Đề án Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn

Thực tiễn cho thấy, tín dụng ngân hàng đã và vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình: cung cấp vốn cho toàn nền kinh tế, hỗ trợ cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, giúp đỡ thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước. Để làm được như vậy, mọi quy định của Nhà nước và ngành ngân hàng đều phục vụ cho việc duy trì sự tồn tại của hai yếu tố: niềm tin và chữ tín. Khách hàng tin tưởng ở ngân hàng nên mới chịu gửi tiền vào đấy. Khi ngân hàng cho vay tiền là ngân hàng tin ở người vay sẽ trả lại tiền. Ngược lại, ngân hàng giữ chữ tín trả lại tiền cho người gửi đúng theo thoả thuận; người vay tiền giữ chữ tín: vay, trả, trả, vay. Vì thế, cơ chế hoạt động của tín dụng ngân hàng càng vận hành trôi chảy, càng thuận tiện, càng đảm bảo tránh được những rủi ro thì vốn ngân hàng càng dễ dàng phát huy vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, khách hàng đến quan hệ với ngân hàng càng nhiều hơn trên cả hai phương diện: gửi tiền và vay tiền; bản thân ngân hàng cũng đạt được mục tiêu kinh doanh có hiệu quả (có lãi). Tuy nhiên, để đề ra được một cơ chế tín dụng ngân hàng thích hợp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố thực tiễn đóng vai trò quan trọng nhất. Chúng ta không thể có được một cơ chế tín dụng ngân hàng đúng đắn nếu không bám sát thực tiễn. Cơ chế tín dụng ngân hàng không thể là bất biến, nó cần được nghiên cứu thường xuyên để có thể kịp thời loại bỏ hoặc chỉnh sửa những quy định không còn phù hợp và bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tiễn vừa phát sinh. Để đạt được điều đó cần có sự nỗ lực của tất cả các bên: Nhà nước, ngân hàng và khách hàng.

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là tiền đề cho tăng trưởng tín dụng an toàn. Đặc biệt tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng rau quả, thuỷ sản, hạt điều, cao su…. Riêng mặt hàng thuỷ sản đạt mức kỷ lục: 1,45 tỷ USD. Đây là một thuận lợi cho vốn tín dụng của các NHTM đầu tư trong các khâu sản xuất, thu mua, chế biến, xuất khẩu…. các ngành trước đây có sản phẩm bị tồn đọng, khó tiêu thụ, giá bán thấp, hoạt động thua lỗ, nợ đọng vốn ngân hàng với khối lượng lớn, phải giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ,…. như: xi măng lò đứng, mía đường, gạch tuy nen, cao su… thì nay giá bán đã được cải thiện, tình hình tiêu thụ khả quan. Tiền vốn vay và lãi treo đã thu hồi được. Đó là một điều kiện tạo ra sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng ngân hàng trong năm 2000. 4.2. Một số thách thức. - Việc điều hành theo lãi suất cơ bản bên cạnh những mặt thuận lợi của nó đã xuất hiện mặt hạn chế: cuộc cạnh tranh về lãi suất tiếp tục đẩy các NHTM cổ phần qui mô nhỏ càng đến chỗ khó khăn hơn. Trong khi một số NHTM quốc doanh cho các khách hàng lớn, có tín nhiệm vay với lãi suất chỉ có 0,62% - 0,65%/tháng thậm chí có lúc dưới 0,60%/tháng thì lãi suất huy động vốn của một số NHTM cổ phần kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng lên tới 0,60% - 0,62%/tháng (số liệu năm 2000). Đồng thời mức độ chênh lệch lãi suất cho vay giữa đối tượng này chỉ bằng 50% lãi suất cho vay của đối tượng khác. Nếu các Tổng Công ty lớn của Nhà nước chỉ phải vay với lãi suất 0,62% - 0,65%/tháng tại các NHTM quốc doanh thì hộ nông dân là thành viên phải vay vốn của quĩ tín dụng nhân dân với lãi suất 1,2% - 1,25%/tháng (số liệu năm 2000). Đây chính là những hộ gia đình có khó khăn chưa có điều kiện vay vốn của NHTM quốc doanh, họ phải chịu thiệt thòi trước cơ chế lãi suất mới. Trước đây khoảng cách chênh lệch này chỉ khoảng 30%-35%. - Tình hình tăng trưởng chậm vốn huy động cần phải có biện pháp để khắc phục. Riêng trong thời gian 6 tháng đầu năm 2001, vấn đề này đã được đánh giá có nguyên nhân trực tiếp là mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố từ đầu năm đến hết tháng 8/2001 đã giảm 3 lần, từ 0,75%/tháng xuống 0,65%/tháng, do đó lãi suất cho vay của các TCTD cũng giảm xuống từ 0,05 - 0,1%/tháng mỗi kỳ hạn đối với nội tệ; lãi suất tiền gửi ngoại tệ (USD) cũng giảm thấp. Tỷ giá biến động tăng ở mức cao hơn tạo tâm lý găm giữ ngoại tệ. Bộ Tài chính vẫn duy trì hình thức bán lẻ trái phiếu kho bạc Nhà nước với lãi suất cao hơn lãi suất huy động của các TCTD, nên đã tạo sự dịch chuyển vốn từ TCTD sang trái phiếu kho bạc. Bên cạnh đó, trong những tháng đầu năm, thị trường bất động sản sôi động, giá đất ở, nhà ở tăng cao, nhu cầu xây dựng mới phát triển; người Việt Nam đi du lịch nước ngoài và đi học tập tự túc ở nước ngoài tăng; thị trường tiêu dùng xe gắn máy, nhất là xe Trung Quốc mở rộng;…. Tình hình đó tác động rất lớn đến nguồn tiền gửi vào hệ thống ngân hàng. - Tình hình vốn tín dụng tăng chậm trong 6 tháng đầu năm 2001 cũng có nhiều nguyên nhân. Lúa gạo, cà phê và một số mặt hàng nông sản khác tiêu thụ chậm, làm đọng một khoản vốn vay ngân hàng khá lớn và ảnh hưởng đến nhu cầu vay mới. Một số vướng mắc trong thực hiện qui định về bảo đảm tiền vay; qui định về thế chấp; cho vay nông nghiệp, nông thôn. Mạng lưới cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo cho một số vùng sâu, vùng xa chưa được phủ kín; thủ tục vay vốn chưa thực sự đơn giản. Các chương trình kinh tế lớn, chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế như: nuôi tôm, xi măng, xuất khẩu gạo trả chậm. … Nhà nước chưa có qui hoạch và dự báo rõ ràng, chắc chắn, để tạo điều kiện cho các TCTD an tâm đầu tư vốn. - Tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng lên. Các TCTD phải tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong cho vay. Đặc biệt có thể gia tăng rủi ro về đạo đức, do chính cán bộ tín dụng trong việc thực hiện các thể lệ chế độ gây ra. Số lượng cán bộ tín dụng hầu như không tăng, điều kiện giao thông ở nông thôn không được cải thiện, đã làm tăng áp lực quá tải của cán bộ tín dụng, nhất là hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Đến lượt nó lại làm tăng lên tính rủi ro. Đồng thời trách nhiệm và khối lượng công việc của cán bộ tín dụng gia tăng, nhưng cơ chế tiền lương chậm được cải thiện, cũng làm tăng lên tính rủi ro của lĩnh vực tín dụng. - Chất lượng hoạt động của các NHTM nhìn chung còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao. 4.3. Giải pháp khắc phục đối với những thách thức nói trên. - Từng TCTD, mỗi chi nhánh và đơn vị cơ sở cần có những đánh giá, phân tích chi tiết và dự báo cụ thể về diễn biến môi trường tín dụng của riêng TCTD mình, riêng địa bàn và lĩnh vực chủ yếu của mình. Trên cơ sở đó có biện pháp thích hợp cho mở rộng tín dụng an toàn trong thời gian tới, cũng như chủ động đối phó với tình huống xảy ra. Có lẽ bài học luôn luôn đúng đó là cần phải đa dạng khách hàng, phân tán rủi ro, không nên quá tập trung vào một số đối tượng khách hàng, một số ngành nghề. - Các TCTD cần thường xuyên nghiên cứu thị trường, tâm lý khách hàng để có chính sách sản phẩm và lãi suất phù hợp, đổi mới và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, từng bước thực hiện chính sách khách hàng, công tác tiếp thị từ đó khai thác được nguồn vốn từ nội lực nền kinh tế, nhất là nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân song rất ổn định. - NHNN nên sớm sơ kết sau một thời gian điều hành theo lãi suất cơ bản, nên xem xét điều chỉnh biên độ cho vay, không nên để quá rộng, không lợi cho người vay vốn, nhất là ở địa bàn ít có môi trường cạnh tranh. - Khẩn trương mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo, NHNo & PTNT, thành lập các chi nhánh, điểm giao dịch, tổ vay vốn, … để xoá những xã trắng về tín dụng, đảm bảo 100% số xã, bản, làng trong toàn quốc các hộ nghèo được vay vốn; trọng điểm là khu vực Tây Nguyên, Lai Châu, Tây Nam Bộ,…. Nếu chưa thành lập được chi nhánh thì thành lập tổ cho vay. - Các TCTD và đơn vị cơ sở chấn chỉnh lại công tác quản trị điều hành cơ chế tài chính, cơ chế khoán và tiền lương. Rà soát lại thủ tục hồ sơ vay vốn, tiếp thu và chỉnh sửa những góp ý của dư luận về thái độ và phong cách phục vụ của cán bộ ngân hàng, nhất là những người trực tiếp tiếp xúc với dân. Thủ tục cho vay hộ nghèo cần đảm bảo đơn giản hơn và phù hợp với thực tế. Đơn xin vay có thể in sẵn và đọc cho người vay nghe. Nghiên cứu giao cho Ban xoá đói giảm nghèo của các xã xác nhận, chuyển cho ngân hàng phục vụ người nghèo giải ngân, không cần qua Ban đại diện HĐQT cấp huyện . Mức vốn và thời hạn vay cần nghiên cứu để có giải pháp xử lý để phù hợp với nhu cầu của khách hàng. - Tăng số lượng cán bộ của hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam cho trực tiếp hoạt động tín dụng. Cần thiết phải tăng thêm biên chế. Nêu cao vai trò thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngân hàng này trước yêu cầu đáp ứng vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình tín dụng nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vốn của nền kinh tế trên cơ sở đảm bảo an toàn, hiệu quả. Đổi mới hoạt động của các TCTD theo hướng giảm thiểu các thủ tục cho vay, tạo điều kiện cho người có nhu cầu vay vốn và có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, trả được nợ được tiếp cận vốn tín dụng thuận lợi, dễ dàng; tích cực tìm kiếm khách hàng, cùng với doanh nghiệp nghiên cứu, tìm kiếm, lựa chọn và quản lý dự án đầu tư, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức an toàn cho phép, tích cực xử lý các khoản nợ tồn đọng, nhất là việc khai thác, xử lý các tài sản thế chấp để giải phóng vốn đưa vào hoạt động. - Các TCTD cần thường xuyên chỉ đạo và thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, nhận thức đúng và thấm nhuần nguyên tắc: mở rộng kinh doanh luôn gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả, chống rủi ro đảm bảo an toàn vốn và tài sản. Từ đó, khắc phục sửa chữa kịp thời những sai sót, ngăn chặn sai sót mới phát sinh. - Cơ chế về cung cấp và truyền thông tín dụng cùng các văn bản pháp lý cho hoạt động này đã thực hiện được một thời gian, cần được sơ kết, chỉnh sửa những điều bất hợp lý hoặc không còn thích hợp. Trong khi thực hiện, cần phát huy vai trò đầu mối thu thập và cung cấp thông tin của chi nhánh NHNN trên địa bàn, vừa sát các TCTD và chi nhánh TCTD, lại sát các đối tượng khách hàng. Chương ba - Tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn Những năm qua, cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế từ bao cấp sang hạch toán kinh doanh, kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nói chung và NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng cũng thay đổi và phát triển. Riêng đầu tư vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn đã chuyển từ đầu tư qua tổ chức trung gian là hợp tác xã sang đầu tư trực tiếp cho từng hộ gia đình sản xuất kinh doanh. Sự chuyển đổi của cơ chế tín dụng này đã có tác dụng giảm bớt tầng nấc trung gian, đưa vốn tới người sản xuất nhanh nhạy hơn, giảm phiền hà, tạo thế chủ động cho người sản xuất, góp phần đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế. Cũng chính từ sự chuyển đổi này không những đáp ứng vốn cho nền kinh tế nhanh nhạy hơn mà bản thân ngân hàng cũng mở rộng tín dụng có hiệu quả hơn, nâng cao uy tín của ngành trên thương trường và đảm bảo thu nhập cho người lao động. 1. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. 1.1. Một số văn bản quan trọng thúc đẩy tiến trình hoạt động tín dụng ngân hàng trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. 1.1.1. Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. a. Nội dung cơ bản. Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg đã thể chế 5 vấn đề lớn về chính sách tín dụng cho khu vực này. Một là, phân loại cho vay vốn phát triển nông nghiệp và nông thôn thành ba loại chính: tín dụng thông thường, tín dụng ưu đãi một phần lãi suất, và tín dụng thực hiện chính sách. Hai là, mục đích mở rộng tín dụng được thể hiện sự nhất quán trong chính sách của Chính phủ với đối tượng cho vay là mọi nhu cầu vay vốn hợp pháp cần cho sản phẩm nông nghiệp và nông thôn đều là đối tượng có thể cho vay và cho vay theo loại cho vay thông thường. Ba là, điều kiện vay vốn được nới lỏng cho tuyệt đại đa số người vay là các hộ gia đình sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản; các HTX và doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ giao làm đầu mối xuất khẩu gạo, nhập khẩu phân bón. Bốn là, Nhà nước có chính sách xử lý rủi ro bất khả kháng do: lũ lụt, hạn hán, bão, dịch bệnh cho người vay và cho ngân hàng. Năm là, giao cho NHNo & PTNT Việt Nam là ngân hàng quốc doanh thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. b. ý nghĩa. Quyết định 67/1999/QĐ - TTg xét riêng về mặt kinh tế, đây là khâu đột phá mở rộng thị trường tín dụng đối với mặt trận nông nghiệp và nông thôn; khai thông dòng vốn ngân hàng, giúp hàng chục triệu hộ nông dân giảm bớt thất nghiệp do thiếu vốn sản xuất. Về chính trị xã hội, có thể nói Quyết định 67 đã và đang tạo điều kiện trực tiếp góp phần thực hiện yêu cầu xoá đói giảm nghèo đúng địa chỉ. Bởi suy cho cùng, mục tiêu, đối tượng xoá đói, giảm nghèo vẫn phải bắt đầu và kết thúc từ địa bàn nông thôn, nông nghiệp. Quyết định 67 giúp cho hoạt động NHNo & PTNT góp sức tạo môi trường xây dựng qui chế dân chủ cơ sở; củng cố một bước quan hệ kinh tế - xã hội mới trong nông nghiệp và