Đề án TTCK Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường hàng hóa

TTCK một lĩnh vực khá mới mẻ tại Việt Nam đã trải qua 6 năm chính thức đi vào hoạt động bao thăng trầm. Đây là một lĩnh vực mang đầy sự rủi ro, nhưng cũng đầy hấp dẫn cho những người thích mạo hiểm. Nghiên cứu về lĩnh vực này là một điều rất cần thiết không chỉ đối với sinh viên kinh tế nói riêng mà còn đối với tất cả mọi người bởi lẽ đó chính là những người quyết định tới sự phát triển của TTCK Việt Nam, để đưa TTCK Việt Nam có thể ngang tầm với TTCK của các nước phát triển. Chính vì thế em đã chọn đề tài này, và thấy đề tài thực sự hấp dẫn. Trong đề án này em đã đưa ra được những nội dung cơ bản nhất về TTCK đồng thời cũng đã nêu lên được thực trạng và giải pháp để phát triển hàng hóa cho TTCK Việt Nam. Tuy nhiên đây là môt lĩnh vực mới mẻ và do kiến thức còn hạn chế nên thiếu sót là điều không thể tránh khỏi. Rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và của mọi người để bài viết của em ngày một hoàn thiện hơn. Trong quá trình làm đề án em đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô giáo Đoàn Phương Thảo. Em xin chân thành cảm ơn.

doc37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án TTCK Việt Nam – Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường hàng hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g phát triển, một khi được phát hành xong, CK có thể được mua bán trao đổi tại sàn giao dịch (trading floor) của một thị trường có tổ chức (organized market) như SGDCK, hoặc bỏ qua quầy (over the counter). PHẦN II: TTCK VIỆT NAM. 1. Những măt đã đạt được của TTCK Việt Nam. TTCK Viêt Nam thành lập và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 20/7/2000. Sau 6 năm hoạt động TTCK Việt Nam đã được hình thành và phát triển với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Qua 6 năm chính thức đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã hình thành và phát triển với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và đã đạt được những mặt đáng kể như sau: 1.1. TTCK bước đầu thể hiện được vai trò là kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Qua 6 năm hoạt động, TTCK nước ta đã phát huy tích cực vai trò là một kênh huy động vốn trung, dài hạn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, là một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp. Tính đến nay đã có 23 công ty niêm yết là 1.120 tỷ đồng. TTCK đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngân sách nhà nước thông qua việc đấu thầu và bảo lãnh phát hành 11.000 tỷ đồng TP Chính phủ, TP của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để niêm yết trên TTGDCK. Một hệ thống tổ chức tài chính trung gian tham gia trên thị trường với 13 công ty CK, 16 các tổ chức hoạt động lưu ký cùng với ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh CK, về lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ. Hiện Ủy ban CK nhà nước đã cấp phép cho 13 công ty CK, 2 công ty quản lý quỹ đầu tư CK, 2 Ngân hàng thương mại trong nước và 3 Ngân hàng thương mại ngoài nước được phép lưu ký CK, 8 tổ chức kiểm toán độc lập (2 tổ chức nước ngoài và 6 trong nước) được phép kiểm toán báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành, niêm yết CK và tổ chức kinh doanh CK. Trong những năm qua, các công ty CK đều đã triển khai được các nghiệp vụ cơ bản là môi giới và tự doanh, tích cực tham gia tư vấn niêm yết với kết quả kinh doanh có chiều hướng phát triển tốt. Các công ty phần lớn đã mở thêm chi nhánh và đại lý nhận lệnh để mở rộng phạm vi hoạt động. Trong năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho thành lập Công ty Liên doanh quản lý Quỹ đầu tư CK đầu tiên tại Việt Nam nhằm giúp cho hoạt động đầu tư vào TTCK đa dạnh và mang tính chuyên nghiệp hơn. Thực hiện Nghị định số 187/CP về chuyển đổi của DNNN thành CtyCP trong năm 2005, các thị trường giao dịch CK đã tổ chức đấu giá cổ phần cho 64 doanh nghiệp, thu về gần 4.574 tỷ đồng, gần gấp 1,5 lần giá trị mệnh giá, tăng 527 tỷ đồng so với giá khởi điểm. Trong năm 2005 có 5 CtyCP đầu tiên phát hành CP ra công chúng huy động 132,6 tỷ đồng; 10 công ty đã niêm yết trên trung tâm giao dịch CK thành phố Hồ Chí Minh phát hành thêm CP huy động 661,58 tỷ đồng. Tính đến ngày 30/6/2005, tổng giá trị thị trường niêm yết đạt gần 31.000 tỷ đồng, gồm hơn 1.700 tỷ đồng CP của 29 công ty CtyCP và trên 29.000 tỷ đồng TP chính phủ, TP chính quyền địa phương và TP Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam. Đến ngày 30/6/2005, TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức được 1.071 phiên giao dịch liên tục, an toàn với tổng trị giá giao dịch đạt gần 33.700 tỷ đồng, trong đó TP chiếm 89%, CP và chứng chỉ quỹ chiếm 11%. 1.2. Quy mô của thị trường ngày càng mở rộng qua các năm. Năm 2005 quy mô của thị trường được mở rộng tăng khoảng 55% giá trị CK niêm yết. Từ quy mô nhỏ bé ban đầu với 2 công ty niêm yết có vốn điều lệ tổng cộng khoảng 270 tỷ đồng, tới nay TTCK Việt Nam đã có 41 loại CP được niêm yết và 1 chứng chỉ quỹ (VF1). Số lượng các loại TP cũng ngày một tăng lên. Hàng hóa trên thị trường TP với kỳ hạn dài hơn, phương thức phát hành từng bước được chuẩn hóa. Tổng khối lượng niêm yết tại thời điểm hiện nay đã đạt con số 652.9 triệu CP tổng giá trị giao dịch thị trường đã xấp xỉ 10%GDP; có trên 52.000 tài khoản đầu tư, trong đó có 246 nhà đầu tư là tổ chức, trên 362 tài khoản đầu tư là của người nước ngoài. Số lượng các nhà đầu tư nước ngoài gia nhập vào TTCK VIệt Nam tăng là nhân tố hết sức quan trọng kích cầu CK thông qua các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng thu hút, tập trung các nguồn vốn đầu tư nhỏ lẻ trong nền kinh tế. Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 15/5/2006 Tổng giá trị vốn hóa thị trường (tỷ đồng) 986 570 2.436 2.307 4.237 7.390 30.600 Tổng giá trị giao dịch (tỷ đồng) 92 1033 1087 2998 19887 26878 28168 Bảng 1: Một vài chỉ tiêu của trung tâm giao dịch CK TP.HCM qua các năm (đơn vị: tỷ đồng) Nguồn: Ủy ban CK nhà nước. Quy mô thị trường tăng nhanh với tốc độ lớn nhất trong 5 năm qua, tổng giá trị CK niêm yết và đăng ký giao dịch (theo mệnh giá) trên hai TTGDCK đạt 41.839 tỷ đồng, tăng 64% so với năm 2004. Giá trị TTCK niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 47.115 tỷ đồng, tăng gấp 1.6 lần năm trước, tương đương 6.1% GDP. Điều quan trọng hơn là tính thanh khoản của thị trường cao hơn, với hơn 31 nghìn tài khoản giao dịch CK, tăng 45%. Kết quả trên đây cho thấy hoạt động đấu giá cổ phần trên TTSC đã làm cho thị trường thứ cấp sôi động hơn, đồng thời mở ra xu hướng các doanh nghiệp lựa chọn phương thức huy động vốn qua TTCK. Theo ước tính của Công ty quản lý quỹ Dragon Capital, trong năm 2006 có khoảng 500 triệu USD vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài đổ vào TTCKViệt Nam. Đặc biệt từ trung tuần tháng 7-2006, với việc Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank) niêm yết CP trên TTGDCK Tp.HCM với số vốn điều lệ gần 1.900 tỷ đồng đã trở thành doanh nghiệp có số vốn lớn nhất niêm yết CP và cũng làm cho quy mô hoạt động của Trung tâm từ 1,5 tỷ USD tăng lên 2,0 tỷ USD. Cùng với sự phát triển hoạt động của TTGDCK TP Hồ Chí Minh, ngày 8/3/2005, TTGDCK Hà Nội đã chính thức đi vào hoạt động. Việc ra đời của thị trường này đã góp phần hoàn chỉnh mô hình TTCK Việt Nam. Ðến nay, đã có 9 công ty đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội với giá trị vốn điều lệ 1.500 tỷ đồng; giá trị giao dịch CP bình quân 2 tỷ đồng/phiếu. Sự khởi đầu này chưa phải là cao nhưng rất đáng khích lệ đối với TTGDCK Hà Nội sau năm tháng đi vào hoạt động. Cùng với những bước tiến của hai TTGDCK TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, các tổ chức kinh doanh, dịch vụ CK cũng đã có sự phát triển về quy mô và chiều sâu, góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình CPH các DNNN. Trong năm 2005, có 5/13 công ty CK tăng vốn điều lệ và bổ sung nghiệp vụ, mức vốn bình quân của các công ty CK tăng 30% so với năm 2004 (mức tăng từ 46,6 tỷ đồng lên 60,5 tỷ đồng/công ty). Có 11/14 công ty được cấp phép hoạt động đủ 5 nghiệp vụ. Trong đó, nghiệp vụ tự doanh và quản lý danh mục đầu tư được các công ty CK triển khai mạnh. Các công ty CK đã tư vấn CPH cho 525 DN, chiếm 76% số DNNN CPH trong năm 2005 và trực tiếp tổ chức đấu giá thành công cho 229 công ty. Nếu như từ năm 2000 đến 2004 mới có hai công ty quản lý quỹ được thành lập, thì trong năm 2005 đã có thêm bốn công ty được cấp giấy phép. Ðây là bước chuẩn bị quan trọng cho việc đầu tư với quy mô lớn hơn vào TTCK của các tổ chức tài chính. Bước phát triển nhanh và kết quả đạt được của TTCK trong năm qua bắt nguồn từ sự chỉ đạo sát sao và quyết liệt của Chính phủ và Bộ Tài chính trong ban hành và thực thi các chính sách tạo hàng hóa cho thị trường, thúc đẩy tiến trình CPH DNNN, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia TTCK Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã phát hành thành công ra công chúng. Trong năm qua, UBCKNN đã cấp giấy chứng nhận phát hành thêm cho 6 công ty niêm yết với tổng trị giá 700 tỷ đồng, cấp giấy chứng nhận phát hành lần đầu ra công chúng cho 4 công ty với tổng trị giá 102 tỷ đồng. Ngoài ra Uỷ ban cũng cấp phép niêm yết cho 7 công ty với tổng vốn điều lệ 2.117 tỷ đồng, trong đó riêng Vinamilk có vốn điều lệ trên 1.500 tỷ đồng. 1.3. Chủ thể tham gia thị trường ngày càng tích cực và hiệu quả. Tính cho tới thời điểm hiện nay hệ thống các tổ chức trung gian đã được tạo lập với 13 công ty CK, 1 ngân hàng thanh toán, 1 trung tâm lưu ký CK, 7 công ty kiểm toán, 9 công ty quản lý quỹ ( riêng năm 2005 cho phép thành lập 4 công ty quản lý quỹ), 2 TTGDCK Các chủ thể tham gia thị trường ngày càng tích cực và hiệu quả. Thông qua hoạt động của thị trường các công ty CK, công ty niêm yết tận dụng được những lợi thế mà thị trường đem lại. Từ đó các công ty đã cải tiến phương thức họat động, công khai hoá thông tin, nâng cao chất lượng quản trị công ty và vì thế uy tín và vị thế của các công ty đã dần khẳng định trên thị trường Sự ra đời của (TTGDCK) Hà Nội vào tháng 3/2005 đã lập tức nhân gấp hơn 2 lần không chỉ không gian mà cả doanh số của TTCK Việt Nam. Với mảng hoạt động đấu giá cổ phần bước đầu tạo được sự gắn kết giữa CK và cổ phần hoá, tạo điều kiện mở rộng phạm vi TTCK tập trung, góp phần vào việc minh bạch hoá TTSC, tăng năng lực tập trung tư bản cho nhà đầu tư và và tăng nguồn thu thuế cho Nhà nước từ tỷ lệ chênh lệch giá bán cổ phần đồng thời bảo vệ lợi ích cho người tham gia thị trường - Tăng cường khả năng tiếp cận của doanh nghiệp và công chúng với TTCK. Tháng 8/2005 TTGDCK Hà nội chính thức khai trương sàn giao dịch thứ cấp và tới 9/3/2006 (sau 7 tháng hoạt động) TTGDCK Hà nội đã tổ chức được tròn 100 phiên giao dịch với tổng khối lượng chuyển nhượng trên 30 triệu CP và gần 800.000 TP. Khối lượng giao dịch trung bình đạt trên 300.000 CP với giá trị hơn 4 tỷ đồng/ phiên. 1.4. Số lượng nhà đầu tư ngày càng tăng, lòng tin của họ đối với thị trường ngày càng được củng cố Năm 2005 số lượng nhà đầu tư tăng 35%. Đồng thời TTCK đã thu hút được sự tham gia của công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng 16.226 tài khoản của nhà đầu tư được mở tại các công ty CK, trong đó có hơn 152 nhà đầu tư có tổ chức và 85 nhà đầu tư nước ngoài, góp phần quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của TTCK Có được những con số như trên là do sự hoàn thiện cơ chế quản lý và khuôn khổ pháp luật tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Cụ thể như sau: Sau khi Quyết định 238 được Thủ tướng Chính phủ ban hành, với các quy định mới là bước đi khá mạnh dạn của Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển TTCK, tạo điều kiện cho các công ty quản lý quỹ liên doanh được thành lập, các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, CP, đầu tư TTCK được linh hoạt hơn. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia mua CP trên TTCK, vì vậy, trong năm, số lượng các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đã tăng hai hai lần, góp phần thu hút thêm nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài Cơ quan quản lý nhà nước đã đảm đương được vai trò hoạch định chính sách, tổ chức, giám sát nhằm đảm bảo TTCK hoạt động ổn định. Các chuẩn mực kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty được áp dụng với các công ty niêm yết, các thành viên của thị trường. Việc ban hành Quyết định số 528/2005/QĐ-TTg ngày 14/6/2005 về việc phê duyệt danh sách các CtyCP hoá thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCK đã đẩy mạnh hoạt động đấu giá của TTGDCK và hỗ trợ tích cực hơn cho tiến trình cổ phần hoá. Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Lưu ký CK trực thuộc Uỷ ban CK nhà nứơc. Sự ra đời của Trung tâm tác động rất lớn đến việc hỗ trợ hoạt động giao dịch trên TTCK Việt Nam, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư và các công ty CK. Thể chế tham gia thị trường từng bước được nới lỏng với dấu ấn đáng ghi nhận là việc ban hành Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/9/2005 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK. Theo đó, tỷ lệ nắm giữ tối đa tổng số CP niêm yết, đăng ký giao dịch của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trên TTCKVN được nâng lên từ 30% tới 49%. Bên cạnh đó nhà đầu tư nước ngoài cũng được sở hữu tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký giao dịch của một quỹ đầu tư CK, đồng thời không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với TP lưu hành của tổ chức phát hành. Đây là điểm thay đổi quan trọng thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam. 2. Thực trạng của TTCK Việt Nam. Được thành lập vào tháng 7/2000 thị trường CK (TTCK) Việt Nam trải qua 6 năm hoạt động với các giai đoạn thăng trầm, từ lúc phát triển quá nóng sang tới giai đoạn suy thoái và hiện nay đang ở giai đoạn khởi sắc với những bước phát triển khá mạnh cả về chất và lượng. Tuy nhiên so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội nhập quốc tế thì quy mô của thị trường CK Việt Nam còn quá nhỏ bé. Sự phát triển của TTCK trong những năm vừa qua có thể chưa thuyết phục được sự mong đợi của thị trường và nhất là của giới nghiên cứu, nhưng phải thừa nhận rằng với những kết quả đạt được, đó là sự cố gắng, nỗ lực lớn của các cấp, các ngành. Nhìn một cách tổng quát TTCK Việt nam thời gian qua đã đạt được những thành công đáng kể. Bên cạnh đó cũng còn những tồn tại, những khó khăn cần nỗ lực khắc phục để thị trường này thực sự trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho các nhà đầu tư. 2.1. TTCK Việt Nam là thị trường mới, qui mô còn nhỏ và chưa khai thác được tiềm năng của mình. 2.1.1. Số lượng doanh nghiệp niêm yết các giao dịch trên thị trường còn hạn chế. TTCK Việt Nam hiện là hình ảnh một cái chợ được xây dựng khá đẹp, hàng hóa trong chợ được bày biện tương đối, song khách hàng còn quá thưa thớt nếu không muốn nói là không có người mua. Cơ chế quản trị công ty, chế độ kế toán kiểm tóan còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thị trường chưa thu hút được sự tham gia tích cực của các CtyCP, do các công ty này chưa thấy hết được lợi thế ưu việt của công cụ CP. Tính tới ngày 21/7/2006 chỉ mới có 39 CtyCP trong số hơn 5000 CtyCP của cả nước tham gia vào TTCK là một con số rất nhỏ so với khả năng của nền kinh tế và của các nhà đầu tư. Nguyên nhân của tình trạng này là do “ chúng ta chưa gắn kết được tiến trình cổ phần các DNNN với việc phát hành CK ra công chúng và niêm yết, chưa có các doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả niêm yết trên TTCK. Cũng chính vì điều này làm cho thị trường dễ bị tổn thương, nhất là mỗi khi có những sự kiện xảy ra từ phía các công ty niêm yết” ( Theo ông Trần Xuân Hà- Cựu Phó Chủ tịch UBCKNN )Quy mô TTCK Việt Nam còn rất nhỏ bé, vào năm 2003 tổng giá trị CK niêm yết (CP và TP tính theo mệnh giá) mới chỉ chiếm khoảng trên 1,9% GDP. Chỉ có 36 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch tại TTGDCK Tp.HCM và Hà Nội trong tổng số hàng ngàn CtyCP đủ tiêu chuẩn niêm yết. Những doanh nghiệp này hầu hết có quy mô nhỏ và vốn vài chục tỷ đồng chẳng thấm vào đâu so với các công ty vốn hàng ngàn tỷ trực thuộc các tổng công ty Nhà nước.Còn số lượng các công ty niêm yết có khả năng tài chính tốt còn khiêm tốn, khả năng cạnh tranh trên thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài về sản phẩm của các công ty này còn hạn chế. Chính điều này đã làm cho CP niêm yết chưa đại diện cho các nhóm ngành sản xuất trong nền kinh tế và lại kéo theo chỉ số VN-Index chưa có ý nghĩa, chưa phản ánh đúng tình hình phát triển của nền kinh tế. Đại bộ phận doanh nghiệp CPH là doanh nghiệp nhỏ và vừa với số vốn chỉ chiếm 8,2% tổng số vốn của Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp. Quá trình CPH DNNN còn khép kín, mang tính chất nội bộ, chưa thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài vào doanh nghiệp. Sau CPH doanh nghiệp không thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTCK, vì thế, số lượng doanh nghiệp được CPH tăng lên nhưng hàng hóa trên TTCK thì vẫn hạn chế. Và cuối cùng các văn bản pháp lý về định giá vẫn còn sự chưa thống nhất. Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin thị trường cho hoạt động thẩm định giá nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng chưa được thiết lập. Thông tin cơ sở phục vụ cho việc định giá doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Với những con số đó cho thấy quy mô của TTCK Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và chưa tổ chức được TTTC hiệu quả đối với TP, đặc biệt là TP Chính phủ. Phạm vi hoạt động của các công ty CK còn rất hạn chế, chỉ trong phạm vi 2 Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, do đó, mới đáp ứng một phần nào đó nhu cầu của các nhà đầu tư trên 2 địa bàn này. Khả năng tiếp cận của công chúng trên toàn quốc với TTCK, các CtyCP và các công ty CK của thành phố còn nhiều hạn chế. Việc giao dịch trên Trung tâm CK trong thời gian qua chủ yếu là quá trình mua đi rồi bán lại những CP đã niêm yết. Cho đến nay, chỉ có một vài công ty phát hành thêm CP mới. Điều này cho thấy TTCK ở Thành phố vẫn chưa thực hiện được chức năng chính của nó là kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. 2.1.2. TTCK Việt Nam chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Thời gian gần đây đã có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK tuy nhiên giao dịch CPcủa nhà đầu tư nước ngoài còn ít, vẫn ở trạng thái thăm dò, còn thiếu vắng cả pháp nhân lẫn thể nhân. Nhà đầu tư tham gia TTCK hiện nay chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân với số lượng tham gia quá ít so với tiềm lực tài chính trong dân và so với các loại hình đầu tư khác như đầu tư vào bất động sản ha gửi tiết kiệm. Các DNNN được hỗ trợ về vốn hoặc được cho vay ưu đãi nên doanh nghiệp “chưa cần” gõ cửa TTCK vẫn có vốn rẻ để đầu tư kinh doanh! Hệ thống NHTM Việt nam vẫn chủ yếu kinh doanh “độc canh” trên thị trường tín dụng truyền thống nên vẫn là kệnh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Hầu hết nhà đầu tư có vốn ít và chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố tâm lý, nhất là khi thị trường thăng giáng thất thường. Nhà đầu tư có tổ chức còn quá ít, tính chuyên nghiệp chưa cao, nguốn vốn đầu tư vào TTCK chưa ổn định. Hoạt động CK còn mang nặng tính đầu cơ ngắn hạn, thiếu tính phân tích và dự đoán trên TTCK Việt Nam, công chúng còn đầu tư theo yếu tố tâm lý, chủ yếu bị ảnh hưởng bởi cảm tính. Có rất ít những nhà đầu tư chuyên nghiệp đầu tư theo phương pháp phân tích các chỉ số, số liệu của công ty, điều này ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của TTCK. Hơn nữa, tính chính xác của thông tin mà các đối tượng tham gia trên thị trường đưa ra chưa cao đã làm cho các nhà đầu tư khó có thể đưa ra được các quyết định hợp lý. Các tổ chức niêm yết chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc công khai hoá thông tin. Do vậy họ còn thiếu chủ động tự giác cung cấp thông tin cho công chúng làm ảnh hưởng tới các quyết định tham gia thị trường của người đầu tư. Quy mô thị trường quá nhỏ bé và chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự cởi mở và cơ chế lưu ký, giao dịch còn nhiều phức tạp. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn cân nhắc và thận trọng khi quyết định tham gia vào thị trường CK, mà nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu nhất quán và cụ thể trong những văn bản pháp lý về thị trường CK và các qui định dành cho nhà đầu tư nước ngoài. 2.1.3. Hàng hóa trên TTCK số lượng chưa nhiều, chất lượng chưa cao. Một thực tế đáng phải bàn ở đây là công tác tạo hàng hoá cho thị trường gặp nhiều khó khăn. Chính điều này đã ảnh hưởng tới quy mô TTCK. Minh chứng là: Hiện nay hàng hoá chủ yếu là CP, TP và 1Chứng chỉ quỹ đầu tư(VF1). Thị trường TP Chính phủ đơn điệu với cách thức phát hành đơn giản, chưa thường xuyên, giao dịch thứ cấp chưa phát triển, thị trường TP công ty rất sơ khai.CP của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. Điều đó được thể hiện trên các thị trường cụ thể như sau: Nếu xét trên TTSC, hiện có hơn 2.500 DNNN CPH hàng chục ngân hàng thương mại cổ phần, hàng chục doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang trong quá trình chuyển đổi thành CtyCP và hàng ngàn CtyCP thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp, trong số này có nhiều công ty đã phát hành đại chúng, đặc biệt là từ nhóm các DNNN CPH và nhóm các NHTMCP. Nhìn vào TTTC, phần lớn CP của các CtyCP đại chúng đang trôi nổi trên thị trường tự do, còn tại thị trường có tổ chức (TTGDCK) hiện chỉ có CP của 30 công ty niêm yết (CtyNY) với quy mô không lớn và chưa đại diện cho các ngành kinh tế, không tính đến các loại TP chính phủ kỳ hạn từ 2 đến 15 năm, 1 TP chính quyền địa phương, 1 TP NHTM nhà nước và 1 loại chứng chỉ quỹ đầu tư CK. Một thực tế đáng nói nữa ở đây là thị trường đang thiếu sự đồng bộ giữa hàng hóa và nhu cầu. Nhu cầu thị trường lên rất nhanh tuy nhiên sự điều hòa giữa cung cầu có vấn đề. Cung cầu CK có quá nhiều điểm bất ổn, còn lệch lạc và méo mó, cầu CK còn quá nhỏ bé, hiện có 21.000 tài khoản mở tại các công ty CK nhưng chỉ có hơn 1.000 tài khoản là có giao dịch thường xuyên (chiếm khoảng 5%). Tại Việt Nam bình quân đạt doanh số giao dịch 7 - 10 triệu USD/ngày, trong khi đó của Thái Lan là hàng trăm triệu USD, của Mỹ - NYSE, đạt 60 - 70 tỷ USD/ngày, Đài Loan đạt 3 tỷ USD/ngày,… Việc đưa thêm doanh nghiệp lên niêm yết không chỉ mang ý nghĩa tăng cung cho thị trường mà còn giúp nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn hơn. Chính sự lựa chọn hạn chế không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng là nguyên nhân khiến trên 24.000 tài khoản đăng ký nhưng chỉ có khoảng 1.000 tài khoản có giao dịch thường xuyên. Hàng xấu thì nhà đầu tư chê và rời bỏ thị trường là không có gì khó hiểu. * Nguyên nhân của thực trạng trên: Trước hết, xét về nguyên nhân khách quan, TTCK chỉ có thể phát triển khi CtyCP đại chúng là hình thức phổ biến trong nền kinh tế và các công ty niêm yết hầu hết là các doanh nghiệp lớn đại diện cho các ngành kinh tế. Mặt khác, để có hàng hóa CK chất lượng cho TTCK, phải có các tổ chức kiểm toán, tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động hiệu quả để hỗ trợ quản lý và thông tin, làm cơ sở cho quyết định của các nhà đầu tư trên thị trường. Thứ hai, xét từ góc độ chính sách, thể chế và pháp luật, chúng ta vẫn chưa có những chính sách hợp lý, thể chế chưa hoàn thiện và luật pháp vừa chồng chéo, vừa không đồng bộ. Thứ ba, những hạn chế từ bản thân các doanh nghiệp. Rất nhiều CtyCP không có chiến lược kinh doanh dài hạn, do đó cũng không xác định được cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn một cách tối ưu. Thứ tư, sự hiểu biết về TTCK của doanh nghiệp, xã hội nói chung còn hạn chế. Chưa có một chương trình hành động thống nhất để phát huy vai trò và khả năng của các thành viên trong thị trường trong việc phát triển TTCK... TTCK là một thị trường mới nên công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động CK, cũng như chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường đồng thời do môi trường kinh tế vĩ mô chưa thực sự thuận lợi cho sự phát triển của TTCK như tỷ lệ lãi suất cao, giá vàng, giá bất động sản biến động mạnh thất thường đã dẫn đến tình trạng thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (bảo hiểm, quỹ đầu tư, các tổ chức đầu tư CK chuyên nghiệp). Chính sự thiếu vắng này lại là nguyên nhân của tính không ổn định của thị trường bởi hầu hết các nhà đầu tư TTCK lại là những nhà đầu tư nhỏ thiếu tính chuyên nghiệp. Tuy hiện nay chính phủ và bộ tài chính đã có những văn bản quy định để thúc đẩy quá trình CPH các doanh nghiệp nhưng tiến trình còn chậm, chủ yếu là cổ phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là lực cản cho sự phát triển TTCK Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần có tư tưởng chần chừ, chậm đưa CP của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên TTGDCK, cũng làm chậm tiến trình nói trên. Chính sự chậm trễ trong quá trình này đã làm giảm khối lượng CP trên thị trường và hạn chế số lượng các doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế bao cấp, còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, chưa muốn huy động vốn trên TTCK. Nhiều doanh nghiệp lại e ngại kiểm toán và công bố thông tin trên TTCK, và sự thiếu vắng các doanh nghiệp lớn ra niêm yết trên TTCK đã không hấp dẫn các nhà đầu tư, do vậy, hàng hoá trên thị trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hoá các DNNN chưa gắn kết được với việc phát CK ra công chúng và niêm yết trên thị trường CK; các chính sách khuyến khích, ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường chưa được chú ý đúng mức có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận hành và phát triển của TTCK. Mặt khác, việc quản lý và điều hành thị trường còn bất cập, hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm thực tiễn của cơ quan quản lý và giám sát thị trường. Điều rất quan trọng là hệ thống pháp luật về CK và TTCK thiếu đồng bộ và hiệu lực pháp lý không cao, chưa  có Luật CK để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định để điều chỉnh mọi hoạt động trên TTCK phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và định hướng, chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế v.v... 2.2. Khung pháp lý còn nhiều điểm bất cập và hệ thống giám sát hoạt động của TTCK hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Hệ thống giám sát hoạt động của TTCK đã được