Đề án Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các ngân hàng thương mại

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 I. Nguồn tiền gửi tại các NHTM 2 1.1. Khái niệm và đặc điểm của tiền gửi trong các NHTM 2 1.1.1. Khái niệm 2 1.1.2. Đặc điểm của tiền gửi 4 1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM 6 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi 7 II. Phân loại tiền gửi trong các NHTM 8 2.1. Tiền gửi không kỳ hạn 8 2.1.1. Định nghĩa 8 2.1.2. Phân loại 9 2.2. Tiền gửi có kỳ hạn 13 2.2.1. Định nghĩa 13 2.2.2. Phân loại tiền gửi có kỳ hạn 15 2.3. Tiền gửi tiết kiệm 15 2.3.1. Định nghĩa và đặc điểm 15 2.3.2. Phân loại 16 III. Chi phí đối với các loại tiền gửi 16 3.1. Lãi suất huy động tiền gửi 16 3.2. Các phương pháp định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi 17 3.3.1. Phương pháp tổng hợp chi phí – thu nhập 18 3.3.2. Phương pháp định giá xâm nhập thị trường 19 3.3.3. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi 20 3.3.4. Định giá mục tiêu trọng điểm 21 3.2.5. Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng 21 IV. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM 22 4.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong NHTM 22 4.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM 23 V. Quản lý nguồn tiền gửi 24 5.1. Quản lý lãi suất 25 5.1.1. Định nghĩa 25 5.1.2. Nguyên nhân phải quản lý lãi suất 25 5.1.3. Mục tiêu quản lý 27 5.1.4. Nội dung của quản lý lãi suất: 27 5.1.5. Các cách quản lý lãi suất: 30 5.2. Quản lý quy mô và cơ cấu 31 5.2.1. Nội dung quản lý: 31 5.3. Quản lý kỳ hạn 32 5.3.1. Định nghĩa: 32 5.3.2. Nội dung quản lý: 32 5.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn 35 5.4.1. Khái niệm 35 5.4.2. Tính thanh khoản của nguồn vốn 36 5.4.3. Quản lý rủi ro thanh khoản nguồn vốn. 39 VI. Vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam 44 6.1. Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam 44 6.1.1. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM 46 6.1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam 51 6.2. Tình hình ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam 52 6.2.1. Quản lý tiền gửi 52 6.2.2. Quản lý quy mô và cơ cấu 53 6.2.3. Quản lý kỳ hạn 56 6.2.4. Quản lý tính thanh khoản của nguồn vốn 56 KẾT LUẬN 58 LỜI MỞ ĐẦU Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng , mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng của hoạt động ngân hàng chính là vốn, và quy mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định lợi nhuận mà nó kiếm được. Việc huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng vì nó liên quan tới việc duy trì và mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển của ngân hàng. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào là tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra cũng là đặt ra những thách thức, yêu cầu đối với công tác quản lý tiền gửi của các NHTM Việt Nam. Xuất phát từ vai trò quan trọng của tiền gửi đối với mỗi ngân hàng nói riêng cũng như dối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, em đã chọn đề tài « Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM » để có điều kiện củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về hoạt động của các NHTM hiện nay. Đề án đưa ra giải quyết hai vấn đề chính : Phần thứ nhất là các vấn đề mang tính lý luận về tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các NHTM nói chung. Phần thứ hai dựa trên cơ sở xem xét thực tiền để đưa ra vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cân của bản thân có hạn nên em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của ngân hàng mà chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản lý tiền gửi của ngân hàng. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nên đề án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá, góp ý và sửa chữa của thầy. Em xin chân thành cảm ơn.

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiền gửi và quản lý tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
( tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm) Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc tiền để dành của cá nhân. Vì vậy, mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lãi. Đối với NHTM, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh. Do đó, ngân hàng thường trả lãi suất cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất chi trả cho tiền gửi thanh toán của cá nhân. Hình thức áp dụng tiền gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng rất đa dạng, có loại kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm… Thời hạn càng dài, lãi suất càng cao. Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn có thể tính theo phương pháp lãi suất đơn hoặc lãi suất tích hợp và áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi. Nếu áp dụng lãi suất thả nổi thì thường lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định lãi suất. Ngân hàng còn trả lãi cho các loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Riêng đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, ngoài lãi suất được hưởng, người gửi còn có thể được thưởng dưới hình thức bằng tiền hoặc hiện vật, thông qua xổ số theo định kỳ. Ngoài ra, ngân hàng còn phát hành các giấy nợ dưới hình thức kỳ phiếu (hoặc trái phiếu). Lãi suất đối với những khoản tiền có quy mô lớn sẽ được áp dụng khác với lãi suất những khoản tiền có quy mô nhỏ. Nhìn chung, tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho người gửi tiền và người cho vay càng cao thì lãi suất càng thấp. Một số nguồn tiền lãi suất ngân hàng trả bằng 0 và người gửi phải trả phí để được hưởng tiện ích của ngân hàng. Một ngân hàng có thể đưa ra lãi suất danh nghĩa cao hơn các ngân hàng khác, tức là đa tạo ra lãi suất cạnh tranh bằng các phương pháp khác nhau như trả lãi làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước. Khi trả lãi nhiều lần trong kỳ, lãi suất tương đương (A) sẽ lớn hơn lãi suất danh nghĩa mà ngân hàng cam kết trả. A (NEC) = (1 + i/n)n – 1 i: lãi suất danh nghĩa trong kỳ n: số lần trả lãi Khi trả lãi trước: B = 1/ (1 – i) i : lãi suất trả trước NHTM thường dùng phương pháp trên trong điều kiện bị khống chế về lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời quy mô của các khoản mục chi phí trả lãi trong kỳ. Tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất của các NHTM. Việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, quản lý lãi suất tiền gửi và các chính sách có liên quan phù hợp sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội với chi phí thấp nhất. Lãi suất ngân hàng luôn đổi mới theo hướng đa dạng hoá, linh hoạt nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tối thiểu hoá chi phí đầu vào, hạ thấp chi phí đầu ra, góp phần tối đa hoá lợi nhuận. Không nên có bảng lãi suất cố định