Nâng cao vai trò của lao động nước ta đã và đang là vấn đề bức xúc trong qua trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tế. Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng quan tâm đến vấn đề này, và cũng đã khẳng định vai trò quyết định sự phát triển nền kinh tế xã hội và đặt nhiệm vụ xây dựng một thể chế xã hội chủ nghĩa là nguồn nhân lực trong nước. Nó là đầu vào của sự phát triển nhưng đồng thời cũng là đầu ra của sự phát triển, con người là vị trí trung tâm, là công cụ để phát triển kinh tế - xã hội. Những thay đổi trên thế giới gần đây buộc chúng ta phải lựa chọn sự đổi mới cho phù hợp với quy luật khách quan để tồn tại và phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người là nhân tố hàng đầu trong các nhân tố xã hội, hơn nữa nó lại có ý nghĩa quyết định sự vận động của lịch sử, của tiến bộ xã hội.
43 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1649 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện như sau:
MPL = F (K,L + 1) – F (K,L).
Hầu hết các hàm sản xuất có đặc tính là năng suất biên giảm dần: với lượng vốn không đổi, năng suất lao động biên giảm khi lượng lao động tăng năng suất lao động biên giảm dần.
Khi một doanh nghiệp cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận đang quyết định xem có nên thuê thêm một đơn vị lao động nữa hay không thì nó xem xét quyết định đó ảnh hưởng như thế nào đến lợi nhuận. Do đó doanh nghiệp so sánh doanh thu tăng thêm do tăng sản lượng từ lao động tăng thêm và mức tăng chi phí do trả tiền công cao hơn. mức tăng doanh thu từ một đơn vị lao động tăng thêm phụ thuộc vào hai biến số: sản phẩm lao động biên và giá xuất lượng. Do mỗi đơn vị lao động tăng thêm tạo ra các đơn vị MPL của xuất lượng và mỗi đơn vị xuất lượng bán được với giá P, cho nên mức doanh thu tăng thêm là P*MPL. Chi phí tăng lên do mướn thêm một đơn vị lao động là mức tiền công W. do đó mức lợi nhuận thay đổi do thuê thêm một đơn vị lao động là:
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí
= (P*MPL) - W
Do đó, cầu về lao động của doanh nghiệp được xác định bằng P*MPL = W, hay một cách thể hiện khác là MPL= W/P, trong đó W/P mức tiền công thực- mức chi trả cho lao động được đo bằng đơn vị xuất lượng chứ không phải bằng tiền. Để tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp thue lao động đến mức mà doanh thu tăng thêm bằng với mức tiền công thực.
(thêm biểu đồ)
2.2. Con người là yếu tố thụ hưởng.
Tất cả những thành quả của sự phát triển, mục đích chung lại là đều nhằm phục vụ con người, làm thoã mãn sở thích của con người. Quy luật kinh tế cơ bản của Chủ Nghĩa Xã Hội là “ không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, nhằm thoã mãn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội là định hướng cơ bản của nền kinh tế thị trường ở nước ta.”.
Quan điểm đặt con người vào vị trí trung tâm của công cuộc phát triển đất nước, yêu cầu phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực. Trong công cuộc Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa, đặt khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo vào vị trí nền tảng động lực của sự phát triển. Điều này được khẳng định rõ ràng trong đề cương về việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010.
Lao động gắn liền dân số và các quá trình kinh tế xã hội. Mỗi người lao động cùng lúc là người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Với tư cách là người tiêu dùng, sức mua của người lao động cũng như cầu về nâng cao phúc lợi xã hội và các giá trị vật chất tinh thần cho con người nó lại là động lực định hướng cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, khi xem xét tổng thể các quan hệ kinh tế xã hội trong quá trình phát triển, con người là nhân tố quyết định. Chất lượng nguồn nhân lực càng cao càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá về quy mô và cường độ.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới lao động- việc làm.
Các yếu tố thị trường lao động bao gồm: cung lao động, cầu lao động, giá cả sức lao động, cạnh tranh trên thị trường lao động. Trong 4 yếu tố nêu trên thì tổng cung lao động và tổng cầu lao động là 2 yếu tố cơ bản nhất.
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến lao động.
