá cả, để cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng, vịn vào lý do có thuế giá trị gia tăng để tăng giá thì vô hình trung, giá cả sẽ có tác động xấu.
Tình hình lạm phát ở từng nước xảy ra thường do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân khá quan trọng về sự phát triển chậm hay giảm sút về kinh tế, do chính sách vĩ mô, điều hành của Nhà nước, do thu không đáp ứng nhu cầu chi, không cân đối được thu chi ngân sách, do tác động của giá cả, vì giá cả vừa là tác nhân, nhưng cũng là hậu quả của sự lạm phát. Vì vậy, không thể xem xét, đánh giá tác động cụ thể của chính sách thuế giá trị gia tăng một cách riêng rẽ, cách biệt. Tuy nhiên, phải khẳng đrằng nếu việc cải cách chính sách thuế nói chung, thuế giá trị gia tăng nói riêng với quy luật và sự phát triển kinh tế thị trường sẽ có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, bảo đảm nguồn thu ngân sách, do đó sẽ có tác động tốt, ngăn chặn hay hạn chế lạm phát. Ngược lại, nếu đưa mức thuế quá cao, hoặc quá thấp sẽ có ảnh hưởng đến kết quả thu ngân sách và lạm phát.
Thực tế ở nước ta, trong 2 tháng đầu áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, giá một số mặt hàng như lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm, dược phẩm… nhích lên so với tháng 12/1998. Nhưng do Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp : miễn thuế đối với hoạt động buôn chuyển lương thực, thực phẩm, tăng
cường quản lý thị trường, gián tem hàng hoá, chống buôn lậu, chống hàng giả, thực hiện niêm yết giá… nên giá cả trở nên ổn định. Trong thời gian qua, giá cả không có biến động nhiều. Cụ thể như năm 1999, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 0,1%, năm 2000 tăng khoảng 1%…
2.4. Không ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách Nhà nước.
Thuế giá trị gia tăng có thể tạo được nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước, thông qua việc mở rộng và bao quát diện đánh thuế đối với mọi hoat động nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Mặt khác, thuế giá trị gia tăng bảo đảm việc thu tập trung phần lớn số thuế đánh vào từng sản phẩm hàng hoá ngay từ khâu đầu, có khả năng hạn chế thất thu ngân sách tốt. Việc thu thuế và khấu trừ thuế dựa vào chứng từ, hoá đơn, đã thúc đẩy việc mua bán có chứng từ, hoá đơn, tạo căn cứ pháp lý cho việc thu
thuế sát hơn với thực tế kinh doanh. Trường hợp thất thu thuế ở khâu trước sẽ được khắc phục ở khâu sau.
Trong 2 năm đầu, thuế giá trị gia tăng đi vào cuộc sống, cơ quan thuế đã phải hoàn trên 9000 tỷ đồng tiền thuế giá trị gia tăng, thế nhưng ngành thuế vẫn đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán, thu được giao ( năm 1999 đạt 106,8%,năm 2000 đạt 109% và tăng 102% so với năm 1999 ), góp phần bảo đảm tỷ lệ tích luỹ tăng lên gấp đôi sau 10 năm, từ 14% GDP năm 1991 lên 27-28% GDP vào năm 2000. Những con số đó có ý nghĩa rất lớn , vừa góp phần trực tiếp tạo ra tốc độ tăng trưởng , vừa tạo ra một cái nhìn mới về cách thức và khả năng huy động nguồn lực phát triển đát nước trong tương lai .
2.5. Tổ chức tốt công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để thực hiện chính sách công bằng về thuế, việc áp dụng 3 mức thuế suất thuế giá trị gia tăng , điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý. Do yêu cầu của việc kê khai thuế giá trị gia tăng , khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, đã thúc đẩy các doanh nghiệp và người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác sổ sách kế toán, ghi chép quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Số lượng hoá đơn mà các doanh nghiệp sử dụng không ngừng tăng trong những năm qua. Thể hiện bước tiến trong công tác sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện rõ trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phầnvà hộ kinh doanh cá thể. Hơn 30.000 tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ
nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh doanh cá thể đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuế khoán trước đây sang nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp kê khai trực tiếp.
