Như vậy hệ thống ngân sách nhà nước của nước ta đã và đang được từng bước hoàn thiện để phù hợp với hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển bền vững. Song cần đẩy mạnh hơn nữa việc quản lý và phân cấp ngân sách nhà nước để việc công tác thu chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả cao hơn, giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% khi tính theo thông lệ quốc tế chứ không phải chỉ là dưới 5% bằng cách tính của nước ta hiện nay. Phấn đấu đưa nước ta hội nhập nền kinh tế toàn cầu, giao lưu học hỏi các nước trên thế giới không chỉ trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, kinh tế xã hội mà cả trong công tác quản lý nhà nước.
Bên cạnh việc nâng cao thu ngân sách cần hướng đến nâng cao hiệu của của công tác chi ngân sách để đồng tiền thuế của người dân thực sự quay trở lại phục vụ người dân, tránh thất thoát, lãng phí, gây mất lòng tin trong dân chúng.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tổng quan về ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước bạ, lệ phí tòa án, lệ phí cấp giấy phép xây dựng, lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, lệ phí công chứng…
Phí: là khoản thu mang tính chất thuế, là khoản thu mang tính bù đắp một phần chi phí thường xuyên và không thường xuyên về các dịch vụ công cộng hoặc bù đắp chi phí cho các hoạt động duy trì, tu bổ các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ cho người nộp phí. Phí có hai loại: thứ nhất, các loại phí mang tính phổ biến do chính phủ qui định; thứ hai, các loại phí mang tính địa phương, ví dụ: học phí, viện phí, phí giao thông, phí cầu đường….
Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường nhà nước tham gia các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Số vốn đầu tư của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nói trên sẽ sinh lời và lợi tức thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của nhà nước, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Các khoản thu này phản ảnh hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước, bao gồm:
- Thu từ việc bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh.
- Thu từ việc bán tài sản của nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước đây.
- Thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn của ngân sách nhà nước.
- Thu từ việc bán lại các cơ sở kinh tế của nhà nước cho các thành phần kinh tế khác.
- Thu từ cho thuê hoặc bán tài nguyên thiên nhiên.
Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước
Trong quá trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu chi nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên quan đến các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội …. Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài:
Vay trong nước
Vay nợ trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái. Công trái là chứng chỉ nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội và ngân hàng. Ở Việt Nam chính phủ thường ủy nhiệm cho Kho Bạc nhà nước phát hành trái phiếu chính phủ dưới các hình thức:
- Tín phiếu kho bạc: là trái phiếu chính phủ ngắn hạn, có thời hạn dưới một năm, đươc phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết mất cân đối tạm thời của ngân sách nhà nước trong năm tài chính.
- Trái phiếu kho bạc: là trái phiếu chính phủ trung và dài hạn, có thời hạn trên một năm được phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết bội chi ngân sách nhà nước xuất phát từ yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
- Trái phiếu công trình: là trái phiếu chính phủ trung và dài hạn, có thời hạn trên một năm và được phát hành để huy động vốn cho các công trình xác định đã được ghi trong kế hoạch đầu tư của nhà nước.
Đối với Việt Nam, công trái là hình thức huy động vốn có hiệu quả, qua các đợt phát hành với chính sách lãi suất và thời hạn hoàn trả hợp lý đã huy động được nguồn vốn to lớn vào ngân sách nhà nước đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của nhà nước góp phần chống lạm phát và ổn định nền kinh tế xã hội.
Viện trợ và vay nợ nước ngoài
- Viện trợ nước ngoài: bao gồm viện trợ không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại với lãi suất thấp và thời hạn trả nợ dài hơn so với các khoản vay trên thị trường quốc tế.
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cấp cho chính phủ một nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA). Nguồn viện trợ này được các tổ chức quốc tế chủ động phân bổ theo những tiêu chuẩn do Liên Hợp Quốc qui định đối với các loại quỹ chung hoặc do các tổ chức quốc tế chuyên ngành cấp đối với các loại quỹ ủy thác trên cơ sở các dự án xây dựng trước của nước nhận viện trợ.
Nhìn chung, viện trợ quốc tế là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đang thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, vấn đề quan trọng ở đây là các nước nhận viện trợ cần có phương án sử dụng vốn viện trợ có hiệu quả.
- Vay nợ nước ngoài: là những khoản cho vay của nước ngoài theo điều kiện thương mại và lãi suất thị trường.
Vay nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng xuất khẩu (khi nhà nước mua hàng của nước ngoài nhưng được hoãn trả nợ trong một thời gian nhưng phải chịu lãi suất trên khoản nợ đó) và vay từ các ngân hàng thương mại nước ngoài.
Cũng giống như nguồn vốn viện trợ, vay nợ nước ngoài là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điểm khác nhau là do vay theo điều kiện thương mại phải chịu lãi suất tương đối cao, vì vậy việc tính toán sử dụng nguồn vốn này cho có hiệu quả là hết sức cần thiết, khoản vay nợ này sẽ trở thành gánh nặng cho ngân sách.
1.2.2. Chi của ngân sách nhà nước
1.2.2.1. Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
Chi của ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực hiện việc chi ngân sách nhà nước là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của Nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng:
- Thứ nhất, chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với nhiệm vụ kinh tế, chính trị xã hội mà Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu của ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
- Thứ hai, tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội, chính trị và ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Thứ ba, xét về mặt tính chất thì phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát, không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả của chi tiêu ngân sách nhà nước.
1.2.2.2. Phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách, một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chi ngân sách bao gồm chi cho đầu tư phát triển (tích lũy), chi tiêu dùng thường xuyên và chi trả nợ gốc tiền chính phủ vay.
