Việt Nam sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương trình ổn định hoá nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Kết quả đó một phần nhờ chúng ta quan tâm một cách thích đáng tới các công cụ quản lý chính sách tiền tệ thông qua cuộc cải cách tỷ giá hối đoái, lãi suất và phương pháp điều hành chính sách tiền tệ. Nhưng mặt khác cũng phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và hội nhập đã tạo ra những cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với nền kinh tế đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cùng với tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc, chính sách tiền tệ Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải có những bước đi mới, phải có hướng thay đổi thích hợp. Mặt khác cũng phải khẳng định rằng chính sách tiền tệ không thể tự nó có thể vượt qua được nếu không có được vị thế cần thiết và hơn bao giờ hết, hệ thống tai chính nói chung và hệ thống Ngân hàng nói Việt Nam nói riêng phải được củng cố, tăng cường một cách mạnh mẽ, đủ chí lực để đóng góp vai trò là kênh lưu thông tiền tệ lành mạnh trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu:
44 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều điều tiết vĩ mô nền kinh tế Việt Nam thời kỳ 1996 – 200, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãi suất cho vay ghi trên khế ước. Vì thế lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, chỉ đạo và có sự phân biệt giữa các tổ chức tài chính tín dụng.. Nhưng từ cuối tháng 5 năm 1997 đến nay, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung – cầu vốn trên thị trường. Năm 1999 cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức Ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng. Hiện nay, để tạo để tạo điều kiện cho các tổ chức tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước nhằm thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu xuống mức 0.4%/ tháng tương ứng. Điều này cho thấy lãi suất tái cấp vốn ngày càng linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
2. Các công cụ khác:
2.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Kể từ khi ban hàng quy định 260/QĐ - NHNN ngày 19 tháng 9 năm 1995 mức dự trữ bắt buộc được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi không kì hạn hay tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng.
Nếu so sánh lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy: Thời kỳ không có lạm phát cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao, điều này cho ta thấy có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này rất dễ thấy trong diễu biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc năm 1999, đây là năm mà chính phủ mở rộng tiền tệ để kích cầu, lãi suất trần được điều chỉnh giảm 4 lần thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng giảm đến 3 lần. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 7% xuống còn 5%.
Cụ thể như sau:
ũ Đối với tiền gửi không kì hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh, Ngân hàng Thương mại cổ phần đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh và công ty tài chính từ 7% xuống còn 5% trên tổng số dư tiền gửi.
ũ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiều gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các Ngân
hàng Thương mại cổ phần, Ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương, quỹ tín dụng nhân dân khu vực từ 5% xuống còn 3% trên tổng số dư tiền quỹ.
ũ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở nên, tiền gửi của các Ngân hàng tín dụng có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng và tiền gửi của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, hợp tác xã tín dụng và Ngân hàng phục vụ người nghèo, số vốn hoạt động và cho vay bằng vàng hiện vật vẫn giữ nguyên ở mức 6%.
Nói chung, giai đoạn 96 – 2000 các quy định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đều là giải pháp kịp thời, linh hoạt và đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước, góp phần làm dịu đi những khó khăn của các tổ chức tín dụng do lãi suất giảm, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng cung ứng vốn đối với nền kinh tế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2. Nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở ở nước ta chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12 tháng 7 năm 2000, tham gia thị trường mở này là các Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên các thành viên được cấp phép hoạt động trong thị trường mở và hỗn hợp còn rất hạn chế, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, tổng khối lượng hai loại tín phiếu này được các ngân hàng nắm giữ phần lớn.
Mặc dù doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, nhưng hiệu quả của các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở đã có những dấu hiệu tích cực, góp phần tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngoài ra sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở cũng chứng tỏ chúng ta đã có một bước tiến trong điều hành chính sách tiền tệ theo hướng sử dụng từ các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp để phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước.
2.3. Tỷ giá hối đoái:
Phải công nhận rằng trong thời gian 1996 – 2000 Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. Nếu như năm 1996 chúng ta vẫn công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép giao động trong biên độ cho phép, thì đến năm 1997 – 1998 việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc Ngân hàng Nhà nước ấn định tỷ giá hối đoái chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó đã góp phần hạn chế ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đến nền kinh tế Việt Nam, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng năm 1998 ở mức 5.8%, lạm pháp được kiềm chế ở mức 9.2%. Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước thực hiện bước chuyển đổi cơ bản về điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không vượt quá 0.1% so với tỷ giá Ngân hàng Nhà nước công bố.
Nhận xét: Với bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhều biến động, việc điều hành tỷ giá linh hoạt và sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu.
Bảng 1: Tương quan lãi suất và TGHĐ 96 – 99
Chỉ số
96.000
97.000
98.000
99.000
Lãi suất danh nghĩa (%)
12.500
12.600
12.300
11.400
Lãi suất thực tế (%)
9.000
8.900
3.100
6.800
TGHĐ danh nghĩa VND/USD
11.021
11.025
12.009
13.981
TGHĐ trên thị trường liên Ngân hàng.
11.042
11.500
13. 902
14.002
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước năm 1999
II. Kết quả và những tác động của chính sách tiền tệ thời kỳ 1996 – 2000.
1. Thành tựu đạt được:
1.1. Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của ngân hàng:
Có thể nói mặt được nổi bật nhất của chính sách tiền tệ Việt Nam trong những năm 1996 – 2000 là hoạch định đúng đắn và điều hành hợp lý thông qua khối lượng tiền cung ứng hàng năm của Ngân hàng Nhà nước theo sát tín hiệu thị trường. Chúng ta đã từ bỏ hoàn toàn phương pháp điều hành trực tiếp bằng những chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do chính phủ chỉ định phổ biến từ năm 1991 trở về trước. Về nguyên tắc mức tăng cung hàng năm không thể vượt quá không thể vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và chỉ số lạm phát (CPI). Nội dung của chính sách đạt tới tăng tổng tài sản có ngoại tệ ròng, tạo lập quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia dồi dào, đáp ứng yêu cầu thanh toán quốc tế và ổn định sức mua đối ngoại của đồng Việt Nam.