Đối với hơn 6.000 doanh nghiệp nhà nước và hơn 2.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài, công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đã được củng cố, tiến bộ.
Chính sách thuế mới đã gắn quyền lợi và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ quản lý cơ sở nhiều nơi làm thay công việc tính thuế, kê khai nộp thuế của cơ sở kinh doanh. Qua đó cơ quan thuế có thêm điều kiện để quản lý kinh doanh, tính thuế qua hệ thống máy vi tính để tập trung cán bộ cho công tác đôn đốc, kiểm tra, xử lý.
*Những vấn đề sai phạm qua thời gian thực hiện thuế GTGT.
Hiện nay ở nước ta , mặc dù Bộ tài chính đã có một số văn bản hướng dẫn về chế độ quản lý sử dụng hoá đơn . Song việc mua bán , sử dụng hoá đơn như bán hàng không ghi hoá đơn , xuất khống hoá đơn đang có chiều hướng gia tăng , gây thất thu nghiêm trọng ngân sách nhà nước , ảnh hưởng đến môi trường sản xuất kinh doanh và làm tha hoá biến chất một bộ phận cán bộ trong các cơ quan nhà nước . Do việc kinh doanh không bị ảnh hưởng do thuế giá trị gia tăng khi doanh số cao , nên nhiều doanh nghiệp đã mua hoá đơn giá trị gia tăng , làm bộ hồ sơ xuất khẩu khống để xin hoàn thuế ,hợp pháp hoá hàng nhập lậu . Nên đã thúc đẩy một số đối tượng thành lập doanh nghiệp chỉ để bán hoá đơn giá trị gia tăng và toạ nên thị trường bán hoá đơn bất hợp pháp ở hầu hết các địa phương tronh cả nước , nhất là một số thành phố lớn , các tỉnh có cửa khẩu .
Với lượng hoá đơn sai phạm là 81.400 hoá đơn giá trị gia tăng ( 2000 – 2002 ) thì tổn thất của ngân sách nhà nước là hàng tỉ đồng.
*Đối tượng mua bán hoá đơn giá trị gia tăng trái phép gồm :
Công ty TNHH , Doanh nghiệp tư nhân và một số doanh nghiệp nhà nước.
Các đối tượng chuyên móc nối các Công ty trên và số đối tượng có nhu cầu để mua bán .
* Thủ đoạn sử dụng hoá đơn lập hồ sơ hoàn thuế khống là :
- Lợi dụng chính sách hoàn thuế của nhà nước đối với các hàng hoá xuất khẩu là nông , lâm , thuỷ , hải sản , các đối tượng đã móc nối với các công ty TNHH , doanh nghiệp tư nhân , các cơ sở thu mua chế biến hàng hoá xuất khẩu ký khống hợp đồng mua bán , vận chuyển hàng hoá và mua hoá đơn giá trị gia tăng để hợp phap hoá việc mua bán , vận chuyển hàng hoá nội đại Sau đó móc nối với một số cán bộ hải quan ở các cửa khẩu để xuất khống .
Lợi dụng các quy định về lập bảng kê thu mua hàng hoá nông , lâm , thuỷ hải sản của những người trực tiếp sản xuất , các đối tượng đã lập khống các bản kê này , sau đó xuất hoá đơn giá trị gia tăng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp ở các địa phương khác nhau để giấu nguồn gốc , giá cả hàng hoá gây khó khăn cho công tác xác minh , điều tra của cơ quan chức năng .
