MỤC LỤC
Lời mở đầu:
Chương I . Tổng quan về thị trường chứng khoán:
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển . 2
1.2. Bản chất và chức năng . 4
1.2.1. Bản chất . 4
1.2.2. Chức năng của thị trường chứng khoán. 4
1.3 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. 5
1.3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn 5
1.3.2. Nhà đầu tư 6
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 6
1.3.4 .Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán7
1.4.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán. 8
1.4.2. Nguyên tắc đấu giỏ 9
1.4.3. Nguyên tắc cụng khai của thị trường chứng khoán. 10
1.5.2. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK có ba loại: 12
1.6.1. Cổ phiếu . 12
1.6.2. Trái phiếu 13
1.6.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư 14
1.6.5. Các chứng khoán phát sinh . 14
Chương II: Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 16
2.2.Những thuận lợi và khú khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam 26
2.2.1.Thuận lợi 26
2.2.2 Khó khăn 27
2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi gia nhập WTO 27
2.4. Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam . 28
Kết luận
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2164 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tìm hiểu thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu:
Xã hội loài người không ngừng tiến bộ, nằm trong xu thế đó nền kinh tế cũng phát triển không ngừng. Từ đó dẫn tới việc tăng nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Để đảm bảo được nhu cầu về vốn ngày càng tăng cho sự phát triển của kinh tế dẫn tới việc hình thành và phát triển nhiều loại hình kinh doanh mới, nhiều dịch vụ mới và nhiều loại thị trường mới. Ví dụ như thị trường liên ngân hàng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối … Các thị trường này đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp vốn cho nền kinh tế phát triển. Trong các thị trường thì chúng ta không thể không nhắc đến thị trường chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán đã chứng minh được vai trò của loại thị trường này. Đặc biệt trong một nền kinh tế thị trường hiện đại như hiện nay, với những ưu điểm của mình thì vai trò thị trường chứng khoán ngày càng trở nên quan trọng hơn. Thị trường chứng khoán đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả nhất của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Dù thị trường chứng khoán của chúng ta ra đời chậm và gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu hoạt động. Nhưng trong quá trình phát triển đã dần khắc phục được những khó khăn, nhược điểm, bước đầu hoạt có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế.
Nhận thấy được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế . Em làm đề án này với đề tài “Thị trường chứng khoán Việt Nam" với mục đích tìm hiểu về thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, nêu ra những thuận lợi, khó khăn, phương án giải quyết khó khăn cũng như phương hướng phát triển. Để có thêm những kiến thức về thị trường chứng khoán và có thể giúp những người chưa tìm hiểu về thị trường chứng khoán hiểu hơn về loại thị trường này .
Chương I . Tổng quan về thị trường chứng khoán:
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển .
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ 1 nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi buôn bán các vật phẩm hàng hóa … lúc đầu chỉ là 1 nhóm nhỏ sau đó tăng dần và hình thành 1 khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “ thị trường “ với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia thị trường.
Phiên họp đầu tiên của thị trường chứng khoán diễn ra vào năm 1453 tại một quảng trường gần ngôi nhà của một nhà buôn môi giới mang tên Vander Burse tại thành phố Bruges của nước Bỉ. Tuy nhiên đến năm 1547 thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh bởi vì eo biển Evin, cửa biển nơi dãn các con tàu thuyền vào buôn bán ở thị trấn này đã bị cát biển lấp mất. Mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ B), tại đây thị trường phát triển rất nhanh và đến giữa thế kỷ VXI một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London, sau này gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch chứng khoán khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức, Hà Lan, Bắc Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng . Cho đến năm 1921 tại Mỹ. khu chợ ngoài trời mới được chuyển vào trong nhà, sở giao dịch chứng khoán chính thức thành lập .
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, các phương thức giao dịch tại các sở giao dịch cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Các sở giao dịch dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử.
Lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán các nước trên thế giới trải qua 1 sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống. Vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó, nhưng rồi đến ngày thứ năm đen tối ( 29-11-1929), thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản đã khủng hoảng. Mãi cho tới khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc các thị trường mới dần và phát triển mạnh và cho tới năm 1987, một lần nữa các thị trường chứng khoán trên thế giới điên đảo với “ ngày thứ Hai đen tối “ do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, giá chứng khoán giảm mạnh, gây mất lòng tin và phản ứng dây chuyền gây hậu quả còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Gần đây nhất, thị trường chứng khoán ở các nước và lãnh thổ Đông á, Nga và một số thị trường ở Châu Mỹ cũng rơi vào vòng xoáy khủng hoảng tài chính tiền tệ, giảm lòng tin và có tính chất lây lan, tạo ra sự suy giảm ghê gớm của chỉ số giá chứng khoán .
