Bước sang thế kỷ 21, điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật tất yếu. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại phù hợp với chuẩn mực quốc tế là cần thiết. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu về TTNH ở Việt Nam, em thấy TTNH Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Trước hết đó là chính sách quản lý ngoại hối đã được hoàn thiện căn bản phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái vào cuộc sống như giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi. Tuy nhiên, TTNH Việt Nam còn non trẻ và sơ khai về trình độ, qui mô hoạt động cũng như kĩ năng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Trên cơ sở phân tích thực trạng TTNH Việt Nam em thấy TTNH Việt Nam hoạt động còn chưa hiệu quả và giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế còn có một khoảng cách khá xa về qui mô, tổ chức, nghiệp vụ và kĩ năng giao dịch.Với những giải pháp cơ bản đưa ra em mong muốn sẽ góp một phần nhỏ trong việc nối gần khoảng cách giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế.Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hoàng Lan Hương đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tìm hiểu về thị trường ngoại hối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoài và người Việt Nam sẽ không muốn giữ tiền gửi VNĐ và chỉ muốn giữ tiền gửi nước ngoài. Để cho những lượng cung tiền hiện có về tiền gửi VNĐ cũng như tiền gửi nước ngoài được người ta nắm giữ, thì phải đảm bảo rằng không có sự khác nhau trong lợi tức dự tính về những khoản tiền gửi đó.Hay nói một cách khác, điều kiện ở đây là: lãi suất trong nước bằng lãi suất nước ngoài cộng với mức tăng giá dự tính của đồng ngoại tệ. Nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài, có nghĩa là có sự tăng giá dự tính dương của ngoại tệ bù vào mức lãi suất nước ngoài thấp hơn. Một lãi suất trong nước 15% đối lại với mức lãi suất nước ngoài 10% có nghĩa là mức tăng giá dự tính của ngoại tệ phải là 5% ( hoặc tương đương, tức là mức sụt giá dự tính của đồng nội tệ phải là 5%.
Có nhiều cách để xem xét điều kiện ngang giá tiền lãi. Trước tiên, chúng ta phải thừa nhận là ngang giá tiền lãi chỉ có ý nói rằng lợi tức dự tính là như nhau về tiền gửi VNĐ cũng như về tiền gửi USD. Chúng ta cũng phải giả thiết rằng tiền gửi ngân hàng trong nước và nước ngoài là những vật thay thế hoàn hảo ( được ưa thích như nhau ), thì điều kiện ngang giá lợi tức là điều kiện thăng bằng cho thị trường ngoại hối. Chỉ khi nào tỷ giá ở mức mà lợi tức dự tính về tiền gửi trong nước và về tiền gửi nước ngoài ngang bằng nhau-nghĩa là ngang giá tiền lãi có hiệu lực- thì người ta sẽ thích giữ số tiền gửi trong nước và tiền gửi nước ngoài còn lại.
II. Thực trạng hoạt động của TTNH ở Việt Nam - Những tồn tại và giải pháp
1. Thời kỳ trước năm 1991
Đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp vào mọi mặt của đời sống xã hội, quyết định các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô theo một kế hoạch quy mô tập trung toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định, không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, Việt Nam, cũng như các nước XHCN khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngoại giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những thoả thuận đa biên trong các Hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá này là, các nước XHCN duy trì chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá, bao gồm tỷ giá mậu dịch (hay tỷ giá chính thức), tỷ giá phi mậu dịch ( bao gồm cả tỷ giá kiều hối) và tỷ giá kết toán nội bộ, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung, trong đó có TTNH.
Hậu quả của một cơ chế tỷ cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ gía chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế, làm cho hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương( lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn.
Ngày 26/3/1988, Nghị định 53/HĐBT ra đời, tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nước là NHTƯ thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; hệ thống Ngân hàng chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bước đầu từng Ngân hàng chuyên doanh hoạt động theo đặc thù gắn liền với từng lĩnh vực kinh tế. Cụ thể là: Ngân hàng Ngoại thương hoạt động về lĩnh vực đối ngoại, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế…; Ngân hàng Công thương hoạt động trong lĩnh vực công – thương nghiệp; Ngân hàng nông nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và Ngân hàng đầu tư hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Như vậy, chỉ duy nhất có Ngân hàng Ngoại thương là được phép hoạt động và kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài; các ngân hàng khác chỉ được hoạt động trong nước.
Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 161/ HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” của nước CHXHCN Việt Nam, thay thế Điều lệ quản lý ngoại hối Ban hành theo Nghị định số 102/ CP , ngày6/7/1963 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi Nghị định 161 ra đời, ngày 15/3/1989 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Thông tư số 33-NH/TT hướng dẫn thi hành. Một trong những quan điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 và thông tư 33 có thể nêu ra như sau:
“Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam. NHNT Việt Nam là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Trung ương Việt Nam cho phép”.
Như vậy có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay, các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của TTNH có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước sự đòi hỏi phát triển các hoạt động ngan hàng, đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. NHNN đã lần lượt cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế…cho các NHTM hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên, về tỷ giá ( yếu tố quan trọng nhất của TTNH), sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài, đặc biệt là sau khi thông qua Luật đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, luồng vốn ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Song, do chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của VNĐ và thị trường tự do. Tỷ giá mua bán của Ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0,5%.
Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một thị trường ngoại hối chính thức hoàn chỉnh hơn để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sơ xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan sát với quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 107-Nh/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập và đi vào hoạt động tại TP.HCM và Hà Nội.
2. Thời kỳ 1991-1994
Thời kỳ 1991-1994 là giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi theo hướng thị trường. Trong giai đoạn này đứng về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn. Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp đáng kể, bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên bị tan rã, tất cả các nước XHCN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi( chủ yếu bằng USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Vì từ trước năm 1991, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Cán cân vãng lai và cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu, sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước XHCN và chủ yếu là Liên Xô cũ.
Đứng trước tình thế hết sức khó khăn về cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và nhu cầu bức bách về ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, một câu hỏi đặt ra là:làm thế nào để giải quyết được vấn đề trên mà không tác động mạnh đến tình hình giá cả và sản xuất trong nước? Xử lý vấn đề này không chỉ có ngành Ngân hàng mà phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách lớn của chính phủ và của từng ngành. Các chính sách đó bao gồm:
a. Các chính sách lớn của Chính phủ
Đề ra 3 chương trình kinh tế lớn mà Chính phủ phải tập trung chỉ đạo, đó là: Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu; Chương trình khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng; và Chương trình tăng cường sản xuất lương thực.