Hợp pháp hoá các chứng từ khống trong mua sắm vật tư thiết bị , tài sản , dùng vốn ngân sách nhà nước để tham ô , đặc biệt là trong xây dựng cơ bản . Đây là lĩnh vực lớn , phải sử dụng rất nhiều vốn của nhà nước . Song các chủ thầu mua vật liệu sai với thiết kế , chất lượng kém của tư nhân , sau đó móc nối với các doanh nghiệp là các công ty TNHH , DNTT để ký các hợp đồng mua bán khống xuất hoá đơn giá trị gia tăng khống nâng khối lượng , đơn giá vật tư để quyết toán nhằm tham ô tiền của nhà nước . Ngoài ra , lợi dụng sự thông thoáng trong thuế giá trị gia tăng , tình hình buôn lậu xảy ra rất nghiêm trọng , với các thủ đoạn như xé lẻ hàng hoá , thuê cửu vạn mang vác qua biên giới và sử dụng nhiều loại phương tiện vận chuyển hàng lậu vào các tỉnh nội địa để tiêu thụ , các đối tượng đã nhập lậu hàng hoá để trốn thuế nhập khẩu , thuế tiêu thụ đặc biệt , thuế giá trị gia tăng rồi móc nối với các doanh nghiệp tại biên giới đóng một phần thuế và mua hoá đơn của các doanh nghiệp này để hợp pháp hoá nguồn gốc hàng lậu và vận chuyển hàng hoá vào nội địa tránh sự kiểm tra của các cơ quan chức năng . Thủ đoạn chính là chỉ ghi số lượng hàng hoá trên liên hoá đơn giao cho khách hàng và người mua hàng là tư nhân hoặc các hộ buôn bán nộp thuế khoán .
*Nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật khi thực hiện thuế GTGT
- ý thức chấp hành của quản lý , sử dụng hoá đơn của doanh nghiệp , ìnhkinh doanh không nghiêm chỉnh , thậm chí nhiều đối tượng còn lợi dụng các sơ hở trong các quy địng này để mua bán , lập khống hoá đơn thu lợi bất chính .
- Một số văn bản luật , chính sách kinh tế của nhà nước còn thiếu chặt chẽ nên tội phạm kinh tế lợi dụng hoat động để chiếm đoạtt tài sản như : các quy định về khấu trừ , hoàn thuế trong luật thuế GTGT đối với mặt hàng nông , lâm hải sản . Luật doanh nghiệp tạo điều kiện cho công dân được thành lập doanh nghiệp , cơ sở sản xuất kinh doanh , nhưng các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước hoạt động thiếu phối hợp , kém hiệu quả dẫn đến chậm phát hiện ngăn chặn xử lý những vi phạm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp . Chỉ cần số tiền lệ phí dưới mười triệu đồng và một bộ hồ sơ theo quy định do người xin đăng ký lập doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính chính xác và thung thuẹc của hồ sơ .Cơ quan đăng ký king doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ , không bắt buộc phải kiểm tra , trong vòng thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận hồ sơ phải cấp đăng ký đã được sở kế hoạch đầu tư trình UBND tỉnh , thành phố cấp giấy phép cho thành lập doanh nghiệp . Sau khi thành lập , không đăng ký với cơ quan thuế vẫn không bị xử lý hoặc có đăng ký nhưng doanh số tăng đột biến chủ yếu do mua , bán hoá đơn nhưng không bị cơ quan chức năng xử lý . Cơ quan thuế hàng tháng , căn cứ trên bảng khai của doanh nghiệp và ra thông báo nộp thuế , chỉ kiểm tra khi có phát hiện vi phạm .
- Bộ luật hình sự năm 1999chưa có điều luật quy định về hành vi , hình phạt về tội mua bán hoá đơn trái phép . Chế tài xử lý hành vi mua bán , sử dụng hoá đơn trái phép mới chỉ dừng lại ở mức xử lý hành chính theo các nghị định của chính phủ và văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính ( mức phạt tiền cao nhất là hai mươi triệu đồng ). Vì vậy chưa có tac dụng ngăn ngừa , răn đe tội phạm trong lĩnh vực này .
- Một số cán bộ trong cơ quan chức năng ( thuế , hải quan … ) thoái hoá biến chất tiếp tay cho đối tượng hoạt động phạm tội .
- Một số điều kiện trong thực tiễn chưa tạo cơ sở cho việc quản lý chặt chẽ như công tác kiểm tra , quản lý hoá đơn còn nhiều sơ hở , việc thanh toán các hợp đồng mua bán chủ yếu thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt , ít thanh toán qua ngân hàng …
- Hiệu quả hoạt động đấu tranh của các lực lượng công an trong phát hiện , điều tra , xử lý tội phạm trong lĩnh vực hoá đơn thuế GTGT chưa cao .
III. Đánh giá về thuế giá trị gia tăng trong thương mại, dịch vụ.
1. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng.