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy giai đoạn đầu thị trường phát triển tự phát với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Dần dần mới có sự tham gia của công chúng đầu tư. Khi phát triển đến một mức độ nhất định thì thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập các cơ quan quản lý nhà nước và hình thành hệ thống pháp lý để điều chỉnh hoạt động của thị trường. Kinh nghiệm cho thấy rằng, phần lớn các thị trường sau khi thành lập muốn đi vào hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững thì cần phải có sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt về hàng hóa, luật pháp, con người, bộ máy quản lý …
Cho đến nay thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường và đặc biệt là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân .
1.2. Bản chất và chức năng .
1.2.1. Bản chất .
Xét về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diển ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì:
-Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà ngưới sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh .
-Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp: cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường 1 cách trực tiếp. Ngược lại với tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính, những người có vốn khi đủ điều kiện về môi trường, pháp lý … sẽ trực tiếp đầu tư sản xuất kinh doanh không cần thông qua các các trung gian tài chính .
1.2.2. Chức năng của thị trường chứng khoán .
Chức năng thứ nhất: Huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường CK, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế.
Chức năng thứ hai: thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán c) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan.
Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động.
Chức năng thứ tư: đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơI đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công ngệ mới.
Chức năng thứ năm: tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính vĩ mô
Chính phủ có thẻ mua bán trái phiếu chính phủ đẻ toạ ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoàI ra chính có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư.
1.3 . Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán .
Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm: nhà phát hành, nhà đầu và các tổ chức có liên quan.
1.3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
1.3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các nhà đầu tư các nhân
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho mình.
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
1.3.4 .Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996.
Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức SGDCK:
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của sgdck tự tổ chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng khoán để điều tra xử lý.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán.
1.4.1. Nguyên tắc trung gian của mua bán chứng khoán.
Thị trường chứng khoán hoặt động không phải trực tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện, mà do các trung gan môi giới gọi là kinh kỹ thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoặt động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ được lợi ích của người tiết kiệm và đầu tư (người mua chứng khoán). Vì những người tiết kiệm và đầu tư không thể xét đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán, và cũng không có thể cự đoán được một cách chính xác giá trị tương lai của nó. Do đó, nếu không có những nhà môi giới có những sự phân tích cần thiết dựa trên những yếu tố xác đáng để có những nhận xét kỹ lưỡng thì người mua chứng khoán có thể bị lầm lẫn hoặc bị lừa gạt.
Xét về tính chất kinh doanh, kinh kỹ có hai loại: môi giới chứng khoán và chuyên gia chứng khoán .
Môi giới chứng khoán: Là loại kinh kỹ chỉ được thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng.
Thương gia chứng khoán: Còn gọi là kinh doanh chứng khoán, là loại kinh kỹ thực hiện mua và bán cho chính mình, hưởng lời từ các loại nghiệp vụ đó.
Người môi giới và thương gia chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán là những người đại diện cho các công ty môi giới chứng khoán. Nói chung các cong ty môi giới chứng khoán đều đồng thời thực hiện hai loại nghiệp vụ: vừa là người môi giới vừa là người kinh doanh.
1.4.2. Nguyên tắc đấu giá
Mọi mua bán trên thị trường trường chứng khoán đều được thực hiện theo nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Căn cứ vào hình thức đấu giác, có các loại đấu giá:
Đấu giá trực tiếp: là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới chứng khoán trực tiếp gặp nhau thông qua người trung gian tại quầy giao dịch để thương lượng giá
Đấu giá gián tiếp: hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau mà việc thương lượng được thực hiện qua hệ thống điện thoại và mạng vi tính .
Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống mạng máy tính nối giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống của các công ty chứng khoán thành viên .
1.4.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành số lượng chứng khoán và giá cả từng loại chứng khoán (giá rao bán, giao mua, giá kết thúc của phiên giao dịch và giá cả trước đó) đều được thông báo thông qua thị trường và báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng chứng khoán được mua bán và giá cả đã thống nhất được lập tức thông báo ngay. Đó là nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán, người mua chứng khoán dễ dàng chọn lựa loại chứng khoán theo ý thích của mình.
1.5 . Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trường chứng khoán
1.5.1. Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường, TTCK có hai loạI: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành - bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư.
Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Nhà phát hành là người huy động vốn trên thị trường sơ cấp, gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và các tổ chức tài chính.
Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân, tổ chức đầu tư. Tuy nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức và kinh nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho nhà phát hành thực hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và nhận từ nhà phát hành một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch vụ này.
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua bán các loạI chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là thị trường thứ cấp là nơi làm cho các chứng khoán trở nên ‘lỏng’ hơn. Thị trường thứ cấp là nơi xác định giá của mỗi loại chứng khoán mà công ty phát hành chứng khoán bán ở thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng khoán này.
C«ng ty chøng kho¸n
HÖ thèng ®¨ng ký, thanh to¸n, bï trõ vµ lu ký chøng kho¸n
Nhµ ®Çu t
Nhµ ®Çu t cã tæ chøc
Nhµ ®Çu t c¸c nh©n
ThÞ trêng thø cÊp
SGDCK
OTC
ThÞ trêng thø ba
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai bánh xe của một chiếc xe.thị trương sơ cấp là bánh động lực còn thị trường thứ cấp là bánh cân bằng.Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tạI, trong đó thịtrường sơ cấp là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực.
