Đề án Tình độc lập của kiểm toán viên

Tính độc lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với kiểm toán viên. Báo cáo của người đó sẽ không có giá trị, trừ khi họ có thể lập trương trình công tác của mình theo cách thích hợp nhất, tiến hành điều tra không có hạn chế và báo cáo các kết quả thu được một cách rõ ràng và khách quan. Vẻ bề ngoài độc lập ít nhất thì cũng quan trọng như thái độ của kiểm toán viên, mặc dù có thể là những người đọc báo cáo đó buộc phải tin vào tính chính trực của kiểm toán viên nhiều hơn mức độ mà học nghĩ. Em hy vọng đế tài này sẽ cung cấp được những thông tin hữu ích, phục vụ cho những mục đích khác nhau nhằm củng cố những vấn đề liên quan đến tính độc lập của kiểm toán viên.

doc22 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình độc lập của kiểm toán viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I Lời mở đầu Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời. Nguyên nhân của những sự ra đời đó thì rất đa dạng, nhưng tựu chung lại chúng đều nhằm giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong xã hội, phục vụ cho cuộc sống với chất lượng ngày càng cao của loài người . Tất nhiên kiểm toán ra đời cũng là để nhằm thực hiện mục đích đó.Thực tế chỉ ra rằng, một ngành mới dù là thuộc lĩnh vực nào, loại hình hoạt động gì thì cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản . Kiểm toán cũng hoạt động dựa trên những nguyên tắc cơ bản của riêng nó, trong đó tính độc lập là nguyên tắc đầu tiên mà chúng ta phải kể đến. Nhận thức được vai trò quan trọng của nguyên tắc này , cũng như nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, em quyết định chọn đề tài “ Tình độc lập của kiểm toán viên” cho đề án môn học của mình. Điều đó không chỉ có ý nghĩa củng cố kiến thức mà em được học và nghiên cứu tại mái trường đại học mà còn với hy vọng góp phần thiết thực cho công việc sau này của bản thân. Bài viết của em cơ bản được chia thành những phần chính sau: I . Lý luận chung về tính độc lập của kiểm toán viên II. Những nhân tố hạn chế tính độc lập của kiểm toán viên III. Nhưng quy định về sự độc lập của kiểm toán viên tại Việt Nam IV. Một số giải pháp nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Quang Quynh đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Phần hai Nội dung I. Lý luận chung về tính độc lập của kiểm toán viên 1.Các quan điểm khác nhau về tính độc lập của kiểm toán viên Nhìn chung thì khái niệm độc lập được hiểu là sự khách quan, không bị phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh khi đưa ra một quyết định hay một ý kiến nào đó. Tuy nhiên , khái niệm độc lập cũng được hiểu cụ thể khác nhau khi có sự khác biệt về văn hoà, xã hội, chính trị…, điều này cũng có nghĩa là các yếu tố này có thể gây ảnh hưởng tới tính độc lập của kiểm toán viên . Tương tự , khái niệm độc lập cũng được hiểu cụ thể cho từng lĩnh vực khác nhau, và kiểm toán không phải là một ngoại lệ. Cũng theo lập luận trên thì ngay cả trong lĩnh vực kiểm toán khái niệm này cũng được hiểu là có nững nét đặc thù ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên , dù có hiểu thế nào đi nữa thì khái niệm độc lập vẫn phải đảm bảo một ý nghĩa chung, cơ bản như đã trình bày ở trên . Tiếp theo đây, chúng ta đi xem xét các quản điểm về tính độc lập của kiểm toán viên. Theo chuẩn mực kiểm toán được nhiều người chấp nhận (GAAS) Thái độ độc lập của kiểm toán viên được xem xét là phụ thuộc vào hai yếu tố bản chất của kiểm toán viên và cách nhìn nhận của công chúng. Có thể bản chất của kiểm toán viên là không cho phép bất cứ yếu tố nào có thể ảnh hưởng tới tính độc lập của bản thân mình, ngay cả khi kiểm toán viên có dính líu về mặt kinh tế cũng như tình cảm với đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên chỉ bản chất thì vẫn chưa đủ mà phải bảo đảm về mặt hình thức thể hiện. Chẳng hạn , một khi kiểm toán viên có dính líu về mặt kinh tế hoặc quan hệ thân nhân thì dù thực chất của kiểm toán viên là độc lập thì công chúng vẫn cho rằng điều đó không được đảm bảo. Như vậy , tính độc lập của kiểm toán viên theo GAAS được gắn với quan điểm của công chúng. Điều này cúng có nghĩa là muốn nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên thì phải cải thiện cái nhìn của công về quan hệ của kiểm toán viên với khách hàng. Có nghĩa là phải quan tâm đến yếu tố hình thức theo đúng tầm quan trọng của nó. Theo cách định nghĩa của các hiệp hội kiểm toán ở Anh Kiểm toán là “việc kiểm tra độc lập và trình bày ý kiến về báo cáo tài chính của một doanh nghiệp”. Như chúng ta đã biết kiểm toàn cần làm tăng mức độ tin cậy của báo cáo tài chính. Mục tiêu này sẽ không thể thực hiện được nếu người sử dụng báo cáo kiểm toán cho rằng vẫn còn những mối liên hệ giữa đơn vị được kiểm toán với công ty kiểm toán hoặc với kiểm toán viên. Kiểm toán viên có thể dược xem là độc lập nếu người đó giải quyết mâu thuẫn này một cách thành thực, không lẩn chốn trách nhiệm của mình trước những người sử dụng báo cáo kiểm toán. Điều này có thể đòi hỏi ban giám đốc của khách hàng thay đổi cách nhìn nhận về một vấn đề kế toán hay là kiên quyết công bố báo cáo kiểm toán biểu lộ thái độ dè dặt về những con số hay những tư liệu mà giám đốc của khách hàng đã phát hành trước đó. Nếu không thì các giám đốc của khách hàng sẽ có những biện pháp trả thù. Trong trường hợp kiểm toán viên cố tình đưa ra những ý kiến không trung thực thì kiểm toán viên đó sẽ có thể bị trừng phạt về thái độ đó. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Tuy rằng ở các nước khác nhau thì quan điểm về tính độc lập cũng có những nét đặc thù riêng, nhưng tựu chung lại chúng vẫn tuân theo những ý nghĩa cơ bản. Tổng hợp những quan điểm trên, áp dụng vào tình hình Việt Nam , trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, chúng ta đã đưa ra cách hiểu về tính độc lập của kiểm toán viên như sau: Độc lập là nguyên tắc cơ bản của nghề kiểm toán , và trong quá trình hành nghề kiểm toán , kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phốihoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào.Chuẩn mực này cũng đồng thời khẳng định , kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc có quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần , cho vay , hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng …; kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho những công ty khách hàng mà mình có quan hệ nhân thân; kiểm toán viên không được cung cấp dịch vụ kiểm toán cho đơn vị khách hàng mà mình cung cấp các dịch vụ tư vấn khác.. 2. Độc lập trong các giai đoạn kiểm toán 2.1. Độc lập trong giai đoạn lên chương trình kiểm toán. Thể hiện: kiểm toán viên có quyền độc lập lựa chọn chiến lược cơ bản vận dụng vào cuộc kiểm toán. Nhân tố ảnh hưởng: Một điều tất nhiên là báo cáo kiểm toán sẽ không có giá trị , trừ khi nó được xác nhận bằng một kết quả điều tra kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều này cũng có thể là những bất lợi cho ban quản trị đơn vị khách hàng khi họ có những điều cần che giấu. Thực vậy, nếu ban quan trị đơn vị khách hàng muốn che giấu điều gì đó , thì họ sẽ giảm đến mức tối thiểu khả năng khám phá ra nó. Ngay cả trong trường hợp không có gì để che giấu, thì đơn vị khách hàng vẫn muốn giảm tối thiểu chi phí kiểm toán cũng như công bố báo cáo tài chính của mình một cách sớm nhất khi kết thúc năm tài chính. Nếu kiểm toán viên có thể bị thuyết phục giảm bớt công việc thực hiện trong quá trình kiểm toán, thì điều đó có thể tác dụng đến việc giảm chi phí kiểm toán hay đến thời hạn hoàn thành cuộc kiểm toán. Như vậy,kiểm toán viên phải được tự do xắp xếp theo cách mà họ thấy là thích hợp. Quyền tự do này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mối quan hệ của công ty kiểm toán và đơn vị khách hàng đang trên đà phát triển. Cách tiếp cận của kiểm toán viên cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình khi mà công ty khách hàng phát triển lên hay mở rộng ra các lĩnh vực mới. Hơn nữa, các kỹ thuật kiểm toán mới không ngừng được phát triển lên. Không thể chấp nhận để một bên nào đó cản trở quá trình kiểm toán trong việc lựa chọn chiến lược cơ bản mà kiểm toán viên có ý định sử dụng vào công việc của họ. 2.2. Độc lập trong quá trình thực hiện kiểm toán Thể hiện: Việc độc lập trong việc lên chương trình đảm bảo cho kiểm toán viên có thể lựa chọn chiến lược phù hợp nhất cho công việc kiểm toán của mình. Độc lập trong điều tra, thực hiện kiểm toán sẽ đảm bảo cho họ thực hiện chiến lược của mình . Kiểm toán viên phải có quyền tự do tiếp cận các tài liệu và sổ sách ghi chép của công ty. Mọi câu hỏi đặt ra về hoạt động của công ty đều được phúc đáp đầy đủ. Nhân tố ảnh hưởng: Việc chúng ta nhấn mạnh luận cứ cho rằng kiểm toán viên không bị hạn chế trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán là ý tưởng cho rằng công việc kiểm toán cần được thực hiện với sự hợp tác đầy đủ của ban lãnh đạo cũng như cán bộ cong nhân viên của công ty đó. Nếu kiểm toán viên cho rằng họ gặp khó khăn trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán mà họ cần, thì công việc kiểm toán có thể trở nên tốn kém hơn rất nhiều. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây ra những ấn tượng xấu cho những người quan tâm, do vậy điều này sẽ làm cho uy tín của các giám đốc không còn được tốt nữa. 2.3. Độc lập trong giai đoạn lập báo cáo kiểm toán Thể hiện: kiểm toán viên phải khách quan , trung thực trong việc nêu ý kiến trên cơ sở kết quả công việc kiểm toán mà mình đã thực hiện. Nhân tố ảnh hưởng: Nếu các giám đốc đã muốn lừa dối những người quan tâm bằng cách công bố những thông tin sai lệch hay không đầy đủ, thì chắc chắn họ sẽ không, muốn để cho các kiểm toán viên công khai ra điều đó.Đó là lúc mà sự độc lập của kiểm toán viên trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Phần lớn những bất đồng đều bắt đầu từ những ý kiến, quyết định chủ quan, như cách giải quyết một tiêu chuẩn kế toán hay là một con số ước tính, như khoản dự phòng cho những khoản khó đòi. Nếu kiểm toán viên cứ khăng khăng không nhất chí với khách hàng thì điều đó cũng không đảm bảo rằng kiểm toán viên sẽ nhận được sự ủng hộ của nhưng quan tâm khác, như là các cổ đông trong công ty khi họ có nhưng quan điểm chung với giám đốc vì một mục tiêu nào đó. Kiểm toán viên thường hay bị cám dỗ theo con đương it bị chống đối một cách đơn giản là ngả theo ý kiến ban quản trị khách hàng trong tất cả những mâu thuẫn, ngoại trừ những bất đồng cơ bản nhất. Làm như vậy là kiểm toán viên tránh được sự trừng phạt có thể bị đe doạ bởi ban quan trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, lại có nguy cơ sẽ bị chừng phạt nghiêm khắc hơn nếu như bị phát hiện, thế nhưng điều đó chưa chắc sẽ xẩy ra. Dĩ nhiên, việc làm này sẽ gây ra những sai lầm cho người sử dụng báo cáo