Với 3 chương trình kinh tế mà Đảng và Chính phủ quan tâm chỉ đạo hỗ trợ đắc lực cho cung ngoại tệ của nền kinh tế và giảm nhu cầu chi ngoại tệ tạo nên thế cân bằng cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề để hình thành và phát triển TTNH sau này.
Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu: Đã tạo thêm nguồn thu ngoại tệ vững chắc cho nền kinh tế. Nếu như trước năm 1991 nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu thì đến năm 1991 xuất khẩu đã tăng lên và liên tục tăng trong các năm như: 1991 là 2.078 triệu USD ; năm 1992 là 2.580 triệu USD; 1993 là 2.985 triệu USD; 1994 là 4.054 triệu USD; 1995 là 5.198 triệu USD và 1996 là 7.330 triệu USD. Hơn nữa, do xuất khẩu tăng khá đã tạo thêm công ăn việc làm, tạo lòng tin cho giới đầu tư nhiều hơn và giảm được áp lực các vấn đề xã hội.
Chương trình khuyến khích sản xuất h àng tiêu dùng:Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng gia tăng, nếu như trước năm 1991 hàng tiêu dùng của Việt Nam hết sức nghèo nàn và thiếu nghiêm trọng, các nhu cầu tiêu dùng bình thường của người dân như từ xà phòng, thuốc đánh răng hay vải vóc còn phải phân phối. Khi Đảng và Chính phủ thực hiện chính sách mở cửa để khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng như nới lỏng chính sách ngoại thương thì hàng tiêu dùng ngoại tràn vào Việt Nam cũng làm cho nhu cầu về ngoại tệ để nhập khẩu tăng lên. Tuy nhiên, chính sách khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng cũng làm cho nguồn hàng tiêu dùng phong phú giảm sức ép về nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng.
Khuyến khích sản xuất lương thực: Lương thực đối với nước ta là một mặt hàng chiến lược, quốc kế dân sinh. Trong những năm trước năm 1990 sản xuất lương thực nước ta chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, hàng năm nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu lương thực cho nhu cầu của đất nước. Từ khi Chính phủ tập trung chỉ đạo và có chính sách khuyến khích lương thực thì nguồn lương thực của Việt Nam đã không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường quốc tế. Việc ta xuất khẩu được gạo đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ tăng cung và giảm cầu ngoại tệ của nền kinh tế.
Ngoài 3 chương trình kinh tế lớn tác động tích cực đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối thì chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam cũng như các nguồn chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền đơn phương khác đã làm cho nguồn ngoại tệ của nền kinh tế ngày một tăng.
b. Về phía NHNN:
Là cơ quan được Nhà nước giao cho trọng trách quản lý nguồn ngoại tệ vào và ra của nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và xây dựng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của Việt Nam. Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất với Chính phủ thành lập Quỹ điều hoà ngoại tệ tại NHNN để tập trung đáp ứng nhu cầu cần thiết của nền kinh tế trong những giai đoạn đầu còn khó khăn và can thiệp TTNH nhằm ổn định tỷ giá. Đồng thời năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng cho TTNH Việt Nam, đó là việc Thống đốc NHNN ra quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16/8/1991 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ (TTGDNT). Trên cơ sở Quy chế này, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại TP.HCM và Hà Nội lần lượt ra đời vào tháng 8 và tháng 11/1991. Những nội dung chính của Quy chế tổ chức hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ có thể tóm lược như sau:
Mục đích hoạt động:
Nhằm hình thành một TTNH có tổ chức ở VN. Thông qua hoạt động của TTGDNT. NHNN nắm bắt được thực tế về cung cầu ngoại tệ, đồng thời tăng cường công tác giám sát việc quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ.
Thông qua phiên giao dịch ở trung tâm xác định một tỷ giá hợp lý phản ánh đúng sức mua thực tế của VNĐ
Là bước đệm cho việc thiết lập một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở VN.
NHNN từng bước bổ sung Quỹ dự trữ ngoại tệ và tiến tới can thiệp thị trường trong cả nước.
Đối tượng tham gia:
Các NH được phép kinh doanh ngoại tệ
Các tổ chức xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp với nước ngoài các tổ chức, đơn vị kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ.
NHTƯ
Đồng tiền giao dịch: Đô la Mỹ và Đồng VN
Nguyên tắc hoạt động: Theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá áp dụng: là tỷ giá được ấn định khi đạt được sự cân băng cung cầu về ngoại tệ….
Có thể nói, việc thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ tại ngân hàng Nhà nước và chính phủ uỷ quyền cho thống đốc được toàn quyền điều hành một cách linh hoạt và hiệu quả, một mặt quỹ điều hoà tạo cho NHTƯ một lực thực sự để can thiệp có hiệu quả nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tệ.
Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày nay. Thông qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế.
Việc các NHTM và các tổ chức kinh tế có hoạt động ngoại tệ lớn giao dịch tại hai trung tâm là bước tập dượt đầu tiên trong giao dịch mua bán ngoại tệ theo cơ chế thị trường. Tỷ giá VNĐ/USD được hình thành theo quan hệ cung cầu một cách tương đối khách quan. Cách thức giao dịch mua bán ngoại tệ tại hai trung tâm theo phương thức đấu giá. Khi cung lớn hơn cầu thì tỷ giá giảm và ngược lại.
Trong thời kỳ đầu, cung ngoại tệ còn thấp hơn cầu ngoại tệ khá lớn, nếu để tỷ giá hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu, thì tỷ giá sẽ biến động rất mạnh, điều này sẽ gây tác động tiêu cực đến hệ thống giá cả, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Vì vậy, thông qua hình thức can thiệp của NHNN, tỷ giá chỉ biến động với một mức độ hợp lý, một mặt vẫn phản ánh xu hướng quan hệ cung cầu nhưng mặt khác không gây những biến động lớn về mức giá cả, đồng thời tạo một tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng yên tâm đầu tư và gửi tiền để phát triển kinh tế.
Sau một thời gian dài từ 1991 đến 1993, tỷ giá được duy trì ổn định đã tạo tâm lý ổn định cho thị trường và thu hút được một lượng kiều hối và đầu tư nước ngoài khá lớn vào Việt Nam, mặt khác việc duy trì lãi suất thực dương của VNĐ cao đã khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ để gửi VNĐ. Cả hai yếu tố trên đã đồng thời ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định giá trị VNĐ và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, ổn định giá trị VNĐ không phải chỉ về danh nghĩa mà cả giá trị thực của nó. Việc ổn định tỷ giá có ảnh hưởng tốt đến mặt bằng trong nước dẫn đến chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng giảm, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm không ngừng tăng làm cho quan hệ tiền hàng được đảm bảo và giá VNĐ được ổn định và đã tạo ra môi trường ổn định vững chắc cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Giai đoạn đầu khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo cơ chế thị trường, việc can thiệp của NHNN trên thị trường rất chặt chẽ, tuy nhiên thời gian tiếp theo khi nguồn ngoại tệ vào Việt Nam tăng lên, quan hệ cung cầu không còn khoảng cách quá lớn thì NHNN đã từng bước giảm sự can thiệp và để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn theo quan hệ cung cầu.