1.5.2. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK có ba loại:
Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
1.6. Các loại chứng khoán .
1.6.1. Cổ phiếu .
Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính:
-Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi.
-Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ phiếu thường. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường.
1.6.2. Trái phiếu
Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn.
Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành).
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng chuyển.
- Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại sau:
+Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố định theo định kỳ.
+Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ.
+Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩan - mệnh giá trái phiếu và giá mua).
- Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm.
1.6.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Theo ngôn ngữ thông thường, một khối lượng tiền do nhiều người góp lại vì mục đích nào đó gọi là một quỹ. Quỹ đầu tư chứng khoán cũng vậy nó là quỹ được hình thành từ vốn góp của người đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm:
-Người đầu tư không trực tiếp đầu tư vào chứng khoán mà chỉ đầu tư vào quỹ bằng cách mua cổ phần hay chứng chỉ
-Người đầu tư sẽ được hưởng lợi từ kết quả đầu tư của quỹ, theo số lượng cổ phần hay chứng chỉ quỹ mĩnh nắm giữ.
1.6.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi .
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi lấy 1 chứng khoán khác .
1.6.5. Các chứng khoán phát sinh .
Quyền mua cổ phần: là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của 1 công ty cổ phần được mau 1 số lượng cổ phần nhất trong 1 đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty.
Chứng quyền: là 1 loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua 1 số lượng xác định một loại chứng khoán xác định với 1 mức giá xác định và trong 1 khoảng thời gian nhất định .
Hợp đồng kỳ hạn: hợp đồng kỳ hạn là 1 thoả thuận trong đó người mua và người bán chấp nhận thực hiện 1 giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại 1 thời điểm xác định trong tương lai và 1 mức giá xác định được ấn định trong ngày hôm nay .
Hợp đồng tương lai: đòi hỏi 1 bên sẽ mua hoặc bán hàng hoá tại 1 thời hạn xác định trong tương lai theo 1 mức giá đã định trước .
Quyền lựa chọn: là 1 hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (quyền chọn mua) hoặc bán (quyền chọn bán) 1 khối lượng nhất định, 1 hàng hoá nhất định tại 1 mức giá xác định và trong 1 thời hạn nhất định .
Trên đây là nhừng lý thuyết cơ bản về về thị trường chứng khoán nói chung . ở phần sau chúng ta sẽ tìm hiểu về thị trường chứng khoán Việt Nam .
Chương II: Thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Ngày 20/07/2000 trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt nam, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới bên cạnh hệ thống nhân hàng. Tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn nhưng đây là bước thí điểm, tập dược quan trọng để các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức quốc gia thị trường và công chúng đầu tư làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, điều đó tạo nên tiền đề vững chắc cho sự phát triển lành mạnh và ổn định của thị trường chứng khoán Việt nam.
Để có thể có cái nhìn khái quát về lịch sử phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, em xin chia ra thành các giai đoạn phát triển để phân tích và nhận xét (do số liệu không đầy đủ nên em chỉ có thể phân tích 1 số giai đoạn d)
Từ ngày giao dịch đầu tiên 28/07/2000 - 28/10/2000.
Về hàng hoá: Tính đến ngày 28/10/2000 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán có 7 loại chứng khoán được niêm yết.Tổng giá trị của 4 công ty niêm yết đạt đến 302, 80 tỷ đồng trong đó: Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) 150 tỷ đồng, công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn thông (SACOM) 120 tỷ đồng, công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) 10, 8 tỷ đồng, công ty cổ phần giao nhận ngoại thương (TMS) 22 tỷ đồng. Về trái phiếu: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ niêm yết 1.100 tỷ đồng bao gồm 3 loại:
Loại đấu thầu đợt một (CP1-0100) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm.
Loại đấu thầu đợt hai (CP1-0200) 300 tỷ đồng lãi suất 6,6%/năm.
Đợt một bảo lãnh phát hành (C P1A0100) 500 tỷ đồng lãi suất 6,6% năm.
Tất cả các loại trái phiếu trên đều có kỳ hạn 5 năm.
Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Giá chứng khoán bị đẩy giá tăng cao liên tục trong từng phiên giao dịch, số lượng cổ phiếu đã giao dịch sau 33 phiên là 1.459.600 cổ phiếu của cả 4 công ty niêm yết và tổng giá trị giao dịch là 28.898, 91 triệu đồng. Chỉ số vn-index tăng 28.27 điểm trong đó giá cả của các loại cổ phiếu điển hình biến động trong thời gian qua như sau: Với 5 loại cổ phiếu là REE, SAM, HAP, TMS, LAF.