cho tất cả mọi khách hàng. Điều đó sẽ không thu hút được các khách hàng làm ăn tốt vì thông thường, khách hàng làm ăn tốt sẽ mang lại nhiều khoản lợi tức ngoài lợi tức cho vay. 5.1.5. Các cách quản lý lãi suất: * Cố định lãi suất Đây là cách làm cổ điển nhất. Ngân hàng đưa ra thang lãi suất đã lập sẵn để thông báo cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng hoặc gửi tiền cho ngân hàng. - Ưu điểm: + Ngân hàng ước tính được khá chính xác lợi nhuận từ mỗi khoản cho vay + Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gửi và các loại tài sản nợ khác - Nhược điểm: + Việc làm này, ngân hàng đã tự hạn chế mình về khả năng cho vay và đầu tư dẫn đến xảy ra tình trạng thừa vốn mà không thể hoặc không dám đầu tư. + Làm mất khả năng thương lượng vốn giữa người vay và người muốn cho vay (ngân hàng) + Ngân hàng phải chạy theo khách hàng + Khả năng rủi ro trong cho vay lớn hơn + Khó đầu tư vào chứng khoán vì lãi suất chứng khoán do cung cầu quyết định * Thả nổi lãi suất: Khi thực hiện thả nổi lãi suất, ngân hàng quản lý được tài sản và lợi nhuận theo hướng thương lượng giữa mình và khách hàng. Sẽ có nhiều khách hàng tìm đến với ngân hàng hơn và ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội tạo lợi nhuận hơn. * Kết hợp cả 2 phương pháp quản lý trên 5.2. Quản lý quy mô và cơ cấu Quản lý quy mô và cơ cấu nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để gia tăng quy mô và thay đổi cơ cấu một cách có hiệu quả nhất. Gia tăng nguồn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nợ ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. 5.2.1. Nội dung quản lý: * Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay vòng của mỗi loại. Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lý nghiên cứu mối liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính của thị trường nguồn của ngân hàng.Trong điều kiện cụ thể, các nguồn của ngân hàng có thể có tốc độ và quy mô thay đổi khác nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tốc độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với ngân hàng ở xa. * Phân tích kỹ các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng). Những nhân tố ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cấu của nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền. Vào gần dịp Tết, quy mô của tiền gửi tiết kiệm có thể giảm xuống tương đối, hoặc nếu ngân hàng phục vụ chủ yếu cho các doanh nghiệp xây dựng, tiền gửi của họ tăng giảm nhiều phụ thuộc vào mùa xây dựng. Từ thực tế đó, các nhà quản lý ngân hàng cần chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc độ gia tăng của mỗi nguồn. Các khách hàng, hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn được đặc biệt chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng phục vụ kèm theo cần phải được nghiên cứu cụ thể. Các nhà quản lý cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của các ngân hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ. * Lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng. Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn, bao gồm kế hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguồn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu nguồn hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử dụng và lợi nhuận kỳ vọng, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc điểm huy động, loại nguồn, tiếp thị… 5.3. Quản lý kỳ hạn 5.3.1. Định nghĩa: Quản lý kỳ hạn là xác định kỳ hạn của nguồn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn. 5.3.2. Nội dung quản lý: Bao gồm 3 nội dung. * Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng - Định nghĩa: Nguồn huy động thường gắn với kỳ hạn nhất định, được ngân hàng tuyên bố, đó là kỳ hạn danh nghĩa của nguồn. - Ví dụ: Trong tiền gửi tiết kiệm có: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng, tiền gửi kỳ hạn 6 tháng. Các kỳ hạn danh nghĩa thường gắn với một mức lãi suất nhất định, theo xu hướng, nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài, lãi suất càng cao. Trong trường hợp bình thường (tức không có khủng hoảng xảy ra) cũng có một số người gửi rút tiền ra trước hạn, song nhìn chung mọi người gửi đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa để được hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Do vậy, kỳ hạn danh nghĩa là một chỉ tiêu phản ánh tính ổn định của nguồn vốn. - Ý nghĩa của việc xác định kỳ hạn danh nghĩa Xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Kỳ hạn liên quan tới tính ổn định và vì vậy, liên quan đến kỳ hạn của sử dụng. Để cho vay và đầu tư dài hạn, ngân hàng cần có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền. Mặt khác, kỳ hạn liên quan tới chi phí, đó là các nguồn có tính ổn định cao thường phải có chi phí cao. Quản lý kỳ hạn vì vậy là một nội dung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. - Các nhân tố ảnh hưởng: Thu nhập: mức thu nhập của dân chúng là một yếu tố quan trọng bởi các khoản tiền gửi và vay với kỳ hạn dài (trên một năm) thường là của dân cư. Do vậy, khi thu nhập của dân cư thấp, mức tiết kiệm thấp đã hạn chế khả năng cho vay và gửi ngân hàng với kỳ hạn dài và ảnh hưởng đến việc huy động tiền gửi của ngân hàng. Ổn định vĩ mô: nếu không có sự ổn định kinh tế về vĩ mô, lạm phát cao, tỷ giá biến động theo hướng không có lợi cho người gửi nội tệ… sẽ làm hạn chế việc kéo dài kỳ hạn danh nghĩa và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Khả năng chuyển đổi của giấy nợ: việc này liên quan đến hoạt động của thị trường tài chính trong nước. Nếu thị trường tài chính hoạt động kém thì tính thanh khoản của các giấy nợ thấp. Việc phát hành giấy nợ dài hạn(trên 1 năm) rất khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Kỳ hạn cho vay và đầu tư: Các ngân hàng thường huy đông nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn để cho vay các khoản đầu tư dài hạn hơn. Nếu kỳ hạn của các khoản cho vay và đầu tư kéo dài sẽ tạo áp lực về khả năng thanh toán của ngân hàng, buộc ngân hàng phải huy động nhiều hơn các khoản tiền gửi với kỳ hạn dài hơn. * Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng - Định nghĩa: Kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi là thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị ngân hàng. Ví dụ: Nhiều người gửi tiết kiệm tại một ngân hàng với kỳ hạn danh nghĩa 6 tháng, song khoản tiền gửi có thể được duy trì nhiều lần 6 tháng (các kỳ hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi ngân hàng) và trên thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn. - Các nhân tố ảnh hưởng đến kỳ hạn danh nghĩa đều tác động đến kỳ hạn thực tế. Ngoài ra, nhu cầu chi tiêu đột xuất và lãi suất cạnh tranh giữa các ngân hàng, lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau cũng ảnh hưởng tới kỳ hạn thực tế. Cụ thể: Sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra sự dịch chuyển tiền gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, từ loại tiền này sang loại tiền khác, làm giảm kỳ hạn thực tế của khoản tiền gửi. Ví dụ: Ngân hàng A ở Hà Nội tăng lãi suất tiền gửi loại 12 tháng từ 0,55%/tháng lên 0,6%/tháng có thể sẽ gây ra 2 loại “hiệu ứng”: Tiền gửi từ các ngân hàng khác, hoặc tiền trong dân cư sẽ chảy về ngân hàng A. Điều này phụ thuộc vào sự hấp dẫn của lãi suất gia tăng và các chi phí dịch chuyển. Các món tiền nhỏ bé thường ít bị hấp dẫn khi lãi suất tăng ít. Một món tiền gửi tại ngân hàng Cà Mau không dễ chuyển ra Hà Nội trong điều kiện công nghệ ngân hàng và chi phí chuyển tiền hiện nay. Các món tiền gửi đa gần đến hạn có thể ít bị dịch chuyển: người gửi cố gắng chờ đến hạn để được lãi suất đầy đủ. Sự dịch chuyển giữa các loại tiền gửi trong nội bộ ngân hàng A. Loại hiệu ứng này không làm thay đổi (gia tăng) quy mô của nguồn mà chỉ làm thay đổi kết cấu cảu nguồn, tác động tới tính ổn định của các nguồn khác kém hấp dẫn hơn về lãi suất. * Xem xét khả năng chuyển hoán kỳ hạn của nguồn. Một nguồn tiền nào đó trong ngân hàng được tạo ra bởi sự tiếp nối liên tục của các khoản huy động và đi vay. Một nguồn với kỳ hạn danh nghĩa là ngắn hạn, có thể tồn tại liên tục trong nhiều năm, tức là thành nguồn có kỳ hạn thực tế là trung và dài hạn. Phân tích và đo lường kỳ hạn thực tế của nguồn tiền là cơ sở để ngân hàng quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn. Phương pháp cơ bản để phân tích kỳ hạn thực tế là dựa trên số liệu thống kê để thấy sự biến động số dư của mỗi nguồn vốn, của nhóm nguồn, tìm số dư thấp nhất trong quý, trong năm, trong nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi, từ đó người quản lý đo được kỳ hạn thực gắn liền với các số dư. Tóm lại, quản lý kỳ hạn luôn gắn liền với quản lý lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan tới không chỉ tăng quy mô của nguồn mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các ngân hàng, tính ổn định trong từng ngân hàng. Lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng tổng nguồn, tiết kiệm, chi phí, vừa lại tăng tính ổn định của nguồn là nội dung quản lý nguồn vốn của ngân hàng. 5.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, ngân hàng thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh khoản của ngân hàng. Sự ổn định của hệ thống ngân hàng liên quan chặt chẽ tới khả năng cung cấp thanh khoản của nó. Do giới hạn nghiên cứu sẽ tập trung vào tính thanh khoản của nguồn vốn. 5.4.1. Khái niệm Khả năng huy động tạo khả năng thanh toán của ngân hàng, phản ánh tính thanh khoản của nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng cao. 5.4.2. Tính thanh khoản của nguồn vốn * Nhu cầu thanh khoản từ phía nguồn vốn - Nhu cầu rút tiền của người gửi: các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác… - Các khoản tiền vay đến hạn trả - Lãi cho các khoản tiền gửi. * Cung thanh khoản từ phía nguồn vốn: - Là khả năng huy động mới nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng * Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản: - Nhóm nhân tố tạo ra hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền: bất ổn chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính. - Nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách hàng: tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng. - Nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung gian tài chính như chính sách lãi suất huy động… - Nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng: cán bộ, công nghệ, thị phần… * Rủi ro thanh khoản - Là tổn thất xảy ra cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến. Trong điều kiện bình thường, các ngân hàng vẫn có thể gặp phải một số vấn đề về thanh khoản trong quá trình đáp ứng các nhu cầu rút tiền của người gửi. Tuy nhiên, những khó khăn lớn về thanh khoản thường xuất hiện khi nhu cầu chi trả tiền gửi có biến động lớn so với mức bình thường mà ngân hàng không thể dự đoán trước được. Bất kì một sự tăng lên đột ngột nào của làn sóng rút tiền gửi của khách hàng, đều có thể làm tăng thêm những khó khăn về thanh khoản cho ngân hàng. Kết quả cuối cùng có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Hiện tượng rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng một cách ồ ạt, bất ngờ và không dự đoán trước là thuộc tính cơ bản và riêng có của các hợp đồng tiền gửi không kì hạn vì nó được ngân hàng tiếp nhận trước tiên, đồng thời được chi trả đầu tiên. Nhưng cụ thể, họ có thể được trả đầy đủ hoặc không được trả một đồng nào. Ví dụ: Động cơ của việc rút tiền ồ ạt ra khỏi ngân hàng TS có TS nợ $90 TG: $100 (100 x $1/người) Giả thiết rằng ngân hàng có 100 khách hàng gửi tiền. Mỗi người gửi 1$ vào ngân hàng. Giả sử mỗi người có một lý do để tin rằng giá trị tài sản có trên bảng cân đối của ngân hàng chỉ có $90 (chính xác hoặc không chính xác). Kết quả, mọi người gửi tiền đều có cùng một động cơ để nhanh chóng đến ngân hàng rút ngay số tiền gửi $1. Nếu ngân hàng chỉ có số tài sản có trị giá 90$ thì chỉ có 90 người gửi tiền đến trước được thanh toán. Mười người đến chậm sẽ không được gì. Như vậy, với đặc điểm của tiền gửi không kỳ hạn đã làm cho các ngân hàng gặp phải những trở ngại trong hoạt động quản trị thanh khoản. * Biện pháp đáp ứng nhu cầu thanh khoản từ phía bên nguồn phụ thuộc rất nhiều vào chi phí và thời gian huy động. Khi chuyển hoán kì hạn (huy động vốn từ các món vay nhỏ, ngắn hạn để thực hiện cho vay lớn, trung và dài hạn), ngân hàng có thể gánh chịu rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản. Do sự không phù hợp về kì hạn giữa nguồn và tài sản, ngân hàng phải cân nhắc về việc sử dụng dòng tiền vào để đáp ứng đầu tư và đồng thời duy trì thanh khoản ở mức cần thiết. Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn: - Vay NHTW: Thường được ưu tiên sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Vài thời kỳ NHTW áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, việc vay mượn có thể dễ dàng hơn, lãi suất thường rất thấp, thấp nhất trong khung lãi suất cho vay. Do vậy, NHTM có thể sử dụng nguồn này để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. - Vay từ ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng: Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, các NHTM được nối mạng với nhau, tạo điều kiện để các ngân hàng cho nhau vay số tiền tạm thời chưa sử dụng. Lãi suất thường cao hơn lãi suất của NHTW nhưng thủ tục vay mượn đơn giản. - Vay bằng cách phát hành các giấy nợ ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi (CD). Lãi suất của các giấy nợ này thường cao hơn tiền gửi tiết kiệm cùng kì hạn nhưng ngân hàng chủ động huy động một lượng tiền lớn đúng như yêu cầu trong khoảng thời gian xác định, có thể mua bán lại ở thị trường cấp hai khiến chúng hấp dẫn hơn. - Ngân hàng có thể tăng lãi