LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1 - Một số lý luận cơ bản về tiền gửi trong NHTM
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong NHTM
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Đặc điểm
1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM
2 Phân loại tiền gửi trong Ngân hàng thương mại
2.1 Tiền gửi phi giao dịch
2.1.1 Tiền gửi có kì hạn
2.1.2 Tiền gửi tiết kiệm
2.2 Tiền gửi giao dịch
2.2.1 Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi
2.2.2 Tiền gửi giao dịch hưởng lãi (chủ yếu là các loại tiền gửi không kì hạn)
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi
4. Các phương pháp định giá tiền gửi
4.1 Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập
4.2 Phương pháp đánh giá chi phí dịch vụ tiền gửi trung bình
4.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn
4.4 Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi
4.5 Phương pháp định giá xâm nhập thị trường
4.6 Định giá mục tiêu trọng điểm
4.7 Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng
4.8 Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng
4.9 Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi
Chương 2: Thực trạng tiền gửi trong ngân hàng Việt Nam
2.1. Cuộc chay đua lãi suất
2.2 Nguyên nhân của tình trạng này là gì?
2.3 Cuộc “chạy giật lùi” lãi suât
2.4 Nguyên nhân của tình trạng này
KẾT LUẬN
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiền gửi trong Ngân Hàng Thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bởi vì cạnh tranh có xu hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến từ hoạt động đầu tư và cho vay.
Vì vậy, việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi rất quan trọng. Bao gồm các phương pháp sau:
4.1 Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập
Trong hoạt động ngân hàng ngày nay, các nhà quản lý nhìn chung không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải chịu toàn bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận điểm "khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi" được xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính hiệu quả của chiến lược Marketing mới này bởi vì nó làm gia tăng số lượng các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và do đó buộc ngân hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động. Sự phát triển của tiền gửi thanh toán hưởng lãi, đặc biệt là tiền gửi trong tài khoản NOW đã tạo cơ hội cho các ngân hàng xem xét lại phương pháp định giá đối với các dịch vụ về tiền gửi. Thật không may, nhiều ngân hàng mới tham gia thị trường đã liều lĩnh chấp nhận định giá dưới mức chi phí nhằm mở rộng nguồn vốn tiền gửi. Khách hàng chỉ phải trả một khoản lệ phí nhỏ, thấp hơn chi phí hoạt động và chi phí quản lý chung cho việc cung cấp các khoản tiền gửi giao dịch và các khoản tiền gửi khác. Kết quả là tỷ lệ thu nhập khách hàng được hưởng tăng lên đáng kể, người ta gọi đây là lãi suất ẩn – chênh lệch giữa chi phí cho việc cung cấp dịch vụ tiền gửi và số tiền thực tế khách hàng phải thanh toán.
Việc định giá dịch vụ diễn ra linh hoạt hơn sau khi những quy định về lãi suất trần được xoá bỏ. Do cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự tăng lên của lệ phí bảo hiểm, chi phí trung bình của ngân hàng cho mộtkhoản tiền gửi đã tăng lên. Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến hành định giá tiền gửi độc lập, tách biệt khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ khác. Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phi cho việc cung cấp dịch vụ đó. Giá của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí - thu nhập như sau:
(4)= (1) + (2) + (3)
(1)
(2)
(3)
Giá khách hàng phải trả cho 1 đơn vị dịch vụ tiền gửi
Chi phí
hoạt động cho
1 đơn vị dịch
vụ tiền gửi
Chi phí quản lý
cung dự tính phân bổ cho bộ phận nhận tiền gửi
Định mức lợi
nhuận từ 1
đơn vị dịch
vụ tiền gửi
Phương pháp định giá theo chi phí như công thức trên khuyến khích các ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước đây miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ áp đặt phí cho dịch vụ chấp nhận thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ séc bị máy rút tiền tự động ATM, tính phí hàng tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản tiết kiệm nhỏ, đồng thời nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu. Trong hầu hết các trường hợp, những khoản phí dịch vụ này dường như tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả của những xu hướng này nói chung có lợi cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ vượt trội tổn thất do những khách hàng khó tính đóng tài khoản của họ tại ngân hàng.
4.2 Phương pháp đánh giá chi phí dịch vụ tiền gửi trung bình
Việc định giá theo phương pháp tổng hợp chi phí – thu nhập đòi hỏi ngân hàng phải tính toán chính xác chi phí cho mỗi dịch vụ tiền gửi. Điều này đòi hỏi ngân hàng :
Phải tính toán tỉ lệ chi phí cho mỗi nguồn vốn (được điều chỉnh theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm tiền gửi và ngân quỹ )
Nhân từng tỷ lệ chi phí với tỉ lệ quỹ tương xứng, hình thành từ các nguồn khác nhau
Cộng tất cả các kết quả thu được để xác định chi phí nguồn vốn trung bình của ngân hàng.
Đây là phương pháp tập trung nguồn vốn. Phương pháp này được xây dựng dựa trên giả định rằng : ngân hàng chỉ quan tâm đến chi phí trung bình của tất cả nguồn vốn mà không quan tâm tới chi phí của từng loại tiền gửi.
4.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn
Phương pháp tập trung nguồn vốn giúp nhà quản lý ngân hàng có thể xác định được ảnh hưởng của bất kỳ sự thay đổi nào trong chi phí huy động vốn. Chẳng hạn, nhà quản lý có thể tiến hành thử nghiệm với các giao dịch về chi phí tiền gửi khác nhau ( lãi suất, lệ phí và dự trữ hối phiếu) cho bất kỳ kế hoạch huy động vốn nào và đánh giá ảnh hưởng của chúng đến chi phí huy động vốn của ngân hàng. Đương nhiên, các nhà quản lý cần phải xác định tiền gửi tối thiểu mà tại đó ngân hàng vẫn đảm bảo hoạt động có lãi. Có như vậy chính sách định giá dịch vụ về tiền gửi mới thực sự an toàn. Hơn nữa, việc định giá quá dễ dãi dựa trên tình cảm giữa ngân hàng với các khách hàng lớn có thể dẫn đến sự tăng lên đột biến trong chi phi huy động vốn trong khi tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng không đáng kể.
4.4 Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi
Nhiều nhà phân tích tài chính cho rằng nếu như điều kiện cho phép, các ngân hàng không nên dùng chỉ tiêu chi phí bình quân mà nên sử dụng chi tiêu chi phí cận biên – chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới - trong việc định giá các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng. Lý do ở đây là sự thay đổi liên tục của lãi suất sẽ làm cho chi phí trung bình trở thành một tiêu chuẩn không trung thực và phi thực tế trong việc định giá tiền gửi. Ví dụ, nếu lãi suất đang giảm, chi phí tăng thêm (chi phí cận biên biên) để huy dộng một nguồn vốn mới có thể giảm đáng kể, xuống dưới mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một số khoản tín dụng và đầu tư có thể được coi là không sinh lợi khi đánh giá theo chi phí nguồn vốn trung bình nhưng lại có thể là sinh lợi nếu đánh giá theo chỉ tiêu chi phí lãi cận biên bởi vì hiện tại ngân hàng đang huy dộng vốn với lãi suất thấp hơn để thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư này. Trái lại khi lãi suất đang tăng, chi phí cận biên của các khoản vốn mới có thể lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình đáng kể. Nếu việc xét duyệt những khoản cho vay mới được thực hiện trên cơ sở chi phí trung bình thì khả năng sinh lời của các khoản cho vay này có thể sẽ rất hạn chế khi đánh giá theo chi phí huy động vốn cận biên - một chỉ tiêu đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây.
Thật vậy, “nguyên nhân của một trong những vụ phá sản được biết tới nhiều nhất trong lịch sử - Vụ sụp đổ của Franklin National Banh of New York năm 1974 - cũng một phần bắt nguồn từ chiến lược quản lý mà theo đó nhà quản lý so sánh tỷ lệ thu nhập dự tính của các khoản tín dụng mới với chi phí nguồn vốn trung bình. Nếu thu nhập dự tính của khoản tín dụng lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình từ 1 % trở lên, cán bộ tín dụng của Franklin được phép cho vay. Không may. khi lãi suất huy dộng vốn tăng lên đáng kể thì 0,5% lợi nhuận biên của Franklin so với chi phí trung bình trở lên quá nhỏ bé. Thu nhập thực tế từ một lượng lớn các khoản tín dụng và đầu tư khổng lồ không đủ bù đắp chi phí nguồn vốn hiện tại. Điều này đã làm suy giảm vốn tự có của Franklin”
“Nhà kinh tế học James E. Mc Nulty đã khuyên các ngân hàng nên sử dụng phương pháp chi phí cận biên để xác định lãi suất cho các tài khoản tiền gửi mới. Để hiểu rõ phương pháp xác định giá theo chi phí cận biên do Mc Nulty đề xướng hãy giả định rằng một ngân hàng dự lính sẽ huy động được 25 triệu USD tiền gửi khi đặt lãi suất ở mức 7%. Nhà quản lý dự đoán rằng nếu ngân hàng nâng lãi suất lên 7,5%, 8%, 8,5% và 9% thì lượng tiền gửi sẽ tăng lên tương ứng là 50 triệu USD, 75 triệu USD, 100 triệu USD và 125 triệu USD. Lượng tiền này bao gồm các khoản tiền gửi mới và các khoản tiền gửi hiện có ở ngân hàng được khách hàng giữ lại để hưởng lãi suất cao hơn. Giả định là nhà quản lý tin rằng việc đầu tư bằng các khoản tiền gửi mới sẽ mang lại tỷ lệ thu nhập là 10%, đây chính là thu nhập cận biên - thu nhập gia tăng từ việc cho vay hay đầu tư bằng nguồn vốn mới huy động.Với giả định này, ngân hàng nên đặt lãi suất tiền gửi ở mức nào?
4.5 Phương pháp định giá xâm nhập thị trường
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh tới vấn đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất, thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ thấp hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối đa. Nhà quản lý hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi và của những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận biên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối đa hóa thị phần tron một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.
Đối với khách hàng, chọn ra được một ngân hàng có đủ uy tín để gửi tiền là một công việc rất tốn kém. Do vậy, khách hàng thường tập trung mua dịch vụ của một ngân hàng. Một tài khoản tiền gửi có thể là điều kiện nền tảng cho các khoản vay, dịch vụ ủy thác và các dịch vụ khác. Việc cắt đứt quan hệ thường gây ra những thiệt hại lớn nên khách hàng có xu hướng trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi vậy, tiền gửi có thể được xem là một yếu tố ổn định tiền gửi hoạt động ngân hàng. Tiền gửi thường kém nhạy cảm hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí, lãi suất và chính sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng có thể đưa ra lãi suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian đủ dài để tạo ra sự trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách hàng vẫn sẽ gửi tiền vào ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra không còn cao như trước. Chi phí không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi ngân hàng là nguyên nhân giải thích cho hành vi nêu trên của khách hàng.
Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút thêm tiền gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ tính ổn định tương đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi ngân hàng ngay lập tức bởi vì chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không nhỏ. Các công ty và các hộ gia đình trước khi quyết định gửi tiền vào một ngân hàng nào đều xem xét đến rất nhiều yếu tố, không chỉ có lãi suất.
4.6 Định giá mục tiêu trọng điểm
Một số ngân hàng, nhất là những ngân hàng ở các thành phố lớn, có nhiều tài khoản tiền gửi với số dư lớn, ổn định, thường mạnh dạn sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm. Các chương trình quảng cáo công phu ở họ thường hướng những người có địa vị trong xã hội và các gia đình khá giả tới những dịch vụ của ngân hàng. Đối với những tài khoản khác, đặc biệt là các tài khoản có số dư thấp, ít ổn định, việc định giá có thể nhằm vào mức hòa vốn hoặc ngân hàng có thể hạn chế các tài khoản này bằng việc định giá cao hơn. Chiến lược này thường được kết hợp với chương trình nhà ngân hàng cá nhán (personal banker), theo đó mỗi khách hàng lớn được một cán bộ ngân hàng chịu trách nhiệm đáp ứng tất cả các nhu cầu về dịch vụ ngân hàng.“Điều tra ở New England do Crane và Reilly Murphy và Mandell thực hiện cho thấy một số khách hàng - đặc biệt là khách hàng lớn - có phản ứng rất nhanh đối với sự thay đổi về giá cả tiền gửi.”
Ngày nay, trên các thị trường tiền gửi, sức cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cùng với việc ngày càng nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm đã khiến cho khách hàng được thông tin tốt hơn và nhạy cảm hơn với giá tìm được cho mình những điều khoản có lợi nhất.
4.7 Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng
Với ý tưởng nhằm tranh thủ những khách hàng tốt nhất, ngân hàng đã tiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng. Những khách hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở mức thấp, thậm chí không phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có quan hệ hạn chế với các ngân hàng sẽ phải trả lệ phí cao. Nhà quản lý cho rằng việc sử dụng một số lượng lớn các dịch vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc của khách hàng vào ngân hàng và điều này sẽ khiến cho khách hàng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn tìm kiếm một ngân hàng khác. Bởi vậy, ít nhất là trên lý thuyết, chính sách định giá trên cơ sở quan hệ sẽ tạo sự trung thành của khách hàng và làm cho họ kém nhạy cảm hơn với lãi suất tiền gửi cũng như phí dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng
Chính sách định giá tiền gửi nên được sử dụng với mục đích bảo vệ và tăng cường khả năng sinh lời cho ngân hàng. Với công cụ này, ngân hàng không nên chỉ hướng vào mục tiêu đơn thuần là thu hút khách hàng hay chiếm đoạt thêm thị phần từ các đối thủ cạnh tranh. Thật vây, khi ngân hàng đưa ra một công cụ tiền gửi mới, cơ hội cho sự thành công nằm trong tay các khách hàng hiện tại của ngân hàng. Các khách hàng này sẽ không tự động trả giá cao hơn cho các dịch vụ tiền gửi. Họ sẽ không trả cho ngân hàng nhiều hơn những gì họ nhận được từ tài khoản tiền gửi. Chắc chắn rằng khách hàng sẽ tìm tới những ngân hàng khác khi lợi ích mà họ nhận được giảm xuống thấp hơn giá cả của dịch vụ tiền gửi.
Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi
Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc khách hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình thấp hơn mức giới hạn. Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một số những yếu tố sau:
+ Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản (số séc được viết, số tiền gửi vào,số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).
+ Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định (thường là một tháng).
+ Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoạch tiền gửi sao cho mức lệ phí là thấp nhất và (hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ sở dự kiến về số séc viết, số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung bình của tài khoản. Đương nhiên khách hàng cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.
Chương 2
Thực trạng tiền gửi trong ngân hàng Việt Nam
Ở Việt Nam, đa số các ngân hàng thương mại lớn đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và chịu sự chi phối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Một cách nào đó, việc tăng hay giảm lãi suất tiết kiệm hay cho vay đều phản ảnh chính sách của NHNN, chiến lược riêng của từng ngân hàng và có sự tácđộng của nền kinh tế thị trường.
Lãi suất là một phạm trù rất quan trọng của kinh tế học, của thị trường và của cuộc sống kinh doanh. Chúng ta hiểu lãi suất theo nghĩa "giá cả" giống như mọi loại giá cả hàng hóa khác trên thị trường. Điều khác biệt duy nhất của lãi suất so với các loại giá cả khác là nó chính là giá của một loại hàng hóa rất trừu tượng. Đơn giản hơn trong cuộc sống, chúng ta thường nhìn lãi suất ở một dạng của giải thích phía trên, nhưng rất hẹp là "giá của một khoản tiền vay."
Lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhất của các ngân hàng. Lãi suất huy động tiền gửi, còn gọi là lãi suất huy động vốn hay tiết kiệm, và lãi suất cho vay là hai công cụ chính các ngân hàng dùng để nâng cao thế mạnh tài chính của họ và giúp đóng góp vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Công cụ tài chính này thường được các Ngân hàng Trung ương của các quốc gia thường xuyên sử dụng để ổn định nền kinh tế trong nước. Khi nền kinh tế của họ có dấu hiệu chậm lại, các Ngân hàng Quốc gia thường đưa ra một lãi suất cho các ngân hàng tư nhân vay rất thấp để khuyến khích việc họ vay và cho vay lại để tiêu dùng hay đầu tư phát triển giúp hâm nóng nền kinh tế trở lại. Khi tốc độ phát triển của nền kinh tế tăng quá mau dẫn đến tình trạng lạm phát, giá cả leo thang thì các Ngân hàng Quốc gia này sẽ đưa ra lãi suất cao để giảm thiểu số lượng tiền vay của các ngân hàng tư nhân và qua đó giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi hoặc cho vay là những sinh hoạt thường xuyên của các ngân hàng, và giúp chúng ta thấy được sức mạnh của ngành ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Không có lý do gì để chúng ta lo ngại mỗi lần ngân hàng thay đổi lãi suất, nhất là khi mức tăng hay giảm vừa phải theo thị trường hay được Ngân hàng Nhà nước giám sát và cho phép.
Có những lý do khách quan do thị trường tác động và có những lý do riêng biệt khác mang tính chất hay nhu cầu nội bộ của việc tăng lãi suất tiền gửi. Nhiều ngân hàng vì cần số lượng tiền cho vay lớn và để gấp rút đáp ứng nhu cầu phát triển của chính phủ hay doanh nghiệp (đầu tư, nhập khẩu, v.v.) nên phải huy động tiền gửi qua việc tăng lãi suất tiết kiệm ngắn hay dài hạn. Các ngân hàng khác, vì vị thế và nhu cầu cạnh tranh không muốn mất khách hàng, tuy không có nhu cầu tiền mặt lớn, thường vẫn phải tăng lãi suất để cùng đứng chung với các ngân hàng khác. Việc các ngân hàng theo nhau tăng hay giảm lãi suất cũng là việc bình thường.
2.1. Cuộc chay đua lãi suất
Trong khoảng thời gian từ ngày 19/5/2008 đến đầu tháng 7/2008 các ngân hàng thương mại thường xuyên điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội tệ và ngoại tệ. Cá biệt, có ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh lãi suất huy động VND lên cao nhất tới 20%/năm. Hãy nhìn về khoảng thời gian trước thời điểm này:
* Thời điểm đầu tháng 2 năm 2008
Đáng chú ý nhất là SeABank ban hành một mức lãi suất mới với cái tên gọi đúng bản chất là “siêu lãi suất” lên 12%/năm. Mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm áp dụng cho: kỳ hạn 01 tháng: 12%/năm; kỳ hạn 02 tháng: 11,5%/năm; kỳ hạn 03 tháng 11%/năm; kỳ hạn 06 tháng: 11%/năm.
Được biết, ngay trước đó, từ ngày 19/02/08, SeABank đã nâng lãi suất huy động với các loại tiền VND, USD, EUR, lãi suất cao nhất lên tới 10,92%.
Trong khi đó, Ngân hàng cổ phần Quân đội (MB) cũng đã chính thức tham gia cuộc đua lãi suất kể từ 21/2/2008 MB khi tăng lãi suất huy động vốn. Mức tăng cao nhất của MB là ở kỳ hạn 3 tháng từ mức 8,22%/năm lên 10,00%/năm. Mức lãi suất được áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng và 24 tháng đều là 10,20%/năm. Ngoại trừ không kỳ hạn, mức lãi suất của các kỳ hạn khác đều từ 9%/năm trở lên. Đối với huy động bằng Đô la Mỹ từ cá nhân mức tăng là từ 0,1% đến 0,4% theo đó lãi suất của kỳ hạn 12 tháng là 5,2%/năm, cao nhất là ở các kỳ hạn 24, 36 và 60 tháng tương đương 5,4%/năm.
Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) cũng vừa thông báo tăng lãi suất tiết kiệm VND lĩnh lãi cuối kỳ bắt đầu từ ngày 18/2/2008 với mức tăng từ 0,18%/năm đến 1,20%/năm.
Là một trong 2 ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng đã thực hiện tăng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán bằng VND ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng tới 36 tháng với mức tăng từ 0,36%/năm tới 0,6%/năm. Trong đó, lãi suất áp dụng cho kỳ hạn 6 tháng cũng đã đạt 9,24%/năm. ACB cho biết, đây là đợt điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi ở tất cả các kỳ hạn có biên độ lớn nhất của ACB trong thời gian vừa qua.
* Thời điểm cuối tháng 2 năm 2008
Lãi suất 13% rồi 14% và đỉnh điểm vượt qua mốc 15%/năm của một số ngân hàng “cổ phần tư nhân”, khiến hàng loạt người dân có tiền gửi ở các ngân hàng thương mại nhà nước đổ xô đi rút để đến các ngân hàng có lãi suất huy động cao hơn gửi vào. Cuộc đua giữa các ngân hàng đang “khát vốn”, kéo theo hệ lụy không mong muốn cho những ngân hàng lớn và các doanh nghiệp cần vay vốn sản xuất kinh doanh.