nông thôn. Xét riêng ý nghĩa Quyết định 67 gắn với tính thương mại của tín dụng ngân hàng nông nghiệp, ít nhất cũng đã nổi rõ 2 vấn đề cơ bản: Một là, sự khơi thông dòng vốn ứ đọng phi lý ở ngân hàng; kịp tiếp sức cho hàng chục triệu hộ nông dân có dịp được vay hàng chục triệu đồng mở mang sản xuất. Nếu không có quyết định này, ngân hàng không có phép gì "chuyền máu"vào cơ thể kinh tế nông nghiệp. Hai là, Chính phủ đã quan tâm, nhìn nhận đúng yêu cầu phải xử lý rủi ro cho cả người vay và người cho vay thường bất khả kháng do tính khắc nghiệt của sản xuất nông nghiệp. Từ 2 vấn đề mấu chốt này của Quyết định 67, chỉ sau hơn một năm, khối lượng tín dụng nông nghiệp đã tăng trưởng hơn bao giờ hết; tỷ lệ nợ quá hạn hạ thấp; nguồn vốn huy động vào ngày càng nhiều hơn. Đáng chú ý, khi mặt trận chủ yếu của ngân hàng là tín dụng được khơi dậy hoạt bát, sôi động, phong phú hơn, có nghĩa là đồng tiền ngân hàng biết tìm đúng chỗ, sinh lợi, thì mặc nhiên phong cách của đạo quân làm tín dụng cũng "quần chúng hoá" nhanh hơn, "nồng độ quan chức" vốn trái khoáy với nghề và nghiệp ngân hàng đúng nghĩa, cũng giảm hẳn; chữ tín trong lòng dân được hồi phục và tăng lên. 1.1.2. Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15/12/1998 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam về việc ban hành qui định cho vay đối với khách hàng và qui định kèm theo (Quy định 180). Và hiện nay là quyết định số 06/QĐ/HĐQT ngày 18/1/2001 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam về việc ban hành qui định cho vay đối với khách hàng và qui định kèm theo (Qui định 06). Hiện nay, Quyết định số 180 và Qui định 180 đã được thay thế bằng Quyết định số 06 và Qui định 06. Tuy nhiên Quyết định và Qui định mới này mới có hiệu lực từ đầu năm 2001. Trong khi đó Qui định ban hành kèm theo Quyết định số 180 đã được thực hiện trong hơn 2 năm và có những ý nghĩa nhất định đối với hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy trong mục này chúng ta xem xét chung cho cả 2 qui định. a. Nội dung cơ bản. Qui định 180 và Qui định 06 là 2 văn bản pháp lý kế tiếp nhau thực hiện Luật các TCTD thể hiện rõ quan điểm mở rộng tín dụng có hiệu quả để đầu tư vốn cho phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói riêng mà mục tiêu của Luật đã đề cập. Với 2 văn bản này, cả người cho vay và người đi vay (bên cho vay - bên vay) đều bình đẳng trước pháp luật, ngân hàng được thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh mà không bị ràng buộc bởi một sự can thiệp hay một sự chỉ đạo nào. Nội dung chính của hai quy định đều là sự cụ thể hoá các điều khoản quy định trong quy chế cho vay của các TCTD đối với khách hàng do NHNN Việt Nam ban hành ( Quy chế 324 và quy chế 284 ) cho phù hợp với địa bàn và khu vực nông nghiệp, nông thôn mà NHNo & PTNT Việt Nam đang phục vụ, bao gồm các qui định về: đối tượng áp dụng, nguyên tắc vay vốn, điều kiện vay vốn, loại cho vay, đối tượng cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, mức cho vay, phương thức cho vay…. Hai qui định cũng nêu rõ về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng, của khách hàng. Đây là thể hiện sự bình đẳng và trách nhiệm của mỗi bên trong việc cho vay, vay vốn trả nợ. Quyền và nghĩa vụ đã rõ ràng, mỗi bên tự giác thực hiện, nếu vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Qui định 06 hiện nay đang áp dụng, ở một số điều có qui định thêm nội dung mới, sửa đổi hoặc viết lại cho rõ và đầy đủ hơn theo tinh thần của Qui chế 284, đó là: mở rộng đối tượng cho vay, bổ sung điều kiện vay vốn, các tỷ lệ an toàn và các bổ sung liên quan đến một số hình thức cho vay cụ thể như cho vay bằng ngoại tệ, cho vay trả góp…. b. ý nghĩa. Qui định 180 và Qui định 06 có một ý nghĩa vô cùng quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh và các đơn vị cơ sở của hệ thống NHNo &PTNT Việt Nam áp dụng đúng đắn, nhanh chóng, thuận tiện các qui định của NHNN về cho vay trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể mà hệ thống này phục vụ. Từ đó, thị trường đầu tư vốn cho nông nghiệp và nông thôn đã được mở rộng. Luật các TCTD được triển khai kịp thời và nghiêm túc, vốn cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân được gia tăng, kinh tế nông nghiệp và nông thôn sẽ được phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.2. Kết quả thực hiện. Tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tốc độ tăng trưởng cao. Tính đến ngày 30/9/2000, tổng dư nợ đạt 48.969 tỷ đồng tăng so với 31/3/1999 56,87% và tăng so với 31/12/1999 22,63%, cao hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay nền kinh tế (khoảng 17%). Đặc biệt, sau khi có Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ, ngoài NHNo & PTNT, các NHTM khác cũng tham gia cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn với tốc độ tăng trưởng nhanh. Đến ngày 30/9/2000, các ngân hàng này có dư nợ 16.300 tỷ đồng, chiếm 33% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn. Dư nợ cho vay của riêng NHNo & PTNT Việt Nam đến 31/12/2000 đạt trên 48.200 tỷ đồng, gấp 29 lần năm 1990, một tốc độ gia tăng hiếm có lĩnh vực nào đạt được. Tính đến hết tháng 6/2001, NHNo & PTNT Việt Nam có tổng nguồn vốn đạt 63.455 tỷ đồng, tăng 14,5%; trong đó nguồn vốn tự huy động đạt 51.112 tỷ đồng, tăng 18,8% so với cuối năm 2000; dư nợ cho vay đạt 57.250 tỷ đồng, tăng 18,5%; dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng 42,03%, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt 36.975 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 71,0%; tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống là 1,1% trong tổng dư nợ; chênh lệch tổng thu nhập trừ đi chi phí trong 6 tháng đầu năm 2001 đạt 266 tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ năm 2000. Vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển và chuyển biến vượt bậc của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam trong hơn một thập kỷ đổi mới. 1.3. Những vấn đề chung đang đặt ra trong quá trình thực hiện. Mặc dù chúng ta đã đạt được một số thành tựu trong nhiều năm qua, nhất là sau khi có Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ, song thựctiễn cũng đặt ra một số vấn đề cần phải nghiên cứu, hoàn thiện nhằm đẩy mạnh mở rộng tín dụng hơn nữa, vừa mở rộng nhưng đảm bảo hiệu quả kinh tế và an toàn vốn tín dụng ngân hàng. Dưới đây xin nêu một vài vấn đề lớn tổng hợp từ các địa phương và các ngân hàng như sau: - Vấn đề cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn liền tiêu thụ sản phẩm và mối quan hệ giữa chính sách tín dụng và chính sách thuế. - Chính sách lãi suất áp dụng ở nông thôn với thành thị, giữa lãi suất ưu