suất tiền gửi để cạnh tranh với các ngân hàng khác nhằm huy động được nhiều hơn. Biện pháp này thường áp dụng khi cần vốn để cho vay vì chi phí thường cao. - Mở rộng và đa dạng hoá khách hàng gửi tiền (mở nhiều chi nhánh ở các vùng, quốc gia, cung cấp nhiều loại hình gửi … để hạn chế nhu cầu thanh khoản thời vụ lớn hơn hoặc bằng chu kỳ. Ví dụ: Giả sử bảng cân đối tài sản của một ngân hàng khi thiếu hụt. TS có TS nợ $ 100 Tiền gửi: $ 65 Tiền vay: $10 Tài sản nợ khác: $20 $100 $ 95 Có nhiều cách để đáp ứng sự thiếu hụt này nhưng ta sẽ nghiên cứu cách quản lý tài sản nợ. Ngân hàng sẽ tiếp cận với thị trường tiền tệ để vay tiền: thị trường chính thức; thị trường liên ngân hàng và thị trường các hoạt động mua lại. Các thị trường này cung cấp các khoản tín dụng trong ngắn hạn. Ngoài ra, NHTM có thể phát hành bổ sung các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất cố định hoặc có thể chuyển nhượng được… Khi tổng số tiền mặt đủ 5 $, NHTM có thể bù đắp hoàn toàn chênh lệch tiền, gửi ròng phải trả. TS có TS nợ $ 100 $ 100 Tiền gửi: $ 75 Tiền vay: $10 Tài sản nợ khác: $20 $100 $ 100 Áp dụng phương pháp này sẽ gia tăng chi phí của NHTM vì họ phải đi vay với điều kiện không thuận lợi, chịu lãi suất cao. Vì vậy, phương pháp này trở nên kém hấp dẫn. Nhưng nó cho phép ngân hàng duy trì quy mô bảng cân đối, không làm ảnh hưởng đến quy mô và kết cấu tài sản có của bảng cân đối tài sản vì tất cả những điều chỉnh đều xảy ra bên phía tài sản nợ của bảng cân đối, không ảnh hưởng tới bên tài sản có khi giải quyết nhu cầu thanh khoản về chi trả tiền gửi. Đó chính là lý do phát triển nhanh chóng của kĩ thuật quản lý tài sản nợ trong ngân hàng kết hợp với thị trường tiền tệ. 5.4.3. Quản lý rủi ro thanh khoản nguồn vốn. Một ngân hàng dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể phải đối mặt với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi ngân hàng còn phải dựa vào danh tiếng của ngân hàng trên thị trường, chất lượng thị trường tiền tệ và trạng thái thanh khoản chung của hệ thống tài chính để quản lý thanh khoản. Điều đó đoi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải kết hợp lựa chọn thích hợp giữa phương pháp sử dụng các tài sản có lỏng dự trữ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với giải pháp tìm kiếm các nguồn thanh khoản trên thị trường. Có nhiều loại chiến lược mà các nhà quản lý NHTM thực hiện để quản lý danh mục tài sản nợ của họ. Mỗi chiến lược đều phải cân đối giữa mức độ rủi ro với thu nhập. Mục tiêu chung của những chiến lược này là tăng thu nhập, giảm chi phí, đảm bảo khả năng thanh toán trong mọi điều kiện của thị trường. * Chiến lược phát triển một cơ sở nguồn vốn vững chắc từ các thị trường bán lẻ. Một chiến lược cơ bản thường được sử dụng trong hầu hết các NHTM là mở rộng và khai thác các nguồn vốn cá nhân (bán lẻ). Tiền gửi cá nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu nhất của chiến lược huy động vốn của các ngân hàng, bởi vì đặc điểm ổn định của nguồn vốn này cũng như chi phí tương đối thấp so với nguồn vốn khác trên thị trường. Về mặt thời hạn, các nguồn vốn bán lẻ này được xem như những nguồn tài chính ngắn hạn và có thể rút ra lập tức bất cứ lúc nào. Để có được nguồn vốn này, NHTM phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với chi phí khá cao. Đồng thời, để giành được khách hàng, các ngân hàng phải có sự chuẩn bị để đầu tư nâng cấp hệ thống mạng lưới chi nhánh, mở ra các kênh phân phối bằng điện tử, giúp họ thu hút thêm những người gửi tiền cá nhân.Các NHTM cũng phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh về lãi suất trong huy động tiền gửi. Mặt khác, những người đầu tư ngày càng hiểu biết tốt hơn về các công nghệ tài chính mới nên ngày càng có phạm vi rộng lớn hơn các cơ hội chọn lựa các phương thức đầu tư. Vì vậy, để không ngừng mở rộng và duy trì được nguồn vốn quan trọng này, các ngân hàng phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết cho việc tạo ra các dịch vụ và sản phẩm dịch vụ mới. Trong tiến trình khai thác và duy trì vững chắc nguồn vốn tiền gửi cá nhân, một vấn đề cần quan tâm đó là kết hợp giữa mạng lưới chi nhánh bán lẻ với các kênh phân phối bằng điện tử như: máy rút tiền tự động ATM hay các ngân hàng bằng điện thoại. Tuy chi phí dịch vụ của các chi nhánh khá cao nhưng nó vẫn cần được tiếp tục duy trì để phát triển chiến lược quản lý tài sản nợ. Nguồn vốn này chủ yếu được các ngân hàng thu hút thông qua các tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiết kiệm và các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Nhưng các tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản tiền gửi tiết kiệm chứa đựng mức độ rủi ro rút vốn lớn nhất. Tuy nhiên, mức độ rủi ro thanh khoản cao được bù đắp khi mà các ngân hàng chỉ phải trả mức lãi suất tương đối thấp. Trái lại, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn áp dụng lãi suất cố định có mức rủi ro rút vốn rất thấp so với 2 loại tiền tiền gửi này, ngoại trừ trường hợp người gửi có nhu cầu rút vốn ra trước thời hạn. Trong quản lý tài sản nợ, các ngân hàng cần phải nhận thức rõ và giám sát toàn diện các khoản chi phí huy động vốn từ các khu vực cá thể trong mọi điều kiện của thị trường. Trong trường hợp lãi suất thị trường cao, các tài khoản tiền gửi thanh toán được trả lãi suất thấp tương xứng với giá trị cơ hội mà ngân hàng thu được. Khi lãi suất thị trường thấp thì các ngân hàng có thể phải chịu những chi phí cơ hội cao đối với các nguồn vốn này, bao gồm các chi phí mở tài khoản tiền gửi khách hàng kèm theo các khoản mục chi phí liên quan: cấp sổ séc, gửi thông báo cho khách hàng. * Chiến lược đa dạng hoá các nguồn vốn Đa dạng hoá các nguồn vốn để giảm thấp mức độ ảnh hưởng của thị trường. Tuy nhiên, khi đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, NHTM sẽ mở rộng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của nó, đồng thời cũng làm tăng thêm chi phí huy động vốn dưới các điều kiện của thị trường. Một vài thị trường sẽ trở nên đắt đỏ hơn các thị trường khác, điều này phụ thuộc vào đặc tính của từng công cụ huy động vốn, vào uy tín của từng NHTM, hay vào điều kiện kinh tế cụ thể của từng khu vực địa lý. Cuối cùng là nhằm nâng cao uy tín cho ngân hàng trước những nhà đầu tư, đảm bảo khả năng thanh toán và hạ thấp chi phí phát hành các công cụ nợ của họ, một số ngân hàng đã tìm kiếm thêm các nguồn vốn ở các thị trường khác để tài trợ cho các nhu cầu thương mại. Do đa dạng hoá các nguồn vốn đa làm cho các NHTM ngày càng phải dựa vào các tổ chức tài chính chuyên nghiệp nhiều hơn để mở rộng quy mô hoạt động của mình. Hơn nữa, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính đa thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm tiền gửi mới so với các loại tiền gửi ngân hàng truyền thống trước đây và được cung cấp bởi nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng. Như