Tổng cung lao động trên thị trường lao động còn phụ thuộc vào một số nhân tố cơ bản sau đây: quy mô và tốc độ tăng của dân số, quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực, tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động, độ dài thời gian làm việc của người lao động. và khả năng làm thoã mãn các nhu cầu về mức sống đối với tầng lớp dân cư khác nhau. Những thay đổi trong các quá trình biến đổi dân số(sinh, đẻ, tử vong, di cư). Đó là yếu tố dân số học.
Tổng cung lao động được xác định theo công thức:
Ls = Pwa * Rlfp
Trong đó
Ls là tổng cung lao động
Pwa là dân số tuổi lao động
Rlfp là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ này là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì nhiều ly do như đang đi học, hoặc đang làm nội trợ cho gia đình…
Khi phân tích cung lao động người ta chú ý đến cơ cấu tuổi dân số. Dân số có cơ cấu trẻ sẽ cung cấp nguồn lao động lớn cho tương lai. Ngày nay dân số là vấn đề không chỉ riêng của từng quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu cho nên việc giảm sức ép của dân số đến nền kinh tế, xã hội môi trường nhằm phát triển bền vững đã có tiếng nói chung va có sự đóng góp của các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, nó tác động đến cung lao động thông qua các tác động của chúng đến mức độ tham gia lao động của các nhóm dân số đặc trưng. Các yếu tố kinh tế có thể là tốc độ tăng trưởng GDP, mức thu nhập, các cơ hội làm việc và vị trí địa lý, đặc điểm ngành nghề… Các yếu tố xã hội bao gồm cơ hội tiếp nhận giáo dục, mức độ học qua các lớp đào tạo, luật pháp, chế độ phân biệt…, về văn hoá có thể bao gồm phong tục tập quán, tôn giáo…
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm.
Tổng cầu lao động là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của một nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định. Việc làm là trạng thái trong đó diễn ra các hoạt động lao động mang lại thu nhập và không bị pháp luật cấm.
Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Số người không có việc làm sẽ làm ảnh hưởng tới những người đang có việc làm và ảnh hưởng tới nền kinh tế. Đây là vấn đề của mọi quốc gia vì nó tác động đến cả khía cạnh xã hội lẫn kinh tế.
Cầu trên thị trường lao động phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:
Các nhân tố vĩ mô tác động đến cầu lao động bao gồm: khả năng phát triển kinh tế của đất nước, cơ cấu ngành nghề và sự phân bố giữa các ngành nghề, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng lãnh thỗ, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp v.v…
Các yếu tố vi mô tác động đến tổng cầu lao động bao gồm: giới tính, lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội. Các yếu tố này chi phối nhiều đến sự tăng giảm cầu lao động.
Trước hết sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ tác động mạnh đến số lượng và chất lượng cầu lao động. Như đã biết, việc làm phân bổ theo cơ cấu kinh tế bao gồm làm việc trong nông, lâm, ngư nghiệp, trong công nghiệp và xây dựng, và làm việc trong khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu sẽ chuyển theo xu hướng là lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp sẽ chuyển sang khu vực công nghiệp va xây dựng, dịch vụ. Điều này cần phải đòi hỏi về trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, do đó vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực rất quan trong giai đoạn hiện nay.
Yếu tố thứ 2 tác động đến việc làm là tăng trưởng kinh tế. Như đã biết hàm sản xuất được viết Q = F(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn< L là lao động. Nếu công nghệ và giá cả cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng cầu lao động.
Thứ ba là lựa chọn kiểu và mức độ công nghiệp hoá. Đảng và Nhà nước ta xác định đường lối phát triển là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Rõ ràng với tình trạng hiện nay của nước ta, chúng ta phải lựa chọn công nghệ với chi phí tối thiểu để sử dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và sử dụng công nghệ cao ít lao động.
Thứ tư là yếu tố giá cả. đây là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm. Như đã biết, mối liên hệ giữa giá cả và cầu lao động được biễu diễn thông qua hàm sau: P*Q = W*L + r*K, trong đó P là mức giá, Q là sản lượng đầu ra, W là tiền công, r là lãi suất vốn. Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các phương án sản xuất, tác động đến tỷ trọng lao động và vốn.