thiết lập nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chưa có hệ thống chỉ tiêu giám sát. Bên cạnh đó năng lực giám sát, các chế tài cưỡng chế hành vi vi phạm còn hạn chế; các văn bản pháp luật khác có liên quan như luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thanh tra, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính… chưa quy định rõ thẩm quyền và chưa có các quy định rõ ràng về các hành vi vi phạm trong hoạt động CK. Công tác phổ biến, quán triệt các quy chế chính sách đối với hoạt động của TTCK tuy đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa được sâu rộng nên ý thức chấp hành chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa nắm chắc nghiệp vụ nên kết quả kiểm tra còn hạn chế. Mặc dù đã có các qui chế qui định về giao dịch CK theo Nghị định 48/NĐ-CP được ban hành ngày 11/07/1998, tuy nhiên, vẫn còn nhiều tình huống thực tế xẩy ra chưa được hướng dẫn giải quyết. Chẳng hạn như trước đây, trên TTCK Thành phố Hồ Chi Minh đã xẩy ra những hoạt động đầu cơ dưới nhiều hình thức rất tinh vi. Điều này đã góp phần dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong mối quan hệ cung và cầu CK. Lượng CK mua lớn gấp nhiều lần so với lượng CK đặt bán đã góp phần làm cho giá các loại CP tăng vọt. Để đối phó với tình trạng này, TTGDCK Thành phố đã đưa ra một số chế định nhằm “giảm sốt” thị trường, như giới hạn khối lượng CP đối với người mua, thay đổi biên độ về giá CK. Sự thay đổi này thể hiện sự thiếu nhất quán trong các văn bản pháp qui, và vì vậy đã làm cho các nhà đầu tư rụt rè hơn trong việc kinh doanh CK. PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HÀNG HÓA TRÊN TTCK VIỆT NAM. Thực trạng đáng nói nhất của TTCK Việt Nam là hàng hóa còn quá nghèo nàn về chủng loại và kém về chất lượng. Vấn đề quan trọng ở đây là cần phải tìm ra những giải pháp để phát triển hàng hóa của TTCK Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. TTGDCK Hà Nội sẽ hướng tới là một thị trường OTC Muốn vậy thì phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: 1. Tăng hàng cho TTCK Việt Nam. 1.1. Đẩy nhanh công tác CPH các doanh nghiệp. Tích cực tham gia vào tiến trình CPH các DNNN thông qua các hoạt động đấu giá CPH, bán bớt phần sở hữu vốn nhà nước tại DN, đưa các DN có quy mô lớn vào niêm yết và đăng ký giao dịch. Khi gắn kết cổ phần hoá các DNNN qui mô lớn với phát triển TTCK trong bối cảnh tự do hoá cần chủ động kiện toàn thể chế giám sát, kiểm toán nội bộ các định chế tài chính, các doanh nghiệp cổ phần hoá nhằm loại bỏ nguy cơ thao túng, lũng đoạn thị trường tài chính và nền kinh tế Việc lên niêm yết của các CtyCP không thuộc quyền của Ủy ban CK Nhà nước mà thuộc quyền của Hội đồng quản trị. Không thể dùng các biện pháp hành chính ép doanh nghiệp lên sàn được vì đó là quyền của đại hội đồng cổ đông. Người ta chưa muốn thì chưa tham gia. Ban hành các cơ chế, chính sách tài chính về sắp xếp đổi mới DNNN (DNNN) đã được ban hành nhằm nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý doanh nghiệp, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN, gắn CPH với việc phát triển TTCK. Trong quá trình này, việc Chính phủ ban hành cơ chế định giá DNNN thông qua tổ chức tư vấn định giá độc lập thay vì thông qua cơ chế Hội đồng định giá là một trong những bước đột phá quan trọng. Có thể đánh giá đây là một quy trình mang tính chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thị trường và là động thái tích cực góp phần đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả công tác CPH DNNN. 1.2. Tăng cường sự tham gia của Việt kiều. CPH các DNNN (nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) hiện rất phù hợp với các doanh nghiệp Việt kiều. Bởi vì các doanh nghiệp Việt kiều luôn quan tâm tới các doanh nghiệp cùng ngành nghề kinh doanh của mình để đầu tư. Đối với các doang nhiệp nhỏ và vừa  vốn đầu tư ít, phù hợp, khi đó có thể đầu tư để nắm quyền điều hành công ty sau này. Việc mua lại các công ty cùng ngành nghề giúp các doanh nghiệp Việt kiều phát huy được lợi thế sau cổ phần hoá. Các lợi thế đó là có thị trường tiêu thụ sẵn có tại nước sở tại, thương hiệu đang kinh doanh, kinh nghiệm tổ chức quản lý, phát triển thương hiệu, tiếp thị, tận dụng nguyên liệu, vật tư, kỹ thuật từ cả hai phía, cũng như sử dụng lao động từ họ hàng, địa phương tại Việt Nam. Mặt khác khi tham gia quá trình CPH, các doanh nhân Việt kiều cũng có lợi thế xây dựng liên kết với công ty trong nước như đại lý, đại diện của công ty ở nước ngoài.  Đối với quá trình tham gia  mua CP của các công ty mới niêm yết hay trên sàn giao dịch, Chính phủ nên có chính sách và biện pháp cụ thể để Việt kiều có thể hiểu biết về TTCK Việt Nam và tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Do vậy việc tổ chức hệ thống pháp luật nhằm công khai, minh bạch thông tin, cải tiến kỹ thuật giao dịch, tổ chức cung cấp thông tin kịp thời và xây dựng hệ thống dịch vụ giao dịch sẽ là điều kiện ban đầu để Việt kiều hiểu biết và tham gia vào TTCK Việt Nam. Trong thời gian tới để góp phần cho quá trình cổ phần hoá, xây dựng và phát triển  TTCK VN có thể thu hút 2 nhóm nhà đầu tư Việt kiều bao gồm:  Nhóm I: Người đầu tư là các cá nhân, mua bán CP và TP trên TTTGDCK. Đối với nhóm này phải có những biện pháp tuyên truyền, cố vấn, cung cấp thông tin đầy đủ và thường xuyên. Sau khi thu hút được người đầu tư, cần khuyến khích họ trở thành nhà đầu tư lâu dài, không những chỉ là người tham gia TTCK trong thời gian tư nhân hóa. Hiện nay có rất ít Việt kiều tham gia TTCK VN với tư cách nhà đầu tư cá nhân Tuy họ phần lớn là những người có kiến thức và sự hiểu biết cao, xong vì thiếu những tổ chức đại lý của TTCK VN tại nơi sinh sống, họ thường đầu tư qua những người họ hàng, bạn bè tại VN. Phương thức đầu tư như vậy không có thể  phổ biến trong cộng đồng Việt kiều.  Để thu hút các nhà đầu tư này, các công ty CK nên hợp tác trực tiếp với những doanh nghiệp Việt kiều tại các nước để lập ra những đại diện và đại lý. Các đại lý sẽ có trách nhiệm cung cấp thông tin và quảng cáo thông qua các chiến dịch quảng bá, trang web, những tờ báo Việt kiều v.v.  Họ sẽ là trung gian của các công ty CK trong việc lập tài khoản đầu tư và hỗ trợ khách hàng trong việc giao dịch CK. Bên cạnh việc cải tiến kỹ thuật giao dịch, các công ty CK cần tập trung xây dựng hệ thống giao dịch nhanh chóng qua internet và hệ thống trao đổi thông tin giữa các đại lý tại Việt Nam và đại lý ở nước ngoài. Hơn nữa các đại lý thường có kiến thức về thị trường nơi sinh sống, xong họ cần sự hỗ trợ của các công ty CK trong sự đào tạo và tăng hiểu biết về TTCK Việt Nam.   