Từ khi hai trung tâm ra đời thì tỷ giá chính thức của VNĐ được xác định căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch tại hai trung tâm, do đó tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Từ đây có thể nói thị trường ngoại hối có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do.
Tóm lại, hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, tạo ra phương thức kinh doanh giao dịch mang tính thị trường góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã bộc lộ những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của toàn quốc gia, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và TP HCM. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra quyết định số 203- QĐ NH9 ngày 20/09/1994 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và quyết định số 203/QĐ-NH13 ngày 20/9/1994 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
3. Thời kỳ 1994 đến nay: Thay đổi trong cơ chế quản lý ngoại hối
Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, tăng cường sự giám sát và quản lý ngoại hối của Nhà nước, chính phủ đã ra nghị định số 63/1998 – NĐ- CP về quản lý ngoại hối, thay thế nghị định số 161-HĐBT ngày 18/10/1988 của hội đồng bộ trưởng ban hành điều lệ quản lý ngoại hối của nước CHXHCN Việt Nam.
Nghị định quản lý ngoại hối đã bổ sung nhiều nội dung mới mà từ trước đến nay chưa có, bao gồm:
Phân định rõ khái niệm về người cư trú và người không cư trú nhằm thuận lợi cho công tác quản lý ngoại hối của nhà nước.
Phân định rõ giao dịch vãng lai với giao dịch vốn.
Quy định cụ thể về việc phát hành giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.
Quy định nguyên tắc xác định tỷ giá của VNĐ.
Quy định về việc mở tài khoản ở nước ngoài và việc sử dụng ngoại tệ.
Quy định về việc chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam đối với các tổ chức và cá nhân.
Quy định nghĩa vụ bán ngoại tệ và quyền được mua ngoại tệ của các tổ chức.
Quy định cụ thể về việc hoạt động ngoại hối của các TCTD và bàn thu đổi ngoại tệ, quản lý vàng tiêu chuẩn quốc tế…
Có thể nói nghị định quản lý ngoại hối đã đưa ra một khung pháp lý hoàn chỉnh đối với việc quản lý và sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế, đánh dấu một bước tiến trong công tác quản lý và khẳng định mục tiêu quản lý ngoại hối cũng như chủ quyền của đồng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong những năm gần đây, nhất là năm 2004 và 2005 , TTNH đã đạt được những thành công nhất định, đặc biệt là sự thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý đối với TTNH nhằm tạo tiền đề cho TTNH phát triển. Một thành quả cũng đáng ghi nhận là chính sách tỷ giá và các chính sách về phát triển TTNH đã thiết lập được lòng tin của thị trường. Do có nhiều sản phẩm phòng chống rủi ro về tỷ giá được các TCTD cung cấp cho doanh nghiệp,làm các doanh nghiệp xuất khẩu đã chủ động bán nguồn ngoại tệ của mình cho các Ngân hàng, đồng thời các doanh nghiệp nhập khẩu đã sử dụng các công cụ kỳ hạn để chủ động nguồn ngoại tệ cho kế hoạch nhập khẩu của mình .Quy mô giao dịch trên TTNH cũng không ngừng tăng lên tương ứng với tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu, bình quân hàng năm khoảng 15-30% đảm bảo đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng. Doanh số giao dịch kỳ hạn cũng không ngừng được tăng lên, tính riêng trong năm 2004 doanh số giao dịch kỳ hạn tăng gấp đôi so với năm 2003. Điều này được thể hiện rõ trong sự biến động tương đối ổn định của tỷ giá USD/VND mặc dù lạm phát tăng cao và tỷ giá đã hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xuất khẩu với sự tăng trưởng ngoạn mục. Có thể điểm lại một số thay đổi cơ bản sau đây:
Thứ nhât, về sự xác định tỷ giá kỳ hạn: NHNN cho các TCTD thực hiện giao dịch kỳ hạn từ năm 1998. Các giao dịch kỳ hạn ra đời đã góp phần làm giảm bớt căng thẳng ngoại tệ trên thị trường giao ngay, tạo thêm công cụ để các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, giúp TTNH Việt Nam từng bước làm quen với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới của thị trường quốc tế. Tuy nhiên thị trường ngoại tệ kỳ hạn tại Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Cụ thể doanh số giao dịch nhỏ, kỳ hạn tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn, cơ cấu giao dịch bất hợp lý (bán ngoại tệ là chủ yếu), đối tượng giao dịch tập trung vào nhiều các NH nước ngoài. Một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế các giao dịch kỳ hạn là do việc xác định tỷ giá kỳ hạn chưa theo đúng thông lệ quốc tế mà NHNN tự ấn định các trần kỳ hạn theo các mốc kỳ hạn 30,60,90,180…
Thấy được vấn đề này, ngày 28/5/2004 NHNN đã ban hành quyết định 648/2004/QD-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 679/2002/QĐ-NHNN với nội dung chính cho phép các TCTD được xác định tỷ giá kỳ hạn sẽ do các NHTM tự xác định trên cơ sở lãi suất giữa hai đồng tiền. Phương án này hoàn toàn phù hợp với cơ chế thả nổi của lãi suât . Mỗi NHTM có một mức lãi suất khác nhau, mỗi kỳ hạn lại có một mức trần khác nhau nên để có một cách tính thống nhất, việc xác định điểm kỳ hạn sẽ đựơc tính toán trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa : lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam ( do NHNN công bố hàng tháng) và lãi suất cơ bản của cục dự trữ liên bang Mỹ. Đây là hai mức lãi suất cơ bản của hai đồng tiền ( USD và VND) làm cơ sở cho các NHTM Việt Nam và Mỹ đặt mức lãi suất tương ứng cho VNĐ và USD. Đồng thời NHNN cho các TCTD được giao dịch kỳ hạn, hoán đổi giữa đồng VN với ngoại tệ với kỳ hạn từ 3 đến 365 ngày.