Chi đầu tư phát triển kinh tế
Một trong các chức năng quan trọng của nhà nước là chức năng tổ chức kinh tế. Chức năng này trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay được thể hiện bằng vai trò của nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân sách nhà nước với các vai trò của nó được coi là một công cụ quan trọng trong việc thực hiện chức năng nói trên của nhà nước.
Chi đầu tư phát triển là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. Chi đầu tư phát triển được cấp phát chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ phận đáng kể của ngân sách địa phương và bao gồm các khoản chi cơ bản sau đây:
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản: là khoản chi tài chính nhà nước được đầu tư cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng (cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông…) các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình và dự án phát triển văn hóa xã hội trọng điểm, phúc lợi công cộng nhằm hình thành thế cân đối cho nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích qúa trình vận động vốn của doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
- Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước: là khoản chi gắn liền với sự can thiệp của nhà nưóc vào lĩnh vực kinh tế. Với khoản chi này một mặt nhà nước bảo đảm đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần thiết tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nhằm hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Chi góp vốn cổ phần, vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước: trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam các công ty cổ phần được hình thành thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh hoặc thành lập mới. Các doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh liên kết giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Các doanh nghiệp này tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế kể cả ở những lĩnh vực có vị trí trọng yếu ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
- Chi cho các quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển: Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia là những tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân, thực hiện chức năng huy động vốn và tiếp nhận các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để cho vay đối với các chương trình, dự án phát triển các ngành nghề thuộc diện ưu đãi và các vùng khó khăn theo quy định của chính phủ (chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển kinh tế biển, phát triển rừng …). Trong quá trình hình thành và hoạt động của các quỹ này được ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ ban đầu và bổ sung vốn hàng năm để thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Chi dự trữ nhà nước: Dự trữ quốc gia cho phép duy trì sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của nền kinh tế và trong những trường hợp nhất định cho phép ngăn chặn, bù đắp các tổn thất bất ngờ xảy ra đối với nền kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các quy luật kinh tế có thể dẫn đến những biến động phức tạp không có lợi cho nền kinh tế hoặc xảy ra thiên tai đòi hỏi phải có một khoản dự trữ giúp nhà nước điều tiết thị trường, khắc phục hậu quả. Khoản dự trữ này được hình thành bằng nguồn tài chính được cấp phát từ ngân sách nhà nước hàng năm. Dự trữ quốc được sử dụng cho hai mục đích:
+ Điều chỉnh hoạt động của thị trường, điều hòa cung cầu về tiền, ngoại tệ và một số mặt hàng thiết yếu: gạo, xăng dầu …trên cơ sở đó bảo đảm ổn định cho nền kinh tế.
+ Giải quyết hậu quả các trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống .
Chi tiêu dùng thường xuyên
Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý xã hội của nhà nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của dân cư về phát triển văn hóa xã hội, nó có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư và một bộ phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
Bằng các khoản chi tiêu dùng thường xuyên nhà nước thể hiện sự quan tâm của mình đến nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời với các khoản chi này nhà nước thực hiện chức năng văn hóa, giáo dục, quản lý, an ninh quốc phòng.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây:
Chi quản lý nhà nước (quản lý hành chính)
Chi quản lý nhà nước bắt nguồn từ sự tồn tại và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nưóc. Đây là khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nưóc từ trung ương đến địa phương, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Về nội dung khoản chi này bao gồm:
- Chi lương và phụ cấp lương.
- Chi về nghiệp vụ.
- Chi về văn phòng phí.
- Các khoản chi khác về quản trị nội bộ.
Trong các khoản chi trên thì chi về tiền lương và phụ cấp lương là quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng trên 50% khoản chi quản lý nhà nước nên chi cho duy tu bảo dưỡng cơ sở vật chất, chi trang thiết bị chưa được quan tâm đúng mức, bị xuống cấp nghiêm trọng ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị. Tuy vậy, tiền lương của cán bộ công chức lại chưa phù hợp với mức sống trung bình của xã hội đã làm nảy sinh tiêu cực và giảm hiệu suất công tác, đòi hỏi phải cải cách chế độ tiền lương thông qua công tác cải cách bộ máy hành chính.
Để tinh giản bộ máy nhà nước, giảm chi phí, thực hiện yêu cầu hiệu quả và tiết kiệm trong chi quản lý nhà nước cần tiến hành đồng bộ các biện pháp:
- Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong cơ chế thị trường.
- Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý: tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức, viên chức để bố trí nhân sự cho phù hợp với khả năng công tác và yêu cầu quản lý của bộ máy hành chính.
- Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý hành chính.
Chi An ninh quốc phòng
An ninh và quốc phòng thuộc lĩnh vực tiêu dùng xã hội, là những hoạt động bảo đảm sự tồn tại của nhà nước và cần thiết phải cấp phát tài chính cho các hoạt động này từ ngân sách nhà nước. Khoản chi này được phân làm hai bộ phận:
- Khoản chi cho an ninh nhằm bảo vệ chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước.
- Khoản chi cho quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ nhà nước chống sự xâm lược, tấn công và đe dọa từ nước ngoài.
Xét về nội dung, chi an ninh quốc phòng bao gồm:
- Chi về tiền lương và phụ cấp lương cho toàn quân và lực lượng công an nhân dân.
- Chi về đào tạo huấn luyện cho bộ máy quốc phòng, an ninh và chi nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
- Chi mua sắm trang thiết bị, vũ khí và các phương tiện quân sự cho toàn quân và lực lượng công an.
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kỹ thuật phục vụ cho mục đích quốc phòng và an ninh.
- Các khoản chi khác…
Chi sự nghiệp
Bao gồm những khoản chi cho các dịch vụ và hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Chi sự nghiệp bao gồm các khoản: chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường, sự nghiệp giáo dục đào tạo, sự nghiệp y tế, sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, thể thao và sự nghiệp xã hội. Đây là các khoản chi quan trọng nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất kết hợp với sức lao động có chất lượng cao.
