Đề án Tìm hiểu bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam

Đây sẽ là cơ sở pháp lý để hướng dẫn và điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động kiểm toán một cách đầy đủ và đồng bộ, trong đó ngoài quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cần phải bao gồm cả những vấn đề: - Khẳng định Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính cao nhất của Nhà nước. - Ngân sách hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội quyết định. - Có quyền độc lập trong xây dựng và tổ chức kế hoạch kiểm toán, bao gồm cả quyền đình chỉ, gia hạn hoặc thay đổi kế hoạch kiểm toán. - Kiểm toán Nhà nước cần công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tìm hiểu bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ và là cơ quan kiểm tra nền tài chính công của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các việc kiểm toán đối với các cơ quan nhà nước các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi Ngân sách Nhà nước và các tổ chức đơn vị có quản lí, sử dụng công quỹ, tài sản quốc gia. 2. Vai trò, vị trí của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cơ quan mới ra đời trong công cuộc đổi mới của đất nước & tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia; là một cơ quan nằm trong cơ cấu tổ chức Nhà nước Việt Nam, là một công cụ mạnh của quản lí nhà nước, cung cấp những căn cứ thực tiễn để Nhà nước thực hiện việc quản lí vĩ mô nền kinh tế nói chung và quản lí Ngân sách Nhà nước, công quỹ quốc gia nói riêng. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam không có một tổ chức tiền thân, không có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức nhà nước, nhưng nó vẫn có chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước có tác động mạnh đến quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà lãnh đạo, các nhà quản lí, các chủ đầu tư, các nhà tài trợ… Mặc dù chúng ta có cả một hệ thống thanh tra, kiểm tra, kiểm soát từ Trung ương đến các địa phương và ngay cả trong nội bộ các cấp, các ngành, nhưng không có một cơ quan nào có chức năng, chuyên môn, tính hiệu lực và hiệu quả hoạt động như Kiểm toán Nhà nước. Trên một số mặt công tác nào đó thì hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước và hoạt động thanh tra có thể nói là rất gần nhau. Do vậy, thường gặp sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước với Thanh tra Nhà nước, nhất là thanh tra tài chính. Có thể nói ngay là thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng này, nguyên nhân chính là do có một số cơ quan thanh tra chỉ lấy nhiệm vụ thanh tra tài chính, ngân sách là chính, xem nhẹ và không thực hiện đầy đủ thanh tra trách nhiệm của người quản lí, hoặc ngược lại có những vụ việc cơ quan thanh tra đã tiến hành thanh tra các mặt hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có cả nội dung tài chính nhưng Kiểm toán Nhà nước vẫn tiến hành kiểm toán lại. 3. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam Quyết định số 61/TTg ngày 24-1-1995 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, về nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức và những vấn đề có liên quan khác khi mới thành lập Kiểm toán Nhà nước. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước tuy là một cơ quan mới nhưng chỉ trong thời gian ngắn đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, ổn định và kiện toàn bộ máy tổ chức, thực hiện tốt kế hoạch kiểm toán hàng năm. Nhằm hoàn thiện hơn nữa Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ - CP ngày 13/8/2003 có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định số 70/CP ngày 11-7-1994, đã quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Địa vị pháp lí của Kiểm toán Nhà nước đã ngày càng được nâng cao, hoàn thiện. II. Chức năng & nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam 1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước Nghị định số 70/CP ngày 11-7-1994 và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ khẳng định rằng: Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước các cấp, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lí, sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Cụ thể: Kiểm toán các báo cáo tài chính, ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân. Kiểm toán tổng quyết Ngân sách Nhà nước của Chính phủ trước khi trình Quốc hội. Kiểm toán báo cáo quyết toán của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí nhà nước. Kiểm toán báo cáo quyết toán các chương trình, dự án, các công trình đầu tư của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước… Theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. 2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước Theo quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05-11-2002, Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 1/4/2003 của Chính phủ, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ. Đồng thời, căn cứ Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13-8-2003, Kiểm toán Nhà nước có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: 2.1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm toán Nhà nước, chiến lược quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn 5 năm, hàng năm về Kiểm toán Nhà nước; tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sau khi được phê duyệt. 2.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kì báo cáo việc thực hiện chương trình, kế hoạch và kết quả kiểm toán lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng quản lí ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ. 2.3. Quản lí hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo quy định của nhà nước; giữ gìn bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật; cung cấp kết quả kiểm toán cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công khai báo cáo kết quả kiểm toán hàng năm theo quy định của pháp luật. 2.4. Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước. 2.5. Khi thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán, cơ quan Kiểm toán Nhà nước độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình . 2.6. Thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị với đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm, chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lí kinh tế, tài chính, chế độ kế toán; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan quản lí nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật cho phù hợp. Báo cáo và tư vấn cho Quốc hội, trực tiếp là Uỷ ban kinh tế và ngân sách những vấn đề liên quan đến việc ban hành các đạo luật thuộc lĩnh vực kinh tế và Ngân sách Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật có tính chuyên môn và hiệu lực tài chính. Báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, và các địa phương về thực trạng nguồn tài chính, tác động của nó cùng với các giải pháp đề ra. 2.7. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lí những vi phạm pháp luật của cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán. 2.8. Tham gia ý kiến với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc lập, quyết định và phân bổ Ngân sách Nhà nước hàng năm đảm bảo các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. 2.9. Quyết định các dự án đầu tư về Kiểm toán Nhà nước thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. … III. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam 1. Cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước được tổ chức, thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ và điều lệ tổ chức hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Mới đây, cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước được tăng cường, hoàn thiện thêm một bước theo Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ. Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ (hành pháp), là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước. Mô hình tổ chức của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam hiện nay Vụ giám định kiểm tra chất lượng kiểm toán Vụ tổ chức cán bộ Vụ pháp chế Văn phòng Kiểm toán NSNN I Kiểm toán NSNN II Kiểm toán các chương trình đặc biệt Kiểm toán đầu tư dự án I Kiểm toán đầu tư dự án II Kiểm toán DNNN Kiểm toán các tổ chức tài chính, ngân hàng KTNN các khu vực Trung tâm tin học Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ Tạp chí kiểm toán Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Tổng kiểm toán Chính phủ Bộ máy Kiểm toán Nhà nước Hiện nay Kiểm toán Nhà nước gồm 16 tổ chức giúp Tổng Kiểm toán thực hiện chức năng nhiệm vụ, và 3 tổ chức sự nghiệp thuộc Kiểm toán Nhà nước, có 11 Kiểm toán Nhà nước ở Trung ương, 5 Kiểm toán Nhà nước ở khu vực đóng trên địa bàn các địa phương với hơn 600 cán bộ, công chức, kiểm toán viên. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước có địa vị pháp lí cao, được tổ chức và quản lí tập trung thống nhất. Đứng đầu Kiểm toán Nhà nước là Tổng Kiểm toán, tiếp đó là các phó Tổng Kiểm toán. Tổng Kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Một là, lãnh đạo, quyết định và chịu trách nhiệm về công tác Kiểm toán Nhà nước, được tham dự các phiên họp của Chính phủ về xem xét, phân bổ quyết toán Ngân sách Nhà nước và về những vấn đề có liên quan đến hoạt động Kiểm toán Nhà nước. Hai là, chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản pháp quy do Kiểm toán Nhà nước soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển Kiểm toán Nhà nước sau khi được phê duyệt. Ba là, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các tổ chức đó. Bốn là, quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỉ cương, kỉ luật hành chính trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Kiểm toán Nhà nước. Năm là, thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Phó Tổng Kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng Kiểm toán, giúp việc cho Tổng Kiểm toán. Phó Tổng Kiểm toán được Tổng Kiểm toán phân công chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán về nhiệm vụ được phân công. Khi Tổng Kiểm toán vắng mặt, một Phó Tổng Kiểm toán được Tổng Kiểm toán uỷ nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán Nhà nước. Các bộ phận trong Kiểm toán Nhà nước được thành lập theo các quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước, đồng thời có quy định kèm theo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ phận này. Căn cứ vào các Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước ngày 1/3/2004, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận như sau: Vụ Tổ chức cán bộ Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 98/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ là: Thứ nhất, trong công tác tổ chức bộ máy, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề án, chuẩn bị các văn bản qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước cùng các bộ phận trình Tổng Kiểm toán Nhà nước để trình cấp có thẩm quyền ban hành… Thứ hai, trong công tác biên chế và tiền lương, Vụ Tổ chức cán bộ quản lí thống nhất biên chế cán bộ, công chức trong cơ cấu; tổ chức thực hiện công tác báo cáo thống kê về biên chế, tiền lương theo qui định của Nhà nước… Thứ ba, trong công tác quản lí nhân sự, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng kế hoạch tuyển dụng, bố trí, sử dụng, thôi việc và giải quyết chính sách đối với nhân sự; xây dựng các qui định về quản lí và phân cấp trách nhiệm quản lí nhân sự phù hợp với qui định của Nhà nước… Thứ tư, trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Vụ Tổ chức cán bộ xây dựng và tổng hợp quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phê duyệt; phối hợp với Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán bộ thực hiện nhiệm vụ; thực hiện công tác thống kê, tổng hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng; chủ trì lập và phân bổ kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp. Thứ năm, Vụ Tổ chức cán bộ kiểm tra đối với công tác tổ chức cán bộ và đào tạo; phối hợp với Ban Bảo vệ chính trị nội bộ trong việc giúp Ban cán sự Đảng Kiểm toán Nhà nước xây dựng… Thứ sáu, Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện các nhiệm vụ về công tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật, tuyên truyền, nghiên cứu khoa học và một số nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền. 2) Văn phòng Kiểm toán Nhà