Việc vận hành chính sách tiền tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách kinh tế vi mỗ khác (chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu, …) ngay từ giai đoạn hoạch định đến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong thời kỳ 1996 – 2000, và loại bỏ được những yếu tố tiêu cực, gây trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ. Hơn nữa, bản thân của chính sách tiền tệ chỉ phát huy tốt hiệu lực vốn có khi các bộ phận cấu thành của nó như: Chính sách cung ứng tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái và chính sách quản lý ngoại hối, …, được xử lý hết sức linh hoạt và đồng bộ. Ngân hàng Nhà nước còn luôn luôn chú trọng xây dựng, vận hành khéo léo, từng bước, có hiệu quả một số công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ, đó là: Lãi suất, dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái, hạn mức tín dụng, hạn mức vay và trả nợ nước ngoài, tỷ lệ tái cấp vốn.
Ngân hàng nhà nước bước đầu sử dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế và giảm dần tính trực tiếp, cứng nhắc và ít hiệu quả chuyển sang phát huy tính gián tiếp, linh hoạt, thích hợp và đồng bộ của một số các công cụ. Các công cụ được sử dụng vừa với tư cách độc lập, vừa gắn kết, hoà trộn với nhau, phổ biến là: lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc,…, bên cạnh đó là những công cụ mang tính giải pháp hỗ trợ, tuỳ thuộc vào viễn cảnh chính sách mà phải áp dụng hoặc cần áp dụng mới ở mức chưa hoàn chỉnh: Hạn mức tín dụng, tái cấp vốn, kết hối ngoại tệ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, đấu thầu tín phiếu kho bạc …, bởi lẽ các thị trường Ngân hàng nội, ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1993 – 1994 nhưng chưa phát triển theo kịp yêu cầu.
1.2. Tác dụng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô:
Chúng ta đã biết việc điều hành chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu trong nền kinh tế. Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000 thì đối với một số mục tiêu như kinh tế, tăng trưởng, tạo việc làm, lạm pháp … đã có nhiều mặt đạt được như sau:
ụ Đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
ỉ Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, mặc dù không như kế hoạch như kế hoạc đề ra. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân giai đoạn này là 7%/năm.
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996 – 2000
96
97
98
99
00
Tốc độ tăng GDP (%)
9.74
8.15
5.00
4.80
6.80
Nông Nghiệp
4.80
4.40
4.95
5.20
5.70
CN
14.46
12.62
10.25
7.70
13.50
DV
8.10
7.14
4.20
2.30
6.80
Nguồn: Niên giám Thống kê qua các năm 1997 - 2001
Nhìn vào Bảng 1 ta thấy trong giai đoạn 1996 – 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1996 là cao nhất (9.34%), còn giai đoạn có tốc độ tăng trưởng thấp nhất là 1999 (4.8%) qua Bảng 1 ta cũng có thể thấy được rằng: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khi vực đã có nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế của chúng ta không thuộc “tâm điểm” của cơn bão đó. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách tác động đến nền kinh tế rất kịp thời, phù hợp với tình hình hiện tại cho nên đến năm 2000 chúng ta đã lấy lại được tốc độ tăng trưởng khá (6.8%), và nhiều thay đổi tích cực trong chính sách tiền tệ cũng không nằm ngoài điều này.
ỉ Cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng, nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm xuống từ 27.2% năm 1995 xuống còn 24,3% năm 2000; công nghiệp và xây dựng từ 28.7% tăng lên 36.6% và dịch vụ từ 44.1% năm 1995 còn 39.1%. Mặc dù vậy vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra trong NQ ĐH VIII (cơ cấu vào năm 2000 tương ứng là 19 – 20%; 34 – 35%; 45 – 46%).
Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nông nghiệp ; phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Đến năm 2000, tỷ trọng khu vực kinh tế nông nghiệp trong GDP vào khoảng 39%; khu vực kinh tế thành thị 8.5%; khu vực kinh tế tư nhân 3.3%; khu vực kinh tế cá thể 32%; khu vực kinh tế hỗn hợp 3.9% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 13.3%.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế như trên phải nói rằng chính sách tài chính tiền tệ đã đóng góp một phần không nhỏ, đặc biệt trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển nhất là nguồn vốn từ trong nước. Thật vậy, nhờ có chính sách linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ như: lãi suất; tỷ giá hối đoái,... mà tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 440 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 40 tỷ USD (theo mặt bằng giá năm 1995); tốc độ tăng bình quân 8.6%/năm; trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước chiếm 22.7%; vốn đầu tư của tư nhân và dân cư là chiếm 21.3%; vốn đầu tư từ nước ngoài chiếm 24%.
Ngoài vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung vào đầu tư những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng.
Nói tóm lại: Nhờ có những điều tiết kịp thời của chính sách tiền tệ mà nền kinh tế của nước ta đã thoát khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, để tiếp tục tăng trưởng bền vững tạo đà cho chúng ta thực hiện thành công chiến lược 2001 – 2010.