- Chi sự nghiệp kinh tế
Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế nhằm phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Mục đích hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế không phải nhằm vào lợi nhuận, do đó áp dụng chế độ cấp phát như các đơn vị dự toán ngân sách. Chi sự nghiệp kinh tế liên quan hầu hết đến các ngành kinh tế và bao gồm các khoản chi: sự nghiệp địa chính (điều tra đo đạc địa giới hành chính, đo vẽ bản đồ…) sự nghiệp giao thông, sự nghiệp nông nghiệp, sự nghiệp thủy lợi, sự nghiệp ngư nghiệp, sự nghiệp lâm nghiệp, sự nghiệp thị chính và một số hoạt động sự nghiệp khác.
Về nội dung chi sự nghiệp kinh tế bao gồm các khoản chi cơ bản sau đây:
+ Chi về lương và phụ cấp lương cho viên chức đơn vị sự nghiệp.
+ Chi mua nguyên vật liệu dùng cho nghiên cứu sản xuất thử nghiệm
+ Chi mua sắm, sửa chữa phương tiện, dụng cụ dùng trong hoạt động sự nghiệp và một số các khoản chi khác.
- Chi sự nghiệp nghiên cứu khoa học và công nghệ
Xuất phát từ yêu cầu và sự cần thiết phải nhanh chóng tiếp cận với nền khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới để khoa học và công nghệ trở thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Về nội dung khoản chi này bao gồm:
+ Chi cho mạng lưới các cơ quan nghiên cứu và phát triển công nghệ bao gồm các viện, phân viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ.
+ Chi về lương và phụ cấp lương cho cán bộ khoa học.
+ Chi cho các chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước (4 chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước hiện nay: chương trình công nghệ thông tin, chương trình công nghệ sinh học, chương trình vật liệu mới và chương trình tự động hóa).
+ Chi đầu tư xây dựng cơ bản cho những công trình nghiên cứu, thực nghiệm về khoa học, công nghệ.
+ Các khoản chi khác về khoa học, công nghệ.
- Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo
Đây là khoản chi mà tầm quan trọng của nó là nhằm nâng cao dân trí, trình độ chuyên môn kỷ thuật của mọi người dân trong xã hội góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Về nội dung khoản chi này bao gồm:
+ Chi về giáo dục phổ thông: hệ mẫu giáo, hệ tiểu học, hệ trung học, và hệ bổ túc văn hóa.
+ Chi về đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề và các hình thức đào tạo bồi dưỡng khác.
+ Chi cho các chương trình quốc gia về giáo dục và đào tạo: chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, chống xuống cấp trường học, tăng cường giáo dục miền núi.
+ Các khoản chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo khác.
Trong cơ chế thị trường hiện nay ở Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đang phát triển theo hướng xã hội hóa và đa dạng hóa mục tiêu, chương trình, loại hình trường lớp và các loại hình giáo dục, đào tạo nhằm mục đích nâng cao trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Bên cạnh các trường công lập đã phát triển các dạng trường dân lập, tư thục ở tất cả các cấp trong hệ thống giáo dục quốc dân đã giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước cũng như tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
- Chi sự nghiệp y tế
Chi sự nghiệp y tế là khoản chi phục vụ công tác phòng bệnh và chữa bệnh nhằm nâng cao mức sống cho mọi người dân trong xã hội. Về nội dung khoản chi này bao gồm:
+ Chi cho công tác phòng bệnh: bao gồm các khoản chi nhằm bảo đảm điều kiện hoạt động của các viện nghiên cứu, phòng khám, trạm chuyên khoa.
+ Chi cho công tác chữa bệnh: là khoản chi quan trọng nhất nhằm duy trì sự hoạt động của hệ thống các bệnh viện, bệnh xá, nhà điều dưỡng.
+ Chi cho các chương trình quốc gia về y tế: chương trình phòng chống bướu cổ, phòng chóng sốt rét, dân số và kế hoạch hóa gia đình ..
+ Các khoản chi sự nghiệp y tế khác.
- Chi sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, thể thao
Mục tiêu của các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao là nhằm nâng cao tri thức và thẩm mỹ cho mọi tầng lớp dân cư nhằm xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ, phát triển đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc. Các mục tiêu của các hoạt động này cho phép mỗi công dân phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng và đạo đức. Vì tính chất quan trọng của các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao nên việc thực hiện các mục tiêu của chúng gắn liền một khoản cấp phát từ ngân sách nhà nước.
- Chi sự nghiệp xã hội
Mục tiêu của khoản chi này là nhằm bảo đảm đời sống của người lao động khi gặp khó khăn, tai nạn, già yếu, những người không có khả năng lao động đồng thời giải quyết những vấn đề xã hội nhất định.
Chi từ ngân sách nhà nước cho sự nghiệp xã hội bao gồm :
+ Chi thực hiện những chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng.
+ Chi để giúp đỡ đời sống nhân dân ở những vùng xảy ra thiên tai và nhũng sự cố bất ngờ.
+ Chi cho các trại xã hội: trại trẻ mồ côi, trại nuôi dưỡng người già, các trại cải tạo.
Chi trả nợ gốc tiền chính phủ vay
Chi trả nợ nhà nước bao gồm:
- Trả nợ trong nước: là những khoản nợ mà trước đây nhà nước đã vay các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế và các tổ chức khác bằng cách phát hành các loại chứng khóan nhà nước như tín phiếu kho bạc, trái phiếu quốc gia.
- Trả nợ nước ngoài: là các khoản nợ nhà nước vay của các chính phủ nước ngoài, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
Hàng năm số chi trả nợ của nhà nước được bố trí theo một tỷ lệ nhất định trong tổng số chi của ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
Cân đối ngân sách
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được nhà nước sử dụng để phân phối thu nhập quốc dân. Chức năng phân phối của ngân sách được thể hiện trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính để hình thành nên các khoản thu và các khoản chi của ngân sách. Về nội dung, các khoản thu và chi này có quan hệ hữu cơ với nhau và dựa trên nguyên tắc hai bộ phận này phải được cân đối.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc cân đối ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc: Ưu tiên cho các khoản chi đầu tư phát triển sau đó mới dành cho chi tiêu dùng thường xuyên. Trong thực tế do số thu thường rất thấp, thậm chí nhiều khi không đủ cho chi đầu tư phát triển nên việc cân đối ngân sách luôn lâm vào tình trạng bị động, trong khi đó nhu cầu chi tiêu dùng thường xuyên lại rất cấp bách. Do đó, chính phủ thường phải phát hành tiền ngoài dự kiến là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới hoạt động của ngân sách nhà nước đòi hỏi phải xây dưng mô hình quản lý ngân sách thích hợp và phù hợp với thông lệ quốc tế, mô hình này cho phép xác định cơ cấu ngân sách với nội dung các khoản thu và chi để đảm bảo sự cân đối của ngân sách nhà nước. Cụ thể mô hình quản lý ngân sách nhà nước được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng:
- Thu ngân sách nhà nước từ thuế, phí, lệ phí và một số khoản thu không mang tính chất thuế như: thu lợi tức cổ phần nhà nước, thu từ cho thuê và bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước…là những khoản thu thường xuyên của nhà nước và được hình thành theo nguyên tắc không hoàn trả. Các khoản thu này còn được gọi là các khoản thu trong cân đối ngân sách được sử dụng ưu tiên cho các khoản chi tiêu dùng thường xuyên của chính phủ, phần còn lại sẽ dành cho chi đầu tư phát triển.
- Thu từ các khoản viện trợ và vay nợ của chính phủ. Nguồn thu này dùng để bù đắp số thiếu hụt của ngân sách nhà nước do chênh lệch giữa tổng số chi và tổng số thu trong cân đối ngân sách để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Do đó, các khoản thu viện trợ và vay nợ của chính phủ được gọi là các khoản thu bù đắp thiếu hụt của ngân sách.
Cơ chế cân đối ngân sách nhà nước này tạo ra thế chủ động rất lớn cho chính phủ cho phép giải quyết trước hết các nhu cầu cấp bách để ổn định đời sống và trật tự xã hội, hơn nữa nó cũng vạch ra một ranh giới rõ ràng về phạm vi tiêu dùng nằm trong giới hạn các khoản thu nhập do nền kinh tế tạo ra. Các khoản thu bù đắp thiếu hụt (vay) chỉ phục vụ cho chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng trả nợ cho chính phủ.
1.2.3. Thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách nhà nước (hay còn gọi là thiếu hụt ngân sách nhà nước, bội chi ngân sách nhà nước) là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách nhà nước, người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước đang phát triển và những nước kinh tế chậm phát triển. Tuy nhiên ở mỗi nước, những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng này có khác nhau. Người ta đã tổng hợp lại và cho thấy có hai nhóm nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước. Trước hết đó là những nguyên nhân mang tính khách quan do diễn biến của chu kì kinh doanh, do tác động của điều kiện tự nhiên, của các yếu tố bất khả kháng. Thứ hai là nguyên nhân mang tính chủ quan, thuộc về quá trình quản lý và điều hành ngân sách nhà nước.
Khi nghiên cứu về những ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, các nhà kinh tế đều cho rằng ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước đối với nền kinh tế phụ thuộc vào việc nó tác động đến lãi suất thị trường, đầu tư và cán cân thương mại như thế nào?
Mặc dù có những ý kiến khác nhau về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, song phần lớn những phân tích của nhà kinh tế đều cho rằng tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và triền miên làm tăng lãi suất thị trường, cản trở đầu tư và thúc đẩy tình trạng nhập siêu, gây ra những khó khăn cho việc tìm kiếm việc làm và đời sống của người lao động.
Để khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước, chính phủ các nước đã nghiên cứu và thực hiện nhiều giải pháp khác nhau như: Phát hành tiền để bù đắp bội chi và sử dụng dự trữ ngoại tệ, vay trong nước và ngoài nước. Mỗi giải pháp trên đây đều có những tác dụng và những mặt hạn chế nhất định, cần tùy thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của kinh tế đất nước để lựa chọn những giải pháp phù hợp. Tuy nhiên, nhìn toàn diện, thực hiện tốt công tác quản lý và điều hành ngân sách nhà nước vẫn là biện pháp tốt nhất cho các quốc gia để hạn chế, khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN.
2.1. Cân đối ngân sách nhà nước từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường đến nay
2.1.1. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn (1991-1996) trước khi có Luật ngân sách nhà nước
Giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước luôn được chính phủ quan tam thực hiện. Trong Nghị Quyết của Quốc hội khóa 8, kỳ họp thứ 10 ngày 26/12/1991 đã đưa ra quan điểm và yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước là: “Thu trong nước phải đảm bảo các khoản chi thường xuyên và trả nợ”. Việc phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi và vấn đề chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách để thực hiện cân đối trong hệ thống ngân sách nhà nước được quy định trong Quyết Định 186/HĐBT ngày 27/11/1989 và Quyết Định 168/HĐBT ngày 19/5/1992 của HĐBT. Trong giai đoạn này, thực trạng cân đối ngân sách bao gồm những vấn đề sau: tình hình thu chi ngân sách nhà nước, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và bội chi ngân sách nhà nước.