Bảng 1
So sánh mức giá cổ phiếu
giá đóng cửa ngày 27/04/2000 so với giá tham chiếu
Loại cổ phiếu
Giá tham chiếu
Giá đóng cửa ngày 27/10/2000
Tỷ lệ tăng (%)
Mức giá (đ)
Ngày
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
16.000
17.000
16.000
14.000
17.000
28/07/2000
28/07/2000
04/08/2000
04/08/2000
15/08/2000
19.100
22.800
25.000
19.500
20.500
19,4
34,1
56.25
16
20
Qua bảng số liệu trên nhận thấy giá cả của tất cả 5 loại cổ phiếu đều tăng hướng tốt phản ánh đúng cung cầu thị trường và tâm lý người đầu tư. Nguyên nhân là do khái niệm đầu tư chứng khoán còn rất mới mới mẻ với chúng ta, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán còn hạn chế, người đầu tư tìm cách mua cổ phiếu bằng mọi giá họ chỉ muốn nhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán còn những người nắm giữ cổ phiếu lại chưa muốn bán vì chờ diễn biến thị trường.
Nhận xét: Thời kỳ này hoạt động giao dịch cổ phiếu nói chung ổn định giá cả chứng khoán được quản lý trong phạm vi cho phép. Tình hình nhu cầu chứng khoán vượt cung cho thấy dấu hiệu tốt về khả năng thu hút đầu tư trên thị trường chứng khoán. Các công ty lựa chọn niêm yết, hoạt động kinh doanh tốt và có lãi cổ phiếu được trả cổ tức cao hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên hàng hoá trên thị trường còn quá ít chưa đáp ứng được nhu cầu mua bán trên thị trường.
Từ ngày 28/10/2000 - 28/04/2001.
Tính đến ngày 28/04/2001 Trung tâm Giao dịch chứng khoán -Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 80 phiên giao dịch đưa tổng số phiên giao dịch lên 113 phiên với tổnh giá trị giao dịch là 338, 03 tỷ đồng. Có thêm hai loại chứng khoán được niêm yết đưa tổng số chứng khoán niêm yết lên 9 loại trong đó có 5 cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hoá. Và trong thời kỳ này có thêm hai công công ty tham gia niêm yết đó l à: Công Tổng công ty giao nhận kho vận ngoại thương Sài Gòn -Transimex và công Tổng công ty chế biến nông sản xuất khẩu Long An - Lafooco, với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết 321, 17 tỷ đồng. Trái phiếu phát hành thông qua đấu thầu tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán kỳ hạn 5 năm, lãi suất 6,5%; 6,6% với khối lượng là 1.100 tỷ đồng, đợt một đưa vào niêm yết 83, 07 tỷ đồng, đợt hai đưa vào niêm yết 75 tỷ đồng.
Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Trong 113 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 9.053.300 cổ phiếu tăng so với thời kỳ trước 520,26% với giá trị cổ phiếu giao dịch 327, 225 tỷ đồng chiếm 96,8%.
Nhìn chung tất cả các loại cổ phiếu đều tăng giá rất nhanh so với giá tham chiếu, mức giá tăng cao nhất là của HAP với mức giá đạt 87.000 đồng /cổ phiếu tương đương mức tăng 444% và giá cổ phiếu tăng ít nhất là của LAF đạt 40.600 đồng /cổ phiếu tương mức tăng 139%. Nguyên nhân của sự tăng giá này do: cung chứng khoán thấp hơn cầu chứng khoán, cách thức phát hành cổ phiếu khi cổ phần hoá còn bát cập, việc định giá cổ phiếu quá thấp so với thực tế, một số các công Tổng công ty niêm yết trả cổ tức quá cao không chú trọng đến việc tích luỹ, tái đầu tư mở rộng sản suất, đã làm cho các nhà đầu tư đổ sô vào mua cổ phiếu với kỳ vọng nhận được cổ tức cao mà bất chấp những nguy cơ tiềm ẩn phía trước.
Hoạt động giao dịch trên thị trường trái phiếu: Tính đến tháng 4/2001 khối lưọng trái phiếu giao dịch tăng thêm 107.600 trái phiếu đạt 107.990 nâng giá trị giao dịch lên 10, 818 tỷ đồng chiếm 3,2% tổng giá trị giao dịch. Vào phiên thứ 105 giá trị trái phiếu khoảng 5, 2 tỷ đồng và vào phiên thứ 115 với giá trị 1 tỷ đồng.
Nhận xét: trong thời kỳ này tình hình biến động chứng khoán (cổ phiếu) khá sâu sắc tăng cả về giá cả và số lượng cổ phiếu giao dịch. Điểm nổi bật trong thời kỳ này là giá của hầu hết các loại cổ phiếu tăng rất nhanh mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do yếu tố tâm lý và tình trạng cung chứng khoán nhỏ hơn cầu chứng khoán. Trong khi đó giá trái phiếu lại không có xu hướng biến động tốt mà giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường có tăng nhưng mức tăng còn quá thấp do trái phiếu Chính phủ chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư.
Từ ngày 28/04/2000 - 28/07/2001.