Thứ hai, về phát triển TTNH:
Trong năm 2004 NHNN cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ thị trường như chỉnh sửa các qui định về giao dịch kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hoá để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, đồng thời tiếp tục bổ sung các điệu kiện thông thoáng về giao dịch hoán đổi để cơ chế tự do hoá lãi suất phát huy tác dụng tạo cung trên thị trường ngoại tệ. Tiếp theo Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN qui định cơ chế tự thoả thuận tỷ giá kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất, NHNN cũng cho phép một số Ngân hàng làm thí điểm nghiệp vụ Option ngoại tệ và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tiếp cận với các công cụ mới trên thị trường quốc tế.
Đặc biệt để khắc phục những hạn chế về Quy chế giao dịch hối đoái chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường ngoại hối, như vấn đề cấp giấy phép giao dịch kỳ hạn, hoán đổi phần nhiều còn mang tính hình thức;các loại hình giao dịch còn đơn giản; vấn đề thu phí trong mua bán ngoại tệ chưa hợp lý; các điều khoản trong hợp đồng quá chi tiết và không còn phù hợp với cơ chế thả nổi lãi suất, hạn chế quyền tự chủ của TCTD và khách hàng; các vấn đề về chứng từ trong giao dịch chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong quá trình thực hiện, ngày 10/11/2004, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối khắc phục những hạn chế nói trên và nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTNH Việt Nam. Nhìn chung, Quyết định 1452 đã thể hiện một sự đổi mới trong tư duy quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc đề cao tính tuân thủ thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các công cụ thị trường được phát triển và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng và khách hàng. Điều này thể hiện ở một số điểm mới nổi bật trong quyết định.
Thứ nhất, nghiệp vụ giao dịch phái sinh nói chung và giao dịch kỳ hạn hoán đổi nói chung đều là các nghiệp vụ đã được giao dịch phổ biến trên TTNH quốc tế, vì vậy quyết định mới không qui định chi tiết kỹ thuật tác nghiệp từng giao dịch mà chỉ nêu định nghĩa của giao dịch. Kỹ thuật giao dịch sẽ được các tổ chức tín dụng hướng dẫn khách hàng và thực hiện theo thông lệ quốc tế. Đồng thời chỉ đặt ra nguyên tắc chung cho phương thức giao dịch, thoả thuận hợp đồng, xử lý vi phạm và nhằm đề cao tính tự chủ của TCTD và khách hàng trong quá trình giao dịch.
Thứ hai, cho phép bổ sung thêm loại hình giao dịch quyền lựa chọn tiền tệ, giúp khách hàng có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh. Sau một năm thí điểm, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tính hiệu quả của giao dịch quyền lựa chọn trongviệc phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Doanh số giao dịch đến nay đã lên đến xấp xỉ 20 triệu USD. Do vậy, quyền lựa chọn sẽ là một giao dịch tiềm năng tại thị trường Việt Nam trong thời gian tới đặc biệt khi đã được chính thức đưa vào thực hiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu này, quyền lựa chọn mới được thực hiện giữa các ngoại tệ để đảm bảo tính an toàn trong các giao dịch( do có khả năng thực hiện giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro với nước ngoài.
Thứ ba, quy định rõ trương hợp cần chứng từ khi thực hiện giao dịch song không quy định chi tiết từng chứng từ cần thiết mà chỉ nêu nguyên tắc của chứng từ hợp pháp để đề cao trách nhiệm của các TCTD. Đặc biệt trong phần chứng từ, đã tháo gỡ các vướng mắc cho giao dịch hoán đổi, chuyển đổi ngoại tệ ( cho phép thực hiện không cần chứng từ) để tăng khả năng chu chuyển ngoại tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Thứ tư, mở rộng phạm vi giao dịch( cho phép làm kỳ hạn và quyền lựa chọn) cho đối tượng khách hàng là cá nhân là các tổ chức khác nhằm tạo thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các đối tượng này, đồng thời khuyến khích khách hàng bán ngoại tệ cho NH với mức tỷ giá kỳ hạn linh hoạt hơn.
Thứ năm, bỏ giấy phép kỳ hạn hoán đổi, quyền lựa chọn tiền tệ đối với các TCTD được phép hoạt động ngoại hối, coi đây là nội dung của các giấy phép hoạt động ngoại hối.
Với hàng loạt những điểm đổi mới cơ bản về tư duy quản lý theo hướng thông thoáng, linh hoạt hơn và đề cao sự tuân thủ và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các công cụ thị trường được phát triển và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh của các TCTD và khách hàng. việc đưa quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN vào thực hiện chắc chắn sẽ mở ra cánh cửa mới cho sự phát triển vượt bậc và uyển chuyển hơn nữa của TTNH Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế, là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế đối ngoại và thu hút đầu tư trong năm 2005 và các năm tiếp theo.
4. Những vấn đề tồn tại cần sớm được giải quyết
4.1. Cơ chế can thiệp và điều tiết thị trường của Nhà nước vẫn còn những bất cập nhất định
Một là, việc bán ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước, nhất là nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô chưa kịp thời. Do đó, nhiều thời điểm số dư tiền gửi ngoại tệ của Ngân sách tại NHNN rất lớn. Số dư của 2 quỹ: Quỹ ngoại tệ tập trung và Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài lên tới 1,5 tuần nhập khẩu. Như vậy, trong khi các khoản vay của nước ngoài của chính phủ chưa có nhu cầu thanh toán, số ngoại tệ đó vẫn được găm giữ trên tài khoản của Bộ tài chính thay vì bán cho NHNN để đáp ứng cho các nhu cầu ngoại tệ của các khu vực khác trong nền kinh tế. Điều này khiến cho cung ngoại tệ bị bóp méo, làm tăng áp lực giảm giá của VNĐ và làm tăng tâm lý tích trữ ngoại tệ ở các khu vực ngoại tệ của nền kinh tế. Bên cạnh đó, mặc dù dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay đạt khá nhưng so với yêu cầu và so với các nước trong khu vực thì còn thấp.
Hai là, việc cấp phép mang ngoại tệ ra nước ngoài cho người dân vẫn chưa thuận tiện. Người dân các tỉnh xa có nhu cầu chuyển ngoại tệ cho con đi du học, đi chữa bệnh vẫn phải về NHNN ở các thành phố lớn xin cấp giấy phép.
Ba là, các quy định về kinh doanh ngoại hối chưa thực sự tạo chủ động cao cho các NHTM. Các quy định về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá còn có độ trễ so với yêu cầu của thực tiễn, như điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tỷ lệ kết hối, nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá, quy định về đại lý dịch vụ chi trả kiều hối… Mặc dù một khối lượng lớn ngoại tệ của người dân được thu hút vào hệ thống NH, nhưng tình trạng đô la hoá trong xã hội vẫn còn lớn.