Qua số liệu thống kê chúng ta có thể thấy lạm phát sau nhiều năm được kiềm chế ở mức thấp, năm 1996 là 4.5%, năm 1997 là 3.6% thì đến năm 1998 đã gia tăng trở lại khá cao 9.2% (dự kiến 7%) gấp 2.5% lần năm 1997. Thời kỳ thiểu phát tiền tệ kéo dài suốt 2 năm 1996 – 1997 coi như đã chấm dứt. Sở dĩ lạm phát tăng là do có biến động gia tăng các yếu tố thuộc về tổng cung của nền kinh tế. Các biện pháp “kích cầu” từ năm 1997 như bố trí lại cơ cấu đầu tư, chi tiêu ngân sách, giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng ưu đãi tín dụng, ..., đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên 2 năm sau là năm 1999 và năm 2000 thì mức lạm phát cuả chúng ta ở mức rất thấp (năm 99 là 0.1%, năm 2000 là 0.6%). Xét trong điều kiện nền kinh tế đang ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và cố gắng hạn chế độ gia tăng của thất nghiệp thì con số lạm phát này là một dấu hiệu xấu nghiêng về phía thiểu phát. Nhưng không kích thích tăng trưởng kinh tế.
Nhận xét: Nhìn chung chúng ta đã đẩy lùi được tình trạng lạm phát cao trong giai đoạn cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90. Thậm chí trong hai năm 1999 và 2000 lạm phát của chúng ta ở mức thiểu phát.
ụ Đối với mục tiêu việc làm:
Có thể nói giải quyết làm cho người lao động thời kỳ 1996 - 2000 là có kết quả tốt đẹp. Bằng những cách thúc đẩy đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất, dịch vụ, đa dạng hoá các ngành nghề, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phải thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội đất nước, đã tạo thêm nhiều chỗ làm và tăng thêm việc làm cho người lao động. Trong giai đoạn 1991 – 2000 đã có thêm 1.6 triệu lao động được thu hút vào làm việc và tạo thêm việc làm trong các ngành kinh tế, xã hội; bình quân mỗi năm thu hút 1.2 triệu người, trong đó lĩnh vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác đóng góp phần đáng kể trong việc tạo ra chỗ làm mới.
Bảng 3: Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1996 - 2001
Tiêu chí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số
33.978
34.352
34.801
35.679
36.205
37.677
I. Theo nhóm ngành:
1. Nông, lâm, ngư nghiệp:
2. Xây dựng, công nghiệp:
3. Dịch vụ:
23.431
3.698
6.849
22.589
4.170
7.593
23.018
4.049
7.734
22.861
4.435
8.382
22.670
4.744
8.791
22.813
5.428
8.426
II. Theo thành phần kinh tế:
1. Nhà nước:
2. Ngoài quốc doanh:
3. Có vốn đầu tư nước ngoài
2.937
31.005
-
3.094
31.128
130
3.533
31.089
184
3.606
31.884
190
3.644
32.343
218
3.749
33.554
354
Nguồn: Số liệu thống kê lao động thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996 – 2000
NXB: LĐ - XH HN, việc làm, báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động – việc làm 01/07/2001. Ban chỉ đạo điều tra lao động trung ương, HH 10/01.
Theo số liệu trong bảng ta thấy số người có việc làm thường xuyên 1996 - 2000 liên tục tăng, mỗi năm trung bình tăng 740.000 người, trong đó năm 2000 so với năm 1999 không tăng mà lại giảm, năm tăng ít nhất là năm 1998 so với 1997 là 499.000 người. Xu hướng thay đổi như trên phần nào phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu việc làm theo hai nhóm tiêu chí phân loại như trên. Trước hết, số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp miền Trung có xu hướng giảm nhẹ nhưng không đều, nhưng so sánh với năm 2000 với năm 1996 giảm, (trong khi đó dân số trong khu vực nông thôn thời kỳ này không hề giảm về tuyệt đối). Đối với nhóm ngành xây dựng, công nghiệp, xu hướng thay đổi tích cực, trung bình mỗi năm 346 nghìn việc làm. Đối với nhóm ngành dịch vụ xu hướng thay đổi càng tích cực tương tự như công nghiệp và xây dựng số người có việc làm tăng trung bình mỗi năm tăng khoảng 320 nghìn người. Xét tổng thể cơ cấu việc làm trong thời kỳ này, năm 1996 tổng số việc làm là 100% thì các nhóm ngành này là nông lâm ngư nghiệp 69%, công ghiệp 10.9%, dịch vụ 20.1% còn năm 2001 tỷ lệ tương ứng là 60.5%, 14.4% và 25.1% (con số ước lượng)
Nhưng bên cạnh đó, ta cũng thấy tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ này cũng tăng.
Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ 1996 - 2000
Năm
Tiêu chí
96
97
98
99
00
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị.
5.9%
6.0%
6.9%
7.4%
-
Tỷ lệ thiếu việc làm ở nông nghiệp.
26.6%
25.5%
28.3%
-
-
Nguồn: Thống kê của bộ Lao động thương binh và xã hội năm 2000
Nhìn vào bảng ta thấy tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam qua các năm từ 1996 đến 2000 liên tục tăng. Con số này đang chứng tỏ 2 vấn đề đó là:
Thứ nhất: Chứng tỏ một nền kinh tế bị khủng hoảng kinh tế nặng nề, các nguồn lực xã hội tiềm năng chưa được đánh thức thông qua sức ép về cầu việc làm đè nặng lên cung việc làm.
Thứ 2: Thất nghiệp và thiếu việc làm ổn định luôn luông đồng hành với mất ổn định không chỉ kinh tế mà còn tác động tới xã hội – chính trị của đất nước.
Nói tóm lại: Trong thời gian 5 năm, số người có việc làm tăng từ 33.6 triệu người lên 40.705 triệu người tức là tăng 7.105 triệu lao động (7.6%), trung bình tăng 3.2% mỗi năm. Nhìn chung số lao động được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế quốc dân thời kỳ 1996 – 2000.
ụ Đối với lạm phát:
Nhìn chung thời kỳ 1996 – 2000 đã đẩy lùi được tình trạng lạm phát trong thời kỳ thập niên 80 và đầu 90.
Bảng 5: Tăng trưởng và lạm phát
Chỉ tiêu
1996
2997
1998
1999
2000
Tăng trưởng kinh tế.
9.34
8.80
5.80
4.80
6.80
Lạm phát.