Thứ năm là yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Nếu chúng ta tiêu dùng các hàng hoá mà sử dụng nhiều lao động trong nước để sản xuất ra hàng hoá đó thì sẽ làm tăng nhu cầu lao động. Ngược lai, nếu chúng ta tiêu dùng hàng hoá nhập ngoại, thì việc làm sẽ ít được tạo ra.
Yếu tố nữa là tiết kiệm và tạo vốn, và chính sách khuyến khích tạo việc làm của Nhà nước. Đây là yếu tố quan trọng đối với đặc điểm của nước ta. Nước ta có một nền chính trị ổn định, và các chính sách pháp luật về kinh tế việc làm, xã hội đang dần dần được hoàn thiện. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội, và việc làm mới sẽ được tạo ra.
Chương II: Đánh giá vai trò lao động trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
I. Đánh giá về thực trạng lao động – việc làm trên thị trường lao động ở Việt Nam
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 – thế kỷ của nền kinh tế tri thức, Việt Nam thực hiện “ chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Vị thể của nước ta trên trường quốc tế được nâng. Nguồn nhân lực Việt Nam đóng vai trò của lực lượng sản xuất và cũng chính là động lực quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh.
1. Thực trạng và xu hướng thay đổi cung lao động.
1.1. Quy mô và xu hướng thay đổi.
Cung lao động là yếu tố cấu thành của thị trường lao động. Trong phần này, chúng ta sẽ phân tích hiện trạng cung lao động ở nước ta và xem xét sự thay đổi của nó bắt đầu từ cuộc tổng điều tra dân số lần đầu tiên(1979) cho đến nay, nhất là trong thời kỳ đỗi mới. Từ đó có một số nhận xét về cung lao động nhằm hoàn thiện quá trình hình thành và phát triển thị trường lao động trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường dinh hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Cung lao động, được hiểu nôm na là một bộ phận dân số tiềm năng, bao gồm những người đủ khả năng về trí lực. Trong các văn bản pháp luật cũng như các văn bản thống kê thường sử dụng thuật ngữ “ dân số trong độ tuổi lao động” đây là một bộ phận dân số nằm trong giới hạn tuổi tuổi mà con người có khả năng làm việc, thường quy định tuổi từ 15 tuổi trở lên đến 55, 60 hoặc 65 tuổi, tuỳ theo hệ thống pháp luật của từng nước quy định và tuỳ thuộc theo giới tính và công việc nguy hiểm hay độc hại. Trước hết chúng ta cần xem xét phạm trù này ở nước ta. Theo số liệu thống kê chính thức (xem biểu 1).
Biểu 1: dân số trong độ tuổi lao động quy ước từ 15 đến hết 59 tuổi qua các cuộc tổng điều tra dân số.
Năm
Lao động 15-59
(nghìn người)
Chênh lệch sau 10 năm (nghìn người)
Tốc độ tăng trung bình năm(%)
1979 (1)
26572
1989 (2)
35051
8479
3,03
1999 (3)
44566
9515
2,71
2009 (4)
57575
13009
2,92
Nguồn :
Tổng điều tra dân số Việt Nam 1/10/1979. HN – 1983.
Tổng điều tra dân số toàn diện 1/4//1989. HN – 1992.
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1992. KQ điều tra mẫu . HN-2000
Số dự báo từ phân tích KQĐT mẫu. Tổng điều tra dân số VN. NXBTK.HN-1991.
Các số liệu trong biểu 1 cho thấy lao động trong khoảng 15-59 tăng lên liên tục, sau 10 năm 1979- 1989 tăng lên gần 8,5 triệu người, sau thời kỳ 89-99 tăng thêm hơn 9,5 triệu. Như vậy, bình quân 1 năm tăng hơn 9515 nghìn người. Tuy nhiên, tốc độ tăng bình quân năm trong mỗi thời kỳ 10 năm ta thấy xu hướng giảm rõ rệt. Từ 3,03% trong thời kỳ 79-89 còn 2,71% rtong thời kỳ 89-99.
Biểu 2: dân số từ 15 tuổi trở lên và tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động 1996-2003
Đơn vị tính
1996
2002
2003
DS từ 15 tuổi trở lên.