Cuối tháng 2/2008, Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định “khống chế” lãi suất huy động ở mức cao nhất là 12%, cuộc đua lãi suất bắt đầu hạ nhiệt. Phòng giao dịch Ngân hàng An Bình tại Phan Thiết đang có mức huy động linh hoạt và “đụng sàn” mức quy định của Ngân hàng Nhà nước là 12%. Các sản phẩm cạnh tranh huy động vốn 1 tuần đến 4 tuần cũng có lãi suất khá cao. Sài Gòn Công Thương ngân hàng có nhiều mức huy động và trả lãi khác nhau cho từng thời điểm, ông Phan Văn Định – Giám đốc chi nhánh Bình Thuận, cho biết: “Dù mới mở chi nhánh ở Bình Thuận, nhưng Sài Gòn Công Thương vẫn có được lượng khách hàng nhất định, nên trước biến động tăng lãi suất huy động, Sài Gòn Công Thương vẫn hoạt động ổn định và tăng trưởng”.
Trước thực trạng một số ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động khá cao, bộ tứ “đại gia” trong lĩnh vực ngân hàng, có bề dày hoạt động, nguồn vốn ổn định và là ngân hàng nhà nước, nên Ngân hàng đầu tư và Phát triển, Công Thương, Ngoại Thương, Nông nghiệp - Phát triển nông thôn dù có bị dịch chuyển nguồn vốn, nhưng vẫn hoạt động ổn định.
+ Ngân hàng nhà nước “khơi ngòi” cho cuộc đua lãi suất.
Lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán và bất động sản tăng trưởng nóng buộc Ngân hàng nhà nước phải đưa ra hàng loạt các biện pháp nhằm bình ổn.
Phải kể đến là việc tăng tỷ lệ dữ trữ từ 10% lên 11%, với động thái này thì các ngân hàng thương mại (NHTM) phải nộp dữ trự bắt buộc tăng thêm là 20.000 tỷ đồng trong tháng 02/2008.
Tiếp đó, NHNN tăng cặp lãi suất chủ đạo. Cụ thể là, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
Không dừng lại ở đó, ngày 15/02/2008, NHNN thực hiện một giải pháp mang “màu sắc” hành chính đó là phát hành 20.300 tỷ đồng trái phiếu bắt buộc. Sức ép tiếp tục đè nặng trên vai các Ngân hàng thương mại.
Chỉ thị 03 được nâng cấp thành “quyết định” siết chặt hơn đối với cho vay chứng khoán, trước đây là 3% tính trên tổng dư nợ thì nay là 15%-20% trên Vốn điều lệ.
+ Diễn biến kịch tính của “cuộc đua” lãi suất
Phản ứng nhanh trước động thái của NHNN, lãi suất liên ngân hàng (các ngân hàng cho nhau vay) trong tháng 2 đã đạt đến mức kỷ lục 43% trong lịch sử tài chính tiền tệ của Việt Nam.
“Liều” thuốc của NHNN đã gây “sốc” cho các NHTM, khiến các Ngân hàng đã có lúc phải ngưng toàn bộ cho vay Bất động sản, chọn lọc khách hàng vay, tạm hoãn các hồ sơ vay vốn.
Biểu lãi suất của ngân hàng chiếm vị trí đầu bảng trong “cuộc đua”
Ngân hàng
Mức lãi suất huy động (12 tháng)
Ngân hàng thương mại Đông á
14.4%
Ngân hàng kỹ thương Techcombank
14.2 %
Ngân hàng Việt Á
13 %
NHTMCP Sài Gòn (SCB)
13.5 %
NHTM CP Sài gòn – Hà Nội (SHB)
12.5 %
* Thời điểm tháng 5 năm 2008
Ngay trong ngày 17/5, khi Ngân hàng nhà nước (NHNN) chính thức công bố cơ chế điều hành mới về lãi suất , một loạt ngân hàng thương mại (NHTM) cũng đã ban hành ngay biểu lãi suất huy động mới. Cuộc “đua tăng” đặc biệt “nóng” trong ngày đầu thực hiện 19/5. Nếu như 17/5, mức 15%/năm đã được tạm tính là kỷ lục thì sang ngày 19/5, lần lượt các mốc 16, 17, thậm chí cả mức gây “sốc” là 18%/năm-mức tối đa với cả lãi suất huy động và cho vay cũng đã xuất hiện!
Ngân hàng (NH) nào cũng nhộn nhịp khách giao dịch, nhưng nơi có lãi suất thấp thì khách đến để rút tiền, nơi có LS cao thì được đổ xô đến gửi. “Cuộc đua” một mặt cũng hút thêm một lượng vốn nhàn rỗi của người dân “đổ” vào hệ thống NH nói chung, mặt khác cũng làm dòng vốn có sự dịch chuyển ít nhiều từ nơi có lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao.
* Thời điểm tháng 6 năm 2008
Ngân hàng Seabank huy động với lãi suất 19,2%/năm cho kỳ hạn 13 tháng. Và đến giờ này, đây là ngân hàng đang có mức lãi suất huy động cao nhất.
Buổi chiều cùng ngày, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) chính thức thông báo huy động vốn với lãi suất 17,8%/năm cho kỳ hạn 13 tháng. Ngân hàng Đại dương (Oceanbank) cũng đưa ra mức tương đương. Ở kỳ hạn 1 tháng, Techcombank cũng đã tăng lên đến 16,95%/năm.
Ông Phạm Anh Dũng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB), cho biết SCB không tăng mạnh lãi suất ở các kỳ hạn có thời gian dài, mà sẽ tăng lãi suất huy động ở các khoản tiền gửi dưới 1 tháng. Vì vậy, tiền gửi 3 tuần có mức lãi suất huy động 17,5%/năm. Các kỳ hạn từ 2 đến 6 tháng có mức huy động 16%/năm.
Nhìn chung ngoài Seabank khá mạnh tay, còn lại các ngân hàng cũng dè dặt. Hiện tại trừ Techcombank, còn lại các ngân hàng lớn chưa có động tĩnh. Một phần các ngân hàng đang thăm dò động thái của nhau, mặt khác các ngân hàng cũng đang cân nhắc về khả năng vay của doanh nghiệp. Tổng Giám đốc một ngân hàng tính toán, nếu huy động với 19 - 20%, các ngân hàng phải cho vay với mức 25-26% mới có lãi.
Trước khi lãi suất cơ bản được nâng lên 14%/năm, nhiều ngân hàng đã cho vay với mức 20 - 24%/năm (lãi suất đầu vào cao nhất là 18%/năm). Các ngân hàng đã sử dụng hình thức gia tăng phụ phí để đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Khi đưa ra quyết định nâng trần lãi suất huy động lên 14%/năm, nhiều chuyên gia kinh tế đã dự báo rằng, các ngân hàng sẽ thận trọng, không mạo hiểm lao vào cuộc đua lãi suất mới. Bởi lẽ, nếu nâng lãi suất đầu vào quá cao sẽ gây áp lực lên lãi suất đầu ra, gây khó cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Trên thực tế, cuộc đua lãi suất vẫn đã và đang diễn ra mà khơi mào là SeAbank với mức lãi suất lên tới 19,2% dù ngân hàng này ngay sau đó đã điều chỉnh giảm rút về mức thấp hơn. Hiện, các ngân hàng đã không ngừng áp dụng biểu lãi suất huy động mới như: VPBank có mức lãi suất cao nhất, lên đến 18,8%/năm (kỳ hạn 6 tháng), Nam A Bank với mức lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VND là 18,36%/năm, SCB công bố lãi suất lên đến 19%/năm, đặc biệt, Ngân hàng TMCP Mỹ Xuyên áp dụng mức lãi suất thấp nhất là 18,84%/năm (thời hạn 3 tháng, lĩnh lãi cuối kỳ) và cao nhất là thời hạn 12 tháng, lãi suất lên đến 19,56%...