Bốn là, quy định về thanh toán và chi trả bằng ngoại tệ ở trong nước chưa được thực hiện nghiêm. Nhiều cửa hàng, khách sạn, cơ sở du lịch… còn tuỳ tiện niêm yết và thu bằng ngoại tệ.
Năm là, trong khi hệ thống NH nắm giữ một lượng ngoại tệ lớn ở nước ngoài, tính đến hết năm 2002 là 8,84 tỷ USD và hiện nay khoảng trên 7,0 tỷ USD , thì nền kinh tế Việt Nam lại thu hút một lượng lớn vốn nước ngoài dưới hình thức vay nợ, khiến cho gánh nặng nợ nước ngoài có xu hướng tăng lên. Không những vậy còn chịu rủi ro về tỷ giá và lãi suất do biến động của thị trường tiền tệ quốc tế. Do đó, cần phải làm thế nào để sử dụng nguồn ngoại tệ các NH đang nắm giữ, giảm bớt vốn vay nước ngoài là vấn đề khá nan giải.
4.2. Ngoại tệ trôi nổi ngoài sự kiểm soát:
ở Việt Nam thị trường ngoại tệ tự do ( còn gọi là thị trường không chính thức hay chợ đen) không được pháp luật công nhận, hoạt động của nó là phi pháp, nhưng trên thực tế thì thị trường ngoại tệ tự do vẫn tồn tại và phát triển song song với thị trường có tổ chức( còn gọi là thị trường chính thức).Các hình thức hoạt động của nó bao gồm:
Các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ tiền mặt.
Chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền qua biên giới không thông qua hệ thống ngân hàng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Các sạp đổi tiền dọc theo biên giới nơi có các hoạt động buôn lậu diễn ra.
Các hoạt động mua bán khác trong dân cư.
Phương thức giao dịch mua bán chủ yếu trên thị trường ngoại tệ tự do là phương thức trao tay. Đồng tiền giao dịch chủ yếu là USD, ngoài ra có một số ngoại tệ khác nhưng khối lượng không đáng kể.
Tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do do cung cầu trên thị trường này quyết định, tuy nhiên nó cũng chịu sự chi phối của thị trường chính thức.
Lượng ngoại tệ do các tầng lớp dân cư nằm ngoài hệ thống ngân hàng là rất lớn, theo ước tính có thể đến 5 tỷ USD. Riêng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam năm 2000 theo ước tính lên đến hơn 2 tỷ USD. Việc thanh toán và giao dịch mua bán bằng USD là khá phổ biến trong xã hội.
Những nguyên nhân chính khiến cho thị trường ngoại tệ tự do vẫn tồn tại và phát triển ở Việt Nam là:
Trong một thời gian dài, chế độ tỷ giá VNĐ về cơ bản là chế độ tỷ giá cố định, lại trải qua lạm phát cao, đã làm cho tỷ giá chính thức VND/USD luôn thấp hơn tỷ giá thị trường cân bằng cung cầu, điều này đã khiến thị trường tự do hình thành và phát triển. Hiện nay, cơ chế điều hành tỷ giá đã có những đổi mới căn bản theo hướng thị trường ngày càng tăng. Tuy nhiên chế độ tỷ giá của VND hiện nay chưa phải là chế độ tỷ giá thả nổi, vẫn chịu sự quản lý và điều tiết chặt chẽ của NHNN, do đó tỷ giá giao dịch do NHNN ấn định và công bố vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ. Do trên thị trường ngoại hối chính thức luôn chịu áp lực cầu lớn hơn cung, nên đã hình thành thị trường ngoại tệ tự do để thoả mãn nhu cầu ngoại tệ cho những ai chưa được thị trường chính thức đáp ứng.
Thị trường ngoại hối chính thức đã hình thành nhưng còn kém phát triển, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về giao dịch, kinh doanh ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế.
Lượng kiều hối hàng năm chuyển về Việt Nam khá lớn, khoảng hơn 2 tỷ USD, và theo quy định hiện hành thì người nhận kiều hối được nhận ngoại tệ tiền mặt, gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ hay bán cho các NHTM.
4.3. Tâm lý sùng bái ngoại tệ nặng nề:
ở Việt Nam mỗi khi giá cả có sự biến động, đặc biệt là lạm phát tăng cao, người dân thường hay chuyển sang giữ của cải dưới hình thức ngoại tệ. Điều này làm cho đồng VNĐ đã mất giá lại càng thêm mất giá. Ngay cả khi lạm phát ở mức độ vừa phải, đồng đô la hay một số ngoại tệ mạnh khác vẫn được người dân giữ dưới dạng tiết kiệm rất nhiều.Sở dĩ có điều này là do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi. Trong nhiều năm liên tục, lạm phát ở mức cao, đồng Việt Nam mất giá lớn, chưa tạo được lòng tin cao vào sự ổn định của đồng nội tệ. Ngoài ra khi sử dụng đồng Việt Nam còn mất chi phí cao trong khâu thanh toán.Bởi vì Đồng Việt Nam có mệnh giá còn nhỏ, nên chi phí vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản,… cao. Trước kia mệnh giá Đồng Việt Nam cao nhất mới chỉ có tờ 100 000 đồng, quy đổi ra chỉ tương đương 6 USD. Trong khi đó chỉ cần 100USD đã tương đương gần 1.600.000 đồng, hay nếu cần thanh toán khoản mua nhà đất trị giá 1.6 tỷ đồng trong quan hệ dân cư, thì chỉ cần 1000 tờ loại 100USD, thay cho phải vận chuyển và kiểm đếm tới 1.600 bó tiền 100 tờ/ bó loại 100.000 đồng. Hiện nay, Ngân hàng nhà nước đã phát hành và cho vào lưu thông tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, hy vọng rằng đồng Việt Nam sẽ được ưa chuộng nhiều hơn.
4.4. Hệ thống Ngân hàng đang trong quá trình tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, công nghệ chưa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt chưa được mở rộng, các hoạt động của Ngân hàng chưa thu hút được tối đa lượng ngoại hối có trong dân cư.
5. Giải pháp
- Về phía Nhà nước: Thứ nhất, cần phải có các biện pháp linh hoạt và sát thực tế hơn về điều hành lãi suất, điều hành tỷ giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ…để tạo ra những hấp dẫn cần thiết về lợi ích kinh tế cho người dân để họ gửi ngoại tệ hay bán ngoại tệ cho Ngân hàng. Cần phải chấp nhận một thực tế là có thể giảm tình trạng đô la hoá trong xã hội, và sẽ tăng tình trạng đô la hoá tài sản có trong các NHTM. Tức là thu hút tối đa ngoại tệ trong xã hội vào các NH và mở rộng cho vay, còn lợi hơn là để ngoại tệ lưu thông trôi nổi trong xã hội, NH không quản lý được.