Tr.người
47,620
57,024
58,499
LLLĐ
Tr.người
35,187
40,717
41,313
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
%
73,89
71,40
70,62
Mặc dù lực lượng lao động cả nước tăng lên qua các năm song tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lại giảm đi: năm 1996 tỷ lệ này là 73,89%; năm 2003 là 70,62%(biểu 2) điều này có thể ly giải bởi do tốc độ tăng của dân số từ 15 tuổi trở lên cao hơn tốc độ tăng của lực lượng lao động. Ngoài ra do quy mô, những người không tham gia lực lượng lao động tăng lên hàng năm .
Phải thừa nhận rằng thực tế không riêng gì ở mình nước ta mà ở hầu hết các nước khác, người ta có thể tham gia lao động trước tuổi 15 và kết thúc kéo dài sau tuổi 60, đặc biệt là ở những vùng nông thôn. Như vậy, nếu bổ sung lượng này thì cung lao động sẽ tăng thêm đáng kể. Đây chính là “dân số hoạt động kinh tế” mà tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang quan tâm. Theo kết quả dự báo, dân số khoảng tuổi 15-59 vào năm 2004 sẽ là 51,496 triệu, năm 2009 là 57,575 triệu. Các số liệu trên đây cho thấy quy mô cung lao động của nước ta hiện tại và những năm tới vẫn đang còn rất lớn. Điều này sẽ làm tăng sức ép lên nền kinh tế- xã hội nước ta, bởi vì cầu lao động ở nước ta đang còn hẹp về số lượng và yếu về chất lượng. Mặc dù đã phát triển tương đối nhanh chóng trong thời gian vừa qua.
1.2. Cơ cấu, những đặc điểm chủ yếu.
Những đặc điểm quan trọng chủ yếu của cung lao động, được phân tích dưới đây, là tuổi và giới tính, phân bố theo vùng lãnh thổ thành thị hay nông thôn, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, và một số đặc điểm liên quan đến chất lượng lao động. Trước hết là cơ cấu nhóm tuổi. Nhóm tuổi 15-19 là nhóm đầu tiên và nhóm 55-59 là nhóm cuối cùng của dân số trong độ tuổi lao động quy ước, ngoài ra trong lứa tuổi 15-24 là nhóm tuổi trong đó đa số thanh niên đang trong thời gian học tập tại các trường. Chúng ta có một số biểu sau:
Biểu 3: cơ cấu lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi 1996-2003
(đơn vị: %).
Nhóm tuổi
1996
2002
2003
Chung cả nước
100
100
100
15-24
25,95
25,95
24,72
25-34
29,83
29,83
29,93
35-44
24,30
24,30
25,57
45-54
11,39
11,39
12,37
55-59
3,90
3,90
3,48
Từ 60 tuổi trở lên
4,64
4,64
3,92
Lực lượng lao động nước ta nhìn chung là trẻ: LLLĐ ở nhóm tuổi 15 đến 24 năm 1996 chiếm 25,95% tổng LLLĐ, năm 2003 là 21,53%; LLLĐ ở nhóm tuổi 25 đến 34 năm 1996 chiếm 29,83% tổng LLLĐ, năm 2003 là 27,02%, LLLĐ ở nhóm tuổi 35-44 năm 1996 chiếm 24,30% tổng LLLĐ, năm 2003 là 27,83%. Từ lứa tuổi này trở đi lực lượng giảm đi nhiều, từ năm 1996 đến năm 2003 tỷ trọng của LLLĐ trẻ (15-34 tuổi) giảm xuống trong khi đó tỷ trọng của LLLĐ lớn tuổi (35-54 tuổi) lại tăng lên. Nếu so sánh số lao động giữa 2 nhóm tuổi 15-24 và 55-59 trong cùng một thời điểm chúng ta có thể thấy trung bình cứ một người ra khỏi tuổi lao động thì có mấy người bước vào độ tuổi lao động.
Một trong những đặc điểm của cung lao động được quan tâm là phân bố lao động giữa hai khu vực thành thị và nông thôn. Hiện nay, giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt rất lớn về cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển, điều kiện sống, đời sống văn hoá vật chất tinh thần của người dân, nó sẽ ảnh hưởng đến thị trường lao động và chất lượng lao động.
Biểu 4: lực lượng lao động phân theo khu vực
thành thị và nông thôn 1996-2003.