Hàng hoá trên thị trường: tính đến ngày 28/07/2001 Thị trường Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thêm được 38 phiên giao dịch so với thời kỳ trước nâng tổng số phiên giao dịch lên 151 phiên với 14, 2 triệu cổ phiếu và trên 500 trái phiếu đạt tổng giá trị giao dịch là 727 tỷ đồng. Đến thời điểm này có 5 loại trái phiếu chính phủ và hai loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch trên thị trường. Đã thực hiện được 8 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thông qua thị trường giao dịch chứng khoán, trong đó đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu tổng giá trị trái phiếu chính phủ trúng thầu là: 805 tỷ thời hạn lãi suất từ 6,5%/năm đến 7,3%/năm. Có 5 đợt đấu thầu không thành công vì lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo. Bên cạnh đó Kho bạc Nhà nước đã phát hành 2 đợt trái phiếu chính phủ theo hình thức bảo lãnh phát hành với tổng giá trị 700 tỷ đồng. Như vậy đến thời điểm này đã có 1500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán. Nhìn chung giá cả trái phiếu ít có sự biến động đáng kể, xu hướng giá trái phiếu đi vào ổn định.
Hoạt động giao dịch cổ phiếu: Tại thời điểm này trên thị trường có 6 công Tổng công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu đăng ký niêm yết là 33, 8 triệu cổ phiếu đạt giá trị là 338 tỷ đồng. Trong 151 phiên giao dịch với giá trị thị trường được giao dịch 14.2 triệu cổ phiếu, tổng giá trị giao dịch là 654, 3 tỷ đồng chiếm 90%. Thị trường có xu hướng tăng giá. Các loại cổ phiếu tăng từ 4 đến 7 lần so với phiên giao dịch đầu tiên. Chỉ số Việt nam index tăng cao là 571 điểm, giá trị thị trường của 5 loại cổ phiếu đạt 2.301 tỷ đồng. Sự biến động giá cả của 5 loại cổ phiếu REE, SAM, HAP, TMS, LAF được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2:
So sánh mức tăng giá cổ phiếu
(Giá đóng cửa G)
Loại cổ phiếu
Giá ngày 27/4/2001 (đ)
Giá ngày 01/7/2001 (đ)
Tỷ lệ tăng
(%)
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
48.600
47.000
87.000
75.000
40.600
82.500
64.500
109.000
115.000
82.000
70,75
32,23
25,29
52,32
101,97
Nhận xét: Trên bảng 3 cho thấy giá cả của 5 loại cổ phiếu đều tăng trong thời kỳ này, tuy nhiên mức độ tăng khác nhau của từng loại cổ phiếu.
Giá ngày 01/07/2001 so với giá ngày 27/04/2001 mức tăng giá của cổ phiếu LAP là cao nhất với mức giá 82.000 đồng /cổ phiếu đạt mức tăng 101,97%, mức tăng giá của cổ phiếu HAP là thấp nhất với mức giá 109.000 dồng /cổ phiếu đạt mức tăng 25,29%. Trong thời kỳ này mức tăng của các loại cổ phiếu khá cao, nguyên nhân vẫn do thiếu hàng hoá trên thị trường dẫn tới tình trạng cầu lớn hơn cung làm cho giá cổ phiếu tăng lên nhanh chóng. Trong thời kỳ này giá cả trái phiếu ít có sự biến động so với thời kỳ trước nhìn chung giá cả có xu hướng đi vào ổn định.
Sự biến động của thị trường chứng khoán trong tháng 8/2001.
Về hàng hoá trên thị trường: Trong tháng 8, về khối lượng giao dịch chứng khoán trên thị trường, tổng khối lượng giao dịch là 2.114.890, trong đó cổ phiếu là 2.103.200 chiếm 99.4%, trái phiếu là 11.690, chiếm gần 0.5% tổng khối lượng giao dịch trên thị trường. Tháng 8 là tháng có số lượng trái phiếu giao dịch ít nhất từ trước tới nay, về giá trị chứng khoán giao dịch trên thị trường tổng giá trị giao dịch là 107, 44 tỷ đồng, giá trị cổ phiếu thực hiện trong giao dịch đạt 106, 3 tỷ đồng và giá trị trái phiếu là 1, 1 tỷ đồng. Cũng trong tháng 8 thị trường trái phiếu có thêm hai mặt hàng mới là CP1A0101 và CP10401, nâng tổng số trái phiếu giao dịch trên thị trường lên 9 loại, với tổng giá trị niêm yết là 1.626, 838 tỷ đồng.