Thứ hai, trong danh mục các đơn vị trong nước được phép bán hàng và cung cấp dịch vụ thu bằng ngoại tệ, cần giảm thiểu tới mức thấp nhất, đồng thời tăng cường kiểm tra và xử phạt thật nghiêm tình trạng tuỳ tiện thanh toán mua bán bằng ngoại tệ. Cần cho phép người nước ngoài đổi ngược lại ngoại tệ, không lo sợ tình trạng đào hối. Tức là khi khách du lịch quốc tế, các thương gia chính khách nước ngoài đến VN thì đổi ngoại tệ lấy VND để chi tiêu, khi xuất cảnh thì đổi VND lấy ngoại tệ để mang ra.
Thứ ba, phạm vi uỷ quyền cấp phép cũng cần được thực hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố, thậm chí cần uỷ quyền cho các chi nhánh NHTM Nhà nước ở các huyện, thị xã để giảm thiểu chi phí đi lại tốn kém và mất thời gian cho người dân. Đồng thời giảm thiểu tới mức có thể chấp nhận được về các loại giấy phép liên quan đến ngoại tệ, thay vào đó bằng điều kiện kinh doanh.
Thứ tư, NHNN nên giao quyền chủ động hơn nữa cho các NHTM trong kinh doanh ngoại hối, đa dạng hoá các nghiệp vụ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp. Cần chuyển dần quan hệ vay vốn- trả nợ giữa các doanh nghiệp với Ngân hàng sang quan hệ mua- bán ngoại tệ. Tiến tới các NHTM cho vay ngoại tệ đối với các đối tượng có nhu cầu sử dụng để thanh toán, chi trả với nước ngoài. NHNN nên linh hoạt hơn nữa trong điều hành tỷ giá, lãi suất ngoại tệ sát với diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế, điều chỉnh giảm thiểu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng ngoại tệ.
Thứ năm, Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa việc bán ngoại tệ cho NHNN. Khi cần ngoại tệ trả nợ nước ngoài NHNN bán kịp thời cho Bộ Tài chính.
Để làm cho người dân tin tưởng vào đồng nội tệ mà không găm giữ ngoại tệ thì trước hết phải làm sao để ổn định giá trị đồng tiền VN, thực hiện nhất quán mục tiêu trên đất nước VN chỉ sử dụng Đồng Việt Nam. Đây là vấn đề lớn ở phạm vi quốc gia, ở tầm vĩ mô, bản thân một địa phương không thể thực hiện được. Giải pháp này bao gồm các nội dung về điều hành tỷ giá của NHNN, về can thiệp của NHNN trên TTNH. Đồng thời với các biện pháp vĩ mô khác kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên mỗi tỉnh thành phố cũng đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này, như: chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên địa bàn, chuyển hướng sang phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực xuất khẩu, hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đẩy mạnh phát triển: du lịch, mở rộng xuất khẩu lao động, chống buôn lậu, cải cách mạnh mẽ các lĩnh vực hải quan… và góp phần tạo môi trường cho phát triển thị trường tài chính và cạnh tranh phát triển dịch vụ tài chính trên địa bàn.
Cấp uỷ, chính quyền và các ban ngành hữu quan của các tỉnh, thành phố phối hợp cùng ngành ngân hàng chỉ đạo, tổ chức triển khai các biện pháp cụ thể, thực hiện nhất quán mục tiêu trên đất nước VN chỉ sử dụng Đồng VN.
Bên cạnh việc ổn định giá trị đồng tiền VN, mục tiêu xa hơn là phải làm sao để nâng cao khả năng chuyển đổi của Đồng Việt Nam, trước hết biến Đồng Việt Nam thành đồng tiền chuyển đổi trong các giao dịch vãng lai. Giải pháp này chủ yếu thực hiện ở phạm vi chung, ở tầm vĩ mô, với chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước, sự chỉ đạo cụ thể của Chính phủ, chương trình hành động cụ thể và sự phối hợp đồng bộ của các ngành có liên quan, như: NHNN, Bộ tài chính,…Nó bao gồm nhiều nội dung; trong đó quan trọng là cần thúc đẩy nhanh nền kinh tế một cách vững chắc theo xu hướng chuyển mạnh sang xuất khẩu. Việc tăng xuất khẩu sẽ làm tăng nhu cầu bổ sung về đồng bản tệ trên TTNH và làm tăng sức mua quốc tế của đồng bản tệ. Tuy nhiên xu hướng lên giá của đồng bản tệ chỉ xảy ra trong ngắn hạn. Đây quả là một giải pháp mang tầm vĩ mô vì nền một kinh tế tăng trưởng vững chắc luôn là mục tiêu phấn đấu của bất kỳ quốc gia nào, điều cơ bản là phải làm sao để đạt được điều đó. Có lẽ chúng ta nên bắt đầu với những mục tiêu cụ thể hơn như cố gắng giảm thâm hụt cán cân vãng lai, ngăn chặn tình trạng buôn lậu, tạo các khuôn khổ pháp lý khác cho sự chuyển đổi của Đồng Việt Nam.Việc giảm thâm hụt cán cân vãng lai là rất quan trọng. Nếu cán cân vãng lai là thặng dư thì dự trữ chính thức sẽ tăng hoặc cán cân vốn sẽ âm, hoặc đồng thời cả hai. Một quốc gia nếu có thặng dư cán cân vãng lai thường xuyên và dài hạn thị đồng tiền nước đó sẽ có xu hướng lên giá. Để giảm thâm hụt cán cân vãng lai, chính phủ có thể bù đắp nó bằng các nguồn thu được từ đầu tư nước ngoài. Ngày nay, việc thâm nhập các thị trường vốn đối với một số đồng tiền chính là rất dễ dàng và các thị trường này có độ thanh khoản cao. Chỉ cần tồn tại một chênh lệch vừa phải trong tỷ lệ sinh lời thực( sau khi đã điều chỉnh yếu tố lạm phát) giữa tiền gửi ngân hàng và các chứng khoán có thu nhập cố định, trong cả ngắn hạn và dài hạn, sẽ tạo ra động lực đáng kể trong lưu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia. Yếu tố đầu cơ cũng có thể trở thành động lực chu chuyển vốn ra ngoài phạm vi biên giới. Nếu các nhà đầu tư đều tin tưởng rằng một đồng tiền nào đó sẽ lên giá trong tương lai, họ sẽ đầu tư cùng một lúc vào đồng tiền này, và kết quả là đồng tiền này lên giá. Cuối cùng, sự không ổn định về chính trị và kinh tế ở nhiều nước làm cho một số đồng tiền trở nên hấp dẫn hơn so với chính nó, điều này cũng dẫn đến động cơ chu chuyển vốn giữa các quốc gia. Với những lí do này, trong một thời gian nhất định, thặng dư trên tài khoản vốn ngắn hạn và dài hạn có thể đủ để bù đắp cho sự mất cân đối trên tài khoản vãng lai.
