Đề án Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô

Từ khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới, đặc biệt là từ khi đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã được ngân hàng nhà nước từng bước cải cách theo hướng bám sát vào các diễn biến của thị trường. Chính sách tiền tệ đã phát huy vai trò của mình một cách hiệu quả, góp phần quan trọng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Có thể nói chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ của nó đã từng bước được hoàn thiện với những bước đi thận trọng, phù hợp với cơ chế kinh tế của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, chính sách tiền tệ đã đảm bảo thực hiện đúng hướng chiến lược phát triển dài hạn của quốc gia trong giai đoạn mới. Chứng tỏ vai trò xứng đáng của mình trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các công cụ vĩ mô đắc lực nhất của Chính phủ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô.

doc40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng cầu của toàn xã hội. LSTD tăng một mặt sẽ kích thích tăng tiết kiệm của dân cư, giảm cầu đối với hàng hoá dịch vụ, mặt khác lại hạn chế đầu tư của doanh nghiệp làm giảm cung hàng hoá dịch vụ. Nếu LSTD giảm sẽ làm tăng tiêu dùng của dân cư, tăng cầu đối với hàng hoá dịch vụ, đồng thời kích thích đầu tư làm tăng cung hàng hoá dịch vụ. Ba là, LSTD còn được sử dụng làm công cụ để điều hoà cung cầu ngoại tệ, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Bằng cách nâng hay hạ LSTD sẽ hút hoặc đẩy ngoại tệ vào trong nước hay ra ngoài nước, làm tăng hoặc giảm cung ngoại tệ. Bốn là, LSTD là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể tăng lãi suất tiền gưỉ và giảm lãi suất cho vay. Đây chính là sự cạnh tranh giữa các NHTM. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, các NHTM phải tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đối với các doanh nghiệp, khi vay vốn đòi hỏi phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả, phải thực sự quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi. Cơ chế tác động của lãi suất tín dụng đối với hoạt động kinh tế vĩ mô. Cơ chế tác động qua lãi suất tín dụng là cơ chế truyền tải ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới nền kinh tế thông qua phản ứng dây chuyền giữa các mức lãi suất và các loại giá cả trên thị trường tài chính. Đây là cơ chế kiểm soát sự biến động lãi suất mà theo đó, chính sách tiền tệ có thể tác động tới các bộ phận cấu thành tổng cầu thông qua những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của lãi suất tới hành vi chi tiêu của các chủ thể kinh tế.(Được biểu diễn qua sơ đồ trang sau) Việc điều hành lãi suất của NHTW chủ yếu được thực hiện thông qua hai cơ chế: Cơ chế điều hành gián tiếp. Thông qua cơ chế tái cấp vốn của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung – cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng. Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn. Cơ chế điều hành trực tiếp. Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chứctín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn, và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này. Sơ đồ : Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ Công cụ CSTT Dự trữ ngân hàng Lãi suất liên ngân hàng Tiền cơ sở MB Tiền cung ứng Lãi suất thị trường Dư nợ tín dụng Giá tài sản Lãi suất thực Tỷ giá Tài sản thế chấp Tổng cầu AD CHƯƠNG II Đánh giá vai trò của chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay I - Quá trình điều hành chính sách tiền tệ qua các giai đoạn ở Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô: Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc xây dựng chính sách tiền tệ, mà trước hết là phải xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã hướng vào kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 1986 – 1988 Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt tổng cung, đồng thời do thiếu hụt ngân sách, Nhà nước đã bành trướng phát hành tiền. Vì vậy nền kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số tức siêu lạm phát, nền kinh tế tăng trưởng chậm. Tại thời điểm gay cấn đó, hai thay đổi lớn trong chính sách tiền tệ: đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương đã tạo thành xung lực mạnh nhất để đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng. Giai đoạn 1989 – 1991 Các chính sách kinh tế mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao, nhưng vẫn ở mức trên 66% năm 1990 – 1991, vì nguồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi theo kinh tế thị trường. NHTW công bố các mức lãi suất cụ thể để các tổ chức tín dụng làm cơ sở ấn định các mức lãi suất kinh doanh, thực hiện cơ chế lãi suất âm. Thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt”, sau đó nới lỏng dần nhằm kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế, thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM. Giai đoạn 1992 – 1995 Sự ổn định kinh tế đã đi vào chế độ dừng do Nhà nước đã nhận thức được rõ nét tác động của cung ứng tiền tệ lên lạm phát. Vì vậy việc cung ứng tiền cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, thay thế bằng việc vay dân, vay nước ngoài. Các biện pháp và hình thức vay dần dần được cải thiện nhằm huy động cao nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Bên cạnh việc phát hành tín phiếu kho bạc Nhà nước, việc vay nợ nước ngoài cũng được khai thác triệt để. Kết quả là từ năm 1992 – 1994 Nhà nước không còn phát hành tiền để bù đắp bội chi cho ngân sách Nhà nước. Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiều hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã quy định cơ sở cho việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng nhà nước đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, chú ý đến cung tiền tệ và thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Từ đó quản lý và tạo môi trường cho các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và các tổ chức tín dụng khác hoạt động có lãi theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đó nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ giúp kỹ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. Cán cân thanh toán có chiều hướng thuận lợi. Như vậy, với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ, lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,4% năm 1994, 12,7% năm 1995 và 2,6% trong 7 tháng đầu năm 1996. Trong khi đó nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định: 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 – cao nhất trong những năm gần đây. Điều đó cho thấy nước ta với điểm xuất phát năm sau cao hơn năm trước nhưng nhịp độ tăng trưởng chẳng những không lùi mà vẫn tiếp tục tăng cao, đồng thời tỷ lệ lạm phát được kéo xuống. Điều đó càng khẳng định chính sách tiền tệ của chúng ta là phù hợp và hiệu quả. 1.4. Giai đoạn từ 1996 đến nay 1.4.1. Mục tiêu vĩ mô trong giai đoạn này Khác với giai đoạn 1992 – 1995, giai đoạn này nền kinh tế đã chuyển sang một trạng thái mới: chính sách kinh tế của đất nước ta đã chuyển sang mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Do đó mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn nhiều so với mục tiêu kiểm soát lạm phát. ổn định kinh tế vĩ mô nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức đồng đều trong các năm, đạt gần với tiềm năng của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát không giao động quá mạnh, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng và không có sự giao động lớn của các biến số trên qua các năm. ở giai đoạn này cố gắng giữ lạm phát ở mức 10%/năm. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính trong giai đoạn naỳ. Nếu giai đoạn 1992 – 1995 là bước ổn định nghĩa là kiềm chế lạm phát và chúng ta đã thành công, thì giai đoạn này sẽ là giai đoạn phát triển. Để đạt mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần một lượng vốn khổng lồ. Với chính sách mở cửa nguồn vốn từ bên ngoài vào sẽ tăng lên. Tuy nhiên để đạt được số vốn đó chính sách tiền tệ cần nỗ lực tối đa cho huy động cả nguồn vốn trong và ngoài nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề này là dựa chủ yếu vào nguồn trong nước, đồng thời tận dụng mọi khả năng huy động nguồn vốn từ bên ngoài – yếu tố được coi là đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong thời kỳ đầu khi nguồn bảo đảm trong nước còn thấp. Các quan điểm xây dựng chính sách tiền tệ Để xây dựng một chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình của đất nước phải dựa trên các quan điểm sau: Một là, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở tính độc lập tương đối của NHTW. Hai là, phải cân đối giữa ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển kinh tế. Một chính sách tiền tệ đúng đắn sẽ tạo ra môi trường tài chính lành mạnh, kích thích tối đa sự vận động của các nguồn lực khác của đất nước, kích thích đầu tư phát triển kinh té. Ba là, xây dựng một chính sách tiền tệ gây lòng tin dân chúng và hệ thống ngân hàng thương mại đối với điều hành của NHTW. Khi đó sẽ thu hút một khối lượng lớn tiết kiệm để tái đầu tư, phát triển. Bốn là, xây dựng chính sách tiền tệ (CSTT) trên cơ sở hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, thị trường tài chính trong nước cũng phải mở cửa cho thị trường tài chính quốc tế, nhờ đó mà thu hút được nguồn vốn quốc tế. Năm là, xây dựng CSTT trên cơ sở chuẩn bị khả năng đối phó với các biến động về cơn sốc kinh tế thế giới tác động đến nền kinh tế trong nước. Có như vậy mới tạo được sự ổn định vĩ mô thực sự trong môi trường đầy biến động của thế giới. Điều hành chính sách tiền tệ Nhằm thực hiện mục tiêu CSTT đã lựa chọn, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của NHTW là quản lý và điều hành khối lượng tiền cung ứng. Trong giai đoạn mới này, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng tiền cũng như điều hành, kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới từng bước theo nội dung và nguyên tắc hoàn toàn khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Đó là NHTW đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời NHTW đã lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt hàng năm. Do đó đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất – lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trửơng, đẩy lùi được lạm phát phi mã. Đặc biệt từ 1993, NHTW đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng mềm dẻo các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số. II – Thực trạng sử dụng công cụ lãi suất tín dụng từ khi có pháp lệnh ngân hàng đến nay: Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 6/1992 đến 1995 Tháng 6/1992 được coi là mốc quan trọng đánh dấu một bước chuyển quan trọng nhất về chất trong cơ chế lãi suất tín dụng. NHTW đã chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương và được quản lý theo khung lãi suất. Những điểm cơ bản của chính sách lãi suất mới gồm: Một là, NHTW quy định khung lãi suất của NHTM đối với nền kinh tế (lãi suất tối thiểu đối với tiền gửi và lãi suất tối đa đối với tiền cho vay). Hai là, lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, chấm dứt sự bao cấp về vốn qua kênh tín dụng ngân hàng. Ba là, đối với lãi suất ngoại tệ NHTW quy định laĩ suất cho vay tối đa. Lãi suất huy động bằng ngoaị tệ do các NHTM quyết định trên cơ sở lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế và cung – cầu vốn ngoại tệ trong nước. Từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1993, NHTW đã năm lần điều chỉnh giảm lãi suất cho phù hợp vơí chỉ số lạm phát và hiêụ quả sản suất kinh doanh cuả nền kinh tế. Lãi suất cho vay tối đa bằng ngoại tệ được điều chỉnh tăng từ 6,5%/ năm lên 7,5%/năm, phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế.Kết quả là vốn huy động hàng năm tăng hơn 20%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng gần 50%. Trong hai năm 1994 – 1995, cơ chế lãi suất tiếp tục được điều chỉnh theo hướng thích ứng với cơ chế thị trường, phù hợp với quan hệ cung – cầu vốn, đồng thời hạn chế sự can thiệp trực tiếp của NHTW vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW chỉ khống chế mức lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể do tổ chức tín dụng ấn định. Tăng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên 1,7%/ tháng. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh ba lần từ 7,5%/năm lên 9,5%/năm phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế. Bảng 1: Diễn biến lãi suất cho vay và tiền gửi bình quân các năm đơn vị: % / tháng Lãi suất/ thời điểm 1986-1990 1991 1992 1993 1994 1995 Cho vay bình quân tháng 4,3 2,5 2,5 1,8 1,6 1,7 Tiền gửi bình quân tháng 6,0 2,9 1,9 1,4 1,3 1,4 Chênh lệch -1,7 - 0,4 0,6 0,4 0,3 0,3 Như vậy, điểm nổi bật của cơ chế điều hành lãi suất tín dụng thời kỳ 1992 –1995 so với thời kỳ trước 1992 có thể được nhìn nhận dưới các mặt sau: - Cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. NHTW chỉ quy định khung lãi suất tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) linh hoạt hơn. Mặt khác, NHTW còn cho phép các TCTD huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các dự án có hiệu quả. Đây là bước khởi đầu đánh dấu tiến trình tự do hoá lãi suất trong các lần điều chỉnh cơ chế lãi suất sau này. - Xoá bỏ quy định lãi suất phân biệt giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế, đưa lãi suất biến động tiến sát với lãi suất thị trường, rút ngắn khoảng cách chênh lệch bất hợp lý giữa lãi suất cho vay ngắn hạn với lãi suất cho vay trung và dài hạn, giữa lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại tệ. - Bỏ bao cấp qua lãi suất, thúc đẩy các TCTD chuyển sang hạch toán kinh doanh, hạn chế việc ngân sách phải cấp bù lỗ lãi suất cho ngân hàng. Đồng thời giúp các doanh nghiệp có cơ sở xac định thực chất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên cơ chế lãi suất thời kỳ này cũng bộc lộ những tồn tại chủ yếu sau: - Quá trình điều hành cơ chế lãi suất còn thiếu linh hoạt, chưa điều chỉnh kịp thời với tăng trưởng và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế thời kỳ này bình quân hơn 8%, lạm phát được kiềm chế ở mức hai con số, riêng năm 1993 ở mức 1 con số nhưng lãi suất vẫn giữ nguyên ở mức quá cao. - Lãi suất cho vay còn cao so với hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ 1996 – 7/2000 Từ đầu năm 1996, NHTW tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, tăng cường sự ổn định của đồng Việt Nam. Do chính sách lãi suất thời kỳ trước vẫn còn nhiều tồn tại, từ tháng 01/1996 cơ chế lãi suất đã được tiếp tục thay đổi. Trong năm 1996, NHTW đã 4 lần điều chỉnh trần lãi suất bằng đồng Việt Nam, lãi suất huy động vốn cuối năm 1996 giảm 8,4%/ năm, lãi suất cho vay giảm 10%/ năm so với năm 1995. Lãi suất cho vay khu vực nông thôn được quy định cao hơn một chút so với khu vực thành thị, có tác dụng chuyển các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông thôn. Cơ chế lãi suất mới đã rút ngắn chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ. Bảng 2: Trần lãi suất cho vay năm 1996 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Tháng 1 7 9 10 I – Cho vay VND: 1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị - Cho vay ngắn hạn 1,7 1,6 1,5 1,25 - Cho vay trung và dài hạn 1,75 1,65 1,55 1,35 2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn 2,0 1,8 1,7 1,5 3. Cho vay của HTXTD và QTDND 2,5 2,2 2,1 1,8 II – Cho vay ngoại tệ 9,5 9,5 9,5 9,5 III – Chênh lệch giữa LS cho vay và LS huy động bình quân 0,35 0,35 0,35 0,35 Năm 1997 là năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt là khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á được khởi đầu bằng sự thả nổi đồng bạt đã ảnh hưởng phần nào đến nền kinh tế Việt Nam. Mặc dầu vậy nền kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng cao, lạm phát ở mức thấp nhất kể từ trước tới nay. Cơ chế lãi suất tín dụng tiếp tục được điều chỉnh theo hướng duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, tạo điều kiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế. Bảng 3: Trần lãi suất năm 1997 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Năm 1997 I – Cho vay VND 1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị - Cho vay ngắn hạn 1 - Cho vay trung và dài hạn 1,1 2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn 1,2 3. Cho vay của HTXTD và QTDND 1,5 II – Cho vay ngoại tệ 8,5 III – Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân 0,35 Năm 1998, khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã ảnh hưởng đến Việt Nam trên nhiều phương diện: làm giảm nguồn vốn đầu tư từ nứơc ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp FDI; lạm phát có chiều hướng gia tăng; tình trạng Đôla hoá xuất hiện và tăng mạnh gây bất ổn cho tỷ giá và khó khăn cho việc huy động vốn bằng VND. Trong bối cảnh đó chính sách lãi suất tiếp tục được điều chỉnh một cách linh hoạt, thận trọng nhằm góp phần hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam. NHTW tiếp tục việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cơ chế lãi suất trần, xoá bỏ quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động; không phân biệt lãi suất cho vay thành thị và nông thôn; lãi suất tiền gửi tiếp tục được tự do hoá. Kết quả là đến cuối năm 1998 tín dụng cho nền kinh tế tăng 16,4%, số dư tiền gửi tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 1997. Diễn biến các lần điều chỉnh lãi suất tín dụng năm 1998 được thể hiện trong bảng 4. Bảng 4: Trần lãi suất cho vay năm 1998 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Tháng 1 9 I – Trần lãi suất cho vay VND 1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị - Cho vay ngắn hạn tối đa 1,2 1,2 - Cho vay trung và dài hạn tối đa 1,25 1,25 2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn 1,25 1,25 3. HTXTD và QTD cơ sở cho vay thành viên 1,5 1,5 II – Trần lãi suất cho vay USD 8,5 8,5 Nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế việc tổ chức kinh tế găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi, từ 9/1998 NHTW đã quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các pháp nhân tại tổ chức tín dụng như sau: - Tiền gửi không kỳ hạn: 0,5% / năm - Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng: 3% / năm - Tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng: 3,5% / năm Năm 1999 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động ngân hàng, đó là thời điểm bắt đầu thực hiện Luật NHNN và Luật các TCTD. Tình hình kinh tế vĩ mô có một số đặc trưng như: Lạm phát luôn ở mức thấp. Đây là lần đầu tiên trong 7 tháng liên tiếp (từ tháng 3 đến tháng 10) tỷ lệ lạm phát liên tục âm. Mức lạm phát hàng tháng và số luỹ kế so với 12/1998 luôn thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước. Lạm phát cả năm 1999 