nước Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng Kiểm toán Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 99/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng là: Thứ nhất, trong công tác tổng hợp, hành chính, Văn phòng xây dựng chương trình kế hoạch công tác, theo dõi tình hình thực hiện các mặt công tác của Kiểm toán Nhà nước; sắp xếp, bố trí chương trình làm việc của Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước; tham mưu cho Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước trong việc quản lí, điều hành trong nội bộ Kiểm toán Nhà nước… Thứ hai, trong công tác hợp tác quốc tế, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước các đề án hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế; quản lí thống nhất các vấn đề về hợp tác quốc tế của ngành; đầu mối tiếp xúc với khách nước ngoài đến làm việc với cơ quan, quản lí thống nhất mọi mặt đoàn ra, đoàn vào. Thứ ba, trong công tác thi đua, thông tin tuyên truyền, Văn phòng nghiên cứu trình Tổng Kiểm toán Nhà nước phương án, hình thức khen thưởng đối với cán bộ; quản lí thống nhất công tác thi đua, khen thưởng trong của Kiểm toán Nhà nước… Thứ tư, trong công tác tài chính - kế toán, quản trị, Văn phòng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng, trình Chính phủ dự toán ngân sách hàng năm của Kiểm toán Nhà nước; quản lí tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, chế độ kế toán… Thứ năm, Văn phòng còn thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao. 3) Vụ giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Giám định và kiểm tra chất lượng kiểm toán hiện nay được quy định trong Quyết định số 100/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ này là: Thứ nhất, trong công tác lập kế hoạch kiểm toán, quản lí hoạt động kiểm toán, tổng hợp và lập báo cáo kết quả kiểm toán, Vụ Giám định giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước tổng hợp và xây dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm của Kiểm toán Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ, từ đó tham mưu cho Tổng Kiểm toán Nhà nước phân giao kế hoạch kiểm toán cho các đơn vị kiểm toán; quản lí, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán, từ đó đề ra phương án điều chỉnh việc thực hiện kế hoạch kiểm toán… Thứ hai, trong công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, Vụ Giám định kiểm tra các đơn vị kiểm toán, đoàn kiểm toán, kiểm toán viên trong việc chấp hành quy chế tổ chức và hoạt động, việc quản lí hồ sơ, tài liệu kiểm toán; thẩm định báo cáo kết quả kiểm toán của các đơn vị kiểm toán và tham mưu cho Tổng Kiểm toán Nhà nước thành lập Hội đồng kiểm toán… Thứ ba, trong công tác thanh tra, kiểm tra các công tác của Kiểm toán Nhà nước, Vụ Giám định kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị, cá nhân thuộc Kiểm toán Nhà nước; tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật được làm rõ. Thứ tư, Vụ Giám định còn thực hiện một số nhiệm vụ và quyền hạn khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền; định kỳ hoặc đột xuất báo cáo kết quả công tác cho Tổng Kiểm toán Nhà nước. Vụ Pháp chế Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Pháp chế hiện nay được quy định trong Quyết định số 101/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ này là: Thứ nhất, trong công tác xây dựng pháp luật, Vụ Pháp chế trình Tổng Kiểm toán Nhà nước chương trình xây dựng pháp luật của Kiểm toán Nhà nước và tổ chức thực hiện kế hoạch; chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước, làm đầu mối trong việc lấy ý kiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật do Kiểm toán Nhà nước được giao chủ trì soạn thảo; làm đầu mối tổ chức việc xây dựng… Thứ hai, Vụ Pháp chế tổ chức thực hiện công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động Kiểm toán Nhà nước, đề xuất phương án xử lý kết quả rà soát; chủ trì và phối hợp với các đơn vị liên quan đề xuất việc đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị kiểm toán ban hành trái với các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm toán nhà nước. Thứ ba, Vụ pháp chế trực tiếp hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của Kiểm toán Nhà nước; tuyên truyền pháp luật về kiểm toán nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành có liên quan để phục vụ cho công tác của Kiểm toán Nhà nước, xây dựng tài liệu hỏi đáp pháp luật về tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Thứ tư, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp luật, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật và đề xuất giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước và tham gia ý kiến về việc xử lý các vi phạm pháp luật, các biện pháp khắc phục; tư vấn pháp luật về kiểm toán nhà nước. Thứ năm, báo các kết quả công tác và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác do Tổng Kiểm toán Nhà nước giao và uỷ quyền. 5) Kiểm toán Ngân sách Nhà nước I và II Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 102/QĐ-KTNN và 103/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của các Vụ này là: Thứ nhất, kiểm toán các báo cáo quyết toán ngân sách của các đối tượng kiểm toán nhà nước; xây dựng, tổ chức thực hiện, báo cáo thực hiện kế hoạch kiểm toán; tổng hợp kết quả kiểm toán thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách, trên cơ sơ đó phối hợp, góp ý kiến với nhau về kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước. Thứ hai, có những quyền căn bản của cơ quan kiểm toán khi thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán. Thứ ba, thông qua hoạt động kiểm toán, kiến nghị với đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm, chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lí kinh tế, tài chính; đề nghị Tổng Kiểm toán Nhà nước kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cơ quan nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách và pháp luật cho phù hợp; chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý những vi phạm; Thứ tư, chủ trì soạn thảo quy trình và phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán đối với lĩnh vực được phân công; tham mưu hoặc được uỷ quyền ký văn bản trả