4.50
3.60
9.20
0.10
-0.60
Lãi suất trung gian.
9.60
7.80
7.10
5.80
4.10
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2001
2. Những tồn tại chủ yếu:
Mặc dù không nằm trong ”tâm điểm” của cơn bão tiền tệ Đông Nam á, nhưng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đảm hàng loạt các nước trong và cận kề ngoài khu vực (trừ Trung Quốc, Đài Loan) cho phép khẳng định Việt Nam có thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc “đomino“ về tăng trưởng kinh tế đang diễn ra hết ít nhất là trong vòng 2 – 3 năm kể từ cuối năm 1997. Có tới 70% sản lượng vốn đầu tư nước ngoài và 60% kim ngạch thương mại của Việt Nam là nhờ quan hệ với các nước Châu á. Việt Nam đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi sự sụt giảm đáng kể trong đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và tụt giảm nhu cầu xuất khẩu chung. Ngoài những khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ, sự sụt giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn bắt nguồn sâu xa từ môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, trong khi rủi ro tiếp tục gia tăng cùng với mức độ khác phục chậm về hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu tố của sản xuất – kinh doanh nội địa (đặc biệt là khu vực doanh nghiệp Nhà nước). Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính – tiền tệ nói chung và thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ cũng bộc lộ một số khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành trong vòng những năm cuối của giai đoạn 1996 – 2000. Có thể nêu một số điểm chủ yếu sau:
ỉ Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở dạng sơ khai. Yếu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối quan hệ với tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lý tốt. Lãi suất cho vay cuối cùng đến người dân vẫn còn cao (ngoài nguồn tín dụng ưu đãi). Kinh doanh của hầu hết các Ngân hàng Thương mại bị gò bó, thiếu chủ động, tự chủ. Nguồn vốn tín dụng hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn manh mún, phân tán, hiệu quả thấp (tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ không sinh lời khá cao). Nhìn chung rủi ro tín dụng Ngân hàng là đáng lo ngại, bên cạnh đó các loại rủi ro khác về giá, về thanh toán đối ngoại,…, do sự bất cập về chính sách, về chế tài tín dụng, … vẫn luôn luôn rình rập.
ỉ Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội tụ định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các Ngân hàng Thương mại. Chưa có nhiều cải thiện căn bản để từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái hoàn toàn. Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Các giao dịch ngoại tệ chính thức bị gò bó, chi phối chưa lành mạnh và kịp thời với biến động của tỷ giá hối đoái thị trường. Thị trường vốn mới ở dạng sơ khai chưa phát triển nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo lập các công cụ và thể chế để phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn noi chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn. Đó là những trở ngại lớn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc tiến tới nắm bắt và sử dụng các nghiệp vụ thị trường “mở” để kiểm soát, điều hành kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông.
ỉ Sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu tiền mua và gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất như: Bội chi ngân sách còn cao luôn tạo ra nhiều áp lực từ nhiều phía đe doạ tinh ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ, mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt của cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng “xuất khẩu” vốn là nguyên nhân chính gây ra tình trạng “đô la” hoá, khiến VNĐ bị đánh giá quá cao, kích thích tâm lý tích trữ ngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó, sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi; qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền, …. Đó là những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ hiện nay.
ỉ Căn bện giảm phát bộc lộ vào cuối những năm 1998, tăng mạnh từ đầu năm 1999 với triệu chứng rõ nhất là sức mua nội địa giảm sút, hàng hóa tồn đọng lớn, xuất khẩu chậm lại, thậm chí ở mức âm (quý I năm 1999 là 7.5%) chỉ số giá cả xuống thấp (suốt 9 thánh đầu năm 1999 chỉ tăng 0.2%) trong lúc tăng trưởng kinh tế giảm mạnh, …. Điều này đặt ra những thách thức lớn cho việc tìm đối sách đồng bộ, hữu hiệu để khắc phục những khó khăn nội tại và đối phó với những ảnh hưởng của khủng hoảng từ bên ngoài dội vào, vấn đề nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh nội địa, phát huy tốt các lợi thế so sánh đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Nhu cầu vốn là rất lớn đang đặt ra ngày càng bức bách, trong lúc bối cảnh thị trường vốn đầu tư quốc tế ít thuận lợi và bản thân việc khơi dậy, phát huy nội lực cũng không phải dễ dàng nếu chỉ xét riêng ở góc độ nuôi dưỡng, bảo toàn tốt nguồn tiết kiệm, tích luỹ hạn hẹp trong nền kinh tế, bởi lẽ áp lực giảm lãi suất và giá cả hàng hoá, dịch vụ cũng đang đặt hệ thống tài chính - Ngân hàng; các nhà đầu tư trước nhiều thách thức rất lớn.
Tóm lại: Trong thời kỳ 1996 – 2000 Chính sách tài chính tiền tệ của Việt Nam đã thành công trong một số lĩnh vực nhất định. Nnhưng để thực hiện tốt nhiêmh vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, coi đây là “bệ phóng” để đẩy tới 1 bước CNH – HĐH nền kinh tế thập niên 2001 – 2010 với tầm nhìn 2020. Theo đó có sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu kinh tế, trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, dựa vào cơ cấu tạo nguồn vốn cho đến sử dụng vốn, dành vốn ưu tiên đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực then chốt, mũi nhọn nền kinh tế. Do vậy, nội dung thực hiện chính sách tiền tệ không nămg ngoài trong việc hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô để thực hiện tốt mục tiêu mà chiến lược phát triển Kinh tế – Xã hội 2001 – 2010 đã đề ra.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện Chính sách tiền tệ để tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2010.