đãi với lãi suất thông thường. - Cơ chế bảo đảm tiền vay: đối với kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, làng nghề truyền thống và doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp. - Mức cho vay, thời hạn cho vay và thủ tục cho vay - Các giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư đối với kinh tế hợp tác hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; năng lực quản lý, vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh… - Xử lý tài sản thế chấp, nhất là ruộng đất. - Chính sách đối với cán bộ tín dụng và nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng cùng với mở rộng màng lưới. Do tính chất đa dạng, phong phú của nông nghiệp, nông thôn cả tổ chức sản xuất, loại sản phẩm, lẫn trình độ dân trí không đều, sự khác biệt vùng kinh tế, …. tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn là chính sách và nội dung rộng lớn nên những vấn đề đặt ra trên đây cũng chỉ là một số nội dung cả ngân hàng và người vay quan tâm. 2. Đi sâu phân tích một số vấn đề đang đặt ra trong hoạt động tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2.1. Vấn đề lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn cao hơn so với lãi suất cho vay công nghiệp và đô thị. Rõ ràng, NHNN không chủ trương qui định và cũng không khuyến khích việc cho vay với mức lãi suất cao. Nhưng trên thực tế, mức lãi suất lại cao vì chi phí vốn đến hộ nông dân hiện đang là quá cao. Như chúng ta đều biết, NHNo &PTNT hiện đang cho vay trên một địa bàn khá rộng lớn, mà vốn đưa đến cho mỗi hộ dân chỉ mấy triệu đồng; mỗi cán bộ ngân hàng phải quản lý gần 1.000 hộ vay vốn, có nơi đến 2.000 hộ, nên chi phí vốn đến với người dân rất cao. Điều này, theo nghĩa nào đó, cũng thông thường như 1 kg muối, 1 kg phân bón mang từ miền xuôi lên miền ngược, thì nhất định là phải đắt hơn giá thông thường. Nếu muốn có giá rẻ hơn thì cần có sự bao cấp, bù lỗ, trợ giá, trợ cước. NHNo &PTNT và các ngân hàng khác khi cho vay nông nghiệp và nông thôn với lãi suất hiện nay không phải là đã "ăn quá dày" của dân như ai đó đã ngộ nhận, cũng hoàn toàn không phải là vì các ngân hàng này hoạt động quá tồi, nên dẫn đến chi phí quá lớn. Hiện nay việc cho vay nông nghiệp và nông thôn ở nước ta, chủ lực vẫn là NHNo &PTNT; một số ngân hàng khác cũng triển khai cho vay vốn đến nông nghiệp và nông thôn. Do đó, nói rằng có sự độc quyền của NHNo &PTNT khi định giá cho vay cao thì chưa phải là đúng. Tại kỳ họp Quốc hội năm 1996, Quốc hội có ra Nghị quyết qui định chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay của ngân hàng không được vượt quá 0,35%/tháng. Từ đó đến nay, hệ thống ngân hàng chưa bao giờ vi phạm điều này và trong thực tế, chênh lệch này bình quân trong hệ thống ngân hàng chỉ từ 0,2 đến 0,29%/tháng. Vấn đề đặt ra là chênh lệch như thực tế hiện nay có hợp lý hay không? Theo kinh nghiệm các nước nước phát triển và đang phát triển, muốn đảm bảo dự phòng rủi ro và hoạt động an toàn bền vững của hệ thống ngân hàng, thì chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay phải ở mức từ 6 đến 7%/năm. ở Việt Nam, chênh lệch này tính ra chỉ mới ở mức 2,5 đến 3%/năm, nên chưa phải là cao, thực tế là chưa đủ để đảm bảo cho hoạt động ngân hàng - nơi vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro; bởi vì chỉ cần một vài rủi ro; trong cho vay, không thu hồi được nợ, nếu các ngân hàng không có đủ vốn dự phòng cần thiết, thì rồi đến lúc ngân sách Nhà nước phải đứng ra cáng đáng và nền kinh tế thì không ổn định. Về NHNo &PTNT. Đây là 1 trong 4 NHTM quốc doanh lớn, có đến 1408 chi nhánh trên cả nước, hoạt động đến chi nhánh cấp 4 và ngân hàng lưu động đến tận xã với 23.300 cán bộ nhân viên. Màng lưới và bộ máy hoạt động lớn như vậy, nên chi phí cho hoạt động ngân hàng là rất lớn. Tuy vậy, vốn ngân hàng vẫn chưa đến được người dân một cách thuận lợi; bởi vì ngân hàng vẫn không đủ chi phí để tuyển thêm cán bộ thực hiện hoạt động tín dụng này. Mỗi cán bộ tín dụng, chỉ nên phục vụ khoảng từ 200-300 hộ dân thì mới tránh được phiền hà, thủ tục; mới nắm được từng hộ dân để cho vay có hiệu quả và thu hồi được vốn vay; chất lượng tín dụng và phục vụ dân chắc chắn sẽ tốt hơn (tuy rằng chất lượng này còn do cả những yếu tố khác cùng góp phần quyết định). Ngân hàng Ngoại thương có 22 chi nhánh với 3.200 cán bộ nhân viên, hoạt động tập trung ở các thành phố lớn và bến cảng lớn; trong khi NHNo &PTNT với 1.408 chi nhánh và 23.300 cán bộ, lại hoạt động trên một địa bàn rộng lớn là nông nghiệp và nông thôn, nên giữa 2 NHTM quốc doanh, điều kiện hoạt động và chi phí vốn sẽ rất khác nhau. Vậy thì NHNN và Chính phủ cần làm gì để lãi suất cho vay trong nông nghiệp và nông thôn ở mức không quá cao: Không nên cho những tồn tại và khó khăn nói trên là khách quan và cứ để mặc cho lãi suất cho vay ở mức thế nào cũng được. Hiện Chính phủ đang chỉ đạo và NHNN đã triển khai vấn đề này: Một là, chênh lệch lãi suất thực tế hiện nay còn thấp hơn mức cần thiết để duy trì hoạt động bền vững của ngân hàng. Nếu không có can thiệp của Chính phủ và có những hỗ trợ nhất định, thì nguy cơ còn cao hơn. NHNo &PTNT vẫn chưa trích lập được dự phòng rủi ro đủ ở mức cần thiết. Với số nợ tồn đọng lớn của hệ thống ngân hàng này, nếu mức trích dự phòng rủi ro như hiện nay (mà không có một hỗ trợ đặc biệt nào khác) thì phải mất khoảng 50 năm mới có thể giải quyết được. Điều đáng quan tâm là, nếu trích dự phòng nhiều thì làm tăng chi phí, mà tăng chi phí trong khi lãi suất cho vay vẫn thấp, thì dẫn đến ngân hàng không thể hoạt động được. Hai là, NHNo &PTNT có thể cho vay theo mức lãi suất hiện nay, là vì còn có những hỗ trợ ưu đãi của Chính phủ qua NHNN như trong khi các ngân hàng khác phải dự trữ bắt buộc tại NHNN bằng VNĐ theo mức5% thì NHNo &PTNT chỉ ở mức 3%, gần đây các ngân hàng khác là là 3%, thì NHNo &PTNT là 2% (dự trữ bắt buộc là khoản tiền ngân hàng huy động được, nhưng không được cho vay, mà phải để ở NHNN để đảm bảo thanh toán, tức không sinh lời; nên dự trữ bắt buộc càng ít, thì chi phí sẽ càng thấp). NHNo &PTNT còn được vay tái cấp vốn nhiều hơn và với lãi suất thấp hơn từ NHNN, trong khi các ngân hàng khác không được hưởng ưu đãi này. Ba là, lãi suất nói trên là lãi suất cho vay thông thường, còn lãi suất cho vay ưu đãi thì Chính phủ có rất nhiều loại tín dụng ưu đãi cho nông nghiệp và nông thôn như: ngân hàng phục vụ người nghèo, lãi suất cho vay là 0,5%/tháng (ở miền núi là 0,45%/tháng); lãi suất cho vay tôn nền làm nhà trên cọc là 0,7%/tháng; cho vay khắc phục hậu quả thiên tai từ cơn bão số 5, khắc phục lũ lụt đồng bằng sông Cửu Long và lũ lụt ở miền Trung là 0,5% đến 0,6%/tháng ; rồi xoá nợ cho những vùng thiên tai, giảm 30% lãi suất cho vay ở các vùng sâu, vùng xa… Trong tổng dư nợ cho vay nông nghiệp và nông thôn hiện nay thì 40% là dư nợ của các loại cho vay ưu đãi và theo chính sách. Nếu đòi hỏi và còn có các biện pháp hỗ trợ giảm lãi suất cho vay ưu đãi nhiều hơn nữa, thì chắc chắn là ngân sách Nhà nước và đất nước không thể chịu đựng được. Tuy vậy, vẫn còn có những khả năng để giảm lãi suất tiền vay, nhưng phải có một loạt điều kiện. Đó là, phải tiếp tục nâng cao năng lực quản lý và giảm chi phí hoạt động ngân hàng; cần giảm bớt những khoản nộp ngân sách Nhà nước của NHNo &PTNT ( cũng như của các ngân hàng khác); giảm lãi suất huy động vốn để giảm lãi suất cho vay… tất cả những điều này đều có điều kiện và giới hạn cả, cần cố gắng xem xét, nhưng không thể làm một cách tuỳ tiện. 2.2. Vấn đề cần cho dân vay nhiều hơn, với thời hạn dài hơn và thủ tục hợp lý hơn. NHNN đang tập trung xử lý để làm tốt hơn các vấn đề này. Về ý kiến ngân hàng cần cho vay bình quân 1 hộ 6 triệu đồng( tuy có vùng được vay nhiều, vùng vay ít) thì dân mới có đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, mới tạm đủ sống và để thoát nghèo đi lên. Nếu kinh doanh hàng hoá thì nông dân còn cần nhiều vốn hơn. Đúng là như vậy! nhưng cũng cần làm rõ những khó khăn hiện nay để tập trung giải quyết: Thứ nhất, ngân hàng hiện nay chưa đủ khả năng để huy động đựơc nhiều vốn hơn. NHNo &PTNT hiện có số vốn điều lệ là 2.200 tỷ đồng. Theo qui chế an toàn, ngân hàng này không được huy động quá 20.000 tỷ đồng để cho vay. Trong thực tế, ngân hàng đã huy động đến mức 30.000 tỷ đồng. Vậy muốn tăng vốn huy động, thì Chính phủ phải cấp thêm vốn cho ngân hàng làm vốn pháp định để tăng qui mô huy động vốn cho vay. Thứ hai, về mặt chính sách, phải tạo điều kiện để dân yên tâm gửi vốn dài hạn vào ngân hàng, thì ngân hàng mới có nhiều vốn dài hạn cho dân vay. Thứ ba, cải tiến thủ tục hành chính là việc có thể làm được, nhưng có cái rất khó là điều kiện đảm bảo tiền vay. Đây là những nội dung do luật định Bộ luật Dân sự qui định tất cả các khoản vay mượn đều phải có bảo đảm, trừ việc cho vay hộ nghèo. Luật các TCTD qui định cho vay phải có bảo đảm, trừ TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ (những rủi ro do khoản cho vay đó xảy ra, nếu do nguyên nhân khách quan thì Chính phủ phải xử lý). Giới hạn như vậy là rất hẹp, trong khi đó có nhiều TCTD không phải là của Nhà nước thì làm sao để họ cho vay? Cho nên việc đảm bảo tiền vay và thế chấp tài sản để đảm bảo tiền vay là một trong những vướng mắc chủ yếu hiện nay trong hoạt động tín dụng của ngân hàng (bên cạnh vương mắc về khả năng huy động vốn của hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vay). 2.3. Vấn đề đơn giản thủ tục cho vay hộ sản xuất nông dân. Đối với khách hàng là hộ nông dân, họ mong muốn thủ tục vay vốn của các TCTD, trong đó có nội dung yêu cầu cung cấp những thông tin về: kinh tế - phù hợp với trình độ quản lý của hộ sản xuất, để hộ thực hiện thuận lợi những thủ tục qui định, được giải quyết vốn nhanh kịp thời vụ cho sản xuất. Đối với các TCTD, thủ tục cho vay hộ sản xuất thì họ cần: Đầy đủ thông tin kinh tế - xã hội của hộ sản xuất ; đúng pháp luật qui định; giải quyết nhu cầu vay vốn cho hộ sản xuất nông dân nhanh, đáp ứng tính mùa vụ trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Về phương diện lý thuyết thì mong muốn của khách hàng và những qui định của các TCTD phải thống nhất với nhau: cùng một mục đích nhanh chóng - thuận lợi, đáp ứng yêu cầu: tính mùa vụ trong sản xuất nông lâm nghiệp, nhằm tác động đến hiệu quả cao cho sản xuất, đồng thời phải tuân thủ luật pháp. Song trong thực tế hiện nay, thủ tục cho vay hộ sản xuất nông dân của các TCTD chưa phù hợp với trình độ quản lý kinh tế của hộ nông dân, do qui định thủ tục quá phức tạp; nên khi mùa vụ đến, vốn đầu tư vào sản xuất cho hộ nông dân không kịp thời. Đây chính là điều mà chúng ta cần quan tâm để đưa ra những thủ tục vay vốn đối với hộ sản xuất nông dân phù hợp đáp ứng các yêu cầu như: nhanh chóng, thuận lợi kịp thời tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Để đưa ra những ý kiến đề xuất, xin đi vào phân tích hai nội dung sau: - Những căn cứ để TCTD đưa ra thủ tục vay vốn tín dụng đối với hộ sản xuất nông dân của nước ta. - Những tồn tại trong thủ tục cho vay vốn tín dụng hiện tại của các TCTD đối với hộ nông dân. Do những đặc điểm cơ bản về sản xuất của hộ nông dân ở nước ta là: sản xuất nhỏ, tự túc, tự cấp, năng suất lao động thấp. Trình độ quản lý của hộ sản xuất đơn giản - không có sổ sách theo dõi. Vùng kinh tế lớn trong sản xuất nông, lâm nghiệp của nước ta; lúa, cao su, cà phê… được hình thành trên cơ sở tổ chức sản xuất của nhiều hộ sản xuất trong vùng kinh tế chứ không như các nước tư bản ruộng đất tập trung trong tay một số nhà tư bản lớn thuê công nhân làm. Điều đó dẫn tới số lượng khách hàng rất lớn, món vay nhỏ; chi phí món vay cao; tính thời vụ trong kinh doanh tín dụng cho vay hộ sản xuất rất lớn từ các khâu: gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, tiêu thụ… Để đem lại hiệu quả kinh doanh tín dụng đối với hộ sản xuất nông dân, các TCTD phải tư duy để đạt 3 yêu cầu cơ bản đối với cho vay hộ sản xuất nông dân , đó là: Thứ nhất, giảm chi phí vật chất trong thủ tục tín dụng đối với hộ nông dân vì số lượng khách hàng rất lớn - nên các TCTD giảm chi phí giấy tờ - đi lại của mỗi hộ thì sẽ góp phần tiết kiệm chi phí cho toàn xã hội. Thứ hai, vốn tín dụng đảm bảo kịp thời mùa vụ cho sản xuất của hộ. Thứ ba, vốn tín dụng tác động tích cực đến hiệu quả trong sản xuất của hộ nông dân. Thực trạng về thủ tục cho vay vốn của các TCTD đối với hộ nông dân hiện nay: - Mẫu biểu qui định của các TCTD đối với hộ sản xuất quá nhiều. - Nội dung thông tin kinh tế qui định quá phức tạp, không phù hợp với khả năng quản lý của hộ sản xuất. - Nội dung thông tin thiết thực với yêu cầu của các TCTD như: thực trạng về kết quả sản xuất kinh doanh - qui mô sản xuất của hộ, dự kiến của hộ trong mùa vụ tới thì lại không có. Ví dụ: Một NHTM qui định thủ tục tín dụng đối với hộ sản xuất nông dân như sau: Đối với hộ sản xuất: đơn xin vay; dự án sản xuất kinh doanh; hợp đồng tín dụng. Đối với ngân hàng: báo cáo thẩm định dự án. Trong báo cáo thẩm định, tính toán các chỉ tiêu cực kỳ phức tạp như sau: + Báo cáo lưu chuyển tiền tệ + Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR: IRR = i1 + NPV1 x (i2 - i1) NPV1+ | NPV2| + Hiệu quả của dự án…. Nhằm đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn tín dụng cho hộ nông dân - hỗ trợ kịp thời vốn tín dụng cho mùa vụ - đem lại hiệu quả vốn tín dụng của các TDTD cao, qui trình và thủ tục cho vay hộ nông dân, xin đề xuất như sau: Bước thứ nhất : ở các tiểu vùng, vùng kinh tế, cây con của một địa phương do nhiều hộ sản xuất nông dân tham gia, do đó, các TCTD phải thẩm định các dự án vùng, tiểuvùng, cây con để đầu tư tín dụng. Còn đối với hộ nông dân tham gia sản xuất kinh doanh vào vùng, tiểu vùng, cây, con, các TCTD chỉ có thể xác định được mức đầu tư tín dụng của hộ vào dự án đó. Bước thứ hai: xác định mức cho vay và thủ tục vay đối với hộ sản xuất kinh doanh. Hồ sơ cho vay vốn tín dụng đối với hộ sản xuất nông dân chỉ bao gồm ba mẫu biểu: - Biểu 1: Giấy đề nghị vay vốn - kiêm kế hoạch vay vốn, trả nợ dùng cho hộ sản xuất nông dân. Biểu 2: Hợp đồng tín dụng vay vốn hộ sản xuất nông dân với NHTM - Biểu 3: Hợp đồng thế chấp tài sản hộ nông dân với NHTM (những hộ sản xuất vay theo qui định của Nhà nước không phải thế chấp tài sản chỉ cần 2 mẫu biểu). 