Năm
1996
2002
2003
Số lượng (triệu người)
Cả nước
35,187
40,717
41,313
Thành thị
7,160
9,704
10,015
Nông thôn
28,027
31,013
31,299
Cơ cấu (%)
Cả nước
100
100
100
Thành thị
20.35
23,83
24,24
Nông thôn
79,65
76,17
75,76
Tốc độ tăng (%)
Thành thị
5,62
3,20
Nông thôn
2,35
0,92
Năm 1996 LLLĐ của khu vực thành thị là 7,160 triệu người, chiếm 20,35% LLLĐ toàn quốc; năm 2003 là 10.015 triệu người, chiếm 24,24% LLLĐ cả nước. LLLĐ ở khu vực nông thôn năm 1996 là 28,027 triệu người, chiếm 79,65%; năm 2003 là 31,299 triệu người, chiếm 75,76% LLLĐ toàn quốc. Cơ cấu lực lượng lao động theo khu vực thành thị và nông thôn đang diễn ra theo xu hướng; tỷ lệ LLLĐ nông thôn giảm dần từ 79,65% xuống còn 75,76%, tỷ lệ LLLĐ ở khu vực thành thị tăng dần từ 20,35% lên 24,24% (biểu 4). Tốc độ tăng bình quân năm của LLLĐ khu vực thành thị từ năm 1996 đến năm 2003 là 4,93% và của khu vực nông thôn là 1,60%. Mặc dù tốc độ tăng của lực lượng lao động khu vực thành thị nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng LLLĐ khu vực nông thôn (tính riêng năm 2003 gấp 3,47 lần). Nhưng tính đến thời gian này, cơ cấu lao động vẫn chưa có sự thay đổi lớn giữa hai khu vực. LLLĐ ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ trọng lớn(gấp 3 lần) so với khu vực ở thành thị. Điều này có nghĩa là sức ép về việc làm cho lao động ở nông thôn đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Ta dễ dàng thấy được sự tăng lên dân số thành thị và sự giảm nhẹ tương đối dân số ở khu vực nông thôn là do sự di dân, và đô thị hoá.
Lực lượng lao động theo giới tính. Năm 1996, LLLĐ nam chiếm 49,43%, LLLĐ nữ chiếm 50,57% tổng LLLĐ cả nước; năm 2003 LLLĐ nam đã tăng lên 50,94%, còn nữ chiếm 49,06% tổng LLLĐ cả nước. Như vậy tỷ lệ LLLĐ nam tăng lên từ năm 1996 đến 2003 là 1,51% trong khi đó đối với nữ lại giảm. ta có thể thấy được là tỷ lệ LLLĐ nữ có xu hướng giảm , và giảm rất chậm, còn tỷ lệ lực lượng nam lai tăng lên, chiếm tỷ trọng lớn hơn so với nữ giới.(biểu 5). Giai đoạn 1996-2003, tỷ lệ LLLĐ nữ cả nước và ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn có xu hướng giảm dần, còn tỷ lệ này đối cới nam giới lại tăng dần.
Biểu 5: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo giới tính và khu vực thành thị, nông thôn 1996-2003.
(đơn vị: %).
1996
2003
Cả nước
Chung
100
100
Nam
49,43
50,94
Nữ
50,57
49,06
Thành thị
Chung
100
100
Nam
50,98
52,53
Nữ
49,02
47,47
Nôngthôn
Chung
100
100
Nam
49,04
50,44
Nữ
50,96
49,56
Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành chất lượng cung lao động. Qua các cuộc điều tra dân số loại cơ cấu này đã có sự thay đổi. Năm 1996 LLLĐ cả nước là 35,188 triệu người, trong đó số người không có CMKT là 31,317 triệu, chiếm 89,00% và số người có CMKT là 3,871 triệu người, chiếm 11,00%. đến năm 2003 LLLĐ cả nước tăng lên 41,313 triệu người, số người không có CMKT tăng lên 32,545 triệu, chiếm 78,85% và số người có CMKT tăng lên 8,768 triệu người, chiếm 21,15%(biểu 6).