I. Mục tiêu của chiến lược phát triển KTXH và của Chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
1. Mục tiêu của phát triển KTXH.
Mục tiêu của phát triển phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta giai đoạn 2001- 2010 được thể hiện rõ nét trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX như sau:
ụ Mục tiêu tổng quát
Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năng 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nguồn lực hoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
ụ Mục tiêu cụ thể
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đén tăng trưởng. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp lên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp còn khoảng 16 -17%, công nghiệp 40 - 41%; dịch vụ 42 - 43%. Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn khoảng 50% nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Tốc độ tăng dân sô đến năm 2010 còn khoảng 1,1%. Xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm ở các thành thị và nông thôn (thất nghiệp thành thị dưới 5%; quỹ thời gian sử dụng của lao động ở nông thôn 80-85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%. Trẻ em đến tuổi được đi học đều được đến trường, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị, giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống còn 20%, tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện.
Năng lực nội sinh về khoa học công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại; tiếp cận trình độ thế giới, và tự phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá.
- Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một số bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá. Hầu hết các xã được sử dụng điện, điện thoại và các dịch vụ bưu chính viễn thông cơ bản, có trạm xá, trường học kiên cố, nơi sinh hoạt văn hoá, thể thao. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông cả ngày tại trường; có đủ giường bệnh cho bệnh nhân.
- Vai trò chủ đạo của kinh tế nông nghiệp được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt có hiệu quả.
2. Mục tiêu của Chính sách tiền tệ.
Để thực hiện được mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thì yêu cầu chúng ta phải hình thành được đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và việc đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính - tiền tệ là một khâu rất quan trọng. Vì vậy, trong giai đoạn tới khi thực thi chính sách tiền tệ chúng ta luôn phải hướng tới những mục tiêu sau:
- Thực thi Chính sách tiền tệ phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ Chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi xuất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên của tắc thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
- Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư; đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Hình thành đồng bộ khuân khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với tăng cường những chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của người cho vay. Tăng cường năng lực tự kiểm tra của các tổ chức tín dụng và công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng, không để xảy ra đổ vỡ tín dụng.
- Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và NHTM nhà nước, chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại. Bảo quản quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng Thương mại trong kinh doanh. Giúp đỡ và thúc đẩy các tổ chức tín dụng trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của nước ta với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, xử lý ngân hàng yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và bảo đảm an toàn.
II. Giải pháp cơ bản hoàn thiện Chính sách tiền tệ.
Tính tới thời điểm hiện nay, một bộ phận lớn lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam (trừ lãi suất kì phiếu, trái phiếu của Ngân hàng Thương mại), lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ (trừ lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng), lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được tự do hoá. Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với nền kinh tế vốn còn bị khống chế vì vậy, lộ trình tiếp theo trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thời gian tới nên thực hiện theo trình tự sau:
1.1. Xoá bỏ khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Từ cuối năm 1998 đến nay nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế tổ chức tín dụng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi để hưởng lãi suất cao và tránh rủi ro về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước đã quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bắng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại tổ chức tín dụng, mức lãi suất này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư cùng kỳ hạn từ 2 - 5%. Tuy nhiên do mức lãi suất tiền gửi thấp, nên một số tổ chức không muốn gửi tiền tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam, mà mang gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn, gây mất nguồn ngoại tệ trong nước. Với cơ chế quản lý tỷ giá hiện nay, tỷ giá được xác định theo thị trường hàng ngày, tương đối ổn định, không gây đột biến, tỷ lệ kết hối giảm, lãi suất gần đây liên tục giảm, nên tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tổ chức kinh tế không như trước đây. Vì vậy, đây là thời gian hoàn toàn thích hợp để xoá bỏ việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, nhằm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
1.2. Tách hoạt động cho vay chính sách ra khỏi c ác hoạt động cho vay thương mại của NHTM, nhằm thực hiện việc xoá bỏ hình thức lãi suất cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng.
Xoá bỏ hình thức lãi suất cho vay ưu đãi trong hệ thống Ngân hàng Thương mại là tất yếu trong quá trình tự do hoá lãi suất. Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất của các nước, thì việc đề cập đến việc xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi trong quá trình tự do hoá lãi xuất ở Việt Nam hiện nay là quá muộn. Các nước thường tiến hành việc xoá bỏ kiểm soát này vào thời kỳ đầu của quá trình tự do hoá lãi suất. Sở dĩ như vậy là vì, việc tồn tại mức lãi suất ưu đãi có ảnh hưởng tới các mức lãi suất cho vay thương mại của các tổ chức trung gian tài chính. Thông thường các Ngân hàng Thương mại hiện nay vẫn dùng nguồn vốn tự huy động để cho vay chưa được thực hiện đầy đủ (chỉ thực hiện khi kết quả kinh doanh của ngân hàng bị lỗ). Trong những trường hợp như vậy lãi suất cho vay thương mại sẽ bị đẩy lên cao, để bù đắp cho những khoản vay ưu đãi. Bên cạnh đó, việc cho vay ưu đãi thường gắn với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, nhưng cũng có thể do chính Ngân hàng Thương mại gây ra, vì họ cho rằng các khoản vay đó đã được nhà nước bảo hành nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư, giám sát quá trình sử dụng vốn vay.
Việc tồn tại quá lâu các hình thức cho vay ưu đãi đã ảnh hưởng xấu đến quá trình đầu tư tín dụng, làm tê liệt động cơ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm định, giám sát vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của Ngân hàng Thương mại.