3. Quan điểm và giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. 3.1. Những quan điểm. 3.1.1. Tín dụng ngân hàng vì mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội Với nhiệm vụ trọng tâm là: Thúc đẩy quá trình sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp và hộ sản xuất, kinh doanh để góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn, thúc đẩy phân công lao động xã hội theo từng ngành nghề cụ thể, thích hợp với kỹ năng, truyền thống của từng nơi với các tiêu thức như: tỷ suất lợi nhuận cho 1 đồng vốn; tỷ suất lợi nhuận trên 1 đơn vị diện tích, thu nhập bình quân của 1 lao động… trên cơ sở đó, qui mô tín dụng ngày càng được mở rộng. Quá trình đầu tư tín dụng sẽ góp phần thu hút được nhiều lao động nhàn rỗi, khuyến khích người lao động có trình độ tay nghề cao để hợp tác với nhau trong sản xuất hàng hoá, phân công lại lao động ngay trên từng địa bàn trong nông nghiệp và nông thôn. 3.1.2. Tín dụng ngân hàng hướng vào hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. Việc đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước. Thông qua đầu tư tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hạn chế rủi ro đối với sản phẩm hàng hoá trong thị trường nông nghiệp, nông thôn do sản xuất kinh doanh phân tán, giá thành hàng hoá cao … đi đôi với sự giúp đỡ của Chính phủ và các xí nghiệp quốc doanh đầu đàn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá tạo thế cạnh tranh trong cơ chế thị trường. 3.1.3. Tín dụng ngân hàng tác động tích cực đến quá trình cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư nông thôn. Định hướng đầu tư của tín dụng theo hướng kiên trì thực hiện nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi, đảm bảo lợi ích vật chất cho nông dân, góp phần cải tiến cơ cấu và lượng tiêu dùng trong dân cư nông thôn, tạo ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và quá trình tái sản xuất lao động, thoả mãn mọi nhu cầu vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế của nông dân, cải thiện các quan hệ xã hội ở nông thôn thông qua các tổ tín chấp với Hội nông dân, Hội phụ nữ…. 3.1.4. Tín dụng ngân hàng phải được hỗ trợ và chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh cho các NHTM như: môi trường pháp lý, các sản phẩm dịch vụ, thị trường đầu vào cho việc mở rộng đầu tư tín dụng. Khuyến khích sự ra đời của các TCTD hướng về nông thôn như ngân hàng loại IV của NHNo &PTNT; NHTM cổ phần nông thôn, QTDND cơ sở. Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ và quản lý chặt chẽ, tuân thủ các định chế tài chính; thực hiện Bộ luật lao động và bảo vệ người lao động, bảo vệ người đầu tư, giải quyết các khó khăn do thực tế phát sinh. 3.1.5. Tín dụng ngân hàng phải phù hợp với quy hoạch chung và quy hoạch của từng vùng. Phải lựa chọn những ngành, thành phần kinh tế, những vùng kinh tế cần được ưu tiên, đảm bảo sự tăng trưởng vững chắc, khai thác tiềm năng của mỗi vùng, mỗi ngành một cách tối ưu nhất. Trước hết, ưu tiên đầu tư sản xuất những sản phẩm đang có nhu cầu ổn định trên thị trường và hướng ra xuất khẩu. Đầu tư đa dạng các loại hình, đồng thời phát triển mạnh mẽ các làng nghề, ngành nghề để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm mới, thu hút thêm được nhiều lao động, tạo công ăn việc làm cho họ. Trong quá trình đầu tư cần ưu tiên những ngành nghề mà nguồn lực sẵn có, tiết kiệm vốn đầu tư, mang lại hiệu quả cao và để phát huy truyền thống, tinh hoa của dân tộc. 3.2. Những giải pháp. 3.2.1. Xác định chiến lược phát triển. Trong giai đoạn hiện nay và những thập niên đầu của thế kỷ 21, hệ thống NHNo&PTNT đang đứng trước một nhiệm vụ hết sức nặng nề vừa phải kinh doanh, vừa phải phục vụ trong điều kiện hoạt động cạnh tranh ngày càng sôi động; vì vậy, đối với NHNo&PTNT phải đề ra chiến lược và xác định vị trí bản thân trong hệ thống tài chính - tín dụng để có thể khai thác tối ưu các cơ hội và vượt qua những trở ngại trên cơ sở đó tập trung nguồn vốn để đầu tư có hiệu quả; muốn vậy phải: - Xác định thị trường truyền thống và thị trường tương lai: xác định thị trường là đề ra phương hướng cho vay của ngân hàng trong việc lựa chọn các thành phần, các ngành kinh tế có triển vọng để đầu tư. Đối với NHNo&PTNT, thị trường được ưu tiên hàng đầu là nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Từ việc xác định thị trường cần phải quan tâm đến các đối tượng đầu tư như đầu tư vào ngành nông - lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hướng ra xuất khẩu, chăn nuôi đại gia súc, gia cầm để xác định phương hướng đầu tư lâu dài. - Thị trường ưu tiên thứ hai là các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp, hải sản. Nó có vị trí, vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho nông nghiệp như phân bón, thiết bị, riêng ngành hải sản còn có vai trò là nòng cốt trong việc tạo lập nguồn thu ngoại tệ. Mở rộng tín dụng đối với lĩnh vực này, ngoài ý nghĩa giữ vai trò chủ đạo, nó còn có ý nghĩa về mặt tài chính đối với NHNo&PTNT nhằm tạo lập nguồn thu chung để bù đắp cho quá trình xử lý rủi ro do thiên tai hàng năm thường xuyên gặp phải trong lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn. 3.2.2. Xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài. Đây là lĩnh vực không kém phần quan trọng của quá trình tạo lập và cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thu thập thông tin do các chi nhánh ngân hàng loại IV, ngân hàng huyện thị gửi về để cung cấp cho lãnh đạo xử lý nhằm hoạch định chính sách kinh doanh sát hợp. Cụ thể là thu thập thông tin về khách hàng và căn cứ vào các chính sách của Nhà nước có liên quan đến công ngân hàng, nhất là chính sách về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra thông qua công tác đầu tư tín dụng ngân