- Về thu ngân sách nhà nước: Trong giai đoạn này, thu ngân sách nhà nước đã đạt kết quả cao. Xét về tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước, các năm 1990, 1991, 1992 tốc độ tăng thu năm sau cao hơn năm trước, năm 1992 tốc độ tăng thu tăng 98,1% so với năm 1991. Xét về quy mô, thu ngân sách nhà nước so với tổng GDP tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh cao 23,3% GDP năm 1995. Bình quân 5 năm (1991- 1995) thu ngân sách nhà nước đạt 20,5 % GDP. Trong đó số thu thuế, phí và lệ phí chiếm hơn 90% tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, thu trong nước trong tổng thu ngân sách nhà nước có xu hướng giảm dần từ 86,77% năm 1991 xuống còn 73,77% năm 1996. Đạt được nguồn thu nêu trên là do trong giai đoạn này chính phủ đã “cởi trói” và giải phóng sức sản xuất cho mọi thành phần kinh tế, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, đầu tư đang rầm rộ và sôi động. Ngoài ra, thời điểm này những tấn dầu thô đầu tiên được xuất khẩu đã góp phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
- Về chi ngân sách nhà nước: Nguồn thu ngày một ổn định và theo chiều hướng tăng lên. Chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn này đã đạt được những kết quả như sau: Về quy mô, năm 1990 tổng chi ngân sách nhà nước chiếm 20,5% GDP đến năm 1991 giảm xuống chỉ còn 15,9% GDP, sau đó đột ngột tăng lên 30% GDP vào năm 1993. Từ năm 1994, đặc biệt sau năm 1995 tổng chi ngân sách nhà nước so với GDP liên tục giảm. Mức chi bình quân thực tế giai đoạn (1991-1995) đạt 24,5% GDP. Về tốc độ chi ngân sách nhà nước, tăng mạnh vào các năm 1992 tăng 100% so với năm 1991, năm 1993 ngân sách nhà nước cũng đạt tốc độ tăng chi cao tăng 69% so với năm 1992. Tuy đã có những chuyển hướng tích cực trong hoạt động chi ngân sách nhà nước nhưng ngân sách nhà nước vẫn chưa khắc phục được tình trạng phân phối và sử dụng nguồn lực phân tán, dàn trãi, lãng phí, mục tiêu chi cho đầu tư phát triển được đề cao nhưng phải xếp hang sau mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Nhìn chung, tình hình thu chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn này là tích cực, phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế của nước ta. Tuy tốc độ tăng chi có cao hơn tốc độ tăng thu nhưng cân đối ngân sách nhà nước tiến gần tới chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra: “Thu trong nước phải đảm bảo các khoản chi thường xuyên và trả nợ”.
- Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước: Trong giai đoạn này, hệ thống phân cấp ngân sách nhà nước mang tính tập trung hóa cao, quyền quyết định mọi khoản thu đều tập trung vào chính quyền trung ương, đồng thời ngân sách trung ương đảm nhận phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước. Bình quân cả giai đoạn này ngân sách trung ương chi phối khoản 66% tổng chi ngân sách nhà nước, còn ngân sách địa phương khoản 34% tổng chi ngân sách nhà nước. Ngân sách địa phương được phân cấp quản lý và thực hiện một số nhu cầu chi gắn với nhiệm vụ của chính quyền địa phương, chủ yếu là quản lý hành chính Nhà nước trên địa bàn địa phương. Theo đó, địa phương được phân định một số khoản thu cố định từ thuế nông nghiệp và thuế doanh thu, là hai khoản thu điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong quá trình sử dụng ngân sách, địa phương phải tự đảm bảo cân đối giữa thu và chi, không chi vuợt khả năng của ngân sách nhà nước. Trong trường hợp ngân sách địa phương thu không đủ chi và không tìm ra biện pháp giải quyết để tự cân đối thì có thể tạm vay từ quỹ dự trữ tài chính. Việc phân định như vậy, là phù hợp với năng lực, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế của địa phương và trong điều kiện chuyển đổi còn nhiều khó khăn của đất nước.
Nhưng việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trong giai đoạn này cũng còn nhiều bất cập, chính phủ thường xuyên điều chỉnh tỷ lệ các khoản thu điều tiết giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, một số khoản thu có năm thu để lại cho địa phương sử dụng có năm lại thu về ngân sách trung ương (thu cấp quyền sử dụng đất), nhiệm vụ chi của từng cấp cũng thường xuyên thay đổi (chi cho bộ máy viện kiểm sát nhân dân) là nhiệm của ngân sách trung ương có năm lại do địa phương thực hiện. Điều này dẫn đến sự bất ổn, thiếu minh bạch, không cụ thể hóa trong việc quản lý cũng như phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách nhà nước.
- Về bội chi ngân sách nhà nước: Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành tiền cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt ngân sách nhà nước đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài, từ năm 1992 Nhà nước đã có những quy định về việc chấm dứt phát hành tiền trực tiếp để bù đắp bội chi. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi ngân sách nhà nước trong những năm 1991-1995 là rất thấp được khống chế ở mức chấp nhận được là 2,63%, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này.
Nhìn chung, thực trang cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn này đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhà nước đã có nhiều nổ lực trong việc đổi mới chính sách quản lý và cân đối ngân sách nhà nước để cải thiện khai thác nguồn thu và phân bổ nguồn lực Quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển. So với giai đoạn trước, cân đối ngân sách nhà nước ở giai đoạn này đạt được kết quả rất khả quan như: nguồn thu vào ngân sách nhà nước gia tăng, chi tiêu tiết kiệm và hợp lý hơn, có sự cân đối giữa nguồn thu và nhệm vụ chi, bội chi giảm và duy trì ở mức chấp nhận được,…Tuy vậy, cân đối ngân sách nhà nước trong giai đoạn này cũng còn nhiều hạn chế như: cải cách thuế vẫn còn nhiều bất cập, hệ thống thuế chồng chéo, phức tạp gây khó khăn cho công tác hành thu và quản lý thuế; vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ chú trọng giải quyết nhu cầu chi; các nguồn thu và nhiệm vụ chi phân cấp cho chính quyền địa phương không ổn định hạn chế khả năng chủ động của ngân sách địa phương khi cân đối ngân sách cấp mình, Nhà nước vẫn chưa xóa bỏ hết các khoản chi bao cấp dẫn đến lãng phí nguồn lực tài chính của đất nước.