Cuộc đua đã có lúc buộc các Hiệp hội Ngân hàng phải làm cầu nối để đại diện nhiều ngân hàng ngồi lại với nhau nhằm thống nhất “tiếng nói” về lãi suất. Và, dù nhờ thế lãi suất giữa các ngân hàng dường như đã tìm được mặt bằng chung ở mức từ 17,5%/năm đến 18%/năm. Nhưng, trong tuần qua, các ngân hàng lại liên tiếp ra thông báo điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng. Hầu hết các ngân hàng đều tham gia vào cuộc đua lãi suất này dù không hẳn ngân hàng nào cũng cần tăng tính thanh khoản. Một số ngân hàng có tính thanh khoản tốt vẫn tăng lãi suất như trường hợp của Techcombank (5 tháng đầu năm 2008 huy động được trên 42000 tỷ đồng, tăng 21% so với đầu năm và thuộc hàng cao nhất trong khối ngân hàng thương mại cổ phần) được lý giải là nhằm đảm bảo tính cạnh tranh trong bối cảnh các ngân hàng khác đều tăng lãi suất. Thêm nữa, việc tăng lãi suất có ý nghĩa "giữ chân" nguồn vốn đang có hơn là thu hút thêm nguồn vốn mới.
2.2 Nguyên nhân của tình trạng này là gì?
Ngay sau khi NHNN hủy bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm và thay bằng trần lãi suất cho vay 18%/năm (150% của lãi suất cơ bản vừa được nâng lên 12%/năm), tất cả các NHTM, kể cả các NHTM quốc doanh, đều đồng loạt tăng lãi suất huy động. Chỉ sau vài ngày chạy đua, lãi suất huy động của các NHTM (lên đến 15%-16%/năm) đã cao hơn khá nhiều so với lãi suất tái cấp vốn của NHNN (13%/năm) và lãi suất tái chiết khấu (11%/năm) mà NHNN cũng vừa nâng lên. Các NHTM phải tăng lãi suất huy động cao như vậy vì toàn bộ hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản do chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN và đang phải vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao (có lúc vượt quá 20%/năm). Lẽ ra lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cho mục tiêu quản lý thanh khoản phải dao động trong khoảng 11% đến 13%/năm, nghĩa là nằm giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Đây là điều mà NHNN mong muốn và cũng là qui luật thông thường trong hệ thống ngân hàng các nước, mà một ví dụ cụ thể là hệ thống ngân hàng của Mỹ.
+ Hệ thống ngân hàng Mỹ
Các NHTM của Mỹ, giống như các nước sử dụng hệ thống ngân hàng với dự trữ một phần (fractional reserve system), bị buộc phải giữ một lượng tiền mặt nhất định tại Cục Dự trữ Liên bang (tức là ngân hàng trung ương của Mỹ thường được gọi tắt là FED). Lượng tiền này, gọi là Fed funds, trên tổng số tiền gửi không kỳ hạn, ít nhất phải bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà FED đặt ra (hiện tại là 10%). Vì số tiền dự trữ bắt buộc này (Fed funds) không được trả lãi suất nên các NHTM Mỹ luôn giữ ở mức sát với tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi một NHTM có nguy cơ không đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì ngân hàng đó phải vay trên thị trường liên ngân hàng lượng Fed funds còn thừa của các ngân hàng khác. Lãi suất cho vay Fed funds được FED ấn định và gọi là Fed funds rate.
Nếu vì lý do nào đó mà cung Fed funds trên thị trường này không đủ cầu và lãi suất liên ngân hàng cho Fed funds có nguy cơ vượt Fed funds rate thì FED (tại New York) sẽ can thiệp ngay lập tức qua hoạt động thị trường mở (OMO) mua lại trái phiếu chính phủ Mỹ để bơm thêm Fed funds vào hệ thống ngân hàng. Vì FED mua lại trái phiếu chính phủ với lãi suất tái chiết khấu đúng bằng Fed fund rate được công bố trước đó nên không NHTM nào lại đi vay liên ngân hàng với lãi suất cao hơn Fed funds rate để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả. Bởi vậy Fed funds rate sẽ là lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nếu các NHTM tham gia vào thị trường này chỉ để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo lượng Fed funds tối thiểu, các NHTM còn có nhu cầu quản lý thanh khoản của mình, tức là đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong đó bao gồm nhu cầu rút tiền của những người gửi tiền không thời hạn. Khi các NHTM Mỹ có nguy cơ thiếu thanh khoản, họ có thể vay tiền từ hai nguồn: cửa sổ chiết khấu của FED (discount window) hoặc trên thị trường liên ngân hàng. Về cơ bản, FED ấn định lãi suất cho vay tại các discount window gọi là lãi suất chiết khấu (discount rate) thông thường cao hơn Fed funds rate khoảng 0.5% đến 1% (tuy nhiên hiện tại chỉ cao hơn 0.25% vì hệ thống tài chính Mỹ đang trong giai đoạn khủng hoảng nên FED muốn khuyến khích các NHTM vay tiền từ discount window). Đây chính là chức năng “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort - LOLS) của một ngân hàng trung ương.
Nếu vay trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất sẽ do hai bên thỏa thuận và lãi suất trung bình trên thị trường này hàng ngày sẽ được 16 NHTM lớn nhất Mỹ báo cáo cho BBA (British Bankers Association) để tổ chức này tính lãi suất liên ngân hàng trung bình cho ngày hôm đó rồi công bố trên thị trường tài chính với cái tên LIBOR (đầy đủ hơn là USD Libor fixing). Về mặt lý thuyết, LIBOR cho thị trường liên ngân hàng của Mỹ sẽ phải thấp hơn discount rate của FED vì nếu cao hơn thì các NHTM sẽ quay về vay tiền của FED từ discount window. Trên thực tế các NHTM thường tránh không vay từ discount window vì họ không muốn bị mang tiếng là tình hình thanh khoản và mức độ rủi ro tín dụng (credit risk) quá xấu đến mức không vay được trên thị trường liên ngân hàng nữa mà buộc phải quay về “người cho vay cuối cùng” cầu cứu. Bởi vậy trong những giai đoạn khủng hoảng tài chính đôi khi LIBOR cao hơn discount rate, nhưng nhìn chung lãi suất này thường thấp hơn discount rate và có thể coi discount rate là lãi suất trần của LIBOR trên thị trường liên ngân hàng.