tài chính đã được kiểm toán vì khi đó báo cáo kiểm toán sẽ được trình bày một cách mơ hồ, khó hiểu.Trong trường hợp như vậy việc tiến hạnh kiểm toán sẽ bị giảm thiểu ý nghĩa vốn có của nó. II. Những hạn chế với dự độc lập. Trong thực tế , kiểm toán viên thường phát sinh những mâu thuẫn với ban quản trị doanh nghiệp khách hàng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán. Thật khó có thể nói rằng kiểm toán viên có khẳ năng chống chế lại toàn bộ ý đồ can thiệp về việc đưa ra ý kiến xét đoán của mình trong những trường hợp như vậy, lý do là vì cán cân quyền lực lại thường hay nghiêng về bên lãnh đạo của doanh nghiệp khách hàng. Chúng ta phải thừa nhận một thực tại là kiểm toán viên là người cung ứng dịch vụ kiểm toán. Để tồn tại và phát triển thì công ty kiểm toán , hay bản thân kiểm toán viên cần phải thu hút và dữ chân các khách hàng. Nếu ban giám đốc doanh nghiệp khách hàng có khả năng đe doạ , hay gây ảnh hưởng đến thu nhập của kiểm toán viên cũng như của công ty kiểm toán thì họ cũng có khả năng phá hoại hay là gây ảnh hưởng tiêu cực tới tính độc lập của kiểm toán viên . Những vấn đề liên quan đến tính độc lập có thể được xem xét dưới hai mảng chính, cụ thể như sau: 1. Mối quan hệ với khách hàng 1.1.Thông qua phí kiểm toán Như đã nói ở trên, chúng ta không thể phủ nhận một thực tế là kiểm toán viên hay công ty kiểm toán là đơn vị cung cấp dich vụ kiểm toán , và sau đó là nhận khoản phí kiểm toán như đã thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Điều này tạo ra một nhu cầu bức bách và khẩn thiết là kiểm toán viên đảm bảo chắc chắn rằng mình không gây nguy hiểm tới khoản thu nhập đó. Trong thực tế , số phí kiểm toán mà đơn vị khách hàng chi cho đơn vị cung cấp dịch vụ kiểm toán được thoả thuận giữa ban quản trị khách hàng và đơn vị cung cập dịch vụ này.Như vậy có nghĩa là bằng cách từ chối chi trả khoản chi phí thoả đáng cho công ty kiểm toán ,ban giám đốc khách hàng có thể gây sức ép đối với kiểm toán viên , và công ty kiểm toán trong việc mở rộng phạm vi điều tra , hay việc đưa ra ý kiến trung thực về thực trang , tình hình tài chính doanh ngiệp như nó vốn có. Các thành viên trong ban quản trị cũng có thể gây ảnh hưởng tới phí kiểm toán bằng cách đe doạ thay đổi công ty kiểm toán trong năm tới. Điều này chứng minh rằng kiểm toán viên phải đối mặt với một mâu thuẫn rõ ràng về quyền lợi. Nếu kiểm toán viên cứ khăng khăng gây khó khăn cho ban giám đốc đơn vị khách hàng thì có nguy cơ kiểm toán viên đó sẽ bị mất kế sinh nhai, và thị phần dành cho công ty họ đương nhiên bị thu hẹp.Tất nhiên,là rất khó khăn để có thể đo lường mức độ bất đồng giữa ban giám đốc doanh nghiệp với kiểm toán viên cũng như ảnh hưởng của những mâu thuẫn đó. Tuy nhiên có một nghiên cứu gần đây cho rằng khi kiểm toán viên tỏ ra nghi ngờ về những con số mà ban giám đốc doanh nghiệp cung cấp thì họ có khả năng bị thay thế nhiều hơn. Kiểm toán viên sẽ chỉ thực sự độc lập nếu họ được bảo vệ không bị ảnh hương hay những chi phối về mằt kinh tế đại loại như bị cắt hợp đồng một cách vô lý. Tuy nhiên chúng ta cũng không nên cố gắng đảm bảo cho kiểm toán viên một vị trí vững chắc trong công ty khách hàng vì như vậy sẽ góp phần làm ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm toán với chi phí hợp lý.Phải làm cách nào đó , sao cho việc lựa chọn công ty kiểm toán phải được thực hiểu một cách dân chủ , khách quan. Ví dụ như đối với công ty cổ phần thì doanh nghiệp đó nên để quyền đó cho cổ đông quyết định. Tuy nhiên , trong bất kỳ trường hợp nào thì ban gám đốc doanh nghiệp cũng vẫn có những ảnh hưởng đáng kể với việc lựa chọn công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán , bởi ít nhât thì họ cũng là những thành viên quan trọng của doanh nghiệp , là người có quyền ra những quyết định quan trọng. 1.2.Thông qua việc cung cầp dịch vụ tư vấn Phí kiểm toán nói riêng hay là mối quan hệ kinh tế nói chung không phải là nguyên nhân duy nhất tạo ra sự phụ thuộc của kiểm toán viên vào công ty khách hàng. Công ty kiểm toán đều có một khoản thu nhập ngày càng tăng từ việc cung ứng các dịch vụ trong tổng thu nhập của mình. ở Việt Nam tình hình phổ biến hiện nay là rất nhiều công ty kiểm toán cung cấp các dịch vụ tư vấn thuế cũng như làm quản lý trong các mảng kinh doanh khác nhau hay là cung cấp dịch vụ tư vấn nhân sự. Nếu như phí kiểm toán phải được nghi và giải thích rõ ràng thì khoản thu nhập từ các dịch vụ này rất it khi được công bố. Đồng thời ban quản trị của đơn vị khách hàng cũng có quyền khen thưởng trong những trường hợp nhất định mà không cần thông qua toàn bộ doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là kiểm toán viên , công ty kiểm toán có thể bị phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của đơn vị khách hàng đối với việc tiếp tục một hợp đồng kinh tế có lợi , mà giá trị của nó it khi được công bố và sự tồn tại của nó có thể được giấu kín như là một bí mật. Hơn nữa, khi kiểm toán viên cung cấp các dịch vụ khác nhau cho cùng một đơn vị khách hàng thì công việc kiểm toán dường như bị mất đi rất nhiều ý nghĩa. Ví dụ, nếu kiểm toán viên được thuê để giảm đến mức tối thiểu nghĩa vụ thuế của công ty , thì nghiệp vụ này có thể gây ra khó khăn thêm cho việc kiểm toán viên tỏ ra nghi ngờ về tính chính xác của các con số trong báo cáo tài chính. 