2.1.2. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn từ khi có Luật ngân sách nhà nước cho đến nay
Trong những năm qua, nước ta đã kiểm soát được mức bội chi ngân sách nhà nước ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư phát triển, đây là một thành công đáng ghi nhận trong vấn đề kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước ở nước ta. Giai đoạn từ năm 1997 - 2000, tình hình thu chi ngân sách nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi cho thường xuyên mà còn dành một phần cho đầu tư phát triển. Vì vậy, thâm hụt ngân sách nhà nước được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước phải chi nhiều thu ít dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn này thay đổi liên tục, tỉ lệ bội chi ngân sách nhà nước ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên đến 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996 là 3,0%, năm 1997 là 4,05%, năm 1998 là 2,49%, năm 1999 là 4,37% năm 2000 là 4,95%). Đến giai đoạn từ năm 2001 - 2008, bội chi ngân sách nhà nước được duy tì ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9% - 5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán. Còn theo lãnh đạo kiểm toán Nhà nước cho biết, mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2009 là 62.200 tỷ đồng bằng 4,95% GDP. Đây là vấn đề rất đáng lo ngại để thực hiện cân đối ngân sách nhà nước, vì mức bội chi hàng năm không có chiều hướng giảm xuống và theo dự kiến bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 có thể là 83.300 tỷ đồng tăng 31,8% năm 2007.
Với kết quả bội chi ngân sách nhà nước như trên, ta thấy chính phủ cũng đã có nhiều nỗ lực trong việc duy trì và đảm bảo bội chi ngân sách nhà nước ở mức chấp nhận được thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Trong xử lý bội chi ngân sách nhà nước, các nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước được tuân thủ nghiêm chỉnh, các biện pháp bù đắp bội chi theo quy định của luật được vân dụng một cách hiệu quả, Nhà nước đã chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền trực tiếp để tài trợ bội chi ngân sách nhà nước, thay vào đó là tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ và tận dụng nguồn vốn vay nước ngoài dưới hình thức ODA nhằm đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để cân đối ngân sách nhà nước. Theo cách tính bội chi ngân sách nhà nước của Việt Nam, hàng năm mức bội chi ngân sách được công bố không vượt quá 5% GDP. Nhưng có những khoản chi như: chi cho công trình giao thông, thủy lợi và kiên cố hóa trường học thông qua trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục lại để ngoài cân đối ngân sách nhà nước, vì vậy thực tế con số bội chi ngân sách nhà nước này lớn hơn 5%. Nếu xác định bội chi theo thông lệ quốc tế thì kể cả những khoản chi để ngoài ngân sách, bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam bình quân giai đoạn 1997 - 2007 đã vượt con số 5%. Qua đó, tính minh bạch trong cân đối ngân sách nhà nước chưa vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi ngân sách nhà nước trong thời gian cũng tồn đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc để có những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi ngân sách nhà nước trong những năm sắp tới như: số tiền vay đăc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên tạo áp lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi những mức bội chi này lại không được tính vào bội chi ngân sách nhà nước…
2.2. Các giải pháp hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
2.2.1. Tăng cường kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước và biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đảm bảo vấn đề cân đối ngân sách nhà nước
2.2.1.1. Tăng cường công tác kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước
Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước. Vì thực tế một trong những nguyên nhân dẫn đến vấn đề bội chi ngân sách nhà nước (tức là thu vượt quá chi ngân sách nhà nước) là do sự yếu kém trong năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước, không phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán ngân sách nhà nước đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp bội chi chưa sử dụng hiệu quả. Vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu ngân sách nhà nước chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu ngân sách nhà nước để không làm mất cân đối ngân sách nhà nước, không lãng phí nguồn thu ngân sách nhà nước vào những hoạt động chi không cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối hợp giám sát chặt chẽ này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý ngân sách nhà nước.
Vấn đề vay nợ ở địa phương cũng phải được kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn, không để tình trạng địa phương còn kết dư ngân sách mà vẫn tiếp tục đi vay nợ. Mục tiêu mà ngân sách nhà nước năm 2010 hướng tới là không cho bội chi ngân sách nhà nước gia tăng mà kiềm chế và giảm xuống ở mức 4,8% GDP. Thực hiện tốt được các vấn đề nêu trên sẽ góp phần giảm bớt bội chi ngân sách nhà nước, giảm bớt gánh nặng về nợ cho Nhà nước và thực hiện tốt nhiệm vụ ngân sách đề ra. Để thực hiện tốt chức năng kiểm soát ngân sách nhà nước, Quốc hội cần phải chú trọng ngay từ khâu lập dự toán, cụ thể hóa từng khoản chi và phân chia nguồn thu hợp lý và trong khâu chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước cần có sự đồng tâm nhất trí cao của các Bộ, ngành và địa phương giám sát thực hiện dự toán đó. Bên cạnh đó cần thực hiện triệt để chính sách có thu mới có chi, không để bội chi ngân sách nhà nước tăng quá cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP dưới mức 5%, ở khoảng 3 - 4%, đây sẽ là mức bội chi ngân sách nhà nước tích cực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển. Đồng thời, tiến tới tiến tới tính toán cân đối các nguồn phát hành trái phiếu, công trái giáo dục một cách hiệu quả hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc chưa đủ thủ tục cắt giảm.