Mối quan tâm của nhà đầu cơ hay nhà đầu tư bao gồm cả các cơ hội đầu tư ngắn hạn và đầu tư tài chính dài hạn. Cán cân vốn dài hạn bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). FDI được định nghĩa như là những khoản đầu tư thuộc khu vực tư nhân, mà ở đó nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát hoạt động của khoản đầu tư này. FDI có thể tạo ra một áp lực lớn lên cầu đồng bản tệ, và chính phủ có thể coi FDI như là một nguồn để bù đắp cho cán cân vãng lai. Trong những môi trường lành mạnh, FDI như là những nguồn công nghệ mới và tạo công ăn việc làm. Nhưng nếu khuyến khích đầu tư nước ngoài quá mức sẽ xuất hiện một luận điệu cho rằng chính phủ đã nhường quyền kiểm soát nền kinh tế cho các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài.
Tóm lại, trạng thái cung cầu tiền tệ trên cán cân thương mại hay cán cân vãng lai có thể được làm cân đối, ít nhất là trong ngắn hạn, bằng các giao dịch vốn ngắn hạn.Tuy nhiên giải pháp này phù hợp hơn với các nước công nghiệp phát triển có các đồng tiền thả nổi, em nêu ra chỉ mang tính chất tham khảo; còn với các nước đang phát triển có các đồng tiền cố định hay được quản lý chặt chẽ như ở Việt Nam thì sự kiểm soát của chính phủ thông qua hoạt động của NHTW là biện pháp tốt nhất để giảm thâm hụt cán cân vãng lai.
Đối với những đồng tiền có cơ chế tỷ giá cố định, thì can thiệp của chính phủ thông qua hoạt động của NHTW trên thị trường mở là bắt buộc, nhằm duy trì tỷ giá chỉ được biến động trong một biên độ nhất định. Đối với những đồng tiền có tỷ giá thả nổi, can thiệp của chính phủ là tuỳ ý, không bắt buộc. Trong cả hai trường hợp, trong giới hạn về dự trữ ngoại hối nhằm cố gắng duy trì ổn định tỷ giá của đồng bản tệ. Để duy trì giá trị đồng bản tệ, NHTW mua vào đồng bản tệ khi nó giảm giá và bán ra khi nó lên giá trong giới hạn dự trữ chính thức và khả năng đi vay của mình.
Hoạt động can thiệp của NHTW trên TTNH được phản ánh thông qua dự trữ ngoại hối của NHTW. Về mặt lý thuyết, do dự trữ ngoại hối chỉ là có hạn, cho nên nhìn chung, hoạt động can thiệp của NHTW trên TTNH gây ảnh hưởng trực tiếp lên tỷ giá trong ngắn hạn, chứ không ảnh hưởng trong dài hạn. Tuy nhiên, thực tế đã thừa nhận rằng, các chính phủ và các NHTW có thể tác động làm cho tỷ giá danh nghĩa thay đổi trong dài hạn thông qua thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ, trong đó sự can thiệp của NHTW được xem như phát tín hiệu quan trọng cho thị trường. Các hoạt động thị trường mở có thể được sử dụng để phát tín hiệu về những mong muốn của NHTW, và trên cơ sở đó sẽ điều chỉnh thái độ của các thành viên tham gia thị trường.
Như đã trình bày ở trên, các chính phủ có thể trực tiếp ảnh hưởng làm thay đổi giá trị đồng bản tệ, nếu họ muốn, các phương pháp can thiệp thường dùng có thể nêu ra như sau:
1. Chính sách tài khoá và tiền tệ quốc nội;
2. Kiểm soát giá cả và tiền lương;
3. Các kiểm soát trực tiếp, như thuế quan, hạn ngạch thương mại và kiểm soát ngoại hối.
Tất cả các phương pháp này có thể gây nên ảnh hưởng xấu đáng kể đến phát triển kinh tế và công ăn việc làm. Thực tế cho thấy hầu hết các chính phủ đều không muốn để cho tỷ giá biến động một cách tự do mà thường coi yếu tố tỷ giá như một công cụ để đạt được mục tiêu kinh tế của mình.
Một nguồn nữa có thể bù đắp sự thâm hụt cán cân vãng lai đó là dựa vào trạng thái đầu tư nước ngoài ròng, bởi vì đối với một quốc gia trạng thái đầu tư nước ngoài ròng có ảnh hưởng mạnh đến cán cân vãng lai. Chúng ta có thể tham khảo tình hình của Canada để áp dung đối với Việt Nam. Đối với Canada, trạng thái đầu tư ròng là tương đối ổn định, nhưng nó chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với GNP. Trạng thái đầu tư ròng của Canada là âm, điều này có nghĩa là những người cư trú Canada nợ nước ngoài nhiều hơn là những người không cư trú ( đi vay nhiều hơn là cho vay). Kết quả là, cán cân dịch vụ của Canada có mức âm tương đối lớn, cho dù cán cân thương mại tuy có dương nhưng vẫn không đủ để bù đắp hoàn toàn. Ta xem xét bảng sau:
Bảng cán cân vãng lai của Canada (tỷ CAD)
Năm
Cán cân thương mại
Cán cân dịch vụ
Cán cân vãng lai
Thu nhập
đầu tư ròng
Các dịch vụ khác
1981
1983
1985
1987
1989
1990*
7,3
17,5
16,4
11,3
4,7
9,6
-11,3
-11,6
-14,3
-16,5
-22,4
-25,5
-2,1
-2,8
-4,1
-4,1
-1,9
-0,7
-6,1
3,1
-2,0
-9,3
-19,6
-16,2
*Số dự đoán
Chúng ta thấy rằng, thu nhập đầu tư ròng là những số âm rất lớn, kéo theo là cán cân vãng lai cũng ở trạng thái âm thường xuyên và cũng lớn. Điều này đã tạo ra một áp lực tiềm năng khiến cho CAD giảm giá. Trong trường hợp này của Canada, áp lực giảm giá của CAD đã được làm dịu đi bởi các luồng vốn chảy vào rất mạnh do chính sách lãi suất cao của CAD. Chúng ta thấy rằng, trong những năm 80, mặc dù thu nhập từ đầu tư ròng ở mức âm cao và tăng thường xuyên so với cán cân thương mại, nhưng về cơ bản, nhờ có thặng dư cán cân thương mại nên đã bù đắp được cơ bản thâm hụt đầu tư ròng, điều này khiến cho áp lực giảm giá của CAD là không rõ ràng. Nhưng điều dễ nhận thấy là: thặng dư cán cân thương mại có xu hướng giảm dần, trong khi đó đầu tư ròng có số âm ngày càng cao; mặt khác những luồng vốn chảy vào trong những năm 1980 sẽ trở thành những luồng vốn chảy ra sau này, trong đó, thu nhập ròng đầu tư càng trở nên âm cao hơn. Qua phân tích, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng: “CAD sẽ giảm giá trong những năm 90 so với các đồng tiền của các nước bạn hàng”. Hiện nay, với các nước đang phát triển, trạng thái đầu tư ròng có tầm quan trọng hơn nhiều so với trường hợp của Canada. Với Việt Nam, đây là một giải pháp có thể áp dụng được để bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai.