2. Cơ cấu những người làm ngề kế toán 2.1 Sự cạnh tranh trong nghề kiểm toán Trong thực tế thì sự cạnh tranh của những người làm ngề kiểm toán đã trở nên quyết liệt hơn. Điều này bằng những cách khác nhau có thể gây ảnh hưởng tới tính độc lập của những người làm nghề kiểm toán. Nếu ban giam đốc khách hàng khách hàng không hài lòng kiểm toán viên thì họ hoàn toàn có thể lựa chọ ra một kiểm toán viên khác. Chi phí kiểm toán cũng là một yếu tố khác. Các công ty kiểm toán luôn luôn cố gắng nâng cao hiệu suất kỹ thuật của mình để làm sao rút ngắn được thời gian cần thiết để hoàn tất cuộc kiểm toán và đồng thời giảm bớt chi phí kiểm toán. Điều này có thể dẫn đến ham muốn đi tắt trong khi tiến hành kiểm toán để tránh bị mất việc kiểm toán vào một công ty kiểm toán có hiệu suất cao hơn. Sự cành tanh giữa các công ty kiểm toán đã buộc họ phải chú ý hơn vào việc tuyên truyền. Trường hợp bị mất việc kiểm toán sẽ được công bố rộng rãi hơn trên các phương tiện thông tin , điều này gây ra một tâm lý sợ làm mất lòng khách hàng của kiểm toán viên , tất nhiên là cũng gây ra nhữngảnh hưởng nhất định tới tính độc lập của kiểm toán viên. 2.2. Bản chất chủ quan của nghề kế toán , kiểm toán . Bản chất chủ quan của nghề kế toán cũng vừa là một nguồn gây ra sự cọ sát giưa khách hàng và kiểm toán viên và cũng lại là một phương tiện để gây sức ép đối với kiểm toán viên. Khi xác định xem sổ sách của kế toán có thể hiện quan điểm đúng đắn, trung thực hay khong, kiểm toán viên cần phải xác định xem mình có nhất chí với chính sách kế toán mà khách hàng áp dụng hay không. Nếu họ bất đồng thì người đó có nguy cơ bị thay thế. Trong trường hợp kiểm toán viên hiểu sai vấn đề thì rất có thể công ty khách hàng thường hay sử dụng một biện pháp là họ yêu cầu một công ty kiểm toán khách hàngác cho ý kiến về vấn đề đó. Dĩ nhiên, sẽ khó khăn hơn cho kiểm toán viên này trong trường hợp muốn giữ vừng lập trường của mình, nếu đơn vị kia ủng hộ ý kiến , lập luận của khách hàng. Điều này gây ra một xu hướng là công ty thường hay có một thiện cảm nhất định với bên thứ ba và họ sẽ dành sự đãi ngộ đặc biệt cho đơn vị kia cơ hội thực hiện hợp đồng kiểm toán năm tiềp theo. Điều này làm phát sinh ra nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết , đó là phải làm thế nào để tăng cường sự độc lập của kiểm toán viên trong những trường hợp như thế này.Một số nước đã phải ban hành những chuẩn mực cụ thể cho trường hợp tương tự nhằm mục đich điều chỉnh , hướng tới hoàn thiện tính độc lập của kiểm toán viên. Những quy đinh về sự độc lập ở Việt Nam Thực tế đã chỉ ra rằng, tại các nước khác nhau thì sự độc lập của kiểm toán viên cũng bị điều chỉnh riêng theo những cách khác nhau tuy vẫn nằm trong một khung chung của quốc tế . Điều này cũng là hệ quả của xu hương hội nhập kinh tế khu vực , toàn cầu đang diễn ra rất mạnh mẽ. Việt Nam cũng không là một ngoại lệ , Việt Nam cũng xây dựng cho mình những văn bản quy phạm pháp luật đa dạng nhằm điều chỉnh hoạt động kế toán , kiểm toán nói chung và tính độc lập của kiểm toán viên nói riềng. Những quy định nà không bao giờ hàm ý sự phủ nhận các quy định mang tính chất quôc tế , mà chúng được xây dựng nhằm để hội nhập kiểm toán Việt Nam với khu vực và thế giới, đồng thời lại phải tn thủ những nét đặc thù của Việt Nam trên các khĩa cạnh kinh tế , chính trị , xã hội, văn hoá ... 1. Những quy định về việc chỉ định đơn vị kiểm toán Việc chỉ định đơn vị kiểm toán là rất quan trọng và ảnh hưởng không nhỏ tới tính độc lập của kiểm toán viên. Điều này ảnh hưởng tớitính độc lập của kiểm toán viên theo khía cạnh sau: Nếu người được giao quyền chỉ định kiểm toán của công ty khách hàng không thực hiện công việc của mình một cách vô tư , khách quan thì có nhiều nguy cơ là kiểm toán viên được chọn sẽ có những mối quan hệ với người chỉ định và sẽ rất dễ dàng có nhưng sự hợp tác của khách hàng và kiểm toán viên trong việc giới hạn công việc kiểm tra thực hiện cũng như việc kiểm toán viên bày tỏ ý kiến về báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng một không cách khách quan và trung thực. Điều này không phải là mong muốn của nhà nước cũng như của các bên quan tâm đến tình tài chính của doanh nghiệp , và sẽ sủ dụng thong tin trên báo cáo kiểm toán để phục vụ cho việc gia quyết định của mình. Nhiệm vụ của các nhà lập pháp , các nhà hoạch định là phải làm thế nào hạn chế sự thông đồng của ban quản trị khách hàng với kiểm toán viên ngay từ giai đoạn này bằng cách đưa ra những quy đinh điêu chỉnh hương tới mục tiêu tăng cương sự khách hàngách quan của người có quyền chỉ đinh kiểm toán viên , hay đơn vị kiểm toán. ở Việt Nam , mỗi loại hình công ty khác nhau thì cũng có những quy định khách hàngác nhau cho việc lựa chọn kiểm toán viên. Với công ty cổ phần thì quyền chỉ định kiểm toán viên theo luật định phải rơi vào tay các cổ đông , tuy nhiênthương những quyền này lại được dao lại cho hội đòng quản trị công ty . Luật doanh nghiệp Việt Nam quy định , cổ đông có quyền tham gia vào tất cả các hoạt động của công ty theo một sự chỉ dẫn của luật này. Như vậy công viẹc này cua các công ty cổ phần vẫn chịu sự anh hưởng của ban giám đốc đơn vị khách hàng. Điều này sẽ khách hàngông hoàn hảo trong trường hợp hội đòng quản trị doanh nghiệp có những điều muốn che giấu , và vì vậy họ muôn chọn một kiểm toán viên có thể hợp tác với họ trong việc thực hiện mục đích của mình. Với các công ty nhà nước , thì việc chỉ định kiểm toán viên độc lập vẫn phụ thuộc vào quyết định