lời về vấn đề có liên quan đến công tác kiểm toán do đơn vị thực hiện. 6) Kiểm toán Đầu tư - Dự án I và II Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Đầu tư - Dự án hiện nay được quy định trong Quyết định số 104/QĐ-KTNN và 105/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của các Vụ này là: Thứ nhất, kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán vốn đầu tư của các công trình dự án đầu tư xây dựng cơ bản; xây dựng, tổ chức thực hiện, báo cáo thực hiện kế hoạch kiểm toán; tổng hợp kết quả kiểm toán thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách, trên cơ sơ đó phối hợp, góp ý kiến với nhau về kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước. Thứ hai, các Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay được quy định trong Quyết định số 106/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ này là: Thứ nhất, kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán. Thứ hai, Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. Kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Các tổ chức tài chính - ngân hàng hiện nay được quy định trong Quyết định số 107/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ này là: Thứ nhất, kiểm toán các báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo tài chính của các tổ chức tài chính - ngân hàng, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán. Thứ hai, Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. 9) Kiểm toán Chương trình đặc biệt Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Kiểm toán Chương trình đặc biệt hiện nay được quy định trong Quyết định số 108/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ này là: Thứ nhất, kiểm toán các báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước, báo cáo tài chính của các cơ quan đơn vị, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt, kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong quản lí, sử dụng vốn của Nhà nước và tài sản công của các đối tượng kiểm toán. Thứ hai, Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. 10)Các Kiểm toán Nhà nước khu vực I, II, III, IV và V Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực hiện nay được quy định trong các Quyết định số 109/QĐ-KTNN, 110/QĐ-KTNN, 111/QĐ-KTNN, 112/QĐ-KTNN và 113/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của các Vụ này là: Thứ nhất, tổ chức thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên địa bàn khu vực theo sự phân công của Tổng Kiểm toán Nhà nước về các mặt kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách, báo cáo tài chính các cấp và của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng ngân sách của địa phương, của các Doanh nghiệp nhà nước có vốn của địa phương, của các chương trình, dự án đầu tư trên địa bàn; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lí, sử dụng ngân sách và tài sản công trong khu vực… Thứ hai, các Vụ này cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định giống như các Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. Phạm vi địa bàn được phân công của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực được quy định tại Quyết định số 114/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó phạm vi địa bàn của các Vụ Kiểm toán Nhà nước khu vực là: Một là, Kiểm toán Nhà nước khu vực I có trụ sở tại Thành phố Hà Nội, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía Bắc. Hai là, Kiểm toán Nhà nước khu vực II có trụ sở tại Thành phố Vinh, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố miền Trung. Ba là, Kiểm toán Nhà nước khu vực III có trụ sở tại Thành phố Đà Nẵng, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Bốn là, Kiểm toán Nhà nước khu vực IV có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc Đông Nam Bộ. Năm là, Kiểm toán Nhà nước khu vực V có trụ sở tại Thành phố Cần Thơ, kiểm toán trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc Tây Nam Bộ. Hiện nay, Kiểm toán Nhà nước đang tiến hành xây dựng và chuẩn bị bổ sung thêm một số kiểm toán Nhà nước khu vực, dự kiến là đến giữa năm 2007 sẽ đặt Kiểm toán Nhà nước khu vực 6 tại Việt Trì ( Phú Thọ) kiểm toán trên địa bàn các tỉnh phía Tây Bắc…Và trong tương lai Kiểm toán Nhà nước sẽ có mặt ở tất cả các khu vực trên cả nước ( 10 Kiểm toán Nhà nước khu vực ). 11)Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 115/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan này là: Thứ nhất, trong công tác quản lí và tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, Trung tâm xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học của toàn ngành; nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm toán và các ngành khoa học có liên quan đến kiểm toán, tham gia xây dựng quy trình, chuẩn mực kiểm toán; nghiên cứu việc ứng dụng các thành tựu khoa học kiểm toán trong nước và trên thế giới; thu nhận, xử lý thông tin chọn lọc phục vụ cho nghiên cứu khoa học, quản lí, chỉ đạo và thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán trong từng giai đoạn; thu nhận, xử lý thông tin khoa học, thư viện, kho tư liệu khoa học kiểm toán; chủ trì soạn thảo các văn bản về quản lí khoa học… Thứ hai, xây dựng kế hoạch và thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; biên soạn tài liệu, tổ chức bồi dưỡng thi tuyển, nâng ngạch theo quy định; phối hợp với Văn phòng và Vụ Tổ chức cán bộ, hợp tác quốc tế về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Thứ ba, thực hiện các thử nghiệm cần thiết cho công tác nghiên cứu khoa học, mở rộng cung cấp các dịch vụ tư vấn kế toán, kiểm toán; sử dụng kinh phí được cấp hợp lí, theo chế độ. 12)Trung tâm Tin học Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Tin học hiện nay được quy định trong Quyết định số 116/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan này là: Thứ nhất, quản lí thống nhất các hoạt động công nghệ thông tin và tuyên truyền của Kiểm toán Nhà nước; nghiên cứu triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lí và chuyên môn của Kiểm toán Nhà nước. Thứ hai, phối hợp với Trung tâm Khoa học tổ chức đào tạo và bồi dưỡng kiến thức tin học cần thiết; chỉ đạo chuyên môn tin học đối với các trạm công nghệ thông tin tại các đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước; tổ chức, quản lí và tham gia thực hiện các đề án, dự án tin học trong Kiểm toán Nhà nước… 13)Tạp chí Kiểm toán Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tạp chí Kiểm toán hiện nay được quy định trong Quyết định số 117/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán, theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan này là: Thứ nhất, thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về những lĩnh vực liên quan đến Kiểm toán Nhà nước;là diễn đàn khoa học, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn, lý luận nghiệp vụ chuyên môn và các hoạt động khác liên quan đến Kiểm toán Nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị của Kiểm toán Nhà nước. Thứ hai, tổ chức phát hành Tạp chí Kiểm toán theo quy định cùng các ấn phẩm tài liệu phục vụ công tác kiểm toán theo quy định. Thứ ba, phối hợp với các đơn vị thuộc Kiểm toán Nhà nước và các kênh thông tin liên lạc khác trong việc thực hiện nhiệm vụ; nghiên cứu các chuyên đề, các đề tài khoa học, đề án phục vụ công tác của Tạp chí và nhiệm vụ công tác của Kiểm toán Nhà nước… Các Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà nước khu vực có Kiểm toán trưởng, Phó Kiểm toán trưởng, cơ cấu tổ chức không quá 5 phòng. Các Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng) và các Phó Kiểm toán trưởng (Phó Vụ trưởng) do Tổng Kiểm toán bổ nhiệm, miễn nhiệm. 1.4. Hội đồng kiểm toán Được thành lập khi cần thiết để tư vấn cho Tổng Kiểm toán thẩm định các báo cáo kiểm toán quan trọng, phức tạp, hoặc tái thẩm định các báo cáo kiểm toán bị khiếu nại. Việc thành lập, thành viên và quy chế làm việc của Hội đồng kiểm toán do Tổng Kiểm toán quyết định. Khi kết thúc vụ, việc thẩm định, Tổng Kiểm toán giải thể Hội đồng kiểm toán. 2. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Ngay từ khi mới thành lập, Kiểm toán Nhà nước đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy, tuyển dụng và đào tạo cán bộ, kiểm toán viên; từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lí cho hoạt động kiểm toán, thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao và các nhiệm Vụ Kiểm toán khác do Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu. Sau gần hơn năm thành lập, Kiểm toán Nhà nước đã đạt được những kết quả và thành tựu bước đầu rất cơ bản; đã tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước trên 10.000 tỷ đồng, trong đó tăng thu từ thuế và thu khác trên 3.000 tỷ đồng, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước trên 1.000 tỷ đồng, quản lí qua Ngân sách Nhà nước trên 1.000 tỷ đồng. Kiểm toán Ngân sách Nhà nước Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán lần thứ hai báo cáo quyết toán ngân sách trên địa bàn 61 tỉnh thành, 26 Bộ, ngành, cơ quan thuộc Ngân sách Nhà nước, 14 quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục & một số doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an & Kinh tế Đảng. Kết quả kiểm toán đã tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước 2.681 tỷ đồng. 2.2. Kiểm toán chương trình đầu tư xây dựng cơ bản Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán báo cáo quyết toán 14 công trình trọng điểm & quốc gia, 6 chương trình mục tiêu của Chính phủ & nhiều công trình xây dựng cơ bản của địa phương. Kết quả kiểm toán đã thu hồi, giảm cấp phát cho Ngân sách Nhà nước 161 tỷ đồng. 2.3. Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước Kiểm toán Nhà nước đã kiểm toán báo cáo tài chính của 17 Tổng công ty 91, 30 Tổng công ty 90, một số doanh nghiệp hạng đặc biệt. Kết quả kiểm toán đã tăng thu thêm về thuế và thu khác cho Ngân sách Nhà nước 975 tỷ đồng. 2.4. Phát triển lĩnh vực kiểm toán Trước hết, Kiểm toán Nhà nước đã nghiên cứu, soạn thảo và ban hành được các chuẩn mực kiểm toán, quy trình kiểm toán chủ yếu và các quy chế hoạt động kiểm toán trên cơ sở vận dụng có chọn lọc các thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và sát hợp với thực tiễn Việt Nam. Đây là căn cứ pháp lý và nghiệp vụ quan trọng để bước đầu thực hành kiểm toán một cách có bài bản, có chất lượng và là cơ sở để kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán cũng như đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Thứ hai, Kiểm toán Nhà nước đã thiết lập và không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các cơ quan Kiểm toán Nhà nước các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như các quan hệ hợp tác trong khuôn khổ tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán Tối cao (INTOSAI), tổ chức các cơ quan Kiểm toán Tối cao Châu á (ASOSAI) và các tổ chức quốc tế khác. Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là thành viên thứ 174 của INTOSAI từ năm 1996 và là thành viên của ASOSAI năm 1997. Đến nay, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp tác ở các hình thức và mức độ khác nhau với cơ quan Kiểm toán Nhà nước của hơn 20 nước trên thế giới. Thúc đẩy quá trình cải cách hành chính Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện các nội dung kiểm toán trong các cơ quan hành chính như sau: Thứ nhất, Kiểm toán Nhà nước đã kiểm tra thường xuyên, liên tục việc chấp hành luật báo cáo chế độ chính sách trong quá trình quản lí và chấp hành thu chi Ngân sách Nhà nước. Thứ hai, Kiểm toán Nhà nước đã tham gia tích cực và có hiệu quả cao trong việc đấu tranh chống lãng phí, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tham nhũng, góp phần làm trong sạch bộ máy hành chính nhà nước. Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành cắt giảm các khoản chi tiêu không đúng nội dung, vượt định mức của các cơ quan hành chính công, thu hồi các khoản chi không đúng chế độ quy nộp Ngân sách Nhà nước. Thứ tư, Kiểm toán Nhà nước đã xuất toán các khoản chi trả tiền lương không đúng chế độ, tác động tích cức đến công tác tổ chức nhân sự của các cơ quan hành chính nhà nước. IV. Tác động của việc áp dụng Luật Kiểm toán Nhà nước trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước 1. Triển khai đồng bộ sớm đưa Luật vào thực tiễn Trong giai đoạn đầu mới thành lập, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước được quy định trong Nghị định số 70 ngày 11-7-1994 của Chính phủ. Mặc dù vậy, sau một quá trình hoạt động nảy sinh một số vấn đề liên quan đến tổ chức cũng như hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Và để giải quyết một số vấn đề nảy sinh đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13-8-2003 giúp cho cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước được tăng cường. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khác như: tính độc lập trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, khung pháp lý cho hoạt động của mình chưa rõ ràng…dẫn đến Kiểm toán Nhà nước chưa phát huy được hết khả năng của mình trong công tác kiểm toán. Luật Kiểm toán Nhà nước được Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 7 năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 đánh dấu một bước phát triển mới của Kiểm toán Nhà nước trong điều kiện hội nhập và phát triển ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Luật ra đời thể hiện quyết tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong việc lập lại kỷ cương quản lý tài chính ngân sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,lãng phí nguồn lực công. Luật Kiểm toán Nhà nước khẳng định rõ địa vị pháp lý tương xứng của Kiểm toán Nhà nước: “ Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là qui định có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định chức năng, nhiệm vụ cũng như các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Ngoài chức năng nhiệm vụ hiện hành, Luật còn quy định một số điểm mới, đó là: Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ trình bày ý kiến của mình để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước, tham gia với uỷ ban kinh tế và Ngân sách của Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra về báo cáo dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ bố trí ngân sách cho các dự án, công trình quốc gia quan trong do Quốc hội quyết định… Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp kết quả kiểm toán phục vụ công tác quản lý, điều hành tài chính - ngân sách của các cơ quan quản lý nhà nước và Chính phủ; cung cấp thông tin phục vụ việc giám sát của Quốc hội, đồng thời Kiểm toán Nhà nước cung cấp thông tin giúp Hội đồng Nhân dân trong việc quyết định và giám sát thực hiện ngân sách địa phương. Các quy định về tổ chức và hoạt động trong Luật Kiểm toán Nhà nước phù hợp với tiến trình phát triển Kiểm toán Nhà nước nói riêng và tiến trình hội nhập, phát triển kinh tế của quốc gia nói chung. Các quy định trong Luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế về Kiểm toán Nhà nước. Để biến các quy định trong Luật thành hiện thực, đưa các điều luật đi vào cuộc sống thực tiễn thì việc triển khai thực hiện luật có ý nghĩa hết sức quan trọng. Quá trình triển khai thực hiện Luật phải quán triệt mục đích hoạt động của Kiểm toán Nhà nước được quy định tại điều 3 Luật Kiểm toán Nhà nước: “ Hoạt động Kiểm toán Nhà nước phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu của sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước”. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, nhiều hiện tượng tiêu cực, lãng phí tiền của Nhà nước và nhân dân đang trở thành quốc nạn thì việc triển khai thực hiện Luật Kiểm toán Nhà nước nhằm xây dựng Kiểm toán nhà nước trở thành công cụ mạnh của Nhà nước để cùng với các cơ quan kiểm tra, kiểm soát khác góp phần quan trọng vào mặt trận chống tham nhũng, tiêu cực là có ý nghĩa quan trọng. Luật Kiểm toán Nhà nước là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật về kinh tế-tài chính của nước ta, có vị trí trung tâm trong hệ thống các quy định về kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế, là công cụ pháp lý để kiểm tra, kiểm soát các nguồn lực tài chính công, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao vị trí, vai trò, hiệu lực pháp lý và chất lượng kiểm toán Nhà nước như một công cụ mạnh của Nhà nước. Do vậy, việc triển khai, thi hành Luật Kiểm toán Nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn và mang tính quyết định. Trong số các vấn đề trên, có những công việc phải tiến hành khẩn trương, có những công việc phải đòi có sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, sự phối hợp của các cấp, các nghành, song trước hết nhiệm vụ trước hết thuộc về Kiểm toán nhà nước. Cơ quan này phải tự đổi mới mạnh mẽ, nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả công tác đảm bảo ngang tầm với vị thế mới, góp phần làm minh bạch và lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội vì mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 2. Sự thay đổi về cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, căn cứ vào Luật Kiểm toán Nhà nước, ngày 15 tháng 09 năm 2005, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 916/2005/NQ-UBTVQH11 quy định về cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Thông qua Nghị quyết này, bộ máy tổ chức của Kiểm toán Nhà nước sẽ có một số thay đổi phù hợp với điều kiện mới.( Sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006). Theo Nghị quyết, bộ máy tổ chức của Kiểm toán Nhà nước sẽ có nhiều thay đổi phù hợp với điều kiện mới. Với việc có thêm Vụ quan hệ quốc tế sẽ giúp cho Kiểm toán Nhà nước tạo dựng được mối quan hệ tốt hơn với các cơ quan Kiểm toán Nhà nước khác trên thế giới, còn Vụ tổng hợp sẽ giúp cho Tổng Kiểm toán có được cái nhìn tổng quát nhất về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước từ đó có những điều chỉnh phù hợp với tình hình cụ thể. Ngoài ra, việc ra đời của các đơn vị kiểm toán chuyên nghành từ I đến VII thay thế các đơn vị trước kia sẽ làm cho bộ máy Kiểm toán Nhà nước bớt cồng kềnh hơn và hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn ( Nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của từng đơn vị cụ thể do Tổng Kiểm toán quy định ). Và trong đơn vị này có các phòng chức năng riêng để thực hiện công tác kiểm toán. Cùng với việc ra đời của các bộ phận đó thì bộ máy Kiểm toán Nhà nước cũng đã không còn một số bộ phận cũ như: Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nước, Kiểm toán đầu dự án I, II, Kiểm toán Ngân sách Nhà nước I,II, Kiểm toán chương trình đặc biệt…điều này cũng là phù hợp với chủ trương của toàn xã hội ngày nay đó là tinh giảm biên chế và quan trọng hơn sự thay đổi đó sẽ làm cho sự vận hành của bộ máy tốt hơn và hiệu quả hơn. Với những sự điều chỉnh đó Quốc hội, Chính phủ đều hy vọng rằng trong một tương lai không xa hoạt động của Kiểm toán Nhà nước sẽ đáp ứng được đòi hỏi của xã hội ngày nay, giúp cho nền kinh tế của đất nước ngày càng đi lên. Phần III: một số kiến nghị với hoạt động của kiểm toán Nhà nước I. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước 1. Về mặt cơ sở pháp lý Thứ nhất, nền tảng pháp lí cho tổ chức & hoạt động của Kiểm toán Nhà nước chưa ngang tầm với chức năng, chưa đầy đủ, chưa có tính ổn định, chức năng, quyền hạn của kiểm toán còn nhiều hạn chế chưa phù hợp với tính chất đặc biệt của hoạt động Kiểm toán Nhà nước. Thứ hai, phạm vi và nội dung của hoạt động kiểm toán báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước bị hạn chế. Vấn đề tham gia lập dự toán Ngân sách Nhà nước chưa được đề cập đến trong các văn bản quy phạm pháp luật. 2. Về địa vị pháp lí Chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Trước hết, hiện nay Kiểm toán Nhà nước mới chỉ là một cơ quan thuộc Chính phủ; chức năng mới chỉ giới hạn trong kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ; hiệu lực thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán còn hạn chế. Thứ hai, Kiểm toán Nhà nước vẫn chưa có vai trò và địa vị pháp lí tương xứng, cần thiết để đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động kiểm tra, kiểm toán việc thu chi Ngân sách Nhà nước. Thứ ba, việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng Kiểm toán không đảm bảo được tính độc lập, đồng thời chưa ngang tầm với tầm quan trọng của cơ quan có tính chất đặc biệt này. 3. Quy định về tổ chức & hoạt động: Thứ nhất, nảy sinh tình trạng chồng chéo và không rõ ràng về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ giữa kiểm toán Trung ương và kiểm toán khu vực, giữa Vụ Kiểm toán Ngân sách Nhà nước và các đơn vị khác trong cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Thứ hai, chưa có các quy định về kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động của các tổ chức, các đơn vị; giá trị pháp lí của báo cáo kiểm toán, vấn đề công khai kết quả kiểm toán… chưa được quy định đã làm hạn chế vai trò và tác dụng vốn có của Kiểm toán Nhà nước. 4. Về tổ chức nội bộ Kiểm toán Nhà nước Thứ nhất, quy mô và năng lực của đội ngũ kiểm toán viên còn rất bất cập so với yêu cầu công việc, chức năng và nhiệm vụ được giao, nhất là kinh nghiệm, trình độ phân tích tổng hợp dự toán, báo cáo. Chỉ có hơn 600 cán bộ, kiểm toán viên so với quy mô dân số trên 80 triệu người, so với khu vực và trên thế giới còn quá khiêm tốn (Trung Quốc có trên 80.000 kiểm toán viên, ấn Độ có trên 6000, Malaisia 3.500, Thái Lan 2300…). Thứ hai, hầu như các Vụ vẫn chỉ trông chờ vào sự chỉ đạo của lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước, chưa chủ động sáng tạo trong việc tham mưu triển khai thực hiện khi đã có chủ trương, giải pháp của Tổng Kiểm toán. 5. Về hệ thống tổ chức của bộ máy Bộ máy Kiểm toán Nhà nước còn chưa hoàn chỉnh, nhất là các đơn vị chức năng của Trung ương, Kiểm toán Nhà nước ở các khu vực còn rất thiếu (chỉ có 5 kiểm toán khu vực/ 64 tỉnh thành phố). 6. Về xu hướng hợp tác hoá Mức độ hội nhập của Kiểm toán Nhà nước với khu vực & thế giới còn rất hạn chiếm các hình thức hội nhập còn ở trình độ thấp, chưa đủ điều kiện và khả năng để tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động của INTOSAI và ASOSAI. 7. Kết quả hoạt động còn hạn chế Thứ nhất, những kết quả của kiểm toán nói chung chưa ngang tầm với chức năng và nhiệm vụ. Hiện tại, mặc dù Kiểm toán Nhà nước mới chỉ thực hiện một phần thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế, chưa có tính thuyết phục đối với các cơ quan, tổ chức được kiểm toán và quần chúng nhân dân. Thứ hai, hàng năm Kiểm toán Nhà nước mới chỉ kiểm toán được khoảng 1/3 số đơn vị sử dụng Ngân sách Nhà nước. Kiểm toán theo cách thức “cổ điển”: Một đoàn kiểm toán với số lượng từ 20 đến 30 kiểm toán viên, kiểm tra trong thời gian từ 3-4 tháng, thậm chí 5 tháng đối với một tỉnh hoặc một Bộ, kiểm toán theo kiểu kiểm tra từ xã lên huyện, tỉnh theo kiểu cuốn chiếu, kiểm tra chi tiết từng chứng từ… thì không thể thực hiện được nhiệm vụ chiến lược đề ra. II. Một vài kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động, tính hiệu quả trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam 1. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước cần được quy định trong Hiến pháp Đây được coi là giải pháp có ý nghĩa tiền đề và điều kiện cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Đứng trước đòi hỏi về sự phát triển của Kiểm toán Nhà nước trong thời kỳ mới thì với những văn bản pháp lý hiện hành, địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước chưa được xác định đúng đắn và ngang tầm với nhiệm vụ và vai trò của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong bộ máy Nhà nước. Với chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất nhưng Kiểm toán Nhà nước vẫn chưa có hành lang pháp lý rõ ràng để hoạt động nên hiệu lực và hiệu quả hoạt động kiểm toán còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần bổ sung vào Hiến pháp một số điều, khoản quy định rõ ràng địa vị của cơ quan Kiểm toán Nhà nước, khẳng định Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Việt Nam. Đồng thời quy định các nhiệm vụ cơ bản của Kiểm toán Nhà nước đó là: giúp Quốc hội trong phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước, giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc lập và quyết định dự toán Ngân sách Nhà nước, giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng cơ bản, trợ giúp Quốc hội trong việc ban hành, sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính, ngân sách. Chức danh Tổng Kiểm toán, nhiệm vụ và quền hạn của Tổng Kiểm toán cũng cần được quy định trong hiến pháp để đảm bảo tính độc lập cho Tổng Kiểm toán khi thực thi trách nhiệm của mình, tránh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị. Mặt khác, việc quy định những điều, khoản