- Về phía các Ngân hàng thương mại, cần:
+ Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM trên địa bàn.
Trong tiến trình thực hiện cơ cấu lại hệ thống NHTM, cần đặc biệt chú trọng mở rộng kinh doanh ngoại hối trên địa bàn. Công việc này bao gồm các nội dung: hoàn thiện và nâng cao năng lực cán bộ của các phòng kinh doanh hối đoái, mạnh dạn thực hiện nghiệp vụ hối đoái trên thị trường quốc tế, đẩy mạnh công tác tiếp thị để khai thác mọi nguồn ngoại tệ tiền mặt có thể thu hút được. Bên cạnh đó NHTƯ cấn sớm cho phép tự do hoá các giao dịch vãng lai, phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, linh hoạt nghiệp vụ Swap với các NHTM.
+ Mở rộng mạng lưới của các NH thu hút ngoại tệ tiền mặt trong dân.
Cùng với việc mở rộng mạng lưới kinh doanh trên địa bàn, phát triển các bàn tiết kiệm, phòng giao dịch, chi nhánh cấp 2, các NHTM cần cho phép các đơn vị này được thu hút tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, thực hiện thu đổi ngoại tệ, các chi nhánh được giao dịch hối đoái với phạm vi rộng lớn hơn.
+ Cần nghiên cứu đưa ra dần dần từng bước đồng Việt Nam có mệnh giá
cao hơn. Tiến tới có thể phát hành loại tiền mệnh giá 1.000.000 đồng. Trongthực tế NHNN đã cho phép sử dụng Ngân phiếu thanh toán 5 triệu đồng, nên việc đưa ra lưu thông Đồng Việt Nam có mệnh giá cao như trên không có gì đáng ngại, nhất là thu nhập bình quân củangười dân tăng lên.
Trong số các giải pháp nêu trên thì theo quan điểm của em, giải pháp đối với các NHTM là cụ thể và mang tính khả thi nhất. Các NH cần chú trọng hơn nữa trong công tác đào tạo và tuyển dụng những cán bộ NH có đủ năng lực và tinh thần trách nhiệm để có thể đóng góp những ý kiến, những ý tưởng mang tính thực tế nhằm hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao. Về phía Nhà nước, điểm trước mắt có thể làm được là song song với việc đưa ra cácgiải pháp thì cần phải tiến hành triển khai để các biện pháp đó thực sự đi vào đời sống, mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Việc tổ chức, điều hành bộ máy nhà nước cần mang tính dân chủ hơn, tránh hiện tượng tham ô tham nhũng. Thiết nghĩ với thực tế ở nước ta hiện nay, làm sao để đẩy lùi nạn tham ô, tham nhũng, góp phần nâng cao lòng tin của dân chúng đối với Nhà nước là một việc làm rất cần thiết và có thể làm được nếu có sự phối hợp và quyết tâm tất cả công chức và dân chúng
.
Kết luận
Bước sang thế kỷ 21, điều không thể đảo ngược đó là xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng trở nên mạnh mẽ; tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính diễn ra với cường độ và quy mô chưa từng có. Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường mở là nhu cầu khách quan có tính quy luật tất yếu. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc phát triển và hoàn thiện TTNH Việt Nam theo hướng toàn diện, hiện đại phù hợp với chuẩn mực quốc tế là cần thiết. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu về TTNH ở Việt Nam, em thấy TTNH Việt Nam trong thời gian qua đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Trước hết đó là chính sách quản lý ngoại hối đã được hoàn thiện căn bản phù hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; những nhân tố thị trường ngày càng trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỷ giá hối đoái vào cuộc sống như giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi. Tuy nhiên, TTNH Việt Nam còn non trẻ và sơ khai về trình độ, qui mô hoạt động cũng như kĩ năng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Trên cơ sở phân tích thực trạng TTNH Việt Nam em thấy TTNH Việt Nam hoạt động còn chưa hiệu quả và giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế còn có một khoảng cách khá xa về qui mô, tổ chức, nghiệp vụ và kĩ năng giao dịch.Với những giải pháp cơ bản đưa ra em mong muốn sẽ góp một phần nhỏ trong việc nối gần khoảng cách giữa TTNH Việt Nam và TTNH quốc tế.Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hoàng Lan Hương đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
DaNH MụC TàI LIệU THAM KHảO
PGS Đinh Xuân Trình - Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- NXB Giáo dục, 2002.
Feredric S.Miskin - Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính- NXB Khoa học và kỹ thuật,1994.
TS. Nguyễn Văn Tiến - Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối. NXB Thống kê.
PSG.TS Nguyễn Thị Thanh Thảo - Nghiệp vụ thanh toán quốc tế NXB Lao động xã hội, 2004.
TS. Nguyễn Ngọc Thuỷ Tiên - Giải pháp hạn chế lưu thông tiền mặt ngoại tệ trên thị trường tự do ở nước ta hiện nay- Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.2.2004
Nguyễn Mỹ Hào- Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá trước yêu cầu hội nhập- Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 15.6.2004.
Đào Tuấn- Thị trường ngoại hối khởi sắc- Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 1.3.2005.
Thế Anh- Bước đột phá mới trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong năm 2005- Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ 1.5.2005.
GS. Đinh Xuân Trình- Những bất cập của thị trường ngoại hối ở Việt Nam- Tạp chí Kinh tế đối ngoại- Số 7( 3/2004).
TS. Nguyễn Thị Kim Nhung- Sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Thực trạng và giải pháp- Tạp chí Chứng khoán Việt Nam. Số 12 tháng 12 năm 2003.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35726.doc