Ngược lại LIBOR thường cao hơn Fed funds rate khoảng 0.1% (tuy cũng có lúc tăng lên đến 0.7%) vì các NHTM khi cho vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng luôn tính đến rủi ro tín dụng khi đối tác của mình không trả được nợ (credit risk). Chính cái khoảng chênh lệch 0.1% giữa LIBOR và Fed funds rate là credit risk mà các NHTM cộng thêm vào khi cho các NHTM khác vay liên ngân hàng để quản lý rủi ro thanh khoản. Sở dĩ khi cho vay Fed funds (sẽ được giữ trên tài khoản tại FED) các NHTM không tính đến credit risk (hay credit risk bằng không) vì đối tác không được rút Fed funds về cho các mục đích thanh khoản nên kể cả khi đối tác phá sản số tiền cho vay dưới dạng Fed funds cũng không bị mất. Điều đó có nghĩa là Fed funds rate là lãi suất sàn cho LIBOR trên thị trường liên ngân hàng.
Tóm lại, trong hệ thống ngân hàng của Mỹ, lãi suất liên ngân hàng LIBOR mà các NHTM vay để quản lý thanh khoản thường dao động trong khoảng giữa Fed funds rate và discount rate là hai công cụ chính sách mà FED quản lý được trực tiếp. Vì gần như tất cả các loại lãi suất thương mại khác đều lấy LIBOR làm chuẩn nên khi FED thay đổi Fed funds rate và discount rate thì về bản chất FED đã làm thay đổi lãi suất thương mại trên toàn bộ thị trường vốn của Mỹ. Tức là FED thực thi các chính sách tiền tệ của mình thông qua việc điều hành hai lãi suất cơ bản nói trên hoàn toàn qua cơ chế thị trường.
Một điểm rất quan trọng cần lưu ý là để hệ thống này hoạt động trơn chu, FED phải cam kết bảo vệ Fed funds rate và discount rate thông qua OMO và discount window bất kỳ khi nào lãi suất cho Fed funds hoặc LIBOR có xu hướng phá vỡ trần trên thị trường liên ngân hàng. Điều này tương đương với việc FED cam kết thực hiện chức năng LOLR cho các NHTM trong mọi trường hợp. Không chỉ trong những lúc các NHTM lâm vào tình trạng khủng hoảng thanh khoản mà ngay cả khi hệ thống ngân hàng đang hoạt động bình thường FED vẫn phải thực hiện chức năng LOLR cung cấp Fed funds và thanh khoản cho những NHTM nào có nhu cầu. Tuy nhiên cơ chế này cần một điều kiện nữa là các NHTM phải nắm giữ một lượng trái phiếu chính phủ đủ lớn để tham gia vào OMO hoặc vay tiền mặt từ discount window.
Trong giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn (subprime mortgage) vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, nhiều NHTM gặp khó khăn về thanh khoản và bắt đầu cạn kiệt trái phiếu chính phủ. Đồng thời credit risk trên thị trường tăng cao dẫn đến nguy cơ LIBOR vượt ra ngoài giới hạn thông thường, Đối phó với tình trạng này, FED đã tung ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn toàn mới là TAF (Term Auction Facility) và TSLF (Term Securities Lending Facility), về bản chất là cho phép các NHTM và một số tổ chức tài chính lớn (primary dealers) được phép dùng các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt hoặc trao đổi (swap) trái phiếu thương mại lấy trái phiếu chính phủ từ FED. Mục tiêu cuối cùng của việc đưa ra hai công cụ tiền tệ mới này là để ổn định tính thanh khoản trong hệ thống tài chính và bảo vệ Fed fund rate và discount rate trên thị trường liên ngân hàng khi hệ thống bị khủng hoảng. Cho đến thời điểm này, TAF và TSLF đã có những thành công nhất định trong việc ổn định thị trường nên FED dự tính sẽ giữ hai công cụ mới này lâu dài chứ không phải chỉ hạn chế trong khoảng 600 tỷ USD ban đầu.
+Tình hình Việt nam
Vậy tại sao trong hệ thống ngân hàng của Việt nam tuy cũng có lãi suất tái cấp vốn (tương đương với discount rate của FED) và lãi suất tái chiết khấu (tương đương với Fed funds rate) nhưng lãi suất liên ngân hàng vẫn cao hơn cả hai lãi suất này trong giai đoạn các NHTM thiếu thanh khoản như hiện nay? Có phải NHNN chưa làm tròn chức năng “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort - LOLS) của mình đối với các NHTM hay hệ thống các NHTM Việt nam không có đủ lượng trái phiếu chính phủ cần thiết? Với lý do thứ hai, có thể một số ngân hàng nhỏ của Việt nam đã không dự trữ đủ lượng trái phiếu chính phủ, nhưng xét về tổng thể hệ thống ngân hàng thì điều này khó có thể xảy ra. Mà nếu đây là lý do chính thì NHNN hoàn toàn có thể triển khai những công cụ mới như TAF và TSLF.
Vậy nguyên nhân chỉ có thể là NHNN đã không thực hiện tốt chức năng LOLR như FED. Trong phát biểu gần đây nhất (ngày 20/05) Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cho biết NHNN đang theo dõi tình hình thanh khoản của các NHTM rất chặt chẽ và sẵn sàng bơm tiền ra nếu có dấu hiệu bất ổn (tức là thực hiện chức năng LOLS). Tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tại sao NHNN không thực hiện chức năng này một cách bình đẳng với tất cả các NHTM thông qua thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, hay những công cụ mới như TAF hoặc TSLF mà FED đã và đang dùng? Trên thực tế rất nhiều NHTM nhỏ không được tham gia vào hoạt động thị trường mở của NHNN và còn khó khăn hơn nữa khi muốn được vay vốn với lãi suất tái cấp vốn trực tiếp từ NHNN.
Nguyên nhân của trở ngại này chính là mục tiêu thắt chặt tiền tệ mà Chính phủ đã yêu cầu NHNN thực hiện nhằm chống lại lạm phát gia tăng. Lập luận của NHNN là nếu thực hiện đầy đủ chức năng LOLR như FED thì với nhu cầu thanh khoản hiện tại trong hệ thống ngân hàng Việt nam, NHNN sẽ phải bơm ra một lượng tiền mặt rất lớn và điều này sẽ làm cung tiền gia tăng làm cho tình hình lạm phát sẽ tồi tệ hơn. Do vậy NHNN sẽ thực hiện chức năng LOLR một cách có chọn lọc, nghĩa là sẽ chỉ cung cấp thanh khoản với lãi suất nằm trong khoảng 11% đến 13% cho NHTM nào có nguy cơ khủng hoảng thật cao. Còn các NHTM khác dù có thiếu thanh khoản nhưng chưa đến mức bị khủng hoảng sẽ phải tự thân vận động bằng cách vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hơn nhiều.