Các văn bản về thuế giá trị gia tăng ở nước ta đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, luật công ty, luật hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn, chấp hành tốt chế độ kế toán, chứng từ. Tương ứng với hai phương pháp tính thuế là hai loại hoá đơn giá trị gia tăng và hoá đơn bán hàng thông thường. Qua thời gian thực hiện thuế giá trị gia tăng cho thấy, sử dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu vào. Mặt khác, để quản lý cơ sở áp dụng phương pháp tính trực tiếp phải huy động gần một nửa số cán bộ thuế với chi phí tương ứng nhưng thu cho ngân sách nhà nước chỉ chiếm gần 19% trong tổng thuế giá trị gia tăng. Do đó chúng ta phải có một biện pháp để hoàn thiện phương pháp tính thuế hơn.
2. Thuế suất thuế giá trị gia tăng.
Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 4 mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là bước đệm để tiến tới chỉ sử dụng hai mức thuế suất (trong đó, thuế suất 0% áp dụng đối vói hàng hoá xuất khẩu). Với 4 mức thuế suất như hiện nay, nghành thuế liên tục nhận được đơn xin giảm thuế và đã điều chỉnh giảm thuế đối với nhiều nhóm hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra những phản ứng dây truyền, lan rộng, gây nhiều tiêu cực.
3. Về hoàn thuế giá trị gia tăng.
Theo quy định của luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản dưới luật đối với hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của tài sản cố định lớn được khấu trừ như đối với vật tư hàng hoá khác, nhưng số thuế đầu vào của tài sản cố định lớn được khấu trừ dần trong 3 tháng mà số thuế đầu vào được khấu trừ hết thì doanh nghiệp lập thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn thuế. Giải pháp xử lý này đảm bảo tính trung lập của thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động đầu tư, tiết kiệm chi phí quản lý, không phải theo dõi khấu trừ thuế đồng thời giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nếu doanh nghiệp đầu tư tài sản cố định với giá đại lớn sẽ gặp khó khăn rất lớn vì phải đi vay để nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào và trả lãi vay. Như vậy, chi phí của doanh nghiệp tăng, hiệu quả kinh doanh giảm. Đây cũng là một vấn đề bất cập mà cần phải có giải pháp xử lý để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp.
4. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng:
Vấn đề đặt ra trong khấu trừ là: Có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện. Hoá đơn chứng từ không rõ ràng như đối với hàng nông, lâm, hải sản không cần hoá đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom, nhưng doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng tạo khe hở để người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm, hải sản, sau đó chế biến bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế, nhưng nếu xuất khẩu thì không được trừ thuế đầu vào.
5. Về quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ :
Trong quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ đã pháp sinh những tồn tại, vướng mắc sau: In và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ( hoá đơn không theo quy định của luật thuế, hoá đơn thật nhưng ký hiệu và mã số trên hoá đơn là giả, hoá đơn ghi tổng giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên …); Buôn bán hoá đơn thật và hoá đơn giả; Xuất hoá đơn khống tạo điều kiện cho đơn vị khác trốn thuế; Bán hàng xuất hoá đơn nhưng không kế khai nộp thuế; Báo mất hoá đơn nhưng thực chất là bán hoặc sử dụng hoá đơn của đơn vị khác báo cáo.
Chương III
Hướng giải quyết những vướng mắc của luật thuế giá trị gia tăng trong các ngành nói chung và Thương mại dịch vụ nói riêng.
I. Phương hướng phát triển ngành Thương mại dịch vụ và sự cần thiết hoàn thiện thuế giá trị gia tăng .
1. Phương hướng phát triển ngành Thương mại dịch vụ.
Trong 10 năm tới ( 2001 – 2010 ) phương hướng mục tiêu cơ bảncủa chiến lược phát triển thương mại nước ta là “Nỗ lực gia tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá và hoạt động thương mại, dịch vụ trong nước cũng như thương mại quốc tế; Bảo đảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước với mức độ phát triển ngày càng cao; Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá lưu thông nội địa và xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng hàng hoá chế biến, hàng hoá có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; Đa dạng hoá, đa phương hoá trong hoạt động thương mại. Đổi mới phương thức kinh doanh theo hướng văn minh hiện đại; Hoàn thiện cơ chế quản lý thương mại phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế”.