cuả ban giám đốc. Tuy nhiên , với kiểm toán viên nhà nước thì họ sẽ không có quyền lựa chọn. Điều này có vẻ như là công việc lựa chọn kiểm toán viên của các công ty nhà nước đảm bảo yếu tố khách quan hơn các loại hình công ty khác. Tuy vậy , một thực tế là hàng loạt nững công ty nhà nước lại lâm vào tình trạng tài chính rất tồi mà không được phát hiện của kiểm toán viên nhà nước. Điều này có nhiều nguyên nhân để bàn nhưng yêu tố đầu tiên mà chúng ta nên kể tới đó là công việc kiểm toán của cơ quan nước không được thực hiện tốt do chất lương của nhân viên kiểm toán , hay đo chất lương của công việc. Với các công ty khác như những công ty tư nhân hay những công ty liên doanh với nước ngoài , việc lựa chọn kiểm toán viên hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên của ban quản trị doanh nghiệp .Như vậy , việc chủ quan lựa chọn kiểm toán viên sẽ ít nhiều nhằm mục đích riêng tư của các thành viên trong các trương hợp muốn che giấu bằng chứng gây bất lợi cho họ. Một số nước thì nước thì tình độc lập của kiểm toán viên được tăng cương băng cách đưa ra quy định răng mỗi kiểm toán viên phải trực thuộc một tổ chức giám sát. Tất nhiên các tổ chức này phải là những tổ chức nghề nghiệp. ở Việt Nam , nhưng người muốn hành ngề kiểm toán cũng phải chịu sự giám sát của hiệp hội nghề nghiệp kế toán , bộ tài chính. Điều nay có nghĩa là các tổ chức này có thể giám sát đối với công việc tác nghiệp của các kiểm toán viên , cũng như việc kiểm toán viên nhận công việc của các công ty khách hàng khác nhau, qua đó chi phối sự độc lập của kiểm toán . Một số quy định với những kiểm toán viên bị cấm hành ngề. Quy định này cho thấy răng những người bị cấm hành ngề kiểm toán phải từ chối mọi đề cử và phải thôi ngay công việc ngay lập tức nếu thấy không có thể hoàn thành công việc được giao.Nếu công việc kiểm toán được thực hiện bởi một người khách hàngông đủ tiêu chuẩn , thì công ty phải chỉ định một kiểm toán viên khách khác tiền hành xoát xét lại những công việc mà người trước đó thực hiện nhằm đảm bảo yêu cầu cơ bản của ngề nghiệp. 2. Những quy định với việc bãi nhiệm kiểm toán viên Kiểm toán viên có thể bị bãi nhiệm. Điều này xảy ra do công ty không đảm bảo dịch vụ thoả đáng , hay do công ty bị mất tín nhiệm hoặc bị tai tiếng. Thông thường ở các nước đang phát triển , thì việc bãi nhiệm kiểm toán viên thường được trao cho cổ đông . Tuy nhiên điều này chỉ đúng với các công ty cổ phần ở Việt Nam . Còn phần lớn những công việc đó được thực hiện bởi những người lãnh đạo doanh nghiệp . Như vậy khách hàngông thể loại trừ ảnh hưởng của ban giám đốc doanh nghiệp trong việc can thiệp theo ý muốn của mình khi phát hiện thấy nhưng bất đồng không thể giải quyết với kiểm toán viên . Vì vậy, họ sẽ có những công cụ làm ảnh hưởng tới tính độc lập của kiểm toán viên. Ngược lại kiểm toán viên cũng được quyền xin bãi nhiệm . Điều này dường như làm tăng tính độc lập của kiểm toán viên theo khía cạnh là khi kiểm toán viên thấy sự độc lập trong công việc của mình không được đảm bảo thì họ hoàn toan có thể đệ đơn xin từ nhiệm. Điều này đã được quy định rất rõ trong các thông tư hướng dẫn tác nghiệp của Bộ tài chính. 3. Các quyền cơ bản của kiểm toán viên Về cơ bản có nhưng quy định về quyền của kiểm toán viên , chủ yếu có những nội dung sau: Thứ nhất,các kiểm toán viên của một công ty có quyền tiếp cận vào bất kỳ lúc nào sổ sách , tài khoản , biên laichứng từ và có quyền yêu cầu công ty cung cập những giải trình mà mình thấy là cần thiêt cho việc thực hiện nhiệm vụ của công việc. Vì vậy ban quản trị đơn vị khách hàng khách hàngông thể ỉm đi những thông tin mà bản thân họ chủ quan cho rằng không liên quan cong việc kiểm toán. Thứ hai,Những quy đinh này cũng bao hàm ý cho rằng viêc thành viên của đơn vị khách hàng cung cập những thông tin sai lệch , làm lạc hướng công việc kiểm toán là một hành vi phạm tội. Những quy định này áp dụng cho tất cả những thể thức khác nhau của sự lừa đảo đó dụ là nó được đưa ra dưới dạng văn bản , hay là dạng ngông ngữ nói. Tất nhiên dù có chủ tâm hay không chủ tâm thì họ cũng phải nhận lầy trách nhiệm cho những gì mà mình đã tuyên bố theo những quy định của pháp luật. Với những cônng ty dạng tâp đoàn thì các quy định này cũng yham gia đièu chỉnh thiện chí trong việc cung cấp thông tin cho kiểm toán viên . Các quy định này cho hay răng kiểm toán viên vó quyền với những công ty con như đối với công ty mẹ. Thứ ba, công ty có nghĩa vụ thực hiện những bước hợp lý để thu thập thông tin và những lời giải trình mà kiểm toán viên yêu cầu từ các công ty trực thuộc đang hoạt động trên các quốc gia khác. 4. những quy tắc đạo đức nghề nghiệp Các Quy Tắc Đạo Đức Nghề Nghiệp do các tổ chức có các thành viên được phép thực hiện kiểm toán ban hành. Quy tắc đó bao quát một số mặt của hành vi nghề nghiệp, trong đó có tính độc lập. Nó nhằm bảo vệ tính độc lập của kiểm toán viên theo hai cách chính. Trước hết, nó nghiêm cấm kiểm toán viên tham gia vào những mối quan hệ nhất định bị cấm với Công ty khách hàng, có thể làm giảm mất vẻ độc lập đó. Thứ hai là nó trao cho kiểm toàn viên quyền được trao đổi thông tin với bất kỳ ai được yêu cầu tiếp nhận nhiệm vụ từ mình. Quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa tính độc lập và thù lao Một kiểm toán viên không thể được xem là độc lập, nếu người đó bị phụ thuộc quá nhiều vào thù lao do khách hàng trả đến mức độ là các ban