2.2.1.2. Hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
Theo Luật ngân sách nhà nước năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước là vay nợ (trong và ngoài nước). Đây là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhưng không dẫn đến lạm phát và nhà nước có thể huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước. Nhằm khắc phục những yếu kém còn tồn đọng trong thời gian tới cần có một số thay đổi về cách thức vay nợ và sử dụng nguồn vay này hợp lý hơn để vấn đề xử lý bội chi ngân sách nhà nước được đảm bảo theo những mục tiêu năm ngân sách đặt ra.
- Về hoạt động vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chỉ bội chi cho đầu tư phát triển, cần giảm phát hành các loại trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó là phát hành trái phiếu chính phủ 5 năm; 10 năm; 20 năm. Củng cố và mở rộng thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường trái phiếu chính quyền địa phương theo hướng nâng cao tính thanh khoản của thị trường, mở cửa thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trên các lĩnh vực trái phiếu đồng hoàn thiện hệ thống thuế đánh vào thu nhập từ trái phiếu. Nhờ đó, Chính phủ sẽ linh hoạt hơn trong việc cân đối nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi.
- Về hoạt động vay nợ nước ngoài: Vay nợ nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước được thể hiện qua các khoản vay ưu đãi. Do vậy để tăng tính chủ động trong cân đối ngân sách nhà nước, Chính phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
2.2.2. Hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước
Qua thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, vấn đề đáng chú ý gây nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong ngân sách nhà nước đó là: ngân sách trung ương thực hiện cân đối thay cho ngân sách địa phương khi có thiếu hụt xảy ra ở địa phương. Sau những ưu điểm, cơ chế này đã làm cho địa phương quá bị động và không đảm bảo tính trách nhiệm cũng như minh bạch trong quá trình sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục tình trạng ngân sách trung ương cân đối thay cho ngân sách địa phương trên cơ sở tăng tính chủ động và trách nhiệm của địa phương.
- Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rỏ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính quyền địa phương
Để tăng nguồn lực cho địa phương, nâng cao khả năng chủ động và tích cực trong khai thác nguồn thu nhằm giúp địa phương linh động hơn trong xử lý cân đối ngân sách địa phương mình giảm bớt sự lệ thuộc vào sự hổ trợ của ngân sách trung ương, Chính phủ cần thay đổi và mở rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đó, theo hướng chuyển dần một số khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương sang khoản thu địa phương được hưởng 100%, để kích thích địa phương nuôi dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình. Như đối với Thuế thu nhập cá nhân là khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương, với mục đích nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết thu nhập tạo công bằng cho xã hội, có thể chuyển sang nguồn thu 100% cho ngân sách địa phương.
- Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối ngân sách nhà nước nhằm khắc phục vấn đề ngân sách địa phương còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của ngân sách trung ương, mà không linh động tận dụng khả năng vốn có của địa phương
Nhà nước chỉ nên xem bổ sung cân đối ngân sách nhà nước là giải pháp cuối cùng khi địa phương đã nỗ lực hết mình trong khai thác nguồn thu, nhiệm vụ chi và nhu cầu chi là cần thiết không thể cắt giảm và tiết kiệm hơn nữa, mà địa phương không thể tự cân đối được. Có như vậy, mỗi địa phương mới phát huy tính chủ động và sáng tạo của mình trong khai thác và sử dụng nguồn lực của địa phương. Chính quyền địa phương sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên nữa, thay vào đó sẽ tích cực hơn trong công tác giải quyết thiếu hụt ngân sách địa phương, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch của mỗi địa phương trong việc kê khai và dự toán khả năng thu chi của địa phương một cách chính xác, để chính phủ có những giải pháp hợp lý bổ sung cân đối ngân sách cho mỗi địa phương
KẾT LUẬN
Như vậy hệ thống ngân sách nhà nước của nước ta đã và đang được từng bước hoàn thiện để phù hợp với hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển bền vững. Song cần đẩy mạnh hơn nữa việc quản lý và phân cấp ngân sách nhà nước để việc công tác thu chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả cao hơn, giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% khi tính theo thông lệ quốc tế chứ không phải chỉ là dưới 5% bằng cách tính của nước ta hiện nay. Phấn đấu đưa nước ta hội nhập nền kinh tế toàn cầu, giao lưu học hỏi các nước trên thế giới không chỉ trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, kinh tế xã hội mà cả trong công tác quản lý nhà nước.
Bên cạnh việc nâng cao thu ngân sách cần hướng đến nâng cao hiệu của của công tác chi ngân sách để đồng tiền thuế của người dân thực sự quay trở lại phục vụ người dân, tránh thất thoát, lãng phí, gây mất lòng tin trong dân chúng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007. Chủ biên: PGS.TS Nguyễn Hữu Tài.
2. Giáo trình quản lý tài chính nhà nước, Học viện tài chính, NXB Tài chính 2004.
3. Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp 2007.