hàng, còn phục vụ các dịch vụ khác cho khách hàng như hoạt động tư vấn, đào tạo hướng dẫn, phân tích tình hình hoạt động doanh nghiệp... Vì vậy, việc xây dựng chiến lược kinh doanh phải xuất phát từ cơ sở để xử lý và đánh giá đúng đắn. 3.2.3. Tăng trưởng nguồn vốn để bổ sung cho tín dụng. Đối với NHNo&PTNT, phải coi trọng nguồn vốn sao cho có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đề ra,chính sách huy động vốn phải phù hợp với khả năng phát triển của nền kinh tế, với tập quán tiêu dùng và tiết kiệm của nhân dân địa phương. Muốn vậy, trước hết ngân hàng phải nâng cao uy tín của mình bằng cách: - Nâng cao tiện ích cho khách hàng, cải tiến thủ tục lề lối làm việc đặc biệt là tăng tiện ích trong lĩnh vực thanh toán, mở rộng khối lượng tài khoản cá nhân, vấn đề này đang gặp phải không ít khó khăn. Từ thực tế ở địa phương cho thấy, phát triển tài khoản cá nhân là rất đúng đắn vì một bộ phận dân cư đã dùng tài khoản để chi trả công lao động, mua sắm hàng hoá, chuyển tiền, séc thanh toán.... đã góp phần giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, thúc đẩy thanh toán qua ngân hàng. - Cần có cơ chế sử dụng lãi suất linh hoạt như "cầu nối" giữa sản phẩm ngân hàng và khách hàng, lãi suất phải có khoảng cách phù hợp giữa giá mua vào và giá bán ra, tạo điều kiện cho khách hàng chấp nhận được. Việc vận dụng lãi suất linh hoạt, hấp dẫn, thực dương còn phải tính đến lạm phát và nhằm khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng. - Trong quá trình huy động vốn, cần chú ý đến tăng trưởng nguồn vốn trung, dài hạn, đó là một đòi hỏi rất lớn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ những năm trước đây, chủ trương của NHNo&PTNT Việt Nam đề ra là tăng tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên 40% so với tổng dư nợ, thực tế mục tiêu này đã đạt được trên 40%, nhưng mức độ huy động nguồn vốn để cho vay còn nhiều hạn chế, vì vậy cần phải: phát hành chứng chỉ tiền gửi có khả năng mua bán lại trên thị trường; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu NHNo&PTNT có mục đích, thời hạn thanh toán trên 12 tháng gắn với các dự án tín dụng của từng vùng, tiểu vùng, đảm bảo giá trị của tiền gửi, đưa ra các loại chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu được đảm bảo bằng ngoại tệ mạnh. 3.2.4. Mở rộng đầu tư tín dụng đi đôi với tăng cường quản lý vốn cho vay đối với kinh tế nông nghiệp và nông thôn. a. Cho vay trực tiếp đối với khách hàng, mở rộng dịch vụ đến tại ngân hàng liên xã, liên phường. Thực hiện giải ngân trực tiếp (bán lẻ) trong hệ thống NHNo&PTNT vẫn theo 3 cách: hộ đến trực tiếp; ngân hàng có tổ lưu động đến giải ngân thu nợ đối với người vay tại các điểm đã định (chủ yếu đối với cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay khắc phục hậu quả lũ lụt...) Cho vay thông qua các tổ nhóm tuy có làm được, nhưng chưa đồng bộ, tỷ lệ còn thấp, cách thức để tổ chức triển khai chưa thống nhất, vấn đề đặt ra ở đây là tiếp tục xây dựng ngân hàng loại 4, phấn đấu 5 xã có một ngân hàng, mở rộng cho vay qua tổ nhóm. Vì thông qua tổ nhóm, ngoài trách nhiệm giám sát, giúp đỡ, chấn chỉnh các thành viên làm không đúng, còn mang tính công khai, thích ứng với người lao động ở nông thôn sống bằng tình cảm cần có sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau. Việc điều tra xây dựng tổ nhóm ban đầu có những khó khăn, nhưng về sau thủ tục sẽ đơn giản, giảm bớt chi phí cho hoạt động kinh doanh. Cho vay qua tổ nhóm còn là biện pháp giảm tải đối với cán bộ tín dụng, bởi vì tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng đang là vấn đề đặt ra đối với hệ thống NHNo&PTNT, nhất là những nơi một cán bộ tín dụng quản lý từ 1.000 đến 1.500 hộ vay với số dư nợ từ 8 - 9 tỷ đồng, trong đó lại phải xử lý những món nhỏ lẻ ở địa bàn không thuận lợi như vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo.. Tình hình trên cần được cải thiện để khắc phục, nếu không sẽ xảy ra những hậu quả: cán bộ tín dụng không đảm bảo được quy trình nghiệp vụ và có nhiều biện pháp đối phó như kiểm tra trên giấy tờ, ngồi nhà để thẩm định cho vay. Bản thân người vay vốn sử dụng vốn sai mục đích mà không thấy cán bộ tín dụng nhắc nhở. Vì vậy, NHNo&PTNT cần có chính sách thoả đáng đối với cán bộ tín dụng để đảm bảo nâng cao chất lượng tín dụng, mang lại lợi ích cho cả hệ thống. b. Chuyển mạnh cho vay theo dự án vùng, tiểu vùng. Cần coi trọng cách mạng công nghệ và cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn và đặt mục tiêu của ngân hàng kinh doanh theo hướng đa năng, trước hết là coi trọng giữ vững an ninh lương thực, có xuất khẩu, đồng thời đa dạng hoá các loại cây trồng vật nuôi, mở mang và phát triển các làng nghề truyền thống, phát huy thế mạnh của từng vùng kinh tế trong nước như: - Vùng đồng bằng tập trung cho thâm canh cây lúa, phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, giải quyết lao động tại chỗ. - Vùng ven biển phát triển nghề cá gắn nông nghiệp với ngư nghiệp, lâm nghiệp. - Vùng trung du và miền núi phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng phòng hộ kết hợp với chăn nuôi đại gia súc. - Vùng ven đô thị đẩy mạnh cho vay hình thành vành đai thực phẩm để cung cấp cho các thành phố, đồng thời đẩy mạnh sản xuất chế biến hàng nông sản và hướng ra xuất khẩu. c. Đầu tư các chương trình phát triển theo hướng kinh doanh đa năng. Trong quá trình đầu tư tín dụng, ngoài các thị trường đã được xác định cần tập trung các thế mạnh khác như các chương trình phát triển du lịch và dịch vụ, khai thác tối đa tài nguyên du lịch hiện có, phục vụ cho việc đẩy nhanh phát triển kinh tế, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp trên cơ sở áp dụng phương thức tín dụng linh hoạt phải xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp, hộ sản xuất để cho vay; như cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp... Mở rộng đối tượng đầu tư đối với tín dụng trung, dài hạn: tranh thủ nguồn vốn trong nước và nước ngoài để tập trung cho vay theo các dự án phát triển kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, hộ sản xuất trong đó cần chú trọng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng tỷ trọng dư nợ tăng từ 40-45% nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng kinh doanh đối ngoại: trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng nội tệ đều vay vốn NHNo&PTNT, nhưng lại giao dịch bằng ngoại tệ với Ngân hàng Ngoại thương là chủ yếu. Trong thời gian tới, NHNo&PTNT phải dồn mọi nỗ lực kinh doanh đẩy mạnh tín dụng đầu tư khép kín giữa tín dụng nội tệ và tín dụng ngoại tệ, tạo nguồn thu để nâng cao hiệu quả kinh doanh theo xu thế phát triển của