1.3. Mở rộng biên độ lãi sxuất cho vay nội tệ, tiến tới bỏ biên độ lãi sxuất cho vay trung và dài hạn trước, sau đó là biên độ lãi sxuất cho vay ngắn hạn. Nói cách khác tự do hoá lãi sxuất cho vay trung và dài hạn trước và cuối cùng là lãi sxuất cho vay ngắn hạn để tự do hoá hoàn toàn lãi sxuất cho vay bằng đồng Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, nhu cầu về nguồn vốn trung, dài hạn trong thời điểm hiện nay là rất lớn nhằm hỗ trợ việc đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu để củng cố chỗ đứng cho hàng hoá Việt Nam, chuẩn bị cho việc mở cửa thị trường hàng hoá theo cam kết AFTA. Trong khi đó, khả năng huy động vốn trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng hiện nay là rất hạn chế. Một phần do thói quen của người Việt Nam, tính chưa thật ổn định vững chắc của giá trị đồng tiền Việt Nam và chưa phát triển phổ biến các công cụ nợ dài hạn, một phần là do mức lãi suất và cơ chế xác định lãi xuất chưa hợp lý. Vì vậy, cần phải nhanh chóng tự do hoá lãi suất trung và dài hạn. Tuy nhiên tự do hoá lãi suất trung và dài hạn đang là chưa chín muồi, vì vậy việc cải tổ hệ thống tiền tệ, ngân hàng và nền kinh tế đang diễn ra. Nếu tiến hành tự do hoá lãi suất trung và dài hạn trong giai đoạn này có thể làm tăng mạnh lãi suất trung và dài hạn, cản trở quá trình phục hồi, cải tổ nền kinh tế. Hơn nữa, để hỗ trợ quá trình tự do hoá thương mại cho tới 2003 (thời hạn Việt Nam sẽ tối đa hoá dòng thuế suất 0-5%) với việc đầy mạnh đầu tư theo chiều sâu thì cũng cần hạn chế tối đa những cú sốc mạnh về lãi suất đầu tư trung và dài hạn.
1.4. Thả nổi lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ của các tổ chức tín dụng.
Tóm lại: Thực hiện được những việc trên là chúng ta đã hoàn toàn hoàn thành quá trình tự do hoá lãi suất. Lãi suất hoàn toàn được hoàn thành dựa trên quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trên thị trường.
2. Nâng cao hiệu quả của các nghiệp vụ thị trường mở.
Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm, nhưng để nghiệp vụ thị trường mở trong tương lai thực sự sôi động, ổn định và trở thành một trong những công cụ chủ yếu trong điều hành Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước phải tìm cách để nâng cao hiệu quả công cụ này. Và để hỗ trợ nghiệp vụ thị trường mở phát triển thì có một số giải pháp sau:
- Bổ sung và đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường. Bên cạnh 2 công cụ chủ lực hiện nay là tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đang trình Chính phủ và Quốc hội cho phép được sử dụng các giấy tờ có giá dài hạn để giao dịch trên thị trường tiền tệ và thị trường mở với thời hạn dưới một năm: Đề nghị Bộ tài chính phát hành tín phiếu với nhiều loại thời hạn khác nhau; nghiên cứu để đưa ra một số tín phiếu của các Ngân hàng Thương mại nhà nước và giao dịch trên thị trường mở.
- Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển để làm cơ sở cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở.
- Từng bước cơ cấu lại các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng có đủ khả năng cạnh tranh và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường tiền tệ hiện đại.
- Từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng để làm cơ sở đưa ra các quy định chính xác trên thị trường mở.
Ngoài ra, công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở; công tác đào tạo cán bộ nghiệp vụ; từng bước nâng cao và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng cũng là những biện pháp tích cực đối với sự phát triển của nghiệp vụ thị trường mở.
3. Hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, đôla hoá là tình trạng ở các nước có các điều kiện kinh tế kém phát triển, lòng tin của người dân vào đồng bản tệ thấp. Chính vì vậy, để hạn chế tình trạng đôla hoá cần phải giải quyết vấn đề cơ bản là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, củng cố tinh thần vững mạnh của hệ thống ngân hàng, qua đó củng cố lòng tin của dân chúng vào đồng bản tệ; tăng cường vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, tăng dự trữ ngoại tệ, cần thực hiện những bước đi tích cực trong việc đổi mới chính sách lãi suất và chính sách tỉ giá, tạo điều kiện đủ và cần thiết để tiến tới tự do hoá lãi suất và tỷ giá ở Việt Nam.
Việc giải quyết tình trạng đôla hoá không thể thực hiện ngay một lúc mà cần tiến hành từng bước, theo từng giai đoạn cụ thể với những biện pháp thích hợp và phải có sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành. Kết hợp biện pháp kinh tế với biện pháp hành chính phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng bước thời kỳ và xuất phát từ nguyên nhân gây ra tình trạng đôla hoá.
Một số biện pháp trước mắt cần thực hiện để hạn chế tình trạng đôla hoá ở Việt Nam:
ụ Điều hành tỷ giá cần linh hoạt hơn, chứa đựng nhiều yếu tố tị trường hoá cụ thể:
- Mở rộng biên độ giao dịch trên thị trường ngoại hối để vừa đảm bảo sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, vừa phù hợp với cung cầu trên thị trường mà không gây tâm lý chờ đợi về việc giảm giá đồng Việt Nam.
- Thay cho việc chỉ gắng với đôla Mỹ như trước đây, tỷ giá của đồng Việt Nam cũng phải dự trên cơ sở một số ngoại tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY; và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Thái lan, Indonesia, Trung quốc... ), các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đôla Mỹ và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.
ụ Sử dụng các công cụ tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng tiền Việt Nam thấp dần hơn đôla Mỹ. Qua đó, hạn chế xu hướng chuyển đổ từ đồng Việt Nam sang đôla Mỹ. Trong điều kiện hiện nay lãi suất cơ bản không thay đổi, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các Ngân hàng Thương mại tăng lãi xuất huy động đồng Việt Nam.
ụ Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đôla Mỹ, niên yết giá bằng đôla Mỹ trên thị trường Việt Nam.
ụ Đổi mới hoạt động của các Ngân hàng Thương mại theo hướng sử dụng đa dạng hoá các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tài chính và thị trường ngoại hối như các hình thức giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn….
4. Thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt phù hợp với cung cầu trên thị trường.
Để có một tỷ giá hối đoái phù hợp với, tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu, sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát... Đặc biệt là có đủ điều kiện để tiến tới quá trình tự do hoá tỷ giá hối đoái thì nên thực hiện một số biện pháp sau:
- Ngân hàng Nhà nước cần phân biệt rõ chức năng đại diện cho nhà nước và chức năng can thiệp để bình ổn thị trường. Với chức năng đại diện cho nhà nước. Ngân hàng Nhà nước thực hiện các giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và gia tăng tích lũy ngoại tệ theo mục tiêu đã định. Trong khi đó chức năng can thiệp thị trường là nhằm mục tiêu điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường để tỷ giá phản ánh được cung cầu. Việc không phân định rõ ràng tính độc lập của 2 chức năng này sẽ dẫn đến làm giảm đi hiệu quả quản lý và điều tiết của Ngân hàng Trung Ương trên thị trường.
- Ngân hàng Nhà nước nên hạn chế tối đa việc sử dụng các biện pháp hành chính để can thiệp vào thị trường và không nên can thiệp quá sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. Thực tế cho thấy đôi lúc Ngân hàng Nhà nước có nhiều tác động can thiệp quá sâu vào nghiệp vụ, chẳng hạn quy định 65/1999 QĐ - Ngân hàng Nhà nước ngày 25.02.1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Vì thế cho nên Ngân hàng Nhà nước nên chăng cần quy định tỷ giá hối đoái hợp lý để các tổ chức tín dụng có thể thay đổi theo từng thời kỳ phù hợp với tình hình thực tế.
- Chấn chỉnh và kiện toàn hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối. Với phương thức tổ chức thực hiện như hiện nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát huy hiệu quả, các giao dịch trên thị trường này chiếm tỷ lệ không đáng kể trên tổng giao dịch của ngân hàng nên hầu hết các ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối ngoại tệ. Hiện tượng vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước là khá phổ biến, do doanh nghiệp khi xuất khẩu giao dịch với ngân hàng chịu mua ngoại tệ vượt trần quy định, còn khi nhập khẩu thì mở tài khoản ở ngân hàng có thế mạnh về ngoại tệ. Vì thế Ngân hàng Nhà nước nên cần phải phát triển thị trường nội tệ với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động, tạo điều kiện điều hoà giữa 2 lĩnh vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông suốt, mở rộng số lượng thành viên tham gia thị trường, cho phép các nhà môi giới tham gia thị trường.
- Quy định tỷ lệ kết hối hợp lý, có xem xét đến tính ổn định và dài hạn của nguồn cung ngoại tệ.
Thực tế đã cho thấy trong giai đoạn 1998 - 1999 Ngân hàng Nhà nước đã sửa đổi tỷ lệ kết hối rất nhiều lần, và việc tăng giảm tỷ lệ kết hối đều thực hiện "theo đuôi", thực hiện điều chỉnh "khi sự đã rồi". Thế là nếu thấy tình hình ngoại tệ căng thẳng thì nâng tỷ lệ kết hối, ngược lại thì giảm tỷ lệ kết hối. Vì thế Ngân hàng Nhà nước nên xem xét lại việc quy định tỷ lệ kết hối, theo đó tỷ lệ kết hối phải được xem xét trong tổng thể dài hạn, không nên điều chỉnh thường xuyên bởi lẽ trong trường hơp này cần sự ổn định hơn là linh hoạt.
- Quản lý tốt các hoạt động kinh doanh vàng đặc biệt là việc xuất, nhập khẩu vàng. Hiện nay do việc quản lý xuất nhập khẩu vàng đặc biệt là theo đường tiểu ngạch chưa được quản lý tốt nên việc buôn lậu vàng qua biên giới vẫn diễn ra khá phổ biến. Chính việc buôn lậu vàng này đã làm ảnh hưởng đến sự biến động tỷ giá trên thị trường tự do, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý dân chúng, doanh nghiệp và ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan chức năng chuyên trách để sớm đưa hoạt động kinh doanh vàng, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu vàng hoạt động theo đúng quy định.
Trên thực tế việc điều hành và quản lý ngoại tệ phải có sự cẩn trọng nhất định và việc thực hiện các biện pháp nói trên cần phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ hình thành nên hệ thống tổng thể đan quyện vào nhau, nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược điểm của từng biện pháp trên.
5. Cải cách NHVN nhằm nâng cao năng lực điều hành Chính sách tiền tệ.
- Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng đi đôi với cải cách hệ thống doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước. Trước tiên, cải cách hệ thống Ngân hàng Thương mại là để đảm bảo hệ thống này làm tốt chức năng của nó là kênh dần vốn từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư, theo cách thức phân bổ hiệu quả nhất và qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát. Cải cách khu vực ngân hàng sẽ tăng cường được lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, qua đó tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng tích lũy của nền kinh tế. Cải cách hệ thống Ngân hàng Thương mại nhằm đảm bảo để hệ thống này hoạt động an toàn, hiệu quả và có khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sự lành mạnh hệ thống Ngân hàng Thương mại là cơ sở cho sự lành mạnh của hệ thống kinh tế vĩ mô, tức là ổn định nền thị trường tiền tệ.
Ngoài ra những cải cách ở khu vực doanh nghiệp cũng cần thiết, nhằm đảm bảo cho việc cải cách ở ngân hàng được thành công. Vì rằng hệ thống Ngân hàng Thương mại là bức tranh phản chiếu tình hình hoạt động của hệ thống Ngân hàng là bức tranh phản chiếu thình hình hoạt động của hệ thống doanh nghiệp. Các Ngân hàng Thương mại không thể lành mạnh nếu các doanh nghiệp - người bạn đồng hành của họ làm ăn thua lỗ triền miên. Chính vì thé cải cách hệ thống ngân hàng phải đi đôi với cải cách các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước. Vì có cải cách doanh nghiệp nhà nước thì tránh được tình trạng bù lỗ liên tục cho hệ thống doanh nghiệp loại này, làm lành mạnh hoá tổ chức ngân hàng.