Nhóm II: các nhà đầu tư là các doanh nghiệp, cá nhân có khả năng tham gia quá trình CPH. Họ có thể đấu thầu trên sàn để mua những công ty nhỏ của nhà nước. Những nhà đầu tư này sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho kinh tế Việt Nam. Họ sẽ đầu tư vào các công ty tại Việt Nam đang hoạt động trong những ngành mà họ đã thành công tại các nước sở tại. Vì vậy họ sẽ đem kiến thức, vốn và sự hiểu biết đã tích luỹ được ở nước ngoài của mình về hoạt động tại Việt Nam. Để thu hút những nhà đầu tư này cần phải thiết lập hệ thống thông tin về các CtyCP hoá, điều kiện và cơ hội kinh doanh của Việt Nam cũng như những thành công của các doanh nhân Việt kiều tại Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt kiều có uy tín hay có tiềm năng tài chính cũng có thể lập ra những quỹ đầu tư CK có vốn của Việt kiều và của các tổ chức đầu tư nước ngoài. Khi đó Việt kiều sẽ có nhiều ưu thế cho cả hai phía Việt Nam và các tổ chức tài chính nước ngoài.  Trong việc khuyến khích và thu hút những nhà đầu tư lớn, cần phải có sự hợp tác chặt chẽ với các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức doanh nghiệp Việt kiều nhằm cung cấp đầy đủ thông tin, cũng như cố vấn về những thủ tục và điều kiện pháp luật. Các cơ quan chức năng Việt Nam có thể sử dụng những phương thức tuyên truyền như VTV4 và hợp tác với các tổ chức doanh nghiệp Việt kiều xây dựng  hệ thống tuyên truyền riêng (các tờ báo chung, các trang web vv. Thêm một yếu tố khuyến khích Việt kiều đầu tư tại Việt Nam là sự hỗ trợ của Chính phủ dựa trên những quy định và điều kiện thuế dành riêng cho các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân Việt kiều. Từ kinh nghiệm của các nước, khi có những chính sách phù hợp sẽ góp phần tích cực để Việt kiều lập ra những tổ chức đầu tư từ các doanh nghiệp Việt kiều hay hợp tác với các đối tác nước ngoài tham gia TTCK VN. Nhờ vậy, họ không những trở thành các nhà đầu tư, mà còn đứng ra làm môi giới trong việc tìm kiếm các đối tác có khả năng tham gia công cuộc CPH và xây dựng TTCK VN. Mặt khác để TTCK VN có sự tham gia đông đảo của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân Việt kiều, cần có các hội thảo, hội nghị, các cuộc tiếp xúc của các cơ quan chức năng Việt Nam với các nhà đầu tư, các trí thức Việt kiều trong lĩnh vực này. Các cuộc hội thảo, trao đổi giúp hai bên có thể hiểu biết hơn và tìm được các biện pháp cụ thể phát triển TTCK VN, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam.   1.3.   Đa dạng hoá các loại hình và các phương thức phát hành TP trên TTCK: - TP công trình: có thể thực hiện quy động vốn trong dân chúng chứ không trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Đối với các dự án, các công trình trọng điểm của Nhà nước cần triển khai phương án phát hành TP vào TTCK. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền của các bộ và các địa phương, cho phép chủ đầu tư trực tiếp phát hành trên TTCK. - TP đầu tư: Cần cho phép các Quỹ đầu tư và Quỹ hỗ trợ phát triển phát hành TP trên TTCK để huy động vốn trung và dài hạn. - TP doanh nghiệp: Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp phát hành TP trên TTCK để huy động vốn trung và dài hạn, nhằm giảm nhẹ gánh nặng ngân sách quốc gia. - TP Chính phủ: cần bãi bỏ lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu, mà nên thực hiện theo lãi suất thị trường, có như vậy, TP Chính phủ mới thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. - Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền nên ủng hộ việc ra đời các quỹ mới và mở rộng quy mô vốn của các quỹ hiện hữu vì hiện nay nguồn vốn nhàn rỗi trong nước còn rất lớn. Việc ra đời các quỹ mới sẽ tạo ra các công cụ hữu hiệu giúp khai thông nguồn vốn nhàn rỗi này. Về phương thức phát hành TP kho bạc nhà nước sẽ thay đổi: không bán lẻ ra thị trường như trước. Đối với tín phiếu kho bạc ngắn hạn sẽ phát hành qua thị trường mở, thông qua đó điều hành chính sách lãi suất của Nhà nước. Đối với TP dài hạn của Kho bạc Nhà nước phải đảm bảo trở thành mục tiêu chuẩn lãi suất trên thị trường vốn theo thông lệ quốc tế. Các loại TP này được đăng kí giao dịch và niêm yết trên TTCK và phát hành thông qua các tổ chức trung gian tài chính để tăng tính thanh khoản. Liên quan đến hàng hóa là CP: Thông tư 126 hướng dẫn Nghị định 187/CP sẽ được sửa đổi so với thực tế. Việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ được cho phép áp dụng nhiều hình thức, linh hoạt đối với các loại hình doanh nghiệp, để đảm bảo việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin chính xác về giá trị CP của các doanh nghiệp một cách minh bạch rõ ràng, đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư và đem lại lợi thế tốt nhất cho các doanh nghiệp CP hóa. Thực hiện các giải pháp tăng cung hàng hoá có uy tín, chất lượng cao, lựa chọn một số doanh nghiệp lớn, ngân hàng thương mại cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết trên TTCK. Ban hành cơ chế thích hợp để phần lớn TP Chính phủ và TP doanh nghiệp, TP công trình được niêm yết để phát hành trên TTCK. 1.4.   Phát triển mạnh thị trường giao dịch CP: 1.4.1. Khuyến khích những CtyCP đủ điều kiện niêm yết: Sau khi cổ phần hoá và sau khi tham gia niêm yết giá, các doanh nghiệp đều được hưởng một số chính sách ưu đãi. Tuy nhiên, thời gian ưu đãi không được cộng dồn hoặc được tính lũy kế nếu thực hiện cả hai. Do đó, sau khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp không muốn tham gia ngay mà họ chần chừ để lần lượt hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần điều chỉnh lại chính sách khuyến khích các DNNN cổ phần hoá và niêm yết. Trong Nghị định 48/NĐ-CP ngày 11/07/1998 có quy định điều kiện phát hành CP, TP lần đầu ra công chúng cũng được xem như điều kiện để niêm yết trên TTCK. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng, TP, CP lần đầu phát hành ra công chúng với những tiêu chuẩn thấp hơn tiêu chuẩn được niêm yết trên TTGDCK. Vì nếu không giao dịch qua sàn giao dịch của các CK đủ tiêu chuẩn niêm yết, thì những CK đó cũng có thể được mua bán thông qua mạng của thị trường OTC (khi thị trường OTC ra đời). Do đó, chúng ta cần phân biệt rạch ròi hai điều kiện này để tạo thuận lợi cho quá trình tham gia vào thị trường CK của các công ty, đặc biệt là khi thị trường OTC ra đời. Có những chính sách ưu đãi về mặt tài chính như giảm lệ phí niêm yết, lệ phí kiểm toán, giảm chi phí phát hành, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.. Thành lập thị trường giao dịch phi tập trung (OTC): Đối với các loại CP của các CtyCP chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết sẽ được giao dịch trên một thị trường riêng. Như ở các nước khác, thị trường này có tên là thị trường OTC. Ở Thành phố Hồ Chí Minh có thể tiến hành cho phép giao dịch các loại CK này tại TTGDCK trong những ngày nhất định, nhằm đa dạng hoá các loại CP trên TTCK thành phố. 1.5. Đưa các loại hàng hóa khác nhà nhà đất, viễn thông, ngân hàng lên giao dịch trên TTCK tập trung. Ở đây tập trung vào phân tích về thị trường nhà dất. Có thể nói thị trường bất động sản Tp.HCM trong 5 năm gần đây là một trong những kênh thu hút vốn đầu tư mạnh của các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, vốn luôn là một bài toán khó cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư bất động sản. Hiện nay, các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nguồn vốn huy động của phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực địa ốc vẫn chủ yếu là huy động trước từ các nhà đầu tư và vay ngân hàng. Song trở ngại cho việc huy động nguồn vốn này chủ yếu là do sản phẩm bất động sản thường có giá trị lớn; trong khi đó, vốn nhàn rỗi trong dân cư, theo nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy vẫn chưa khai thác, thường nhỏ lẻ. Toàn bộ bất động sản tham gia sẽ được chia nhỏ thành những chứng chỉ có giá trị như nhau. Điều này cũng có nghĩa là, thay vì chỉ xoay vòng việc mua bán nhà, đất đơn thuần với các thủ tục phức tạp như hiện nay, một doanh nghiệp có nguồn thu trong tương lai có thể chuyển giao quyền sở hữu nguồn thu này cho các nhà đầu tư để đổi lấy một khoản tiền mặt ngay tại thời điểm thông qua việc phát hành CK mà không cần thông qua các định chế tài chính trung gian. Các chủ thể tham gia kinh doanh chứng chỉ bất động sản này bao gồm: đơn vị phát hành (chủ đầu tư dự án), đơn vị phân phối, ngân hàng giám sát và các nhà đầu tư. Tại thời điểm phát hành CK sẽ được phát hành rộng rãi cho mọi đối tượng quan tâm không giới hạn số lượng hay khối lượng tham gia. Trong quá trình thực hiện dự án, CK bất động sản sẽ được tự do chuyển nhượng. sản. Việc chia nhỏ sản phẩm bất động sản cũng là một ưu điểm của chứng chỉ đầu tư bất động sản, sẽ tăng tính thanh khoản cho bất động sản và mở rộng cho các nhà đầu tư ít vốn mặc dù không có khả năng sở hữu hoàn toàn một bất động sản, vẫn có thể tham gia đầu tư vào thị trường này, thị trường mà từ trước tới nay chỉ dành riêng cho những nhà đầu tư nhiều vốn. Ngoài ra, việc tách nhu cầu đầu tư và nhu cầu sở hữu bất động sản cũng sẽ thu hút được sự tham gia của kiều bào, các cá nhân và các tổ chức kinh tế nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản. Như vậy, chứng chỉ bất động sản là sự gắn kết ở mức cao giữa thị trường tài chính và thị trường bất động sản. Hơn thế nữa, nếu các chứng chỉ bất động sản có tính thanh khoản cao sẽ được niêm yết trên TTCK, khi đó sẽ làm tăng thêm sản phẩm cho thị trường và giúp hoạt động của thị trường sôi động hơn. 2. Nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK. Thứ nhất, từ góc độ vĩ mô không thể thiếu một chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thứ hai, để có hàng hóa nhiều và chất lượng cho TTCK, cần phải tạo môi trường, điều kiện để phát triển các CtyCP về số lượng và chất lượng, trở thành loại hình công ty chủ yếu trong nền kinh tế. Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và về CK và TTCK theo hướng đồng bộ hóa hệ thống pháp luật điều chỉnh các tổ chức phát hành ra công chúng và các công ty đại chúng, xây dựng hành lang pháp lý cho các công ty ĐMTN, đặc biệt là các quy định liên quan đến công khai minh bạch thông tin; chế độ kế toán, kiểm toán; quy định về quản trị công ty; các quy định bảo vệ quyền lợi người đầu tư nói chung. Thứ tư, cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các tổ chức trung gian thị trường nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn phát hành, niêm yết và định giá CK. Thứ năm, không ngừng đẩy mạnh công tác đào tạo, phổ biến kiến thức về TTCK cho các doanh nghiệp và người đầu tư. 3. Hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống quản lý. Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTCK Việt Nam. 3.1. Về các qui định liên quan đến CtyCP: Một công ty đáp ứng đủ tiêu chuẩn nên cho phép niêm yết CP trên cả hai TTGDCK. Bởi vì cả hai trung tâm này đang được nâng cấp, đều cùng tiêu chuẩn quản lý giám sát như nhau. Đồng thời trong tương lai gần hai trung tâm này được kết nối với nhau, tức là kết nối giữa hai thị trường, bao gồm cả hợp nhất hệ thống báo cáo giao dịch và yết giá giao dịch. Một trong số các điều kiện niêm yết của CtyCP trên TTGDCK là không có nợ quá hạn, nên chuyển thành quy định nợ quá hạn chưa được dự phòng. Bởi vì phần đông các công ty, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty cho thuê tài chính cổ phần,... đều có nợ quá hạn. Vấn đề là nợ quá hạn đó đã trích lập dự phòng rủi ro theo quy định và theo thông lệ quốc tế hay chưa. Quy định các thành viên hội đồng quản trị phải giữ 50% số CP ít nhất là 2 năm sau khi CP của công ty niêm yết mới được chuyển nhượng. Quy định này nên mở rộng ra cả các cổ đông lớn, cổ đông chiến lược. Đồng thời quy định này cũng nên áp dụng thống nhất với các thành viên trong ban đại diện quỹ đầu tư thay cho dự thảo là phải giữ 100%. Điều kiện về vốn là phải có 30 tỷ đồng mới được thành lập công ty quản lý quỹ là quá cao. Bởi đây là loại hình doanh nghiệp có hàm lượng chất xám cao, đòi hỏi trình độ tri thức cao, nếu quy định điều kiện phải có số vốn lớn sẽ làm nản lòng các doanh nhân tham gia loại hình doanh nghiệp này. Việc chào bán CK ra nước ngoài đồng thời với việc chào bán CK ở Việt Nam, cần áp dụng quy định tương tự đối với việc niêm yết CK ở nước ngoài. Vấn đề này cần để cho các tổ chức phát hành và tổ chức tư vấn chủ động quyết định. Cũng theo đó, thông tin UBCKNN yêu cầu đối với tổ chức niêm yết ở nước ngoài không nên cao hơn các quy định trong Luật CK mà tổ chức đó đang niêm yết tại Việt Nam. Việc phát hành thêm CP để trả cổ tức hay phát hành thêm CP thưởng cho cổ đông nên đưa vào loại hình chào bán ra công chúng, bởi vì đã là công ty đại chúng thì việc phát hành thêm CP đều do đại chúng nắm giữ. 3.2. Về mô hình tổ chức và bộ máy quản lý Cùng với việc chuẩn bị cơ sở vật chất- kỹ thuật, khuôn khổ pháp lý, qui tắc để nâng cấp TTGDCK Tp HCM thành SGDCK đồng thời tiến hành đánh giá hoạt động của TTGDCK Hà nội để chuẩn bị chuyển đổi sang mô hình thị trường phi tập trung. Bên cạnh đó chuyển toàn bộ hoạt động giao dịch TP sang giao dịch trên TTGDCK Hà nội. Xây dựng và ban hành các quy định để điều chỉnh hoạt động giao dịch các loại CK chưa niêm yết- một bộ phận khá lớn trên thị trường hiện tại với các công ty CK. Nhanh chóng đưa Trung tâm lưu ký CK đi vào hoạt động nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hỗ trợ TTCK. Đây