Bởi vậy các NHTM hiện tại, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ không biết chắc mình có được NHNN ưu ái không nếu tình hình thanh khoản trở nên tồi tệ hơn, phải chạy đua lãi suất huy động khi cái trần 12% vừa được gỡ bỏ để tránh phải vay vốn từ thị trường liên ngân hàng mà lãi suất có lúc đã vượt 20%/năm. Lãi suất huy động sẽ tiếp tục bị đẩy lên cho đến khi nào các NHTM vượt qua tình trạng thiếu thanh khoản hoặc cho đến khi NHNN can thiệp bằng các biện pháp hành chính. Cách thực thi chức năng LOLR này của NHNN tuy có thể phần nào giúp kìm hãm tốc độ lạm phát đang gia tăng, nhưng nó có một số điểm không hợp lý và chưa chắc thắt chặt tiền tệ một cách cứng nhắc như vậy là một chính sách tối ưu vào thời điểm này.( lấy từ nguồn
2.3 Cuộc “chạy giật lùi” lãi suât
*Trước hết ta hãy xem sự điều chỉnh của Ngân hàng TMCP Phương Đông
Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) điều chỉnh giảm lãi suất huy động vnđ
Khung lãi suất huy động Tiết kiệm có kỳ hạn VND
KỲ HẠN
Lãnh lãi hàng tháng (%/năm)
Lãnh lãi hàng quý (%/năm)
Lãnh lãi cuối kỳ (%/năm)
1 tuần
-
-
5,40%
2 tuần
-
-
6,00%
3 tuần
-
-
6,90%
1 tháng
-
-
9,60%
2 tháng
9,60%
-
9,96%
3 tháng
10,02%
-
10,50%
4 tháng
10,08%
-
10,62%
5 tháng
10,08%
-
10,68%
6 tháng
9,96%
10,02%
10,74%
7 tháng
-
-
10,74%
8 tháng
-
-
10,74%
9 tháng
-
10,50%
10,74%
10 tháng
-
-
10,68%
11 tháng
-
-
10,56%
12 tháng
-
10,32%
10,50%
13 tháng
-
-
9,96%
18 tháng
-
-
9,00%
24 tháng
-
-
9,00%
36 tháng
-
-
9,00%
* Tiếp theo đó là của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Mức lãi suất mới của BIDV và những tiêu chí áp dụng được coi là hấp dẫn, phù hợp với thời điểm hiện tại của nền kinh tế, đồng thời chia sẻ rất thiết thực đối với các doanh nghiệp hiện nay.
* Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay.
- Thời gian thực hiện: Từ ngày 08/12/2008
- Áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với tất cả các khách hàng: Từ 10%/năm – 11,5%/năm. Trong đó, cung ứng lãi suất thấp, ưu tiên khách hàng trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế như: năng lượng, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón, thuốc chữa bệnh, các DNNVV, các khoản vay tài trợ xuất khẩu, cho vay thu mua lúa gạo phục vụ xuất khẩu.
- Lãi suất cho vay trung dài hạn bằng lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau + phí tối thiểu là 3%/năm (Lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 150% lãi suất cơ bản hiện hành).
* Thông tin về các lần điều chỉnh giảm lãi suất đã thực hiện. (lãi suất %/năm)
a) Giai đoạn trước lạm phát:
Tháng 11,12/07: Phổ biến ở mức 10,2% đến 11,4%.
Tháng 01/2008: 10,8% đến 11,4%.
Tháng 02/2008: 13.5%- 15.5%.
b) Trong giai đoạn lạm phát.
- Từ 03/08 - 06/08: lãi suất phổ biến: 18%-21%.
- Tháng 7/08: 20.4%, xuất khẩu:
19.5%, Tập đoàn tổng công ty 19.8% (giảm lần đầu)
- Ngày 29/8/08: 20%, xuất khẩu: 18.8%,
Tập đoàn tổng công ty 19%,
Tổng lương thực miền nam 18%.
- Ngày 29/9/08: 18.2%, xuất khẩu,
Tập đoàn, TCT, tổng lương thực miền nam 17.5%,
DN vừa và nhỏ 17.8%.
- Ngày 22/10/2008: Lãi suất chung 17.2%,
Xuất khẩu 16.2,
Tập đoàn tổng công ty 16.5%.
c) Giai đoạn ngăn chặn suy giảm kinh tế.
- Ngày 04/11/08: Ngắn hạn: lãi suất chung 16%, đối tượng ưu tiên 15%
- Ngày 14/11/08: Ngắn hạn: lãi suất chung 15%, đối tượng ưu tiên 14%
- Ngày 19/11/08: Ngắn hạn; lãi suất chung 14%, đối tượng ưu tiên 13%
- Ngày 28/11/08: Ngắn hạn; lãi suất chung 13%, đối tượng ưu tiên 11.4%
Như vậy, chỉ trong vòng 5 tháng (kể từ tháng 7/2008 đến tháng 12/2008), qua 10 lần điều chỉnh giảm, lãi suất của BIDV đã giảm sâu với mức giảm từ 10,3%/năm – 10,8%/năm, tập trung ưa tiên vào các đối tượng: Cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu, Các dự án lớn của Chính phủ, các Doanh nghiệp Nhỏ và vừa có thị trường tiêu thụ ổn định.
* Điều chỉnh lãi suất huy động tối đa ( % năm ) áp dụng từ tháng 12/2008
Loại tiền
Kì hạn
KKH
1T
3T
6T
9T
12T
>12T
VND
3.0
7.0
8.0
8.5
9.0
10.5
9.0
USD
1.0
1.8
2.2
3.0
3.6
4.0
3.8
( nguồn )
2.4 Nguyên nhân của tình trạng này
Thị trường tiền tệ ở nước ta thời gian gần đây có xu hướng hạ nhiệt, biểu hiện trên hai góc độ sau: các ngân hàng thương mại không chạy đua cạnh tranh thường xuyên điều chỉnh tăng lãi suất huy động vốn, một số ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động vốn VND và giảm nhẹ lãi suất cho vay nội tệ.
Trong khoảng thời gian từ ngày 19/5/2008 đến đầu tháng 7/2008 các ngân hàng thương mại thường xuyên điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội tệ và ngoại tệ. Cá biệt, có ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh lãi suất huy động VND lên cao nhất tới 20%/năm, song mức lãi suất này chỉ tồn tại trong 1-2 ngày sau đó phải chủ động điều chỉnh xuống
Một số ngân hàng thương mại khác cũng điều chỉnh lãi suất huy động VND lên 19,5%/năm đến 19,8%/năm, nhưng cũng chỉ duy trì được thời gian rất ngắn. Nhìn chung đến nay, hầu như không có ngân hàng thương mại đưa ra mức lãi suất huy động VND trên 19,0%/năm, mà phổ biến ở mức 17,5% - 18,0%/năm
Tại thời điểm này chỉ có một số ít ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất huy động vốn nội tệ cao: Ngân hàng Thương mại Cổ phần nhà Tp.HCM đang có lãi suất huy động cao nhất tới 18,7%/năm; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Dầu khí toàn cầu: 18,8%/năm; Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kiên Long có mức lãi suất 19, 0%/năm và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có lãi suất 18,9%/năm…
Trong khi đó, một số ngân hàng thương mại có xu hướng tiếp tục điều chỉnh giảm nhẹ 0,20% - 0,50%/năm mức lãi suất huy động VND. Có thể khái quát một số nguyên nhân hạ nhiệt thị trường tiền tệ:
Một là, Ngân hàng Nhà nước tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, như nghiêm cấm việc thu thêm phí ngoài lãi suất cho vay dưới bất cứ hình thức nào, yêu cầu các ngân hàng thương mại có mức lãi suất huy động vốn VND trên 17,5%/năm thì phải báo cáo,... đồng thời tăng cường kiểm tra việc chấp hành các quy định có liên quan.