thấp nhất kể từ trước tới nay. Điều này báo hiệu một nguy cơ giảm phát ở Việt Nam, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế chững lại, sức mua của nền kinh tế giảm. Mặc dù theo quy định của Luật NHNN, cơ chế điều hành lãi suất theo trần trước đây sẽ được thay thế bằng cơ chế lãi suất cơ bản, nhưng tại thời điểm này do chưa xác định rõ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản như thế nào nên năm 1999 vẫn được thực hiện theo trần lãi suất. Bảng 5: Trần lãi suất cho vay năm 1999 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Tháng 1 5 7 9 10 I – Cho vay VND 1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị - Cho vay ngắn hạn 1,1 1,15 1,05 0,95 0,85 - Cho vay trung và dài hạn 1,15 1,15 1,05 0,95 0,85 2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn - Cho vay ngắn hạn 1,2 1,15 1,05 1,05 1,0 - Cho vay trung hạn 1,25 1,15 1,05 1,05 1,0 3. HTXTD và QTD cơ sở cho vay thành viên 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 II – Cho vay ngoại tệ 8,5 8,5 8,5 8,5 8,5 Như vậy, tháng 1/1999 NHTW chỉ điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các NHTM quốc doanh ở khu vực thành thị từ 1,2% - 1,25% / tháng xuống còn 1,1% - 1,15% / tháng, còn các mức lãi suất khác không đổi. Tháng 5/1999, kinh tế vĩ mô diễn biến theo chiều hướng xấu, dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm hơn tốc độ tăng trưởng tiền gửi qua các TCTD. NHTW đã điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn và TCTD xuống cùng 1 mức trần laĩ suất là 1,15% / tháng. Đến 6 – 7/ 1999 chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,3% và hiện tượng thiểu phát đã bộc lộ rõ. Thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ,NHTW điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay xuống mức 1,05% áp dụng chung cho cả khu vực thành thị và nông thôn. Đến 9 – 10/ 1999, NHTW tiếp tục điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay xuống mức 0,95% / tháng rồi 0,85% / tháng để tiếp tục kích cầu tín dụng. Qua các đợt điều chỉnh lãi suất năm 1999, chính sách lãi suất về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đã định, góp phần thúc đẩy cung ứng vốn tín dụng, phát triển sản xuất. Đến cuối năm 1999 tín dụng cho nền kinh tế tăng 12,5%, số dư tiền gửi tăng 34% so với cùng kỳ 1998. Năm 2000, thực hiện chủ trương kích cầu, NHTW vẫn áp dụng theo cơ chế trần lãi suất ổn định như các tháng cuối năm 1999, nhưng được điều hành theo hướng nới lỏng phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường. Bảng 6: Trần lai suất cho vay từ tháng 1 – 7/2000 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Tháng 1 2 - 7 I – Cho vay VND 1. Trần lãi suất cho vay khu vực thành thị 0,85 0,85 2. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn 1,0 1,0 3. QTD cơ sở cho vay thành viên 1,5 1,35 4. NHTM cổ phần nông thôn 1,15 1,15 II – Cho vay ngoại tệ 7,5 7,5 Tóm lại, cơ chế điều hành lãi suất theo trần được áp dụng trong thời kỳ từ đầu năm 1996 đến tháng 7/2000 đã có ưu thế hơn hẳn so với cơ chế điều hành lãi suất theo khung thời kỳ trước đây. Cụ thể là: Thứ nhất, LSTD được gắn chặt với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá và quan hệ cung – cầu vốn trên thị trường tiền tệ, tín dụng. Thứ hai, lãi suất cho vay được quy định theo trần và có sự phân biệt giữa các lãi suất. Nhìn chung, trần lãi suất cho vay của các TCTD giảm dần qua các năm (cụ thể xem Bảng 7). Bảng 7: Tổng hợp lãi suất cho vay từ 1996 – 7/ 2000 đơn vị: VND % / tháng; USD % / năm Lãi suất cho vay 1996 1997 1998 1999 7/2000 I - VND 1. Khu vực thành thị - Ngắn hạn 1,7 1,25 1,2 1,1 0,85 - Trung và dài hạn 1,75 1,35 1,25 1,15 0,95 2. Khu vực nông thôn 2,0 1,5 1,25 1,25 1,0 3. QTDND 2,5 1,8 1,5 1,35 1,15 II – USD 9,5 9,5 9,0 8,5 7,5 Thứ ba, lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh kịp thời phù hợp với lãi suất thị trường quốc tế, giảm thiểu chênh lệch lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ. Tuy nhiên cơ chế trần lãi suất cho vay còn một số hạn chế chủ yếu là: - Cơ chế trần lãi suất hạn chế mức độ cạnh tranh, hạn chế việc huy động và cho vay vốn dài hạn (do bị khống chế bởi trần). - Có nhiều mức trần lãi suất do sự phát triển không đều giữa các khu vực, sự chênh lệch về quy mô và năng lực tài chính giữa các TCTD. - Gò bó tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD. - Cơ chế trần lãi suất áp dụng cho cả đồng Việt Nam và ngoại tệ làm quan hệ giữa lãi suất đồng Việt Nam với lãi suất ngoại tệ ở trong nước, lãi suất ngoại tệ trong nước với lãi suất thị trường quốc tế trở nên kém linh hoạt, cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài, thua thiệt cho doanh nghiệp và TCTD Việt Nam. Cơ chế lãi suất tín dụng từ tháng 8/2000 đến nay Để phù hợp với xu hướng đổi mới hoạt động ngân hàng và trên cơ sở của Luật NHNN từ 8/2000, NHNN đã bỏ quy định về cơ chế trần lãi suất và chuyển sang cơ chế lãi suất cơ bản. Cụ thể là: Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam NHTW công bố lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay của các NHTM áp dụng đối với khách hàng tốt nhất và một biên độ thích hợp thể hiện bằng số phần trăm (%) tuyệt đối. Laĩ suất cho vay và huy động của TCTD gắn với laĩ suất cơ bản của NHTW. Biên độ trên được quy định hợp lý để đảm bảo cho các TCTD ấn định lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro cụ thể, đồng thời NHTW kiểm soát được lãi suất cho vay. Biên độ trên không phân biệt đối với lãi suất áp dụng giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các loại hình TCTD (trừ quỹ TDND cơ sở) mà chỉ có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung, dài hạn. Theo nguyên tắc trên, NHTW đã công bố lãi suất cơ bản áp dụng trong những tháng còn lại của năm 2000 như sau: - Lãi suất cơ bản là 0,75% / tháng - Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3% / tháng - Biên độ trên đối với lái suất cho vay trung, dài hạn là 0,5% / tháng Năm 2001, NHTW tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản (LSCB) một cách linh hoạt. LSCB được xác định trên cơ sở bám sát tín hiệu thị trường, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ, từng bước hướng tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Trong năm 2001, NHTW đã chủ động điều chỉnh giảm liên tục