Từ mục tiêu chủ yếu nêu trên, phương hướng và một số nội dung cụ thể của chiến lược thương mại nước ta giai đoạn 2001 – 2010 như sau:
Đối với thương mại nội địa: Phát triển mạnh mẽ thương mại nội địa, bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt. Chú trọng công tác tiếp thị và mở rộng thị trường nông thôn, thị trường miền núi; tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước. Củng cố thương mại Nhà nước, tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường tăng khoảng 11 – 14%/năm.
Đối với xuất khẩu, nhập khẩu. Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu; đảm bảo nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng cho các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở thêm các thị trường mới. Xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 15%/năm.
- Trong thời kỳ 2001 – 2005 xuất khẩu tăng bình quân 16%/năm.
- Thời kỳ 2006 – 2010 xuất khẩu tăng bình quân 14%/năm.
Về giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD năm 2000 lên 62,7 tỷ USD năm 2010 tức là gấp 4 lần.
Nhập khẩu hàng hoá tăng trưởng bình quân 14%/năm, trong đó tăng 15%/năm trong thời kỳ 2001 – 2005 và tăng khoảng 13%/năm thời kỳ 2006 – 2010. Giảm dần nhập siêu.
Đối với thương mại dịch vụ: Đa dạng hoá các nghành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Xuất khẩu dịch vụ tăng trưởng bình quân là 15%/năm và về giá trị đạt khoảng 8,1 tỷ USD năm 2010.
Để đạt được phương hướng chiến lược trên đòi hỏi phải có hệ thống giải pháp
đồng bộ và sự nỗ lực cố gắng của toàn nghành thương mại.
2. Sự cần thiết hoàn thiện thuế giá trị gia tăng:
Chúng ta biết rằng quan điểm cơ bản của chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2001 – 2010 là tiếp tục thực hiện các mục tiêu của cải cách thuế bước II. Việc động viên qua thuế và phí vào ngân sách nhà nước phải vừa giải quyết hài hoà về lợi ích kinh tế giữa nhà nước và xã hội, vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng. Cùng với phương hướng phát triển thương mại dịch vụ mục tiêu yêu cầu cải cách thuế trong giai đoạn 2001 – 2010 là:
- Thuế và phí là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, mức độ huy động 20% - 21% /GDP.
- Thuế góp phần điều chỉnh các cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại để tăng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích hoạt động chế biến nông sản để sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước phụ vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Thuế đảm bảo bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tính rõ ràng ổn định.
- Thuế đảm bảo với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện hội nhập kinh tế thế giới.
- Nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế và thủ tục hành chính về thuế cho phù hợp với các yêu cầu của giai đoạn này nhằm tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế.
Muốn đạt được mục tiêu dài hạn thì trước mắt nghành thuế phải thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tăng cường công tác quản lý thuế phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách năm 2004.
- Tiếp tục cải cách hành chính thuế, cải cách nhiệm vụ hành thu theo hướng đơn giản, rõ ràng công khai, thực hiện máy tính hoá.
- Riêng đối với thuế giá trị gia tăng, sắp tới đây nghành thuế sẽ trình Quốc hội dự thảo sửa đổi bổ sung luật thuê giá trị gia tăng.
Việt Nam đang trong tiến trình phát triển và hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, Do đó tiến hành cải cách, đổi mới về cơ bản hệ thống thuế hiện hành để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế là điều tất yếu. Những quan điểm mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế giá trị gia tăng không những phải phù hợp với thực tiễn trong nước mà còn phải đáp ứng được những yêu cầu của tiến trình hội nhập. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đặt ra cho hệ thống chính sách thuế nước ta những vấn đề sau đây:
- Trong từng sắc thuế phải đảm bảo tính công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế khác nhau. Một trong những nguyên tắc quan trọng và bao trim nhất của tổ chức thương mại thế giới mà được áp dụng như một nguyên tắc cơ bản trong mậu dịch khu vực và các hiệp định thương mại song phương là không
phân biệt đối xử, Do vậy đòi hỏi các nước phải sửa đổi hệ thống chính sách thuế của mình sao cho không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá trong nước và
hàng hoá nước ngoài thông qua các loại thuế và phí nội địa nhằm xác định tính chuẩn mực công bằng giữa các loại thuế khác nhau.