một ngân hàng hiện đại. d. Mở rộng các loại dịch vụ ngân hàng. Trước hết mở rộng mạng lưới tiếp cận khách hàng, ngoài việc cho vay trực tiếp còn cho vay theo hình thức bán buôn, cho vay thông qua các tổ chức kinh tế làm trung gian như ngân hàng cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân, các doanh nghiệp Nhà nước. Phát triển sản phẩm mới, trong đó chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn, những nơi mà Nhà nước chưa có điều kiện đầu tư như thuỷ lợi nội đồng, hệ thống kênh mương cấp II, cấp III, cấp IV, các đường sá giao thông trong từng thôn xóm, điện cho sản xuất và cho sinh hoạt. Xúc tiến cho vay xây dựng nhà ở nông thôn theo các tuyến dân cư đã được quy hoạch. ở đây, mục tiêu thương mại là thứ yếu, chủ yếu là mục tiêu thực hiện chính sách xã hội và nâng cao trình độ dân trí ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì mục tiêu thương mại chỉ thành công khi mục tiêu kinh tế - xã hội thành công. Phát triển hình thức tín dụng thuê mua, một yêu cầu rất cấp thiết của NHNo&PTNT trước thị trường tín dụng rộng lớn và đa dạng; từ trước tới nay, hình thức này đang còn nhiều hạn chế, ngân hàng cần được mở ra trong mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh đến các hộ sản xuất để đáp ứng nhu cầu vốn, đặc biệt là chú trọng đến thị trường nông thôn còn bỏ ngỏ. e. Hạn chế rủi ro tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sản phẩm của các doanh nghiệp, hộ sản xuất không phải lúc nào cũng được thị trường chấp nhận, nếu sản phẩm làm ra không tiêu thụ được thì doanh nghiệp, hộ sản xuất sẽ gặp rủi ro không trả được nợ ngân hàng. Vấn đề đặt ra ở đây là mở rộng tín dụng phải đi đôi với các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro. Đối với NHNo&PTNT phải ngăn chặn những hành vi làm sai, cố ý lừa đảo của cán bộ ngân hàng như nhận hối lộ, tham nhũng, sử dụng thông tin nội bộ nhằm mưu lợi cá nhân, thông đồng với khách hàng để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vay, vi phạm các nguyên tắc qui định. Cần phải có các giải pháp đồng bộ và thường xuyên như: - Tuyển chọn và bố trí đủ cán bộ cho các ngân hàng cơ sở theo yêu cầu của công việc và có tiêu chuẩn rõ ràng để bố trí phù hợp. - Quan tâm đến công tác đào tạo đúng mức trên mọi phương diện. - Cần có chế độ quản lý điều hành chặt chẽ theo hướng quản lý tổ 3 người. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối chiếu tài khoản cho vay của khách hàng với ngân hàng, nhất là các khoản tín dụng thông qua các tổ tín chấp vay vốn. - Đối với khách hàng vay vốn, cần tuyên truyền phổ biến nghiệp vụ để họ thực hiện tốt các nguyên tắc, chế độ, sử dụng đồng vốn có hiệu quả, đảm bảo trả nợ sòng phẳng cho ngân hàng. - Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, cần tạo môi trường và cơ sở pháp lý thực hiện sự liên kết với các TCTD trên địa bàn, khuyến khích khai thác các nguồn vốn tại chỗ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, tạo hành lang pháp lý cho NHTM hoạt động. Tóm lại, đầu tư phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay và những thập niên đầu của thế kỷ 21 là con đường hữu hiệu để giải quyết những mâu thuẫn đặt ra đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhưng cần nhận thức rằng, chỉ có đầu tư tín dụng ngân hàng thì không thể giải quyết mọi vấn đề của nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì ngoài việc đầu tư của ngành ngân hàng, cần phải có sự phối hợp giải quyết đồng bộ của các ngành và sự hỗ trợ tích cực của nhà nước về các vấn đề như: Giá bảo hộ đối với nông sản phẩm chủ yếu, thành lập quỹ điều tiết rủi ro, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, xây dựng hệ thống thị trường trong và ngoài nước, xoá bỏ sự phân cách giữa thành thị và nông thôn, phát triển khoa học kỹ thuật đặc biệt là phổ cập khoa học kỹ thuật nông nghiệp, phát triển văn hoá, giáo dục... có như vậy thì việc mở rộng đầu tư tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng trên đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mới mang lại những thành quả thiết thực. Kết luận Thực tiễn cho thấy, tín dụng ngân hàng đã và vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình: cung cấp vốn cho toàn nền kinh tế, hỗ trợ cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, giúp đỡ thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước. Để làm được như vậy, mọi quy định của Nhà nước và ngành ngân hàng đều phục vụ cho việc duy trì sự tồn tại của hai yếu tố: niềm tin và chữ tín. Khách hàng tin tưởng ở ngân hàng nên mới chịu gửi tiền vào đấy. Khi ngân hàng cho vay tiền là ngân hàng tin ở người vay sẽ trả lại tiền. Ngược lại, ngân hàng giữ chữ tín trả lại tiền cho người gửi đúng theo thoả thuận; người vay tiền giữ chữ tín: vay, trả, trả, vay. Vì thế, cơ chế hoạt động của tín dụng ngân hàng càng vận hành trôi chảy, càng thuận tiện, càng đảm bảo tránh được những rủi ro thì vốn ngân hàng càng dễ dàng phát huy vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế, khách hàng đến quan hệ với ngân hàng càng nhiều hơn trên cả hai phương diện: gửi tiền và vay tiền; bản thân ngân hàng cũng đạt được mục tiêu kinh doanh có hiệu quả (có lãi). Tuy nhiên, để đề ra được một cơ chế tín dụng ngân hàng thích hợp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố thực tiễn đóng vai trò quan trọng nhất. Chúng ta không thể có được một cơ chế tín dụng ngân hàng đúng đắn nếu không bám sát thực tiễn. Cơ chế tín dụng ngân hàng không thể là bất biến, nó cần được nghiên cứu thường xuyên để có thể kịp thời loại bỏ hoặc chỉnh sửa những quy định không còn phù hợp và bổ sung những quy định mới phù hợp với thực tiễn vừa phát sinh. Để đạt được điều đó cần có sự nỗ lực của tất cả các bên: Nhà nước, ngân hàng và khách hàng. Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí Ngân hàng - Số 7 năm 1999 - Số 5,7 và số chuyên đề tháng 10 năm 2000 - Các số 1, 2, 3, 6, 7, 8 năm 2001 2. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ số 24 năm 2000 3. Tạp chí Phát triển Kinh tế - Số 121 năm 2000 - Số 123 năm 2001 4. Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 43 năm 2001 5. Thời báo Ngân hàng số75 năm 2001 6. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 111 năm 2000 7. Văn bản pháp quy số 18 năm 2000 8. Quy chế cho vay đối với khách hàng - NHNo&PTNT Việt Nam, tháng 12 năm 1998. 9. Quy chế cho vay đối với khách hàng - NHNo&PTNT Việt Nam, tháng 1 năm 2001. 10. Lý thuyết tài chính tiền tệ, tập 2 - Đại học KTQD, năm 1994 11. Vở ghi bài giảng môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ, lớp Ngân hàng A - K41, ĐHKTQD Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35164.doc
Tài liệu liên quan