4. Giáo trình Quản lý tài chính công, Học viện tài chính, NXB Tài chính 2007. Chủ biên TS. Phạm Văn Khoa.
5. Trang web Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
6. Trang báo điện tử: dantri.com.vn.
Phụ lục 1
Cơ cấu thu ngân sách Nhà nước
%
2000
2002
2003
2004
2005
2006
2007
TỔNG THU
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô)
50.95
51.29
51.67
54.77
52.49
52.03
55.17
Thu từ doanh nghiệp Nhà nước
21.7
20.24
18.88
16.85
17.12
16.58
15.94
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
5.22
5.87
6.53
7.91
8.36
9.25
9.94
Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh
6.39
6.27
6.8
6.95
7.42
7.9
9.87
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
1.96
0.62
0.1
0.07
0.06
0.04
0.04
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
2.02
1.89
1.94
1.84
1.85
1.85
2.35
Lệ phí trước bạ
1.03
1.07
1.19
1.37
1.23
1.2
1.8
Thu xổ số kiến thiết
2.17
2.45
2.4
2.39
2.32
2.2
Thu phí xăng dầu
2.41
2.42
2.1
1.88
1.73
1.42
1.41
Thu phí, lệ phí
2.99
2.44
2.15
2.19
1.84
1.78
1.28
Các khoản thu về nhà đất
3.11
4.43
6.93
9.15
7.78
7.35
10.74
Các khoản thu khác
1.95
3.59
2.65
4.18
2.79
2.45
1.8
Thu từ dầu thô
25.93
21.4
24.15
25.43
29.16
29.82
24.37
Thu từ hải quan
20.89
25.49
22.23
18.29
16.7
15.32
19.11
Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu
14.95
17.83
14.12
11.34
10.36
9.4
12.15
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu
5.94
7.66
8.1
6.94
6.33
5.92
6.96
Thu viện trợ không hoàn lại
2.23
1.82
1.95
1.51
1.66
2.83
1.35
Phụ lục 2
Quyết toán thu ngân sách Nhà nước
Tỷ đồng
2000
2002
2003
2004
2005
2006
2007
TỔNG THU
90749
123860
152274
190928
228287
279472
315915
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô)
46233
63530
78687
104576
119826
145404
174298
Thu từ doanh nghiệp Nhà nước
19692
25066
28748
32177
39079
46344
50371
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
4735
7276
9942
15109
19081
25838
31388
Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh
5802
7764
10361
13261
16938
22091
31178
Thuế sử dụng đất nông nghiệp
1776
772
151
130
132
111
113
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
1831
2338
2951
3521
4234
5179
7422
Lệ phí trước bạ
934
1332
1817
2607
2797
3363
5690
Thu xổ số kiến thiết
1969
3029
3657
4570
5304
6142
Thu phí xăng dầu
2192
2995
3204
3583
3943
3969
4457
Thu phí, lệ phí
2713
3021
3279
4182
4192
4986
4059
Các khoản thu về nhà đất
2823
5486
10546
17463
17757
20536
33925
Các khoản thu khác
1766
4451
4031
7973
6369
6845
5695
Thu từ dầu thô
23534
26510
36773
48562
66558
83346
76980
Thu từ hải quan
18954
31571
33845
34913
38114
42825
60381
Thuế xuất. nhập khẩu. thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu; Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu
13568
22083
21507
21654
23660
26280
38385
Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu
5386
9488
12338
13259
14454
16545
21996
Thu viện trợ không hoàn lại
2028
2249
2969
2877
3789
7897
4256
Phụ lục 3
Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước
%
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
TỔNG CHI
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Trong tổng chi
Chi đầu tư phát triển
27.19
31.00
30.51
32.91
30.87
30.15
28.68
28.08
Trong đó: Chi XDCB
24.06
27.85
27.49
30.04
28.83
27.73
26.32
26.90
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội
56.74
55.14
52.66
52.77
50.42
50.37
52.54
53.06
Trong đó
Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo
11.63
11.89
12.04
12.63
11.83
10.89
12.12
13.46
Chi sự nghiệp y tế
3.17
3.24
3.14
2.96
2.81
2.90
3.74
4.11
Chi dân số kế họach hoá gia đình
0.51
0.33
0.57
0.37
0.19
0.18
0.16
0.15
Chi sự nghiệp khoa học và CNMT
1.14
1.25
1.25
1.02
1.10
0.98
0.82
1.90
Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin
0.84
0.71
0.72
0.69
0.74
0.80
0.61
0.59
Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình
0.66
0.65
0.46
0.58
0.62
0.56
0.38
0.35
Chi sự nghiệp thể dục, thể thao
0.36
0.37
0.40
0.36
0.41
0.33
0.31
0.25
Chi lương hưu, đảm bảo xã hội
9.86
10.34
8.92
9.08
8.07
6.76
7.19
9.16
Chi sự nghiệp kinh tế
5.32
4.85
5.39
4.51
4.81
4.49
4.61
4.04
Chi quản lý hành chính
7.42
6.73
5.80
6.27
7.42
7.14
6.01
7.31
Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính
0.78
0.65
0.36
0.06
0.04
0.03
0.04
0.05
Phụ lục 4
Quyết toán chi ngân sách Nhà nước
Tỷ đồng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
TỔNG CHI
108961
129773
148208
181183
214176
262697
308058
399402
Trong tổng chi
Chi đầu tư phát triển
29624
40236
45218
59629
66115
79199
88341
112160
Trong đó: Chi XDCB
26211
36139
40740
54430
61746
72842
81078
107440
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội
61823
71562
78039
95608
107979
132327
161852
211940
Trong đó:
Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo
12677
15432
17844
22881
25343
28611
37332
53774
Chi sự nghiệp y tế
3453
4211
4656
5372
6009
7608
11528
16426
Chi dân số kế họach hoá gia đình
559
434
841
666
397
483
489
612
Chi sự nghiệp khoa học và CNMT
1243
1625
1852
1853
2362
2584
2540
7604
Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin
919
921
1066
1258
1584
2099
1874
2346
Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình
717
838
681
1056
1325
1464
1184
1410
Chi sự nghiệp thể dục, thể thao
387
483
586
648
883
879
956
1005
Chi lương hưu, đảm bảo xã hội
10739
13425
13221
16451
17282
17747
22157
36597
Chi sự nghiệp kinh tế
5796
6288
7987
8164
10301
11801
14212
16145
Chi quản lý hành chính
8089
8734
8599
11359
15901
18761
18515
29214
Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính
846
849
535
111
78
69
135
185
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26826.doc