LSCB đối với cho vay bằng VND từ 0,75% / tháng thời điểm đầu năm xuống còn 0,62% / tháng tại thời điểm cuối năm (giảm 0,13%/ tháng). Các mức biên độ trên đối với LSCB không thay đổi so với biên độ lãi suất hàng tháng năm 2000. Đặc biệt từ đầu năm 2003 cho đến nay, NHTW đã duy trì được mức LSCB ổn định trong một thời gian dài (ổn định lâu nhất từ trước đến nay), với mức lãi suất tương đối thấp 0,625% / tháng. Bảng 8: Lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – 11/2004 đơn vị: % / tháng Thời điểm Mức lãi suất 8/2000 – 2/2001 0,75 3/2001 0,725 4 – 5/2001 0,7 6 – 9/2001 0,65 10/2001 – 7/2002 0,6 8/2002 – 3/2003 0,62 4/2003 – 11/2004 0,625 (Số liệu các bảng lãi suất trên lấy từ nguồn NHNN Việt Nam – www.sbv.gov.vn) Cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ Cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ được đổi mới theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nứơc. Cụ thể là NHTW quy định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đô la Mỹ của các TCTD đối với nền kinh tế không vượt quá mức lãi suất thị trường liên ngân hàng Singapore (SIBOR) kỳ hạn 3 tháng cộng biên độ tối đa 1,0% / năm; lãi suất cho vay trung, dài hạn không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng cộng biên độ tối đa 2,5% / năm. Laĩ suất các ngoại tệ khác do chiếm tỷ lệ nhỏ nên cho phép các NHTM tự xem xét trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở trong nước. Cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ nói trên đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay phù hợp với cung cầu vốn ngoại tệ, biến động lãi suất thị trường quốc tế. Tuy nhiên còn một số tồn tại như: Về thực chất, lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ vẫn còn bị Nhà nước quản lý ở mức độ nhất định, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập với khu vực và thế giới. Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ cho thấy, biến động của lãi suất ngoại tệ ở trong nước phụ thuộc chủ yếu vào sự biến động của lãi suất thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực đã tự do hoá hoàn toàn lãi suất ngoại tệ nhằm tạo điều kiện cho việc huy động vốn từ nước ngoài và thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối có hiệu quả. Vì vậy kể từ ngày 1/6/2001, cơ chế điều hành lãi suất Đôla mỹ được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng: các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ theo thoả thuận với khách hàng, dựa trên lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Như vậy, sau một thời gian thực hiện cơ chế điều hành mới, LSCB đã thể hiện rõ những ưu thế hơn hẳn so với cơ chế lãi suất theo trần trước đây: Một là, cơ chế điều hành LSCB phù hợp vơí điều kiện thực tế thời kỳ 2000 – 2001. Cơ chế này vừa có yếu tố thị trường vừa có yếu tố quản lý Nhà nước. Hai là, cơ chế điều hành LSCB không gây biến động làm tăng mặt bằng lãi suất huy động vốn và cho vay của các TCTD. Đồng thời tạo khuôn khổ linh hoạt hơn cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất huy động và cho vay ohù hợp với đặc điểm từng vùng và từng đối tượng khách hàng. Góp phần khuyến khích huy động vốn, mở rộng tín dụng, giải toả vốn ứ đọng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Do vậy đến cuối năm 2001, số dư tiền gửi bằng VND tăng 18%, dư nợ cho vay tăng 25% so với cùng kỳ 2000. Ba là, lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác phù hợp với lãi suất quốc tế, gắn thị trường tiền tệ trong nước với trong khu vực và trên thế giới. Cơ chế lãi suất thoả thuận đã khuyến khích cho vay trung và dài hạn, đặc biệt là bằng ngoại tệ. Dư nợ cho vay ngoại tệ đến cuối năm 2001 tăng 6,5% so với cùng kỳ 2000, trong đó dư nợ cho trung, dài hạn tăng 5,5%. Tuy nhiên cơ chế này cũng có một số hạn chế: - Về thực chất vẫn còn sự can thiệp của Nhà nứơc. -Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ có biến động. Cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận bằng đồng Việt Nam Do những hạn chế của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản nói trên, từ tháng 6/2002, cơ chế điều hành LSCB với cho vay bằng đồng Việt Nam tiếp tục được thay đổi một bước quan trọng, với việc bỏ biên độ chênh lệch lãi suất cho vay. Việc ban hành cơ chế lãi suất thoả thuận đã chứng tỏ chính sách quản lý lãi suất của NHTW ngày càng cởi mở, hạn chế dần và đi tới xoá bỏ việc điều hành lãi suất của nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, tiến dần tới tự do hoá hoàn toàn về lãi suất ở Việt Nam . Đây là cơ chế đáp ứng kịp thời những đòi hỏi bức xúc về cung cầu vốn của nền kinh tế, bởi các lý do sau: - Cơ chế LSCB không thể duy trì mãi trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng phát triển ở nước ta. -Nhu cầu vốn tín dụng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới rất lớn, nhằm đạt được những mục tiêu phát triển như NQTW 5 khoá 9 đã đề ra. Vì vậy những khoản tín dụng thương mại được thực hiện theo cơ ché lãi suất thoả thuận. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế nạn cho vay nặng lãi vẫn còn tồn tại ở nông thôn. CHƯƠNG III Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô ở Việt Nam thời kỳ 2004 - 2020 I – Một số hạn chế còn tồn tại của chính sách tiền tệ trong thời gian vừa qua và nguyên nhân chủ yếu Hạn chế còn tồn tại Các công cụ của chính sách tiền tệ đã liên tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng phù hợp với điều kiện thực tiễn nền kinh tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Vì vậy CSTT đã góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng và hoàn thiện chúng, các công cụ của chính sách tiền tệ vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn: Trong bối cảnh công cụ nghiệp vụ thị trường mở chưa phát huy được tác dụng như mong muốn thì tái cấp vốn là công cụ cơ bản giúp cho NHTW điều hành thành công CSTT trong thời gian qua. Hiệu quả của công cụ này thì đã thấy rõ đó là vừa đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế vừa đảm baỏ khả năng thanh toán cho các TCTD. Tuy nhiên công cụ này vẫn còn nhiều hạn chế: - Việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với giá trị nội tệ không kịp thời và chưa hợp lý dẫn đến xu hướng chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ tăng nhanh. - NHTW