giám đốc của công ty khách hàng đó có thể thực sự đuổi họ ra khỏi công ty bằng cách bãi nhiệm người đó. Quy tắc đó quy định rằng tiền thù lao do bất kỳ khách hàng nào trả cũng không được vượt quá 15% mức tổng thu nhập lệ phí lặp đi lặp lại theo thông lệ. Logic ở phía sau điều chỉ dẫn này có cơ sở. Vấn đề là nó bỏ qua thực thế của phương thức làm việc của công ty kiểm toán. Phần lớn các chi phí kinh doanh của một kiểm toán viên sẽ bao gồm các chi phí cố định, như tiền lương chi phí hành chính. Nếu có mất đi 10% thu nhập lệ phí hằng năm chẳng hạn, thì điều đó cũng chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến lợi nhuận trước mắt của công ty. Ngay cả trong tương lai xa một công ty kiểm toán cũng không thể sa thải nhân viên mà không phải chị mang tiếng xấu. Cho dù công ty đó còn được nguyên vẹn sau khi bị mất một khách hàng tương đối nhỏ, thì đối tác kiểm toán chịu trách nhiệm về sự mất mát đó vẫn có thể bị thiệt hại rất lớn. Phần lợi nhuận cộng tác có thể được gắn liền với số cuộc kiểm toán mà người đó chịu trách nhiệm trực tiếp. Việc để mất một cuộc kiểm toán cũng có thể ảnh hưởng đến vị thế của người đó trong công ty. Vì vậy việc để mất một cuộc kiểm toán có thể ảnh hưởng rất nhỏ đến toàn bộ công ty, thế nhưng lại có thể là một vấn đề nghiêm trọng đối với bản thân đối tác đó. Quy tắc điều chỉnh mối quan hệ cá nhân với khách hàng. Kiểm toán viên cũng phải tránh tình huống trong đó mối quan hệ cá nhân với một hay nhiều thành viên trong số cán bộ nhân viên của khách hàng có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của mình. Vì vậy, người ta cũng cho rằng không nên để xayra trường hợp đối tác đó hay một thành viên của tổ kiểm toán có quan hệ họ hàng với một cán bộ cấp cao của tổ chức khách hàng. Tuy có thể dễ dàng trách được kiểu quan hệ này, thế nhưng khó có thể tránh được những vấn đề quan hệ bạn bè thân thiết phát trên giữa đối tác đang đảm nhiệm việc kiểm toán với ban lãnh đạo cáp cao của công ty đó sau một số năm cùng làm việc. Quy tắc điều chỉnh mối quan hệ kinh tế với khách hàng. Kiểm toán viên cũng phải đảm bảo chắc chắn rằng mình không phải là một cổ động của công ty khách hàng. Ví dụ, nếu người đó trở thành cổ đông do được thừa kế các cổ phần, thì người đó phải cố gắng nhanh chóng bán những cổ phần đó đi với giá trên thị trường tự do. Khi trách việc đóng góp tài chính vào công ty, kiểm toán viên cũng phải tránh cho vay hay vay tiền của khách hàng. Kiểm toán viên được khuyến cáo là nên tránh những mâu thuẫn quyền lợi. Vì vậy họ nên thận trọng khi làm thêm các dịch vụ ngoài việc kiểm toán. Ví dụ, họ đông ý giúp thương lượng một hợp đồng vay tiền, thì kiểm toán viên có thể bị cám dỗ chấp nhận một loạt những báo cáo tài chính giả dối, bởi vì những báo cáo chính xác hơn sẽ làm cho người cho vay thấy công ty kém thuận lợi hơn và đơn giản hoá vai trò của mình thành một cố vấn tài chính. Quy tắc điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng Kiểm toán viên cũng phải hết sức thận trọng, tránh tham gia vào việc chuẩn bị các báo cáo tài chính hay những sổ sách kế toán cơ bản làm cơ sở cho báo cáo tài chính. Quy tắc đó chấp nhận rằng một công ty tư nhân nhỏ có thể yêu cầu kiểm toán viên giúp đỡ về mặt này và cho phép chuẩn bụ báo cáo và kiểm toán cùng những con số giống nhau. Tuy nhiên, nó cũng khẳng định rằng đối với một công ty của công thì kiểm toán viên không được can dự vào việc chuẩn bị báo cáo tài chính. Quy tắc điều chỉnh viẹc tiếp quản cong việc từ kiểm toán viên khác. Quy Tắc Đạo Đức Nghệ Nghiệp cũng đề cập đến hành vi của một kiểm toán viên được yêu cầu tiếp quản nhiệm vụ từ tay một công ty khác. Trước khi tiếp nhận nhiệm vụ đó, kiểm toán viên phải đòi hỏi được tiếp xúc với kiểm toán viên sắp ra đi và viết thư hỏi người đó về tất cả những thông tin cần phải nắm được để quyết định xem mình có nên chấp nhận nhiệm vụ được chỉ định hay không. Nếu công ty kia trả lời rằng họ không được phép đáp lại đòi hỏi đó, thì phải từ chối nhiệm vụ này. Thực tế, điều đó có nghĩa là một kiểm toán viên có quyền tiếp xúc với bất kỳ ai được yêu cầu thay thế mình và thông báo cho họ mọi lý do nghề nghiệp tại sao họ nên từ chối nhiệm vụ đó. Có thể hy vọng rằng công ty kia sẽ không tha thứ mọi hành vi không phù hợp với đạo đức nghề nghiệp của mình phải chấp nhận một chính sách kế toán không thể chấp nhận được bằng đe doạ thay thế họ. Đáng tiếc là quy tắc đó không vượt xa hơn đảm bảo chắc chắn rằng sẽ được tiếp xúc với công ty kia. Không có yêu cầu là kiểm toán viên phải từ chối nhận nhiệm vụ được giao chỉ là vì người đương nhiệm yêu cầu mình làm như vậy. IV. Giải pháp nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên MộtTổ Chức Kế Toán Viên Chuyên Nghiệp đã tiến hành một cuộc điều tra nhận thức của công chúng về chức năng kiểm toán. Một trong những câu hỏi điều tra được đặt ra để xác định xem những người được hỏi có tin hay không rằng kiểm toán viên sẽ sẵn sàng lý giải tuỳ tiện các quy tắc để biện minh cho báo cáo kiểm toán có thể chấp nhận được đối với ban lãnh đạo. Không có sự khuyến khích đặc biệt để trả lời câu hỏi này. Gần một nữa (45%) số người được hỏi không đồng ý với điều gợi ý này và gàn một phàn tư (24%) số người được hỏi không có ý kiến gì. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là một phần tư công chúng thuộc diện điều tra không tin tưởng vào sự độc lập của kiểm toán viên và gàm một phần ba số người thuộc điều tra nghi ngờ về sự độc lập đó. Có vẻ như là cần có một biện pháp gì đó để cải thiện tình trạng mất cân bằng trong quan hệ giữa kiểm toán viên và ban lãnh đạo. Đã có một số kiến nghị được nêu ra: một số đã bị bác bỏ ngay lập tức, còn một số khác thì vẫn còn đang được xem xét. 1. Thành lập các uỷ ban kiểm toán Mô tả: Một uỷ ban của Ban lãnh đạo gồm ba đến năm giám đốc không có trách nhiệm điều hành trong việc quản lý tài chính. Những nhiệm vụ chính của nó là xét duyệt các báo cáo tài chính, xem xét tính hiệu quả của các hệ thống kế toán và kiểm tra nội bộ của công ty cùng các kết quả thu được của các kiểm toán viên, đưa ra kiến nghị về việc chỉ định và trả thù lao cho các kiểm toán viên bên ngoài16. Vai trò : Về cơ bản của uỷ ban kiểm toán và nâng cao chất lượng của việc làm báo cáo tài chính. Điều này sẽ đạt được bằng cách tăng cường mức độ thảo luận và trình độ hiểu biết về những vấn đề kế toán ở cấp ban lãnh đạo và cũng tạo điều kiện để kiểm toán viên có thể trao đổi thông tin một cách có hiệu quả hơn với các giám đốc. Nếu một công ty không có uỷ ban kiểm toán, thì giám đốc tài chính thường được xem là phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc chuẩn bị và kiểm toán báo cáo tìa chính. Điều này có nghĩa là các giám đốc khác có thể can dự rất ít vào cong tác kết toán, một điều không mong muốn vì một số lý do. Giám đốc tài chính có thể cảm thấy rằng mình bị thúc ép phải đảm bảo chắc chắn rằng những con cố báo cáo phải thoả đáng, thậm chí nếu cần thì phải chính sửa chúng. Mọi ý kiến bất đồng giữa vị giám đốc đó và kiểm toán viên có thể không đượcban lãnh đạo lưu ý đến và như vạy công ty có thể phải nhận một báo cáo có vấn đề hay chịu một phí kiểm toán quá mức do thái độ không khoan nhượng của giám đốc tài chính. Các giám đốc khác có thể bị lên án là lẩn tránh trách nhiệm về tính trung thực và vô tư của sổ sách kế toán. Lý tưởng nhất là uỷ ban kiểm toán phải gồm phần lớn hay thậm chí toàn bộ là nhữg giám đốc không điều hành. Sở dĩ như vạy là vì những giám đốc không điều hành được xem là ít phục thuộc hơn vào công ty về kế mưu sinh. Họ sẽ không xem xét những lĩnh vực như lựa chọn các chính sách kế toán với mức độ tư lợi như thế. Các giám đốc điều hành phục thuộc vào công ty về mức thu nhập của mình lớn hơn rất nhiều. Chắc chắn là họ sẽ bị thôi thúc côgn bố những con số giả dối nhằm thoả mãn mog muốn của các cổ đông về lịơ nhuận, đặc biệt là nếu các kết quả đều không được khả quan. Dù cho các thành viên của uỷ ban đó không phải là những kế toán viên, thì họ cũng phải có đủ kiến thức và kinh nghiệm về kinh doanh để có thể nghiên cứu những khái niệm rộng lớn làm nền tảng cho dự thảo báo cáo quyết toán sẽ trình ban lãnh đạo để phê duyệt. Họ phải có khả năng xem xét giá trị của các chính sách kế toán khác nhau có thể được chấp nhận. Họ có thể làm trọng tài phân xử giữa giám đốc tài chính và kiểm toán viên, nhất là về những lĩnh vực đòi hỏi phải có sự xét đoán chủ quan. Điều này có nghĩa là ban lãnh đạo sẽ có khả năng tiếp nhận ý kiến tư vấn của uỷ van kiểm toán, và vì thế cho nên sẽ có khả năng đi đến một quyết định có hiểu biết về mọi vấn đề kế toán có tranh cãi. Người ta cho rằng các giám đốc không điều hành bị lệ thuộc vào sự tín nhiệm của các giám đốc điều hành để có thể tiếp tục đảm trách nhiệm vụ của mình giống như kiểm toán viên. Vì vậy, uỷ ban kiểm toán có thể khôngcó hiệu quả do các thành viên sợ không dám ủng hộ kiểm toán viên. Có một công trình nghiên cứu đã được tiến hành nhằm điều tra khả năng này. Kết quả cho thấy rằnguỷ ban có khả năng ủng hộ kiểm toán viên hơn là giám đốc tài chính, nhất kà khi giữa họ có sự bất đồng ý kiến về việc áp dụng một tiêu chuẩn kỹ thuật khách quan. Việc phân tích sâu hơn những kết quả thu được của công trình nghiên cứu này đã cho thấy rằng những thành viên uỷ ban nắm giã những chức vụ quản lý toàn thời gian trong các công ty khác thậm chí còn có nhiều khả năng ủng hộ kiểm toán viên hơn so với những thành viên là những người quản lý đã nghỉ việc hay những người chưa có kinh nghiệm quản lý. Sở dĩ như vậy là vì một cán bộ điều hành liên tục sẽ bị mất mát nhiều hơn khi bị dính líu vào một vụ bê bối hay là vì họ hiểu rõ hơn về những vấn đề kế toán. Một trong những kiến nghị rút ra từ báo cáo của CICA là cần có luật pháp quy định mọi công ty cổ phần đều phải có uỷ ban kiểm toán. Lý do chính phải quy định như vậy là để củng cố thêm sự độc lập của kiểm toán viên. 2. Giới hạn lĩnh vực dịch vụ được làm Mô tả: Một trong những ý kiến đề xuất có ý nghĩa liên quan đến quy định về các kiểm toán viên nghiên cưu các kiểm toán cung cấp mọi dịch vụ phụ thêm các khách hàng của mình. Vì thế cho nên một công ty kiểm toán sẽ phải quyết định xem mình sẽ phục vụ một khách hàng nhất định bất kỳ với tư cách là một kiểm toán viên hay là một cố vấn Vai trò: Điều này sẽ giải quyết được hai vấn đề có liên quan đến sự độc lập. Đó là, mỗi khách hàng sẽ đảm bảo một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng thu nhập và những mâu thuẫn quyền lợi vốn có trong việccung ứng dịch phụ thêm ngoài việc kiểm toán đã chấm dứt. Cần lưu ý rằng những hiểu biết thu được từ việc kiểm toán có thể hỗ trợ trong việc đóng góp ý kiến tư vấn về thuế và lập kế hoạch tài chính. Ngược lại cũng thể: kiểm toán viên có thể sử dụng những hiểu biết sâu sắc hơn thu được từ việc trao đổi ý kiến nhằm lên kế hoạch kiểm toán có hiệu quả hơn. Phản ứng