- Trọng tâm của cải cách ngân hàng là phần cải cách ngân hàng quốc doanh. Đó là những chính sách nhằm tách hoàn toàn hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các ngân hàng với mục đích để các ngân hàng này hoạt động trên nguyên tắc thương mại và lợi nhuận là quan trọng nhất. Cần nâng cao trình độ và trách nhiệm quản lý của các ngân hàng quốc doanh đi đôi với phát triển một cơ chế cho vay và giám sát hoạt động trên cơ sở an toàn, theo chuẩn mực quốc tế.
- Đối với các ngân hàng đổ vỡ phải có quy trình xử lý minh bạch và dựa trên nguyên tắc thị trường.
Việc bán tài sản cần tính đến yếu tố thị trường và bán đấu giá có thể tạo ra những mức giá tố ưu cho người mua. Đánh giá các khoản cho vay và các tài sản khác cần chính xác và tuân thủ nguyên tắc bình đẳng cho tất cả các ngân hàng. Đặc biệt trong quá trình xử lý khủng hoảng nợ phải cảch giác đối với kiểu tham nhũng trong các hoạt động mua bán tài sản và nợ khó đòi.
- Quá trình tái cơ cấu vốn lại cần tiền hành thận trọng và chia thành nhiều giai đoạn.
Cải cách ngân hàng là cần thiết và cần được tiến hành ngay lập tức, không chỉ lành mạnh hoá hệ thống nhằm tránh đổ vỡ tiềm tàng, mà cần tạo cho hệ thống ngân hàng phát huy nội lực trong dân để đầu tư một cách có hiệu quả nhất cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong tương lại. Tuy nhiên quy trình xử lý các ngân hàng phải có trận tự, trên cơ sở chắc chắn. Vì vậy đối với Việt Nam không nên tiến hành tái cơ cấu vốn cho các ngân hàng khi chưa tiến hành củng cố về thể chế và quản lý của các ngân hàng này. Nguyên tắc củng cố trước, tái cơ cấu vốn sau nên đi cùng với nguyên tắc trân trọng, phù hợp với khả năng thu hồi vốn. Đối với các Ngân hàng Thương mại cổ phần, trong quy trình tái cơ cấu vốn, cần sử dụng vốn cổ phần là chính, trong những trường hợp đặc biệt, nhà nước mới can thiệp xử lý.
Kết luận:
Trên đây là một loạt các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ theo hướng ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện giúp kinh tế tăng trưởng bền vững, tạo nhiều công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát... Để các giải pháp trên thực sự có hiệu quả cao nhất thì yêu cầu phải thực hiện nó trong mối quan hệ ràng buộc với các giải pháp khác, mặc khác tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế đất nước mà chúng ta có những giải pháp cụ thể riêng, sao cho Chính sách tiền tệ thực sự là một công cụ vĩ mô để nhà nước điều chỉnh, tác động vào nền kinh tế, giúp cho chúng ta hoàn thành được các mục tiêu trong tác động vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoan 2001-2010 mà Đảng đã đề ra trong ĐH IX.
C. Kết luận
Việt Nam sau hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới, đa dạng hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta đã giành được những kết quả đáng khích lệ trong chương trình ổn định hoá nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Kết quả đó một phần nhờ chúng ta quan tâm một cách thích đáng tới các công cụ quản lý chính sách tiền tệ thông qua cuộc cải cách tỷ giá hối đoái, lãi suất và phương pháp điều hành chính sách tiền tệ. Nhưng mặt khác cũng phải thừa nhận rằng chính sách mở cửa và hội nhập đã tạo ra những cơ hội để chính sách tiền tệ đổi mới, thích hợp với nền kinh tế đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cùng với tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng và trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu sắc, chính sách tiền tệ Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải có những bước đi mới, phải có hướng thay đổi thích hợp. Mặt khác cũng phải khẳng định rằng chính sách tiền tệ không thể tự nó có thể vượt qua được nếu không có được vị thế cần thiết và hơn bao giờ hết, hệ thống tai chính nói chung và hệ thống Ngân hàng nói Việt Nam nói riêng phải được củng cố, tăng cường một cách mạnh mẽ, đủ chí lực để đóng góp vai trò là kênh lưu thông tiền tệ lành mạnh trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu:
Chúng ta tin tưởng rằng với đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của Ngân hàng Trung Ương trong việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện nền kinh tế thì chính sách tệ sẽ đóng góp một vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoanh 2001 – 2010.
Để hoàn thành bài viết này em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Dung đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!.
Hà nội ngày 29 tháng 11 năm 2002
Danh mục các tài liệu tham khảo
1. Tạp chí ngân hàng: Số 6/1997; 3,4,8,9,14/1999; 8/2000; 1,2,6,7,8 và 10/2001.
2. Tạp chí nghiên cứu kinh tế: Số 11/2000; 3/2001.
3. Tạp chí thị trường tài chính: Số 7/1999, 3 và 4/2001.
4. Tạp chí lao động xã hội: Số 2,5/1998; 5/2000; 12/2001.
5. Tạp chí kinh tế phát triển: Số 120/2000; 3,123/2001.
6. Báo đầu tư.
7. Báo thị trường chứng khoán.
8. Báo doanh nghiệp Việt Nam.
9. Giáo trình lý thuyết tiền tệ - ĐH TCKT Hà Nội.
10. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX MXB Chính trị quốc gia.
11. Các công cụ tài chính trong kinh tế thị trường - Giáo sư Võ Đình Hảo.
12. Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường - Nguyễn Văn Thọ.
13. Đổi mới chính sách tiền tệ và kiểm soát ở Việt Nam.
14. Nghiệp vụ của ngân hàng Trung Ương - Khoa Ngân hàng - ĐH KTQD Hà Nội 2002
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35326.doc