Hoạt động giao dịch cổ phiếu trên thị trường: Thực trạng diễn biến của thị trường chứng khoán trong tháng 8 có thể đấu thầu chi tiết như sau: trong tổng số 14 phiên giao dịch, chỉ duy nhất có một phiên thứ 156 ngày 8/8là giá 5 loại cổ phiếu tăng kịch trần còn lại hầu như tất cả các phiên giá đều giảm. Và sự biến động nay được thể hiện rõ trong bảng 3 dư?i dõy
Bảng 3:
So sánh mức tăng giá cổ phiếu
(Giá đóng cửa)
Loại cổ phiếu
Giá ngày 01/7/2001 (đ)
Giá ngày 24/8/2001 (đ)
Tỷ lệ tăng
(%)
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
82.500
64.500
109.000
115.000
82.000
45.300
42.300
90.000
55.500
42.800
- 45,09
- 34,42
- 17,43
- 51,74
- 47,81
Qua bảng 4 cho thấy giá cổ phiếu giảm mạnh nhất là TMS, giảm 59.500 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 51,74% (tính từ phiên giao dịch ngày 01/07/2001 đến ngày 24/08/2001); tiếp theo đến giá cổ phiếu LAF giảm 39.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 47,81%; cổ phiếu REE giảm 37.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 45,09%; cổ phiếu SAM giảm 22.200 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 34,42%; và cổ phiếu giảm ít nhất là HAP 19.000 đồng /cổ phiếu tương đương mức giảm 17,43%.
Sự biến động trên thị trường trái phiếu: Các loại trái phiếu mới chưa có giao dịch nên cũng chưa hình thành giá hiện thời. Các giao dịch chủ yếu tập trung vào 2 loại BID1 -100 và BID1 -200 của Ngân hành Đầu tư và Phát triển Việt nam. Trong đó, riêng BID1 -100 có 8.750 trái phiếu được giao dịch chiếm 74,85% tổng khối lượng trái phiếu giao dịch trong tháng. Nhìn chung giá các loại trái phiếu có tăng nhẹ.
Nhận xét: trong thời kỳ này giá của 5 loại cổ phiếu trên đều giảm giá nhìn chung do những nguyên nhân cơ bản sau đây: do trong một thời gian dài giá chứng khoán đã tăng liên tục và cao hơn nhiều so với giá trị thực của nó; nguyên nhân trực tiếp, đó là trong thời gian qua một số tổ chức cầm cố chứng khoán hiện nay ồ ạt bán ra một lượng lớn cổ phiếu đang cầm cố làm tăng đột biến lượng chứng khoán bán ra trên thị trường và đã tác động đến giá chứng khoán theo quy luật cung cầu; Còn có một nguyên nhân khác là do yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư khi đón nhận xu hướng chứng khoán sẽ giảm giá do đó làm tăng thêm độ sụt giảm của giá cổ phiếu trên thị trường khi họ chủ động bán tháo cổ phiếu hòng tránh tổn thất. Giá cả cổ phiếu trong thời kỳ này giảm rất mạnh, xu hướng biến động này ảnh hưởng không xấu đến thị trường chứng khoán trong tương lai do đó Nhà nước cần phải có biện pháp can thiệp để khắc phục hiện tượng này.
Từ đầu tháng 9/2001 - 02/2002.
Sau sự biến động sụt giảm giá của các loại cổ phiếu trong tháng 8/2001, cho đến tháng 10/2001 thị trường chứng khoán Việt nam đã có những chuyển hướng tích cực: giá của 6 loại cổ phiếu trên thị trường đều tăng trở lại qua từng phiên giao dịch sau một thời gian dài sụt giảm. Từ phiên giao dịch thứ 182 ngày 10/10/2001 biên độ giao dịch chứng khoán thu hẹp từ ± 7% trở về ± 2%. Cũng trong tháng 10 này thị trường xuất hiện thêm chủng loại hàng hoá. Đó là cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần Đồ hộp Hạ long (công Tổng công ty CANFOCO với mã hiệu giao dịch cổ phiêú CAN) và hai chủng loại trái phiếu Chính phủ mới là CP1 - 0701 và CP1 - 0801. Sau một thời gian dài thay đổi thị trường chứng khoán trong trạng thái trầm lắng và mặc dù từng bước phục hồi trở lại từ những phiên giao dịch vaò trung tuần tháng 10 nhưng chỉ ở mức cầm chừng. Trong tháng 10 tổng khối lượng chứng khoán được thực hiện giao dịch đạt 2.475.880 chứng khoán tăng 38,5% so với tháng 9, tương đương 688.000 chứng khoán và tổng giá trị giao dịch là 87, 3 tỷ đồng tăng 13% tương đương 10, 6 tỷ đồng.
Trong tháng 11/2001 thị trường chứng khoán Việt nam xuất hiện thêm hai loại cổ phiếu mới được cấp giấy phép niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần nhựa Đà Nẵng (mã chứng khoán là DPC) chính thức được giao dịch vào phieen thứ 203 ngày 28/11 và cổ phiếu của công Tổng công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà và sẽ được giao dịch vào tháng 12/2001. Sự xuất hiện của hai loại cổ phiếu cung cấp cho thị trường thêm 7, 18 triệu chứng khoán, trị giá 71, 8 tỷ đồng. Trên thị trường đã có 9 loại cổ phiếu được niêm yết. Tổng khối lượng chứng khoán giao dịch trêntt là 1.279.630 chứng khoán trong đó: cổ phiếu 1.227.300, trái phiếu 52.330. Thời kỳ này trên thị trường có thêm 3 loại trái phiếu Chính phủ: CP1 - 0901; CP1A0201; CP1 - 1001, nâng chủng loại hàng hoá trên thị trường hiện nay lên 24 loại bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu, nhìn chung không có sự biến động lớn về giá cả trái phiếu trên thị trường.