là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động lưu ký, thanh toán chuyển tiền, thanh toán bù trừ. Phát triển mạng lưới thành viên lưu ký (công ty CK, ngân hàng lưu ký) cung cấp các dịch vụ lưu ký chứng khóan đảm bảo an toàn tài sản, thực hiện các quyền cho các nhà đầu tư. Sớm nghiên cứu trình Chính phủ để hoàn chỉnh Luật CK nhằm tạo khung pháp lý cho hoạt động của Trung tâm GDCK, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.. Trước mắt cần tập trung chỉnh sửa các Nghị định 48/NĐ-CP ngày 11/07/1998, cụ thể như sau: - Phạm vi điều chỉnh của Nghị định không những đối với thị trường tập trung mà còn phải được mở rộng cho cả thị trường phi tập trung (OTC). Nghĩa là Nghị định không chỉ áp dụng riêng cho các CK niêm yết trên thị trường CK tập trung mà còn áp dụng cho các CK phát hành ra công chúng chưa được niêm yết. - Cần quy định việc phát hành CK riêng lẻ trong pháp luật về CK và thị trường CK. Luật Doanh nghiệp và Nghị định 48/CP cũng chỉ qui định điều chỉnh việc phát hành CK ra công chúng, chứ chưa quy định điều chỉnh việc phát hành CK riêng lẻ. - Cần quy định thoáng hơn về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường CK Việt Nam. Chẳng hạn như ở Malaysia cho phép nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% số CP đăng ký lưu hành trên SGDCK, Indonesia và Thái lan là 49%. - Thực tế đã xẩy ra một số tranh chấp khi giao dịch trên thị trường CK. Tuy nhiên, các quy định về tranh chấp chưa được chế định. Hơn nữa, thủ tục giải quyết tranh chấp phải đơn giản và đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, Các văn bản pháp luật về CK cần phải có những quy định về tranh chấp và giải quyết tranh chấp. Tạo một môi trường pháp lý thuận lợi chính là điều kiện tiên quyết thu hút các nhà đầu tư ngoài cũng như đông đảo các nhà đầu tư trong nước. Mà cầu về CK tăng thì sẽ thúc đẩy cung CK tăng theo. Chính phủ nên nới rộng tỷ lệ vốn điều lệ của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam tăng lên 49% phù hợp với Luật Đầu tư nước ngoài. Cụ thể, Quyết định số 139/QĐ-TTg ngày 10/6/1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam có qui định:”Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ tối đa 20% tổng số CP đang lưu hành của một tổ chức phát hành”. Trong khi đó, Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/6/1999 ban hành về qui chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài lại có qui định:” Tổng giá trị cổ phần bán cho các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty”. Ngoài ra, Nhà nước cần có những quy định hướng dẫn việc chuyển lợi nhuận từ việc kinh doanh CK của các nhà đầu tư nước ngoài về nước. Thu hút các nhà đầu tư tham gia TTCK bằng việc nâng cao các chuẩn mực về công bố thông tin; giám sát, thanh tra và xử lý các vi phạm; Mở rộng mô hình các quĩ đầu tư tập thể; Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm; Nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; Quảng bá hình ảnh TTCK Việt Nam ra thị trường thế giới; Tuyên truyền, phổ cập sâu rộng kiến thức về CK và TTCK; Ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị trường CK theo hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường, trong đó nhanh chóng nâng cấp Nghị định 144/2003/NĐ-CP thành Luật về CK và TTCK. Ngoài ra, để tăng số lượng các nhà đầu tư. Đồng thời với việc hoàn thiện khung pháp lý tạo môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư thì chúng ta cũng nên tăng cường công tác giáo dục phổ cập về CK và TTCK cho các doanh nghiệp và mọi người. Đầu tiên nên bắt đầu từ sinh viên-bộ phận chiếm đa số có tư duy năng động bởi vì TTCK thật sự là một lĩnh vực mới mẻ và mang đầy tính rủi ro. KẾT LUẬN: TTCK một lĩnh vực khá mới mẻ tại Việt Nam đã trải qua 6 năm chính thức đi vào hoạt động bao thăng trầm. Đây là một lĩnh vực mang đầy sự rủi ro, nhưng cũng đầy hấp dẫn cho những người thích mạo hiểm. Nghiên cứu về lĩnh vực này là một điều rất cần thiết không chỉ đối với sinh viên kinh tế nói riêng mà còn đối với tất cả mọi người bởi lẽ đó chính là những người quyết định tới sự phát triển của TTCK Việt Nam, để đưa TTCK Việt Nam có thể ngang tầm với TTCK của các nước phát triển. Chính vì thế em đã chọn đề tài này, và thấy đề tài thực sự hấp dẫn. Trong đề án này em đã đưa ra được những nội dung cơ bản nhất về TTCK đồng thời cũng đã nêu lên được thực trạng và giải pháp để phát triển hàng hóa cho TTCK Việt Nam. Tuy nhiên đây là môt lĩnh vực mới mẻ và do kiến thức còn hạn chế nên thiếu sót là điều không thể tránh khỏi. Rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và của mọi người để bài viết của em ngày một hoàn thiện hơn. Trong quá trình làm đề án em đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô giáo Đoàn Phương Thảo. Em xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO  Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân và Lê Nam Hải (2001) Tiền Tệ, Ngân Hàng – Thị trường tài chính, nhà xuất bản Thống kê.  Lê Văn Tề và Ngô Hướng (2000) Tiền tệ và Ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê. Tạp chí Tài chính – Bộ Tài Chính, số 1+2 (447+448) – 2002 CK niêm yết hàng hóa trên thị trường CK Việt Nam - Tạp chí Phát triển kinh tế.- TP.HCM: Đại học Quốc gia TP.HCM, 3/2002, Số 137 .- tr.38-39 (T.Việt). Nhân văn Quốc gia, số 283 – 12/2001.   Bùi Kim Yến (2001) Giải pháp phát triển thị trường CK Việt Nam và Thúc đẩy hoạt động của Trung tâm Giao dịch CK Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế - TP. HCM.   Đầu tư CK, Thời Báo Kinh tế Sài Gòn ở Website:  Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về CK và thị trường CK;   Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10/6/1999 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường CK Việt Nam;  Quyết định 145//1999/QĐ-TTg ngày 28/6/1999 về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. PGS.TS. Lê Văn Tề - TS. Trần Đắc Sinh – TS. Nguyễn Văn Hà (2004) Thị trường CK tại Việt Nam, nhà xuất bản Thống Kê. Các trang Web: của Báo điện tử thời báo Kinh tế, VietNam Investment Review, VietNam Net,…. Các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Tài chính các số tháng 3, tháng 5… Tạp chí Thị trường CK Việt Nam Tạp chí Tài chính – Tiền tệ Tạp chí Ngân Hàng Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ Giáo trình Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính (Frederic S. Mishkin) GS Tiến sĩ Lê Văn Tư Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng – Tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản Tài chính. Giáo trình Thị trường CK, Nhà xuất bản Thống kê. Nghị định của Chính phủ về CK và Thị trường CK và văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0662.doc
Tài liệu liên quan