vậy, các ngân hàng đã mất đi đáng kể các nguồn vốn rẻ nhất của họ. Sự thay đổi này làm tăng lên đáng kể chi phí huy động vốn của ngân hàng. * Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn, lãi suất cố định Danh mục tài sản nợ của hầu hết các NHTM có xu hướng nghiêng về các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định. Đó là kết quả đương nhiên của quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của bộ phận các nhà đầu tư sang các nguồnvốn dài hạn, dẫn đến một hiện tượng phổ biến là các ngân hàng sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho các tài sản có dài hạn. Điều này đa tạo ra rủi ro thanh khoản và làm tăng thêm các khó khăn cho ngân hàng khi thay thế các nguồn vốn đa đến hạn thanh toán. Nhận rõ sự mất cân đối về khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất do thời lượng giữa tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau, các NHTM đang tích cực chủ động tìm cách kéo dài thời lượng của danh mục tài sản nợ. Với một nguồn vốn dài hạn hơn, có thể giúp NHTM tránh được những biến động về giá cả khi quay vòng các tài sản nợ ngắn hạn. Nó còn cho các NHTM biết trước mức chi phí huy động vốn sẽ phải trả, từ đó giúp họ chủ động đáp ứng các nhu cầu của thị trường với lãi suất phù hợp, tránh được dự trữ quá cao về thanh khoản cũng như tránh được rủi ro về lãi suất. Trên thị trường tài chính chuyên nghiệp, mỗi NHTM còn có thể tăng các nguồn vốn dài hạn với lãi suất cố định bằng cách phát hành thêm các loại trái phiếu hoặc các loại chứng chỉ tiền gửi. Tuy các công cụ nợ này có mức chi phí huy động khác cao, nhưng lại cung cấp cho ngân hàng một nguồn vốn dài hạn và ổn định. Ngoài ra có thể chuyển nhượng, mua bán trên thị trường thứ cấp nên hầu như không có rủi ro rút vốn đối với công cụ này. Nó đảm bảo cho ngân hàng một nguồn vốn ổn định đến tận khi các công cụ nợ đến hạn. Để tăng vốn bằng cách sử dụng các công cụ đó, mỗi ngân hàng cần phải có uy tín, có mối quan hệ quen biết rộng tãi trên các thị trường. Ngoài ra, để đi đến quyết định chọn lựa các công cụ tăng vốn dài hạn nào, mỗi nhà quản lý ngân hàng phải xem xét phối hợp thời gian tăng quỹ sao cho phù hợp, đồng thời phải tính toán và so sánh giữa tổng số chi phí cần thiết để dự trữ thanh khoản với tổng số tăng thêm vì chi phí trả lãi suất cao nếu như cần thiết phải tăng thêm nguồn vốn. Như vậy, vấn đề quản lý thanh khoản và quản lý tài sản nợ trong mỗi NHTM có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu một NHTM áp dụng mô hình quản lý tài sản nợ nhằm tác động tới toàn bộ rủi ro rút vốn trong danh mục nguồn vốn thì phải có đủ tài sản dự trữ để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên, để khắc phục vấn đề rủi ro rút vốn bao giờ cũng làm tăng thêm chi phí của ngân hàng. Bởi vì khi sử dụng những nguồn tài sản nợ mà có thể dễ dàng giúp cho các nhà quản lý kiểm soát kịp thời những rủi ro thanh khoản trong tương lai thường có mức chi phí khá cao. Do vậy, trong 3 chiến lược cơ bản thường áp dụng để quản lý tài sản nợ, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu để lựa chọn cho mình một chiến lược quản lý phù hợp, có hiệu quả nhất. Vài nét về tiền gửi và quản lý tiền gửi ở Việt Nam Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam Tiền gửi là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguổn vốn của ngân hàng. Huy động được lượng tiền gửi càng nhiều, ngân hàng sẽ có cơ sở để cho vay nhiều hơn. Tuy nhiên, quyết định đến lợi nhuận ngân hàng là sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Thông thường, ngân hàng huy động lãi suất tiền gửi thấp và cho vay với lãi suất cao hơn để hưởng chênh lệch. Yêu cầu tìm kiếm được nguồn tiền gửi lớn với lãi suấ thấp là một trong những mục tiêu của quản lý tiền gửi. Lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng nhấ của ngân hàng. Lãi suất huy động tiền gửi, còn gọi là lãi suất huy động vốn hay tiết kiệm, và lãi suẩ cho vay là hai công cụ chính của các ngân hàng dùng để nâng cao thế mạnh tài chính của họ và giúp đóng góp vào việc ổn đỉnh và phát triển kinh tế quốc dân. Công cụ tài chính này thường được các NHTW của các quốc gia thường suyên sử dụng để ổn định nền kinh tế trong nước. Khi nền kinh tế của họ có dấu hiệu chậm lại, NHTW đưa ra một lãi suất cho các ngân hàng thương mại vay rất thấp để khuyến khích việc họ vay và cho vay lại để tiêu dùng hay đầu tư phát triển giúp hâm nóng nề kinh tế trở lại. Khi tốc độ phát triển của nền kinh tế tăng quá nhanh dẫn đến tình trạng lam phát, NHTW sẽ đưa ra lãi suất cao để giảm thiểu số lượng tiền vay của các NHTM và qua đó gialr nhu cầu tiêu dùng của người dân. Ỏ Việt Nam, các NHTM đều chịu sự chi phối của Ngân hàng nhà nước (NHNN). Một cách nào đó, việc tăng hay giảm lãi suất tiết kiệm hay cho vay đều phản ánh chính sách của NHNN, chiến lược riêng của từng ngân hàng và có sự tác động của nền kinh tế thị trường. Mỗi ngân hàng đều có chiến lược hay lý do riêng khi quyết định tăng lãi suất tiền gửi. Điểm mấu chốt là khi tăng lãi suất này, các ngân hàng đều nhằm vào việc thu hút thêm lượng tiền hiện đang luân chuyển trong thị trường để phục vụ một mục đích tài chính nào đó. Tùy vào nhu cầu tiền mặt của ngân hàng, của Chính phủ hay các khách hàng lớn cần vay để mua bán, đầu tư vào dự án trọng điểm, các ngân hàng sẽ đưa ra mức lãi suất thấp hay cao để thu hút dân chúng bỏ tiền vào tài khoản hoặc quỹ tiết kiệm. Với các nền kinh tế phát triển mạnh, nhu cầu sử dụng tiền mặt hay đầu tư vào dự án tăng cao, ngân hàng thường không đủ tiền để cho vay nên phải tìm cách huy động tiền gửi sau đó cho vay lại với một lãi suất cao hơn. Việc tăng hay giảm lãi suất tiền gửi cho vay là những sinh hoạt thường xuyên của các ngân hàng, và giúp chúng ta thấy được sức mạnh của ngành ngân hàng cũng như nền kinh tế. Không có lý do gì để chúng ta lo ngại mỗi lần ngân hàng thay đổi lãi suất, nhất là khi mức tăng hay giảm vừa phải theo thị trường hay được NHNN giám sát và cho phép. Có những lý do khách quan do thị trường tác động và có những lý do riêng biệt khác mang tính chấp hay nhu cầu nội bộ của việc tăng lãi suất tiền gửi. Nhiều ngân hàng vì cần số lượng cho vay lớn và gấp rút đáp ứng nhu cầu của Chính phủ hay doanh nghiệp ( đầu tư, nhập khẩu…) nên phải huy động tiền gửi qua việc tăng lãi suất tiết kiệm ngắn hạn hay dài hạn. Các ngân hàng khác, vì vị thế và nhu cầu cạnh tranh không muốn mất khách hàng, tuy không có nhu cầu tiền mặt lớn, thường vẫn phải tăng lãi suất để cùng đứng chung với các ngân hàng khác. Việc các ngân hàng theo nhau tăng lãi suất hay giảm lãi suất cũng là việc bình thường. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM Tình trạng chạy đua lãi suất Lãi suất là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất, quyết định đến khối lượng tiền huy động được của ngân hàng để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Thông thường, các khách hàng hay người gửi tiền sẽ lựa chọn các ngân hàng có độ an toàn nhưng đồng thời lãi suất cũng phải cao để bù đắp cho những chi phí cơ hội họ bỏ ra. Ngược lại, khi đưa ra một mức lãi suất huy động tiền gửi, ngân hàng phải cân nhắc giữa các lựa chọn sao cho có thể huy động được khối lượng tiền nhiều nhất và lãi suất thấp nhất có thể để tối đa hóa lợi nhuận ròng của mình. Để có thể thắng thế trong cạnh tranh, các ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất hấp dẫn cho khách hàng trên cơ sở so sánh với mức lãi suất của các ngân hàng khác và khả năng thanh toán của ngân hàng mình. Chính vì vậy, ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã liên tiếp diễn ra những cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM, điển hình là vào năm 2006 và đầu năm 2008. Trong 6 tháng đầu năm 2006, lãi suất huy động và cho vay của các NHTM tăng nhẹ, đối với lãi suất VNĐ tăng khoảng 0,12% - 0,24% /năm,còn lãi suất đồng USD tăng khoảng 0,1% - 0,3% / năm. Tuy nhiên, lãi suất tăng trong khi nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng vẫn dư thừa, cung – cầu vốn ở mức bình thường, lãi suất VNĐ chênh lệch dương so với lạm phát ( cao hơn lạm phát) khoảng 2%. Đến đầu tháng 7/2006, sau khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) điều chính lãi suất cơ bản đồng USD từ mức 5% - 5,25% /năm, nhiều ngân hàng đã không thể “kìm” được áp lực, tiếp tục tăng lãi suất huy động. Những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8 (2006), người ta chứng kiếm tin hình nhiều ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh tăng lãi suất huy động cả VNĐ và USD. Chúng ta hãy xem xét từ thực tiễn ở Hà Nội và Tp. HCM ( hai địa bàn chiếm đến 70% tổng vốn huy động và hơn 50% dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân háng). Đến cuối tháng 7/2006, số dư vốn huy động từ các tổ chức kinh tế - xã hội và dân cư của các tổ chức tín dụng tại Hà Nội đạt trên 175.000 tỷ đồng nhưng dư nợ cho vay chủ gần 92.000 tỷ đồng. Còn tại Tp.HCM, liên tục trong 7 tháng đầu năm hoạt động tăng trưởng tín dụng trên địa bàn có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so vơi các năm trước đây trong khi huy động vốn tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Tỷ lệ sử dụng vốn cho vay trực tiếp nền kinh tế trên vốn huy động của các NHTM tại Tp.HCM chỉ trên 80% ( trước đâu có lúc lên trên 90%). Ta có thể xem xét lãi suất huy động tiền gửi dân cư của VCB làm ví dụ Bảng 1:Lãi suất huy động tiền gửi dân cư của VCB – 08/11/2006 (đơn vị: %/năm) 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 9 tháng 12 tháng Không kỳ hạn VND 6.24 6.84 7.44 7.8 8.04 8.4 2.4 USD 3.7 3.8 4.2 4.4 4.55 4.85 1.25 EUR 1.2 1.4 1.6 1.8 1.8 1.9 0.5 Cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM đầu năm 2008 diễn biến hết sức gay cấn và quyết liệt. Trong những ngày gần đây hàng loạt ngân hàng thương mại (NHTM) công bố tăng lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam với mức lãi suất tăng khá, tăng thêm từ 0,12% - 0,48%/năm so với trước đó. Mức tăng lớn nhất vẫn thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần, kể cả các NHTM cổ phần quy mô còn khiêm tốn mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, như SHB, An Bình,…đến các NHTM hạng trung bình khá như: SeABank, VPBank, Phương Nam, Phương Đông, NHTM CP Sài Gòn… ngay cả những NHTM cổ phần có thương hiệu khá hay quy mô lớn, như: Eximbank, Techcombank, Đông Á, ACB hay những ngân hàng thương hiệu lớn như Incombank, BIDV….Đến tháng 2/2008, lãi suất huy động vốn VND tăng cao nhất của một số NHTM cổ phần lên tới 0,85%/tháng hay 10,20%/năm cho kỳ hạn 24 tháng, lên tới 0,80%/tháng, hay 9,6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng,…Lãi suất huy động vốn VND kỳ hạn 12 tháng của NHTM CP Sài Gòn lên tới 9,72%/năm, tương đương 0,81%/tháng; của Techcombank lên tới 9,6%/năm. Thậm chí lãi suất huy động của nhiều Quỹ tín dụng nhân dân kỳ hạn 12 tháng lên tới 0,90%/tháng, hay 10,80%/năm. Và lãi suất tăng kịch trần lên mức hơn 20 % vào những tháng sau đó. Trước tình hình đó, để kìm hãm lại tốc độ tăng nhanh của lãi suất, NHNN đã phải quy định mức trần lãi suất huy động 12%/năm nhưng một số ngân hàng đã lách luật bằng cách đưa ra các hình thức khuyến mãi, tiền gửi dự thường như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng bằng hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, triển khai hình thức gửi tiền với lãi suất linh hoạt, khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi suất có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi…Đặc biệt đánh vào tâm lý khách hàng trong điều kiện chỉ số giá tăng cao, từ ngày 18/2/2008, có ngân hàng còn đưa ra hình thức huy động vốn VND: “Lãi suất bù lạm phát”. Ngoài lãi suất thông thường, khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12 tháng được ngân hàng này cam kết bù một phần hoặc toàn bộ chênh lệch giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát thực tế, nhằm đảm bảo cho khách hàng gửi tiền được hưởng lãi suất không bị thiệt khi lạm phát tăng cao. Sau đây chúng ta sẽ xét biểu lãi suất của ngân hàng công thương làm một ví dụ Bảng 2: Lãi suất huy động tiền gửi VNĐ của NH Công thương chi nhánh Nghệ An áp dụng từ ngày 29/09/2008 Loại kỳ hạn (tháng) Lãi suất huy động (%/năm) Không kỳ hạn 3.0 1 tuần 13.0 1 tháng 17.0 2 tháng 17.0 3 tháng 17.5 6 tháng 17.5 9 tháng 17.0 12 tháng 17.0 18 tháng 16.0 24 tháng 15.0 36 tháng 15.0 48 tháng 15.0 60 tháng 15.0 Lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng Công thương lên mức cao nhất là 17.5%/năm trong khi trước đó, vào cuối năm 2007, lãi suất cao nhất cũng chỉ giữ ở mức 8%/năm. Nguyên nhân Ngoài những nguyên nhân khách quan từ tình hình kinh tế, chính trị trong nước, thế giới và những chính sách điều hành kinh tế vĩ mô bất hợp lý của NHNN thì sau đây, em xin đưa ra những nguyên nhân chủ quan từ việc điều hành lãi suất và quản lý tiền gửi của các NHTM - Cơ cấu tiền gửi của các NHTM chưa vững chắc. Cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các NHTM có sự thay đổi theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh hơn tiền gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua chứng khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh nghiệp, vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ liền kề khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân…Những khoản tiền này khách hàng thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên NHTM phải để tỷ lệ vốn khả dụng cao hơn. - Huy động tiền gửi để bù đắp cho rủi ro trong hoạt động tín dụng . Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong chặng đầu của tiền trình hội nhập, rủi ro tín dụng ngày càng tăng. Tỷ lệ nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 thể hiện trên bảng cân đối của các NHTM phần lớn ở mức dưới 5%/ tổng dư nợ, nhưng các khoản nợ nhóm 2 ( các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời gạn nợ đã cơ cấu lại…) đang có xu hướng tăng. Một vài NHTM Nhà nước, tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5 đã trên mức 20% /tổng dư nợ cho vay. Theo phán ánh của một số ngân hàng, các khoản cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước đang có dấu hiệu tiếp túc tăng do khối xây dựng, giao thông đã hết thời hạn cơ cấu lại nợ nhưng vẫn không thanh toán được nợ. Bên cạnh đó, nợ đọng trong cho vay lĩnh vực bất động sản và đầu tư chứng khoán cũng gia tăng đáng kể. Tình hình này cũng có thể là một nguyên nhân khiến các ngân hàng tiếp tục tăng cường thu hút tiền gửi để bù đắp phần vốn đang nợ đọng và đảm bảo khả năng thanh toán của mình. - Đứng trước sức ép cạnh tranh và mở rộng kinh doanh, các ngân hàng đã không có được cơ chế quản lý lãi suất cũng như quản lý tiền gửi một cách hợp lý. Các ngân hàng chủ yếu là các ngân hàng mới thành lập, có thị phần nhỏ thường chạy theo đám đông, chấp nhận lỗ để tăng lãi suất lên mức cao nhất nhằm thu hút khách hàng mà không tính đến khả năng thanh khoản của ngân hàng mình. - Cơ chế quản lý của các ngân hàng chưa chặt chẽ và hợp lý. Các ngân hàng thường bị động trước những thay đổi của chính sách mà NHNN quy định hay những biến động của tình hình kinh tế cũng như tâm lý của khách hàng. Ví dụ như kể từ ngày 1/2/2008 các TCTD phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới, theo hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc và tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với mức trước đó. Theo đó Thống đốc NHNN quyết định mở rộng thêm phạm vi phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2-2008, các NHTM phải bỏ ra thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự trữ bắt buộc cho NHNN. Trước áp lực đó của NHNN, các NHTM không còn cách nào khác phải tăng lãi suất để huy động tiền gửi nhằm đáp ứng được lượng dự trữ bắt buộc đó. 6.1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam Chắc chắn rắng không phải người gửi tiền nào cũng hành xử giống hệt nhau. Một số người chọn gửi tiền vào những ngân hàng có lãi suất huy động cao, nhưng bì lại thì họ sẽ phải lo lắng nhiều hơn về những thông tin thất thiệt hay nguy cơ đổ bể thật sự của ngân hàng mình chọn? Ngược lại, có những người muốn ít phải lo lắng hoan về những vấn đề trên thì lại chọn những ngân hàng có uy tín cao hơn để gửi tiền. Hiện nay, gửi tiền tại các ngân hàng vẫn là phương thức được ưa thích nhât của đại đa số nhân dân. Việc lựa chọn ngân hàng tùy thuộc vào thái độ của mỗi người đối với hai yếu tố: rủi ro và lãi suất. Hai yếu tố này phụ thuộn nhiều vào mô hình quản lý tiền gửi của NHTM. Trong việc quản lý tiền gửi, chi phí và quy mô là hai vấn đề mà các nhà quản lý ngân hàng luôn phải tìm cách giải quyết. Đúng ra, việc quản lý này, về cơ bản phải theo những quy luật của cung – cầu vốn là chiến lược kinh doanh cua rngân hàng. Nhưng hiện nay, một số ngân hàng Việt Nam lại đang phải quản lý tiền gửi theo sức ép của sự cạnh tranh và đảm bảo khả năng thanh khỏan. Hậu quả của tình hình này là lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm, thậm chí có ngân hàng sẽ lỗ hoặc các ngân hàng phải tăng mạnh lãi suất cho vay để bù đắp chi phí tiền gửi quá lớn. Cả hai điều này đều bất lợi cho bản thân các ngân hàng và nền kinh tế. Tình hình ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam Quản lý tiền gửi Trước đây, ở Việt Nam, theo kế hoạch quản lý tập trung lãi suất tiền gửi và cho vay, NHNN ấn định lãi suất và nó ổn định trong một thời gian dài, vì vậy không xuất hiện rủi ro lãi suất hoặc rủi ro không đáng kể. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thi trường, tính ổn định của lãi suất dần dần bị phá vỡ. Cuối những năm 1990, lãi suất quy định của NHNN đã thay đổi thường xuyên hơn (4 hay 5 lần/năm). Ngày 1/6/2002 là mốc đáng chú ý khi nguyên Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy công bố thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận với tổ chức tín dụng. Đây được coi là bước điều chính căn bản trong việc quản lý lãi suất. Với cơ chế mới, các NHTM sẽ buộc phải cạnh tranh gay gắt hơn, quyết liệt hơn, và lao vào một cuốc chạy đưa tăng lãi suất huy động. Cũng theo cơ chế này, rủi ro lãi suất sẽ bộc lộ rõ nét, đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và có những biện pháp thích hợp nhằm hạn chế tổn thất. Đây được coi là một bước tiến dài trong việc điều hành chính sách tiền tệ của nước ta. Việc áp dụng cơ chế tự do hóa lãi suất đã tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng và là bước tiến quan trọng của quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi tích cực thì việc thực hiện tự do hóa lãi suất trong thời gian qua cũng nảy sinh một số vấn đề bất cập trong quản lý lãi suất và khó khăn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam như việc NHNN công bố lãi suất cơ bản nhằm định hướng lãi suất thị trường trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, các NHTM cổ phẩn tiềm lực về tài chính còn hạn chế phải đối mặt khi tiến hàng tự do hóa lãi suất. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được chú ý đúng mực ở các NHTM, trong một số ngân hàng, bộ phận kiểm soát nội bộ tồn tại mang tính hình thức, không phát hiện được những sai sót của bộ phận điều hành hoặc nếu có phát hiện ra thì cũng không xử lý được. Đây là vấn đề mà hệ thống ngân hàng Việt Nam cần có biện pháp khắc phục vì nó liên quan mật thiết đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, nhất là trong vấn đề quản lý lãi suất của hoạt động tín dụng. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình quản lý lãi suất theo phương pháp lãi suất thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Việc áp dụng mô hình đó là đúng đắn trong hoàn cảnh hệ thống Ngân hàng – tài chính của nước ta vẫn còn mới mẻ, rủi ro vẫn còn cao, pháp luật liên quan đến các hoạt động tiền tệ vẫn còn chưa thực sự ổn định. Quản lý quy mô và cơ cấu Mỗi ngân hàng đều có quy mô và cơ cấu nguồn vốn riêng. Những NHTM lớn có quy mô vốn lớn sẽ có quy mô và tốc độ tăng trưởng khác với các NHTM nhỏ, tiềm lực yếu hơn. Từ đó, mỗi NHTM sẽ có mục tiếu phát triển khác nhau. Xét hai bảng cơ cấu vốn cuối năm 2008 của Ngân hàng Đầu tư phát triển (BIDV) và đầu năm 2009 của Ngân hàng Sacombank Bảng 3: Cơ cấu vốn ngày 31/12/2008 của BIDV (đơn vị: triệu đồng) NGUỒN VỐN Số tiền % so với ∑vốn vay (VCSH) % so với ∑nguồn vốn NỢ PHẢI TRẢ 199 018 994 100 94.011 Các khoản nợ Chính phủ và NHNN 11 617 062 5.837 5.488 Tiền gửi và vay các TCTD khác 6 428 687 3.230 3.037 Tiền gửi của khách hàng 143 421 145 72.065 67.748 Vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư, cho vay mà TCTD chịu rủi ro 18 511 260 9.301 8.744 Phát hành giấy tờ có giá 7 264 700 