Sự biến động giá cả và số lượng cổ phiếu trên thị trường trong tháng 1 và 2/2002 nhìn chung không có sự biến động lớn và dưới đây là giá của 4 loại cổ phiếu biến động so với thời kỳ trước như sau:
Bảng 4:
So sánh mức tăng giá cổ phiếu
(Giá đóng cửa)
Loại cổ phiếu
Giá ngày 24/8/2001 (đ)
Giá ngày 28/2/2002 (đ)
Tỷ lệ tăng
(%)
REE
SAM
HAP
TMS
LAF
45.300
42.300
90.000
55.500
42.800
85.600
63.400
112.000
124.000
85.000
88,96
49,88
24,44
123,42
98,6
Nhận xét: Trong thời kỳ này có sự chuyển biến đáng lưu ý là trên thị trường giao dịch chứng khoán đã xuất hiên sự tăng giá trở lại của 5 loại cổ phiếu sau một thời gian dài đồng loạt sụt giá. Nguyên nhân của sự tăng giá này là do sự xuất hiện của nhiều nhà đầu tư nước ngoài làm tăng lượng cầu cho hàng hoá dẫn đến sự tăng giá trở lại nhanh chóng .... Chủng loại hàng hoá trên thị trường cũng đa dạng so với ngày đầu khai trương nhưng số lượng vẫn còn hạn chế, thời kỳ này giá chứng khoán trên thị trường có xu hướng tăng dự báo một thị trường chứng khoán Việt nam phát triển hơn nữa trong tương lai.
Thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn gần đây:
Trong khoản thời gian gần đây thị trường chứng khoán đã có những thời điểm ở trạng thái “ cực nóng “. Trong tháng 4, tháng 5 – 2006 chỉ số vn -index liên tục tăng và đã đạt mức cao nhất tính từ khi thị trường đi vào hoạt động cho đến thời điểm đó. Tuy nhiên kỷ lục này đã nhanh chóng bị phá vỡ, phiên ngày 27-11-2006 tại thời điểm lúc mở cửa thị trường đã đạt 687, 72 điểm, số điểm kỷ lục từ trước tới nay. Tình trạng sốt nóng của thị trường trong phiên giao dịch 23-11-2006 thậm chí còn khiến cho giới chuyên môn lo ngại, cổ phiếu SJS thậm chí đạt mức tăng 15.000 đồng /cổ phiếu, đây là mức tăng chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam .
Trong những tháng cuối năm 2006 có thêm nhiều công ty tham gia niêm yết cũng như nhiều công ty chứng khoán mới được thành lập . Lý do là họ tranh thủ những điều kiện thuận lợi trước khi có những thay đổi về luật chứng khoán vào đầu năm 2007 . Tính đến thời điểm hiện tại ngày 27-11-2006 uỷ ban chứng khoán nhà nước đã chấp nhận về mặt nguyên tắc cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán lên đến 18 doanh nghiệp. Có thể kể đến 1 số cái tên như: Công ty chứng khoán Việt Tín, công ty chứng khoán Thủ Đô, công ty chứng khoán ngân hàng Sea Bank … Bên cạnh 21 công ty chứng khoán đã được cấp phép chính thức (công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, c«ng ty cæ phÇn chøng kho¸n Sài Gòn, công ty cổ phần chứng khoá hạn chứng khoán Thăng Long … ) . Số doanh nghiệp nộp hồ sơ xin niêm yết cũng tăng trong những tháng cuối năm 2006, hiện tại số doanh nghiệp đã niêm yết trên sàn thành phố Hồ Chí Minh là 54 doanh nghiệp (công ty cổ phần xuất nhập khẩu An Giangc, công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà, công ty cổ phần bông Bạch Tuyết, công ty cổ phần bao bì Bỉm Sơn …) , trong khi đó con số này tại sàn giao dịch Hà Nội là 19. Những con số này sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới .
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến chỉ số vn -index tăng trong thời gian gần đây sau 1 giai đoạn đi xuống là do sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Điều này tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư, thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài từ đó có những tác động tích cực đến thị trường .
2.2.Những thuận lợi và khó khăn của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1.Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đnag phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543, 5 tỷ USD.
Hơn nữa chúng ta còn nhận được sự giúp đỡ về nhiều mặt của các nước đi trước có nhiều kinh nghiệm về phát triển thị trường như Nhật Bản, Thái Lan … cũng như có thể học được nhiều bài học từ những thành công cũng như thất bại của họ . Một thuận lợi nữa là chúng ta vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO . Điều kiện này giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển cả về lượng và chất .