- Hệ thống chính sách thuế phải phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm tính tương thích với hệ thống thuế các nước trên thế giới. Một nguyên tắc khác trong hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi chính sách ban hành trong lĩnh vực thương mại của mỗi nước đều phải bảo đảm tính hợp lý để giảm thiểu sự tuỳ tiện và tránh tham nhũng. Các nước thành viên phải đưa ra những chính sách công khai minh bach, giảm bớt các luật lệ và các thủ tục hành chính liên quan đến quá trình tự do hoá thương mại.
Thuế giá trị gia tăng được áp dụng ở Việt Nam trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được, thì luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất hợp lý. Căn cứ vào những bất cập từ việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng trong thời gian qua. Dưới đây là một số biện pháp để hoàn thiện với hy vọng góp phần hoàn thiện luật thuế giá trị gia tăng hiên nay.
II. Biện pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng và hướng giải quyết.
Qua đánh giá thuế giá trị gia tăng trong thương mại dịch vụ, trên cơ sở đó, có những hướng giải quyết như sau.
1. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Về phương pháp tính thuế chỉ nên áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh nếu không đủ điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng phương pháp kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế. Để tiến tới chỉ sử dụng một phương pháp tính thuế, cần từng bước củng cố và quản lý công tác hoá đơn, chứng từ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh để phân loại các cơ sở này để tính thuế.
2. Thuế suất thuế giá trị gia tăng.
Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 4 mức thuế suất thuế giá trị gia tăng được xác định là giai đoạn đầu để dần tiến tới còn 1 mức thuế suất theo mục tiêu, yêu cầu đơn giản, bình đẳng, công bằng mà cải cách thuế bước 2 đã đặt ra.
Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu đơn giản, công bằng và bình đẳng thì về lâu dài cần thống nhất một mức thuế suất thuế giá trị gia tăng khoảng 10% như một số nước xung quanh Việt Nam như: Indonexia 10%; Hàn Quốc 10%; Trung Quốc 13% và 17%; Philippin 10%;… Về lộ trình, có thể chọn một trong hai phương án sau:
* Phương án 1: Đến năm 2005 vẫn còn 2 mức thuế suất là 5%, 10% ( không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu ). Mức 5% chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng thiết yếu, còn đại bộ phận các loại hàng hoá, dịch vụ đều áp dụng thuế suất 10%. Đến năm 2010 thì thóng nhất một mức thuế suất là 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ.
* Phương án 2: Đến năm 2005, áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện phương án này, bảo đảm được mức động viên theo yêu cầu của cải cách thuế bước II đề ra và bảo hộ được sản xuất
trong nước do phải giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.
Trước mắt, vẫn duy trì ba mức thuế suất 5%, 10%, 20% ( không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu ) và cần phải xử lý giảm mức thuế cho một số hàng hoá, dịch vụ nhưng phải bảo đảm các nguyên tắc:
- Giảm mức thuế suât nhưng không làm tăng số lượng thuế suất đã quy định trong luật mà phải nhằm tới đơn giản mức thuế.
- Hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời phải hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ trong mối quan hệ sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa các cơ sở kinh doanh và phải áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu cũng như sản xuất ở trong nước.
- Không vì những loại hàng hoá, dịch vụ này được giảm mức thuế suất mà lan rộng ra những hàng hoá, dịch vụ khác gây đảo lộn biểu thuế.
- Không áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
-Việc giảm mức thuế suất phải được đặt trong mối quan hệ tương đồng với chính sách thuế của Nhà nước và chính sách hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước.
- Đối với những hàng hoá, dịch vụ xử lý cho giảm thuế tạm thời phải công bố rõ thời gian áp dụng trong vòng 3 năm, hêt thời hạn sẽ trở về mức thuế quy định để các doanh nghiệp có phương án phấn đấu thực hiện.