chỉ chủ động được trong việc cung ứng vốn nhưng lại bị động trong việc thu hút vốn về NHTW. Nghĩa là NHTW không hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền cung ứng. Thứ hai, công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Việc điều hành công cụ dự trữ bắt buộc của NHTW thời gian qua không bám sát vào thực tế vì vậy việc tăng hay giảm dự trữ bắt buộc đã không có tác dụng rõ rệt đối với việc điều khiển lượng tiền cung ứng. Có thời kỳ số tiền gửi vượt mức so với dự trữ bắt buộc rất lớn, phản ánh độ dư thừa vốn của các NHTM là lớn. Nhưng trong điều hành NHTW chưa quan tâm tới việc quản lý nguồn vốn khả dụng này thông qua điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Thứ ba, công cụ tỷ giá: - Biên độ tỷ giá có lúc quá lớn ( + 10%), có lúc quá nhỏ ( + 0,1%) nên vừa bó hẹp tính linh hoạt của tỷ giá theo tín hiệu thị trường, vừa tạo kỳ vọng cho thị trường theo ý đồ đầu cơ. Do đó tỷ giá chưa trở thành công cụ chủ yếu để điều tiết thị trường ngoại tệ. Tại nhiều thời điểm, tỷ giá chưa phản ánh được quan hệ cung – cầu ngoại tệ. - Việc xác định tỷ gía thực của VND trên cơ sở rổ tiền tệ còn nhiều khó khăn và chưa sát với tỷ giá thật. - Các công cụ hiện có của thị trường ngoại tệ còn chưa phù hợp, còn thiếu và đơn giản. Các quy định của NHTW trên mỗi công cụ chea có sự thay đổi linh hoạt. Do đó thiếu công cụ che chắn, phòng ngừa rủi ro làm cho thị trường ngoại tệ trầm lắng. - Công tác dự báo thị trường về đồng tiền vào - ra trong từng thời kỳ thực hiện chưa tốt nên ảnh hưởng tới việc sử dụng một cách mạnh dạn, hiệu quả quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng theo chức năng của một NHTW. - Cơ chế bán ngoại tệ từ NHTW phục vụ mục tiêu nhập khẩu vật tư, nguyên liệu quan trọng, thiết yếu cho NHTM còn mang tính hành chính, tạo sự ỷ lại, lợi dụng của các NHTM. Thứ tư, nghiệp vụ thị trường mở: Dẫu rằng đây là một công cụ được NHTW nhiều nước sử dụng làm công cụ chủ yếu và thường xuyên trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Nhưng qua hơn 2 năm NHTW Việt Nam sử dụng đã bộc lộ một số bất cập sau: Số phiên giao dịch ít, gây khó khăn cho NHTW trong điều tiết vốn khả dụng kịp thời. Số thành viên tham gia ít, làm giảm tính thị trường và giảm hiệu lực điều tiết của NHTW. Hàng hoá được mua bán không nhiều, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hầu như chưa được sử dụng. Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trọng lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia – thì với Việt Nam công cụ này chưa được sử dụng. - Nghiệp vụ mua bán chủ yếu là mua bán đứt đoạn, nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ít được sử dụng. Với những bất cập trên có thể nói hiệu quả của công cụ này là chưa đáng kể. Thứ năm, công cụ lãi suất tín dụng: Về cơ chế lãi suất nội tệ, mặc dầu đã áp dụng cơ chế lãi suất cho vay VND theo lãi suất thoả thuận - đây là sự cởi mở thực sự cho hoạt động ngân hàng tăng, tuy nhiên vai trò định hướng của lãi suất cơ bản đối với chính sách cho vay của các TCTD còn hạn chế. Về cơ chế lãi suất ngoại tệ, việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các TCTD qua cứng trong khi lãi suất cho vay ngoại tệ đã được tự do hoá và tỷ lệ kết hối đã giảm. Điều này gây khó khăn cho việc chủ động vốn của các NHTM. Nguyên nhân của những hạn chế Nguyên nhân khách quan: Do tác động của những biến động nền kinh tế thế giới: Sự biến động giá dầu thế giới, sự xuất hiện các khu vực tiền tệ, khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực và thế giới, sự xuất hiện đồng EURO, và các vụ khủng bố trên thế giới, đặc biệt là sự kiện 11/9/2001 đã tác động mạnh vào nền kinh tế trong nước làm giảm hiệu lực quản lý không chỉ riêng bộ ngành nào. Sự kết hợp giữa các bộ ngành với NHTW trong việc tính toán, cung cấp các số liệu thống kê không nhất quán, không kịp thời dẫn đến các dự báo tiền tệ còn nhiều sai lệch. Sự chi phối quá sâu của Chính phủ vào lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng làm giảm tính độc lập, chủ động trong điều hành của NHTW.Do vậy việc ra quyết định quản lý thường không kịp thời, làm giảm hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ. Thị trường tài chính ở Việt Nam chưa phát triển, thể hiện ở hình thức giao dịch và các công cụ tài chính còn ít, mang tính chất sơ khai. Sự phối hợp giữa các chính sách tỷ giá - quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất còn ở mức độ, chưa tạo ra sự tác động tương hỗ, thuận chiều. Mục tiêu điều hành của các chính sách này nhiều khi còn xa nhau, thậm chí trái ngược nhau trong một số trường hợp. Nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ thực tế là chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước sau hàng chục năm vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Do vạy kinh nghiệm của chúng ta hầu như chưa có, vừa học vừa làm vừa rút kinh nghiệm, học đến đâu làm đến đấy nên NHTW rất khó và thận trọngkhi đưa ra các quyết định quản lý. Chính vì vậy nhiều khi các quyết định đưa ra để điều hành chính sách tiền tệ thường bị chậm trễ làm giảm hiệu quả. Một cơ chế kinh tế mới với hàng loạt các biến động thất thường không theo quy luật làm cho nhận thức của các nhà chức trách tiền luôn phải thay đổi, đối phó với nhiều tình huống khac nhau trong điều kiện ít kinh nghiệm cho nên chắc chắn hiệu quả sẽ hạn chế. Trình độ cán bộ quản lý còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tế, không được thường xuyên đào tạo. II – Phương hướng hoàn thiện công cụ lãi suất tín dụng trong giai đoạn tiếp theo (2004 – 2010) Trên cơ sở điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay, với bước đi cụ thể tiếp theo đã đặt ra trong tiến trình tự do hoá lãi suất trong thời gian tới, NHTW cần phải thực hiện một số biện pháp đối với công cụ lãi suất. 2.1. Phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất thoả thuận Thứ nhất là, phát triển và hoàn thiện thị trường nội tệ liên ngân hàng, nghiệp vụ thị trường mở để lấy mức lãi suất hình thành trên các thị trường này làm cơ sở cho việc xác định lãi suất cơ bản bằng VND. Hiện nay lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND được xác định trên cơ sở lãi suất cho vay đối với khách hàng tốt nhất của 15 NHTM, trong đó có 4 NHTM Nhà nước. Vì vậy các mức lãi suất này chưa phản ánh một cách chính xác lãi suất phổ biến nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong khi đó nghiệp vụ thị trường mở mới được áp dụng, chưa có chiều sâu. Thị trường trái phiếu Chính phủ chưa phản ánh đúng lãi suất của thị trường tiền tệ. Do vâỵ chưa thể căn cứ vào lãi suất trên các thị trường này lám cơ sở xác định LSCB. Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và thế giới, LSCB của họ thường xác định dựa vào lãi suất hình thành trên các thị trường tiền tệ như: thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước… Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trọng lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia – thì với Việt Nam công cụ này chưa được sử dụng. Do đó trong thời gian tới cần củng cố hoạt động của các thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước... để làm cơ sở cho việc xác định LSCB bằng VND. Thứ hai là, công bố lãi suất tiền gửi và cho vay bằng VND tính theo năm, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt là thương phiếu – một hàng hoá quan trọng được mua bán với tỷ trọng lớn trên thị trường mở của nhiều quốc gia – thì với Việt Nam công cụ này chưa được sử dụng. - Nghiệp vụ mua bán chủ yếu là mua bán đứt đoạn, nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ít được sử dụng. Thứ ba là, việc phát hành trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ phải được thực hiện thông qua đấu thầu qua NHTW và thị trường chứng khoán. Nên chấm dứt hình thức phát hành trực tiếp tới dân chúng theo lãi suất cố định. Tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa LSTD Nhà nước và lãi suất kinh doanh của các TCTD, đồng thời tiết kiệm chi phí cho NSNN. Tiếp tục tự do hoá lãi suất Một là, nên bỏ khống chế lãi suất tiền gửi tối đa băng đôla Mỹ để tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nhằm góp phần tăng cường quản lý ngoại hối, hạn chế các TCTD găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi để hưởng lãi suất cao và tránh rủi ro về tỷ giá, từ 1998, NHTW đã quy định mức lãi suất tiền gửi (LSTG) tối đa bằng đô la Mỹ. Mức này thường thấp hơn LSTG tiết kiệm của dân cư cùng kỳ hạn từ 2 – 2,5% / năm. Do đó một số tổ chức kinh tế không muốn gửi tiền tại các TCTD của Việt Nam mà của nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn, làm giảm nguồn ngoại tệ trong nước. Với cơ chế quản lý tỷ giá hiện nay, lãi suất gần đây liên tục giảm nên tâm lý găm giữ ngoại tệ của các TCTD không như thời gian trước đây. Vì vậy đây là thời điểm thích hợp để xoá bỏ việc khống chế LSTG tối đa bằng đô la Mỹ, nhằm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Hai là, nên trao quyền tự chủ cho các TCTD trong việc phát hành trái phiếu của mình trên cơ sở các điều kiện và quy định của NHTW. Hiện nay các TCTD muốn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu phải có đề án xin phép NHTW. Việc quy định như vậy là để không gây xáo trộn thị trường tiền tệ.Tuy nhiên trong điều kiện các yếu tố kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tài chính phát triển, các công cụ của chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả thì việc quy định như vậy là không cần thiết. Do vậy nên trao quyền chủ động phát hành trái phiếu cho các TCTD. Điều này cũng có nghĩa là lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các TCTD được thả nổi, đây là khâu cuối cùng của tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Tiến tới thực hiện cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của NHTW – lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cho vay qua đêm Với lãi suất cơ bản, khi đã bỏ biên độ thì vai trò của nó thực chất chỉ còn mang tính hướng dẫn cho các TCTD, không còn vai trò kiểm soát và tác động trực tiếp đến lãi suất trên thị trường. Vì vậy cần phải chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất chỉ đạo của Nhà nước. NHTW thực hiện tái cấp vốn cho các TCTD theo hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hồ sơ tín dụng, hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay qua cửa sổ chiết khấu đặc biệt. Các hình thức này có thời hạn cho vay ngắn, có thể cho vay trong vài ba ngày, thậm chí cho vay qua đêm để bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sau khi các TCTD đã thực hiện vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. . Lãi suất các hình thức tái cấp vốn này do NHTW quy định, thường cao hơn các mức lãi súât khác để thực hiện điều tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường, cũng như thực hiện vai trò NHTW là người cho vay cuối cùng. Các TCTD có thể tự do và không hạn chế số lượng tiền gửi tại NHTW, nhưng để hạn chế hoặc khuyến khích thì NHTW quy định mức lãi suất cao hay thấp. Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở là lãi suất đấu thầu các loại tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn. Lãi suất thị trường liên ngân hàng là lãi suất để cac TCTD vay mượn lẫn nhau trong trường hợp thiếu vốn mà vẫn chưa đến phiên giao dịch trên thị trường mở. Lãi suất thị trường liên ngân hàng có vai trò chi phối lãi suất huy động. Như vậy cơ chế điều hành hệ thống lãi suất này là sự tác động gián tiếp của lãi suất tái cấp vốn đến lãi suất của các TCTD thông qua lãi suất của nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng. Khi đó NHTW đã thực sự sử dụng các biện pháp kinh tế để tác động và điều hành thị trường thay thế cho các biện pháp mang tính can thiệp hành chính. Do vậy NHTW cần hoàn thiện và phát triển hơn nữa thị trường liên ngân hàng, cũng như sớm đưa vào sử dụng cơ chế lãi suất cho vay qua đêm để phát huy vai trò của công cụ lãi suất điều hành. III – Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 2004 – 2010 3.1. Nâng cao vị thế và sự độc lập của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ Điều hành chính sách tiền tệ là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, mọi quyết định được đưa ra phải kịp thời và bám sát thực tiễn. Các yêu cầu này chỉ được đáp ứng khi NHTW có sự chủ động cao trong điều hành. Xuất phát từ nguyên lý đó mà rất nhiều quốc gia trên thế giới (điển hình là Mỹ và Đức) đã dành cho NHTW của họ một sự độc lập rất cao để NHTW hoàn toàn chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ. Kiểm nghiệm thực tiễn ở