Hai là, bản thân nhiều ngân hàng thương mại cũng nhận thức được rằng, việc cạnh tranh tăng lãi suất huy động vốn thời gian qua đem lại rất ít hiệu quả về việc tăng trưởng quy mô thu hút tiền gửi, nhưng lại làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bản thân ngân hàng thương mại.
Bởi vì với lãi suất cơ bản là 14%/năm và lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại tối đa không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản, tức không được vượt quá 21%/năm
Do đó với lãi suất huy động vốn VND trên 17, 5%/năm cho các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, trừ đi tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 11%, trừ đi tiền gửi bảo đảm thanh toán và tiền mặt tồn quỹ... thì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và chi phí huy động vốn đầu vào mà ngân hàng thương mại thu được không còn bao nhiêu
Ba là, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, một ngân hàng thương mại Nhà nước có quy mô lớn, mạng lưới rộng, uy tín và thương hiệu được đông đảo khách hàng tin tưởng, mới đây đã tuyên bố giảm nhẹ lãi suất cho vay từ 0,20%/năm đến 2,0%/năm. Quyết định đó của ngân hàng này phát đi một tín hiệu về mặt tâm lý đối với các ngân hàng thương mại khác cân nhắc khi điều chỉnh tăng lãi suất huy động vốn của mình
Bốn là, chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội - CPI có xu hướng giảm, nhập siêu giảm mạnh, kinh tế vĩ mô có chiều hướng tích cực, các biện pháp kiềm chế lạm phát đang bắt đầu phát huy hiệu quả. Tình hình này tác động tới tâm lý của cả các ngân hàng thương mại trong cạnh tranh huy động vốn và cả tâm lý người gửi tiền theo chiều hướng tích cực.
Năm là, thị trường ngoại tệ hạ nhiệt. Giá USD trên thị trường tự do đã giảm mạnh, nên góp phần ngăn chặn tình trạng sử dụng vốn nội tệ hay rút tiết kiệm sang mua USD để cất trữ hay gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng thương mại, làm cho nhu cầu vốn nội tệ bớt căng thẳng
Sáu là, tin đồn và diễn biến tâm lý về tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là tin đồn thiếu cơ sở và thiếu thực tế về thanh khoản của một số ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ, ngân hàng thương mại cổ phần mới chuyển từ nông thôn lên đô thị... đã bị loại bỏ.
Bảy là, tính thanh khoản của nền kinh tế chuyển biến tích cực, đặc biệt là tính thanh khoản của TTCK đã được cải thiện rõ rệt. Tình hình đó tác động đến cả tâm lý của thị trường tiền tệ và tác động đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại
Những diễn biến nói trên là đáng mừng, tuy nhiên hiện nay lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại vẫn còn cao. Trong khi lãi suất USD của FED không thay đổi, vẫn giữ ở mức 2,0%/năm từ cuối tháng 4/2008 đến nay, lãi suất USD trên thị trường quốc tế cũng ở mức thấp, lãi suất Libor và lãi suất Sibor cũng không tăng, nhưng lãi suất huy động vốn USD và cho vay USD của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở mức rất cao (cao nhất lên tới 7,0% - 7,5%/năm), lãi suất cho vay lên tới 10%/năm và cao hơn.
Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các dự án quan trọng phải sử dụng vốn USD cho nhập khẩu máy móc thiết bị. Vì vậy, trong điều hành chính sách vĩ mô nên có biện pháp giải quyết vấn đề đáng quan tâm nói trên.
( nguồn
KẾT LUẬN
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Cùng với sự lớn mạnh của đất nước, hệ thống Ngân hàng nước ta cũng đa ngày càng phát triển và tự khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Thực tế vài năm qua cho thấy hệ thống NHTM Việt Nam đa thực hiện khá tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Điều này có được là nhờ hoạt động tương đối hiệu quả của hệ thống NHTM trong việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi để đưa vào nền kinh tế, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đa thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế nước nhà.
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm 2005-2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức này. Tính đến tháng 2-2007 đã có 34 ngân hàng thương mại hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều lệ trên 21.000 tỷ đồng , trong đó Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương tín có số vốn điều lệ cao nhất là trên 2.089 tỷ đồng.
Với việc nghiên cứu đề tài này, em đã cố gắng tiếp cận sâu hơn với Ngân hàng thương mại, đặc biệt là về mặt tiền gửi và một số hoạt động liên quan. Em đã có cái nhìn tổng quát hơn về nền kinh tế Việt Nam mà biểu hiện cụ thể nhất qua hệ thống Ngân hàng thương mại( NHTM). Cùng với những thành công đã có thì NHTM cũng có nhiều điểm bất cập. Trong thời kì hội nhập như thế này, để đáp ứng những tiêu chuẩn cũng như đòi hỏi của thời đại, NHTM cần thật sự thay đổi, phải nỗ lực hết mình, hoạt động hiệu quả hơn nữa. Để đưa nước ta lên một tầm cao mới, nhiệm vụ của NHTM là không thể bỏ qua.
Vì kiến thức bản thân có hạn nên đề tài còn có nhiều sai sót, chưa có những đánh giá sâu sắc, sắc sảo nhận xét còn chủ quan về hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy. Em rất mong sẽ tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của thầy trong quá trình học tập sau này.
MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………. 1
Chương 1 …………………………………………………………. 3
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM…………... 3
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong NHTM…………... 3
1.2 Vai trò của tiền gửi trong NHTM ............................................. 6
2. Phân loại tiền gửi trong Ngân hàng thương mại……………... 7
2.1 Tiền gửi phi giao dịch …………………………………………. 7
2.2 Tiền gửi giao dịch ...…………………………………………. 10
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi…………………………….. 15
4. Các phương pháp định giá tiền gửi …………………………. 16
4.1 Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập 17
4.2 Phương pháp đánh giá chi phí dịch vụ tiền gửi trung bình 18
4.3 Phương pháp tập trung nguồn vốn 18
4.4 Phương pháp sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi 19
4.5 Phương pháp định giá xâm nhập thị trường 20
4.6 Định giá mục tiêu trọng điểm 21
4.7 Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng 21
4.8 Định giá tiền gửi để đạt mục tiêu của ngân hàng 22
4.9 Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi 22
Chương 2 ……………………………………………………… 23
2. Thực trạng tiền gửi trong ngân hàng Việt Nam ……………. 23
2.1 Cuộc chay đua lãi suất ………………………………………... 24
2.2 Nguyên nhân của tình trạng này là gì? ……………………….. 28
2.3 Cuộc “chạy giật lùi” lãi suât …………………………………. 32
2.4 Nguyên nhân của tình trạng này là gì? ………………………. 35
Kết luận …………………………………………………………… 38
Các tài liệu đã tham khảo
+ Peter S.Rose, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
+ Lê Văn Tư, 2005, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
+ Lê Văn Tề - Nguyễn Thị Xuân Liễu, 1999, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê.
+ Nguyễn Thị Mùi (Chủ biên), Trần Thị Thu Hiền - Đặng Thị Ái, 2004, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.
+
+ http:// bidv.com.vn
+
+
+
+
+
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_an_tiengui_trong_nhtm.doc