3.650 3.432 Các khoản nợ khác 11 776 140 5.917 5.563 VỐN CHỦ SỞ HỮU 12 678 952 100 5.989 Vốn và các quỹ 12 349 308 97.400 5.833 Lợi ích của cổ đông thiểu số 329 644 2.600 0.156 TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 211 697 946 Trong tổng nguồn vốn của BIDV, vốn nợ chiếm tới 94.011% trong khi đó, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 5.989% tổng nguồn vốn. Tiền gửi của khách hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn của BIDV ( chiếm 72.065% tổng vốn vay và 67.748% tổng nguồn vốn). Tỷ trọng của các nguồn khác là không đáng kể. Bảng 4: Cơ cấu vốn ngày 31/3/2009 của Sacombank ( đơn vị: triệu đồng) NGUỒN VỐN Số tiền % so với ∑vốn vay (VCSH) % so với ∑nguồn vốn NỢ PHẢI TRẢ 67,323,128 100 90.390 Các khỏan nợ Chính phủ và NHNN 52,509 0.078 0.071 Tiền gửi và tiền vay các TCTD khác 1,093,619 1.624 1.468 Tiền gửi của khách hàng 56,871,152 84.475 76.357 Các công cụ tài chính phái sinh và các khỏan nợ tài chính khác 145,492 0.216 0.195 Vốn tài trợ ủy thác đầu tư, cho vay TCTD chịu rủi ro 1,028,029 1.527 1.380 Phát hành giấy tờ có giá 5,923,924 8.780 7.954 Các khỏan nợ khác 2,208,403 3.280 2.965 VỐN CHỦ SỞ HỮU 7,157,285 100 9.610 Vốn điều lệ 5,115,831 71.477 6.869 Vốn đầu tư XDCB 795 0.011 0.001 Thặng dư vốn cổ phần 1,212,723 16.944 1.628 Cổ phiếu quỹ (*) (351,923) (4.917) (0.473) Vốn khác 153 0.002 0.000 Quỹ của TCTD 783,876 10.952 1.052 Chênh lệch tỷ giá hối đóai (11,605) (0.162) (0.016) Lợi nhuận chưa phân phối/ Lỗ lũy kế 407,434 5.693 0.547 TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN 74,480,413 Cơ cấu vốn của Sacombank cũng tương tự như của BIDV, với tỷ lệ vốn nợ là chủ yếu ( chiếm 90.39% trong tổng nguồn vốn), trong đó tiền gửi của khách hàng chiếm tới 76.357% cao hơn BIDV gần 10%. Tiền vay từ NHNN cũng như các tổ chức tín dụng khác là hơn 1% ( thấp hơn BIDV khoảng 7%). Các NHTM sẽ xây dựng những chiến lược phát triển riêng cho mình trong từng giai đọng để quản lý một cách có hiệu quả nhất và tránh tổn thất. Quản lý kỳ hạn Hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam thực hiện khá tốt hoạt động này. Cụ thể, trong tiền gửi tiết kiệm có tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn 1 tuần,1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 60 tháng… ( ví dụ trong bảng 2) đó là tiền gửi danh nghĩa. Nhiều người gửi tiết kiệm tại một ngân hàng với kỳ hạn danh nghĩa 6 tháng, song khoản tiền gửi đó có thể được duy trì nhiều lần 6 tháng ( các kỳ hạn 6 tháng nối tiếp nhau, người gửi không rút tiền ra khỏi ngân hàng) và trên thực tế trở thành khoản tiền gửi trung và dài hạn, đó là kỳ hạn thực. Nhìn chung, các NHTM rất linh hoạt trong quản lý kỳ hạn, nhằm tạo cho những người gửi tiền có được tiện ích phù hợp nhất với mục đích của họ và cũng để tăng khả năng huy động vốn, đặc biệt là tiền gửi trong xã hội. Quản lý tính thanh khoản của nguồn vốn Các NHTM hiện nay đặc biệt chú trọng tới nguồn tiền gửi khi phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn. Các NHTM luôn luôn phải xác định cung và cầu thanh khoản cũng như những nhân tố tác động tới cung – cầu thanh khoản. Ta đã biết nếy một ngân hàng dựa quá nhiều vào các nguồn quỹ vay mượn trên thị trường để giải quyết các nhu cầu thanh khoản có thể ohái đối mặt với những rủi ro thanh khoản rất lớn. Hoạt động quản lý tài sản nợ của mỗi ngân hàng còn phảo dựa vào danh tiếng của ngân hàng trên thị trường, chất lượng thị trường tiền tệ và tình trạng thanh khoản chung của hệ thống tài chính để quản lý thanh khoản. Điều đó đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải kết hợp lựa chọn thích hợp giữa phương pháp sử dụng các tài sản có tình lỏng cao nhằm dự trữ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với giải pháp tìm các nguồn thanh khoản trên thị trường. Ta có thể xem xét cơ cấu vốn vay và vốn chủ sở hữu của BIDV và Sacombank trong bảng 3 và bảng 4 ở trên. Hiện nay, các ngân hàng rất tập trung mở rộng và khai thác thị trường cá nhân ( thị trường bán lẻ), trong đó tiền gửi cá nhân là một trong những nguồn vốn chủ yếu chiến lược của các NHTM. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay, các ngân hàng cũng thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn nhằm tăng khả năng thanh khỏan cho mình. Diễn biến trên thị trường tiền tệ hết sức phức tạp, sức ép về lạm phát leo thang, cùng với đó là những điều chỉnh gia tăng về lãi suất huy động vốn, cạnh tranh thu hút tiền gửi và các chiến dịch khuyến mãi, mở rộng mạng lưới, phát triển dịch vụ ngân hàng. Đó là một sức ép không nhỏ lên hệ thống NHTM Việt Nam cũng như toàn bộ nền kính tế. Nguồn tiền gửi có quan hệ mật thiết tới hoạt động của các NHTM, là nguồn quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Do đó, các ngân hàng luôn luôn phải có những chiến lược nhằm huy động nguồn vốn này một cách triệt để nhất, tránh gây lãng phí cho toàn bộ nền kinh tế, cũng như phải thực hiện quản lý nguồn vốn quan trọng này sao cho thật hiệu quả. Đó vẫn là một câu hỏi lớn cho hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay. KẾT LUẬN Cùng với sự lớn mạnh của đất nước, hệ thống Ngân hàng nước ta cũng ngày càng phát triển và tự khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Thực tế vài năm qua cho thấy hệ thống NHTM Việt Nam đã thực hiện khá tốt chức năng trung gian tài chính của mình. Điều này có được là nhờ hoạt động tương đối hiệu quả của hệ thống NHTM trong việc thu hút các nguồn vốn nhà rỗi để đưa vào nền kinh tế, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Với việc nghiên cứu đề tài này, em đã có điều kiện tiếp cận sâu hơn đối với hoạt động huy động vốn của ngân hàng , mà trong phạm vi đề án đó mà huy động tiền gửi và các mô hình quản lý tiền gửi trong các NHTM. Qua tìm hiểu lý luận chung cũng như liên hệ với thực tiễn, em đã có được cái nhìn tổng quát hơn về bức tranh tài chính Việt Nam, đặc biệt là trong hệ thống NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với những thành công có được như đã nêu trên, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập trong khâu huy động và quản lý tiền gửi. Trước thềm hội nhập kinh tế thế giới, để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài, đưa nền kinh tế nước nhà bước lên một tầm cao mới thì hệ thống NHTM Việt Nam cần phải thực sự chuyển mình, phải nỗ lực hơn nữa mới có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại. Do phạm vi nghiên cứu còn hạn chế cũng như kiến thức của bản thân có hạn, em cũng chưa thể có được những nhận xét sâu sắc, những đánh giá thực sự sắc sảo về bức tranh huy động và quản lý tiền gửi của hệ thống NHTM. Em xin chân thành cảm ơn thầy đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này, em cũng rất mong sẽ tiếp tục nhận được sợ giúp đỡ của thầy trong những đề án tiếp theo. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCD266.doc
Tài liệu liên quan