chắc chắn sẽ xảy ra và có sức thuyết phục, và chúng ta phải xem xét thật kỹ đề xuất này. 3. tăng cường luân phiên kiểm toán viên. Mô tả: Một ý kiến đề xuất nữa là cần quy định giới hạn trên cho số năm mà một công ty kiểm toán có thể làm kiểm toán viên cho bất kỳ một công ty nhất định nào. Sau tối đa là 5 năm công ty sẽ phải tìm kiếm một kiểm toán viên khác. Vai trò: Điều này sẽ có nghĩa là kiểm toán viên sẽ không phải lao lắng về những ảnh hưởng của việc gây rắc rối cho các giám đốc, bởi vì họ biết rõ họ sẽ bị thay thế sau 5 năm. Hơn nữa, kiểm toán viên sẽ biết rõ rằng vông ty khác sẽ tiếp quản công việc của mình sau một khoảng thời gian nhất định. Công ty sắp đến có thể phát hiện ra mọi thiếu sót đó. Điều này sẽ đem lại cho kiểm toán viên này thêm động lực để chống laị mọi cố gắng gây ảnh hưởng đến mình. ý kiến đề xuất cũng được những người làm nghề kế toán và bản thân các công ty xem là không thể chấp nhận được và rút cuộc cũng đã bị bãi bỏ. Lại một lần nữa lý do vẫn là thời gian và chi phí. Cứ mỗi 5 năm các giám đốc lại phải lựa chọn một công ty mới làm kiểm toán. Khi đó công ty sẽ phải đối mặt với một sự xáo trộn do tổ kiểm toán mới còn phải làm quen với các công việc của công ty trong thời gian đầu. Cũng có thể lập luận rằng một kiểm toán viên trông những năm đầu nhận nhiệm vụ khi anh ta còn tương đối chưa quen biết khách hàng sẽ có nhiều khả năng bỏ sót một điều gì đó. 4. Tăng cường kiểm soát của các tổ chức ngề nghiệp Mô tả: ở Hoa Kỳ mọi công ty kế toán và kiểm toán muốn hành nghề kiểm toán cho một công ty chịu sự giám sát của Uỷ Ban Giao Dịch và Chứng Khoán đều phải xét duyệt lại các thủ tục kiểm tra chất lượng của mình ít nhất ba năm một lần. Việc xét duyệt lại này có thể do một công ty khác của những kiểm toán viên chuyên nghiệp (CPA) hay do một tổ chức của AICPA thực hiện. Vai trò: Việc xét duyệt lại như vậy sẽ đảm bảo chắc chắn rằng chất lượng toàn diện của việc kiểm toán viên đảm bảo chắc chắn rằng mình sẽ không cho phép hạ thấp các tiêu chuẩn của mình trước sức ép của khách hàng, vì như vậy thì thực sự là họ có thể bị mất giấy phép hành nghề. ở Anh không có hệ thống nào tương đương với hệ thống xét duyệt lại của người đồng đẳng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng những công ty kế toán và kiểm toán tương đối lớn có thể tiến hành những cuộc xét duyệt lại nội bộ của mình bằng cách sử dụng cán bộ của những cơ quan khác để xét duyệt lại chất lượng của công tác kiểm toán. 5. Xây dựng hoàn thiện chuẩn mực kiểm toán, chuẩn thuật ngữ kiểm toán Mô tả: Những vấn đề được đặt ra đối với kiểm toán viên do tính chủ quan rất lớn vốn có trong công tác kế toán đã được trình bày trong phần trước. Kế toàn là một môn học đã được phát triển theo thời gian. Điều đó có nghĩa là không có sự nhất trí chung về những vấn đề rõ ràng là cơ bản như định nghĩa chính xác những thuật ngữ cơ bản tài sản có và tài sản nợ hay những nhu cầu thông tin của người sử dụng các báo cáo kế toán. Vì vậy kiểm toán viên cần phải hình thành một ý kiến về tính trung thực và vô tư của một bộ các báo cáo kế toán, khi trong thực tế thuận ngữ “trung thực và vô tư” vẫn chưa có được một định nghĩa được mọi người nhất trí. Vai trò: Một câu trả lời cho vấn đề này, một vấn đề có những ý nghĩa quan trọng đối với những chuẩn bị và những người sử dụng thông tin kế toán cũng như đối với các kiểm toán viên, là phải cố gắng thiết kế một hệ thống lý thuyết gắn bó với nhau nhằm cũng cố sự phát triển của các tiêu chuẩn kế toán và hứơng dẫn những người chuẩn bụ và các kiểm toán viên báo cáo kế toán khi phải xử lý những vấn đề không phải là đối tượng của các tiêu chuẩn chính thức. Hệ thống lý thuyết này đã được mô tả như “bảo vối” của các kế toán viên. Có ý kiến cho rằng kiểm toán viên sẽ được lợi nhiều nhất từ dự án khái niện chuẩn. Sở dĩ như vậy là vì rất khó có thể lập luận bác bỏ một chính sách kế toán được đề xuất, không bị luật pháp hay một quy tắc của SSAP nghiêm cấm rõ ràng. Ngay cả khi một chính sách rõ ràng là vi phạm những quy định này thì nó vẫn thường có thể né tránh được quy tắc đó. Ví dụ, vào năm1986 một công ty đã nghe theo ý kiến của một số cố vấn luật pháp về cách theo đó định nghĩa của những mục bất thường đã bị lạm dụng. Nó được biện minh rằng tiêu chuẩn này đã bị phớt lờ đến mức độ mà công ty đó cũng phải bỏ qua nó để cho các báo cáo kế toán theo đúng với “thông lệ kế toán chung”. Báo cáo kiểm toán của công ty không có vấn đề gì, cho dù rõ ràng là các báo cáo tài chính đều có những vi phạm rõ ràng SSAP… Phần Ba Kết luận Tính độc lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với kiểm toán viên. Báo cáo của người đó sẽ không có giá trị, trừ khi họ có thể lập trương trình công tác của mình theo cách thích hợp nhất, tiến hành điều tra không có hạn chế và báo cáo các kết quả thu được một cách rõ ràng và khách quan. Vẻ bề ngoài độc lập ít nhất thì cũng quan trọng như thái độ của kiểm toán viên, mặc dù có thể là những người đọc báo cáo đó buộc phải tin vào tính chính trực của kiểm toán viên nhiều hơn mức độ mà học nghĩ. Em hy vọng đế tài này sẽ cung cấp được những thông tin hữu ích, phục vụ cho những mục đích khác nhau nhằm củng cố những vấn đề liên quan đến tính độc lập của kiểm toán viên. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Quang Quynh đã giúp đỡ em hoàn tất đề án này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33790.doc
Tài liệu liên quan