3. Về hoàn thuế giá trị gia tăng:
Về hoàn thuế giá trị gia tăng , để giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp xin đề nghị:
- Xét hoàn thuế theo từng tháng đối với số thuế giá trị gia tăng được hoàn lớn ( hơn 200 triệu đồng trở lên ) và xét hoàn thuế hàng quý đối với số thuế giá trị gia tăng được hoàn nhỏ ( dưới 200 triệu đồng ).
- Để đơn giản trong thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở xin hoàn thuế giảm bớt khó khăn về vốn, đề nghị cơ quan thuế làm thủ tục hoàn thuế theo số liệu của cơ quan xin hoàn thuế. Các cơ quan thuế chỉ kiểm tra định kỳ hoặc nghi vấn. Khi kiểm tra, nếu phát hiện số liệu hoàn thuế không chính xác, cơ quan thuế xử phạt nặng hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp.
4. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng:
Có 2 cách giải quyết như sau:
- Giải pháp trước mắt khi vẫn còn sử dụng 2 phương pháp tính thuế và các mức thuế suất như hiện nay:
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ đầu vào mua của người trực tiếp sản xuất - kinh doanh không có hoá đơn, chỉ có bản kê, được khấu trừ 3% trên giá trị hàng hoá, dịch vụ kể cả mua để xuất khẩu và chế biến hàng xuất khẩu.
+Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng thông thường, kể cả hàng hoá của cơ sở sản xuất thuộc diện tính thuế tiêu thụ đặc biệt, thì được khấu trừ 4% trên giá trị hàng mua vào.
+ cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế giá trị gia tăng trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các khoản phải thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng cứ hợp lệ.
-Giải pháp lâu dài: Khi đã áp dụng một phương pháp tính thuế và 2 mức thuế suất như trên thì toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ đầu vào không thuộc diện tính thuế giá trị gia tăng mà đầu ra tính thuế giá trị gia tăng thì sẽ được khấu trừ 4% giá trị trên bản kê hoặc hoá đơn thông thường tính cho cả những hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, xuất khẩu hoặc chế biến hàng xuất khẩu.
5. Về quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ:
Giải pháp cho vấn đề này , Bộ Tài Chính cần nghiên cứu lại loại giấy in hoá đơn chứng từ và ký hiệu , mã hiệu của từng loại hoá đơn , chứng từ để chống in giả , nối mạng về quản lý và sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc . Mặt khác , Bộ Tài Chính cần phối hợp với các cơ quan pháp luật để kiểm tra , phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về chế độ quản lý , sử dụng hoá đơn , yêu cầu các doanh nghiệp phải tự kiểm tra nội bộ , mua bán hàng hoá , dịch vụ phải ghi rõ tên , địa chỉ , mã số thuế của người bán . Đồng thời mở rộng , khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn giá trị gia tăng theo mẫu quy định của Bộ Tài Chính .
6. Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý .
Qua thời gian thực hiện luật thuế giá trị gia tăng , Bộ Tài Chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế , phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ sung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước . Do vậy , hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành.Việc làm này gây nhiều khó khăn , phức tạp trong điều hành , chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn , không nhất quán . Đề nghị trong lần cải cách thuế bước II chỉ nên có một luật thuế , một nghị định của chính phủ , một đén hai văn bản hướng dẫn của Bộ Tài Chính là đủ .
7. Hình thành và phát triển “Nhóm tư vấn thuế ” .
Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế , nộp thuế trong nớưc và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề , đây là dịch vụ cung cấp các thông tin , kiến thức , kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Nghành thuế nước ta nên sớm hình thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ chức bộ máy . Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế . Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, đề nghị có quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế .
8. Cải cách hành chính thuế
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ tục , các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc đơn giản , dễ hiểu dễ làm , dễ kiểm tra . Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế Bộ Tài Chính , ngành thuế cần rà soát lại toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế , nghiên cứu xem xét làm rõ cách giải thích , từ ngữ và nội dung ; tính thống nhất và kế thừa của các văn bản ; mẫu kê khai thuế , nộp thuế cần thống nhất với chế
độ kế toán , thông kê, đơn giản hoá các mẫu biểu quy định và thủ tục trong thu , nộp và hoàn thuế .