về Kiểm toán Nhà nước trong Hiến pháp là nhằm phù hợp với hiến chương của INTOSAI và thông lệ của các nước trên thế giới. Điều này có thể thấy rõ trong Hiến pháp của nhiều nước: Hiến pháp nước CHND Trung Hoa Điều 91: Quốc vụ viện lập một cơ quan Kiểm toán Nhà nước để kiểm toán và kiểm tra các khoản thu, chi của các cơ quan thuộc quốc vụ viện, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức tài chính và tiền tệ của nhà nước, các cơ quan xí nghiệp Dưới sự chỉ đạo của thủ tướng, cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm toán và giám sát một cách độc lập theo các văn bản quy phạm pháp luật, không có sự can thiệp của các tổ chức hay cá nhân nào. 2. áp dụng Luật Kiểm toán Nhà nước một cách linh hoạt Đây sẽ là cơ sở pháp lý để hướng dẫn và điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động kiểm toán một cách đầy đủ và đồng bộ, trong đó ngoài quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cần phải bao gồm cả những vấn đề: - Khẳng định Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính cao nhất của Nhà nước. - Ngân sách hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước do Quốc hội quyết định. - Có quyền độc lập trong xây dựng và tổ chức kế hoạch kiểm toán, bao gồm cả quyền đình chỉ, gia hạn hoặc thay đổi kế hoạch kiểm toán. - Kiểm toán Nhà nước cần công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật. 3. Xây dựng đội ngũ kiểm toán viên Nhà nước đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp trong sáng Trước mắt phải tiến hành sát hạch cho các Kiểm toán viên. Kiểm toán viên nào vượt qua đợt sát hạch sẽ cấp chứng chỉ Kiểm toán viên, chứng chỉ này chỉ nên có giá trị trong 5 năm, hết thời hạn Kiểm toán viên tiếp tục được sát hạch lại. Trên cơ sở đó tiến hành phân loại, đánh giá đội ngũ Kiểm toán viên nhằm xây dựng và tổ chức kế hoạch đào tạo dài hạn, hàng năm. Về mặt số lượng, với mục tiêu tối thiểu đến năm 2006 biên chế toàn ngành là 700 người, năm 2010 khi thành lập đủ 10 Kiểm toán Nhà nước khu vực là 1200 người đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyển chọn cán bộ mới. Muốn vậy phải tăng cường năng lực cho cho trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ, đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất phục vụ công tác đào tạo. 4. Đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hiện đại hoá Kiểm toán Nhà nước Trước hết, phải thấy rằng tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước mang tính chất đặc thù, không giống với các cơ quan hành chính khác: số lượng nhân viên mỗi Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành và khu vực (tổ chức tương đương cấp vụ) là rất lớn so với các vụ ở các bộ, ngành khác; Kiểm toán viên thường xuyên phải đi công tác xa cơ quan trên phạm vi cả nước. Tại hầu hết các nước trên thế giới, chi phí cho hoạt động của Kiểm toán viên được xếp vào vào chi nghiệp vụ nhưng tại Việt Nam định mức sử dụng kinh phí về ô tô, điện thoại, công tác phí, chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trang bị máy tính xách tay... của Kiểm toán Nhà nước vẫn chỉ được tính toán và cấp phát như ở các ngành khác. Vì vậy, hàng năm kinh phí không đủ chi, làm hạn chế hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Để khắc phục, cần xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu cho phù hợp với đặc thù ngành kiểm toán, đề nghị với nhà nước có chế độ ưu tiên thích đáng trong việc xây dựng trụ sở, trang thiết bị làm việc, hạ tầng công nghệ thông tin... Đồng thời, đề nghị Chính phủ cho trích một tỷ lệ % thích hợp theo kết quả kiểm toán hàng năm để bổ sung kinh phí hoạt động, mua sắm tài sản cố định và khuyến khích vật chất cho cán bộ, Kiểm toán viên (theo đề nghị của Bộ Tài chính là 2% trên tổng thu hồi cho Ngân sách Nhà nước nhưng hiện vẫn chưa được giải quyết) 5. Xây dựng chiến lược hội nhập và hợp tác quốc tế Tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ, hợp tác quốc tế đã có; mở rộng, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ, các hình thức hợp tác song phương và đa phương với hai tổ chức INTOSAI, ASOSAI và với cơ quan Kiểm toán Nhà nước các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện lộ trình hội nhập: giai đoạn 2001 - 2005 sẽ chuẩn bị các tiền đề cơ bản cho hội nhập và hợp tác quốc tế; giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn hội nhập tích cực và phấn đấu đến năm 2020 Kiểm toán Nhà nước Việt Nam có thể hoàn toàn hội nhập với các nước trên thế giới. Kết luận Là một cơ quan mới thành lập, Kiểm toán Nhà nước phần nào đã xứng đáng với vị trí là cơ quan có quyền kiểm toán tối cao, với chức năng, chuyên môn, tính hiệu lực và hiệu quả cao. Tuy nhiên, Kiểm toán Nhà nước cần phải được tổ chức, xây dựng để kiện toàn hơn nữa bộ máy cơ cấu, đảm bảo thực hiện đúng, đủ mọi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước được quy định theo pháp luật. Địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước càng cao thì trọng trách đặt lên vai cơ quan này càng lớn. Vì vậy, đòi hỏi nâng cao hơn nữa địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước luôn phải đi đôi với sự lớn mạnh và phát triển không ngừng của tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan. Trong thực tế đặc biệt hiện nay, về thực trạng nền kinh tế trong nước, về mức độ phát triển của Việt Nam so với thế giới, và đặc biệt là so sánh tương quan giữa mục tiêu phát triển Đất nước và thực tế nấc thang phát triển của mình thì nhất thiết phải củng cố, tăng cường hoạt động kiểm toán, cụ thể là Kiểm toán Nhà nước. Để công cuộc cải cách hành chính của nước ta được thành công bước đầu thì phải có sự tham gia tích cực của Kiểm toán Nhà nước ở mọi nơi, mọi lúc. Hoà cùng xu hướng trên của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam nói riêng, của Kiểm toán Nhà nước trên thế giới nói chung, em xin mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến đối với tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Với mong muốn khắc phục tối đa những hạn chế trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nói riêng, của nền kinh tế đất nước nói chung, nâng dần vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28141.doc
Tài liệu liên quan