những quốc gia mà NHTW có sự độc lập cao với chính phủ cho thấy, ở những nước này tỷ lệ lạm phát thường thấp và ổn định.Còn ở những quốc gia mà NHTW có sự phụ thuộc lớn vào Chính phủ thì ở đó lạm phát thường ở mức cao và không ổn định. Từ bài học kinh nghiệm này có thể thấy rằng trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, để NHTW độc lập hoàn toàn với Chính phủ là không thể, vì như vậy các chính sách kinh tế của NHTW có thể không nhất quán với chính sách kinh tế chung mà Nhà nước định ra. Nhưng nếu cho phép NHTW có một sự độc lập nhất định trong chức năng phát hành và kiểm soát khối lượng tiền tệ thì đó là một bước đi thích hợp. Chính phủ và quốc hội chỉ đưa ra những định hướng, mục tiêu lớn về cung ứng tiền trong những khoảng thời gian nhất địnhvà kiểm soát việc điều hành của NHTW theo các mục tiêu đó. Trên cơ sở những định hướng, mục tiêu được giao, NHTW chủ động điều hành cung ứng tiền hướng vào các mục tiêu đó. Vì việc phát hành tiền, thu hút tiền về được thực hiện rất thường xuyên và phải theo sát những diễn biến của thị trường nên sẽ do NHTW tự quyết định. Có như vậy mới taọ ra sự linh hoạt trong điều hành vì lợi ích quốc gia. Sự độc lập ngoài tác dụng làm cho NHTW tự nâng cao năng lực, tự chịu trách nhiệm, còn hạn chế được sức ép chính trị can thiệp vào quá trình cung ứng tiền vì các mục tiêu ngắn hạn. Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Quốc hội và sự điều hành của Chính phủ đối với hoạt động của NHTW Điều hành cung ứng tiền của NHTW có ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế vĩ mô. Do đó mọi hành vi thái độ của NHTW đều có thể dẫn đến những sai lầm. Chính vì vậy Chính phủ và Quốc hội cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát và điều hành đối với hoạt động của NHTW. Có thể giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua dư luận của công chúng. Những quyết định lớn của NHTW cũng có thể đưa ra thăm dò dư luận trước khi đi đến quyết định cuôí cùng. Thông qua dư luận, Chính phủ sẽ giám sát được hành vi của NHTW và kịp thời ngăn ngừa những hậu quả xấu có thể xảy ra. Tăng cường sự phối hợp với các bộ, ngành liên quan NHTW là người chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ để Chính phủ xem xét, trình quốc hội quyết định, đồng thời là người tổ chức thực hiện khi dự án đã được phê chuẩn. Dự án CSTT sẽ kém khả thi và quá trình điều hành CSTT sẽ không đạt hiệu quả tối đa nếu không có sự phối hợp của các bộ, ngành khác. Sự phối hợp này thể hiện ở việc cung cấp thông tin một cách trung thực và kịp thời cho NHTW. Bộ tài chính: - Cung cấp các thông tin về thu chi NSNN, nguồn bù đắp thiếu hụt, kế hoạch cho vay, trả nợ của Chính phủ, tình hình cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch. Các thông tin này rất cần thiết để NHTW dự báo các diễn biến tiền tệ nguồn vốn khả dụng của các TCTD> - Cung cấp thông tin về sự biến động giá cả thị trường để NHTW có cơ sở đưa ra mục tiêu kiểm soát lạm phát. Bộ kế hoạch và đầu tư: Cung cấp các thông tin chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế, giúp cho NHTW có cơ sở để dự báo nhu cầu tín dụng, nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Bộ thương mại: Cung cấp cho NHTW các thông tin về chính sách thương mại, tình hình xuất nhập khẩu.. để phân tích cán cân thanh toán quốc tế, qua đó dự báo sự biến động tài sản có ngoại tệ. Tổng cục thống kê: Cung cấp các số liệu tổng hợp về các chỉ tiêu kinh tế xã hội của cả nước có liên quan đến việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, kịp thời thông báo các chỉ tiêu kinh tế thực hiện trong kỳ để NHTW nắm được diến biến tình hình, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết. Nâng cao trình độ của cán bộ ngân hàng Đây là vấn đề rất quan trọng được đặt ra đối với NHTW hiện nay. Năng lực và kinh nghiệm điều hành được đặc biệt chú trọng, có như vậy mới đủ khả năng phân tích và đánh giá các diễn biến của thị trường một cách chuẩn xác, đưa ra các dự báo phù hợp với tình hình thực tế để ra các quyết định quản lý một cách kịp thời. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. NHTW Việt Nam thực hiện chức quản lý tiền tệ và ngân hàng theo cơ chế thị trường đến nay mới được hơn 10 năm. Hầu hết viên chức ngân hàng vừa làm vừa học, học đến đâu làm đến đó. Vì vậy NHTW cần đặc biệt chú trọng tới công tác cán bộ, thực hiện đào tạo và đào tạo lại theo chương trình chuẩn hoá, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Kết luận Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại… chính sách tiền tệ quốc gia xuất hiện trên vũ đài khoa học kinh tế thế giới như một đòi hỏi tất yếu khách quan. Lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã chứng tỏ rằng : Để có một chính sách tiền tệ khôn ngoan, phù hợp với từng thời kỳ luôn luôn là một bài toán khó.. Chính vì vậy trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi trí tuệ của những bộ óc ưu tú nhât. Trong từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể, việc nghiêng vè sử dụng công cụ nào trong hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ hay sử dụng đồng thời tất cả các công cụ đó , hoặc xác định công cụ nào là chủ yếu, công cụ nào là bổ trợ.. cho phù hợp, nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị tiền tệ là một vấn đề luôn được bàn luận trao đổi. Từ khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đổi mới, đặc biệt là từ khi đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã được ngân hàng nhà nước từng bước cải cách theo hướng bám sát vào các diễn biến của thị trường. Chính sách tiền tệ đã phát huy vai trò của mình một cách hiệu quả, góp phần quan trọng vào thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Có thể nói chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ của nó đã từng bước được hoàn thiện với những bước đi thận trọng, phù hợp với cơ chế kinh tế của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, chính sách tiền tệ đã đảm bảo thực hiện đúng hướng chiến lược phát triển dài hạn của quốc gia trong giai đoạn mới. Chứng tỏ vai trò xứng đáng của mình trong nền kinh tế quốc dân, là một trong các công cụ vĩ mô đắc lực nhất của Chính phủ trong điều tiết hoạt động kinh tế vĩ mô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33649.doc
Tài liệu liên quan