9. Công tác tuyên truyền , giáo dục pháp luật về thuế giá trị gia tăng .
Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới , đối tượng nộp thuế tự tính thuế kê khai và nộp thuế , nên công tác truyên truyền hiểu biết về thuế là rất quan trọng . Cần tuyên truyền , hướng dẫn , giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế , quy trình quản lý thuế , cách ghi chép hoá đơn chứng từ , cách kê khai thuế , kê khai qut trình miễn thuế , hoàn thuế , giảm thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế . Phối hợp nghành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng , các tổ chức đoàn thể , xã hội trong tuyên truyền , giáo dục pháp luật về thuế .
Kết luận
Qua mục đích , vai trò , nội dung và những tác động của thuế giá trị gia tăng chúng ta đã biết được tầm quan trọng của thuế giá trị gia tăng đến lĩnh vực thương mại nói riêng , nền kinh tế nói chung .
Sau thời gian thực hiện , thuế giá trị gia tăng đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế như : khuyến khích đầu tư , thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh ; khuyến khích xuất khẩu , bảo hộ sản xuất trong nước , sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế ; không gây biến động về giá cả và không gây ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước ; góp phần hoàn thiện công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp .
Cần phải khẳng định việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế giá trị gia tăng ở nước ta là một sự nỗ lực , cố gắng lớn của đảng , chính phủ , đặc biệt nó thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong công tác tài chính nói chung và trong ngành thuế nói riêng . Song trong quá trình thực hiện nảy sinh những vướng mắc , khó khăn là điều không tránh khỏi . Do đó cần có sự xem xét nghiên cứu những vướng mắc , hạn chế , đồng thời trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cho việc xử lý , giải quyết những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả từ đó phát huy những ưu điểm của thuế giá trị gia tăng.
Hà nội , 22/4/2004
Tài liệu tham khảo
Luật thuế GTGT và văn bản hướng dẫn áp dụng –NXB Chính trị Quốc gia
Giáo trình kinh tế thương mại – GS.TS Đặng Đình Đào, GS.TS Hoàng Đức Thân
Luật thuế GTGT ( sửa đổi bổ sung ) – Bộ hành chính ngày 18/09/2002
Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam –NXB Tài chính
Nghị định số 28/1998/NĐ - CP quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT
Nghị định số 79/2000/NĐ - CP quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT
( Sửa đổi bổ sung )
Thông tư số 89/1998/TT – BTC hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT
Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới
Hệ thống thuế Thuỷ Điển , Inđônêxia ,Hungary –Tổng cục thuế – 1992
Các số báo :
- Thời boá kinh tế
- Tạp chí thương mại
- Thị trường giá cả
……….
Thông tin trên các Website : www.mot.gov.vn , ….
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
1
Chương I:
Thuế GTGT trong thương mại dịch vụ
2
I.
Khái niệm chung về thuế GTGT
2
1
Khái niệm
2
2
Mục đích
2
3
Vai trò của thuế
2
4
Nội dung của thuế GTGT
3
5
Tác động của thuế GTGT trong thương mại dịch vụ
16
II
Kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT
18
ở một số nước
1
Thuế GTGT áp dụng ở một số nước trên thế giới
18
2
Vân dụng kinh nghiệm vào Việt Nam
23
ChươngII
Thực trạng của thuế GTGT trong
Thương mại dịch vụ nước ta hiện nay
24
I
Tình hình thương mại dịch vụ hiện nay
24
II
Tình hình thực tế áp dụng thuế GTGT
trong thương mại dịch vụ ở Việt Nam
26
1
Công tác tổ chức thực hiện
26
2
Kết quả sau thời gian thực hiện thuế GTGT
31
III
Đánh giá về thuế GTGT trong thương mại dịch vụ
39
Chương III
Hướng giải quyết những vướng mắc của luật thuế GTGT
trong các nghành nói chung và TMDV nói riêng
42
I
Phương hướng phát triển nghành TMDV và
sự cần thiết hoàn thiện thuế GTGT
42
1
Phương hướng phát triển nghành TMDV
42
2
Sự cần thiết hoàn thiện thuế GTGT
43
II
Biện pháp hoàn thiện thuế GTGT và hướng giải quyết
45
Kết luận
49
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33652.doc