2.2.2 Khó khăn
Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Cơ sở vật chất của chúng ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi của 1 thị trường chứng khoán hiện đại .
2.3. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Sau khi gia nhập WTO thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có những điều kiện hết sức thuận lợi để có thể phát triển một cách toàn diện, bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức đòi hỏi chúng ta phải vượt qua. Để vượt qua được những thử thách đó chúng ta cần có sự chuẩn bị thật tốt về mọi mặt từ bây giờ, cần phải đưa ra được kế hoạch phát triển trong giai đoạn tới. Ngày 23-11-2006 uỷ ban chứng khoán nhà nước đã công bố chính sách phát triển công ty chứng khoán giai đoạn 2006-2010. Mục tiêu của bản kế hoạch này nâng cao quy mô và năng lực của các công ty chứng khoán, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường chứng khoán, áp dụng thông lệ tốt nhất về quản trị công ty đối với công ty chứng khoán, mở cửa thị trường tài chính theo lộ trình đã cam kết. Sau khi gia nhập WTO thị trường chứng khoán Việt Nam nhận được nhiều sự quan tâm từ các cá nhân và tổ chức nước ngoài, đây là cơ hội mà chúng ta cần phải nắm bắt để có thể đẩy nhanh tiến trình phát triển của thị trường chứng khoán nước nhà .
2.4. Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam .
Trước hết chúng ta cần xây dựng hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán đầy đủ và hoàn chỉnh. Đây là điều kiện để thị trường chứng khoán Việt Nam có thể phát triển một cách bền vững và lâu dài. Để thực hiện được việc này chúng ta cần phải học hỏi từ những nước đi trước và có thể thuê những chuyên gia nước ngoài để giúp chúng ta xây dựng hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và hợp lý .
Chúng ta cần phải nâng cao năng lực, quy mô của các công ty chứng khoán để có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Tiến hành huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ các nhân viên, cán bộ chứng khoán. Từng bước nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho thị trường. Vì phần lớn hệ thống máy móc, cơ sở của chúng ta còn lạc hậu và chưa đáp ứng được những yêu cầu của 1 thị trường chứng khoán hiện đại .
Cần sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có để đảm bảo cho thị trường phát triển một cách thống nhất và trong sạch. Các cơ quan nhà nước cần thường xuyên theo dõi hoạt động của các công ty chứng khoán, cần xem xét cân nhắc kỹ trước khi cấp giấy phép hoạt động của những công ty này cũng như cần kiểm tra kỹ những công ty xin niêm yết .
Phải nâng cao hiểu biết của người dân đối với thị trường chứng khoán, làm cho họ thấy được tầm quan trong của loại thị trường này đối với nền kinh tế. Có thể tổ chức những buổi tuyên truyền phổ cập kiến thức chứng khoán cho công chúng. Có những chính sách thu hút các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho sự phát triển sâu và rộng của thị trường chứng khoán, đưa chứng khoán đến mọi nhà, mọi người .
Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước bạn để dần hoàn thiện thị trường chứng khoán của nước mình. Cần tự rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành công và thất bại của những nước đi trước chúng ta .
Tóm lại chúng ta cần phát huy những mặt mạnh, những lợi thế và khắc phục những khuyết điểm để có thể phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam thành một thị trường chứng khoán hiện đại và có vai trò xứng đáng trong nền kinh tế .
Kết luận
Trên đây là những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán cũng như những đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam. Qua đây chúng ta có thể thấy thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng như thế nào trong nền kinh tế. Có thể nói thị trường đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại ngày nay .
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường chứng khoán còn non trẻ, đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện. Vậy nên chúng ta có nhiều đặc điểm rất riêng. Để có thể phát triển được thị trường chúng ta cần sự nỗ lực của các cơ quan quan lý nhà nước, của các công ty chứng khoán, của các doanh nghiệp và của cả công chúng. Ngoài ra chúng ta còn cần tranh thu những điều kiện khách quan như sự giúp đỡ từ các nước khác, những bài học học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển của thị trường chứng khoán các nước trên thế giới.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, thực hiện phát triển kinh tế bền vững thì nhất thiết phải xây dựng được một thị trường chứng khoán vững mạnh, hoạt động hiệu quả. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội trong thời kỳ hiện nay .
Tài liệu tham khảo:
1. T.S Đào Lê Minh (chủ biên), 2002, Chứng khoán và thị trường chứng khoán - NXB chính trị quốc gia.
2. TS.Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính -Tiền tệ - NXB Thống kê.
3. Ferderic S.Mishkin (chủ biên), 2001, Giáo trình Tiền tệ, Ngân hàng và Thị Trường Tài Chính - NXB khoa học kỹ thuật.
4. Tạp chí tài chính.
5. Báo điện tử thời báo kinh tế Việt Nam ( www.vneconomy.com.vn).
6. Trang web : www.vietstock.com.vn
7. Trang web : www.bsc.com.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72321.DOC