Phân tích đầu tiên ta dễ ràng rút ra kết luận đó là trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ là tỷ lệ lao động không được đào tạo nghề rất cao: năm 1996 tỷ lệ LLLĐ không có CMKT là 89,00%, đến năm 2003 giảm xuống còn 78m85%. Như vậy tỷ lệ số người có trình độ CMKT tham gia LLLĐ năm 1996 là 11,00% đến năm 2003 tăng lên 21,15%
Biểu 6: Lực lượng lao động chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 1996-2003
(đơn vị: triệu người).
Năm
1996
2002
2003
Cả nước
35,187
40,717
41,313
Trong đó:
Không có CMKT
31,317
33,091
32,545
Có CMKT
3,871
7,626
8,768
Sự chuyển đổi cơ cấu LLLĐ theo hướng lao động có CMKT ngày càng tăng. Tuy nhiên, thực trạng trên cho thấy lao động nước ta đang còn trong tình trạng chất lượng thấp, đến nay tỷ lệ lao động có trình độ CMKT mới chỉ đạt xấp xỉ 21%; nếu tính riêng lao động có trình độ CMKT có bằng trở lên, tỷ lệ này chỉ đạt được ở mức 11,84%.
Chất lượng lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đât nước. Chất lượng của lực lượng lao động được hình thành thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Nước ta có lợi thế là trình độ học vấn của người lao động khá cao. Trong vài năm gần đây, nhà nước đã chú trọng đến việc tăng đầu tư cho giáo dục nên đã làm thay đổi cơ cấu trình độ văn hoá của người lao động.
Năm 1996, tỷ lệ người chưa biết chữ của LLLĐ cả nước chiếm 5,72% tổng LLLĐ, đến năm 2003 giảm còn 4,24%; tỷ lệ LLLĐ chưa tốt nghiệp tiểu học là 20,72%, đến năm 2003 tỷ lệ này giảm xuống còn 15,48%. (biểu 7).
Biểu 7: Cơ cấu lực lượng lao động lao động chia theo
trình độ văn hoá phổ thông 1996-2003.
(đơn vị:%).
1996
2002
2003
Cả nước
100
100
100
Trong đó
Không biết chữ
5,72
3,74
4,24
Chưa tốt nghiệp cấp I
20,72
15,80
15,48
Tốt nghiệp cấp I
27,70
31,71
31,51
Tốt nghiệp cấp II
32,08
30,46
30,40
Tốt nghiệp cấp III
13,78
18,29
18,37
Số người tốt nghiệp cấp I và cấp III đã tăng liên tục qua các năm, trong đó tăng nhanh nhất về quy mô lẫn tốc độ là nhóm người tốt nghiệp cấp III. Năm 1996, tỷ lệ tốt nghiệp cấp III cua LLLĐ là 13,78%; đến năm 2003 tăng lên 18,37%. Trong khi đó tỷ lệ tốt nghiệp cấp II của LLLĐ cả nước lại giảm nhẹ từ 32,08% năm 1996 xuống còn 30,40% năm 2003.
Chúng ta thấy trình trạng phổ cập giáo dục phổ thông ở nước ta tương đối cao nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động còn thấp, tức là hệ thống giáo dục phổ thông và đào tạo nghề nghiệp ở nước ta chưa tương thích với nhau. Chúng ta cần phải có điều chỉnh sự bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo, sao cho phù hợp với sự phát triển của mỗi vùng, lãnh thổ, và cả quốc gia.
2. Thực trạng và xu hướng thay đổi cầu lao động.
Cầu lao động được hiểu khái quát là số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm là trạng thái trong đó diễn ra các hoạt động mang lại thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm. Việc làm và thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải và thách thức với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Nước ta, là một nước nông nghiệp, đang trên con đường phát triển, vẫn còn nghèo, dân số đông, tốc độ tăng cao, nguồn lao động dồi dào, nhưng năng suất lao động thấp, cung lao động luôn lớn hơn cầu, bởi vậy trong nền kinh tế luôn trong tình trạng dư thừa một lực lượng lớn lao động, và tình trạng thiếu việc làm thường xuyên là phổ biến. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,42%, còn ở nông thôn tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chỉ có 76,58%. Đây là vấn đề cấp bách không chỉ ở trước mắt mà còn có nguy cơ kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội về lâu dài. Chúng ta cần tìm ra các giải pháp để giải quyết tình trạng này. Trước hết chúng ta phân tích hiện trạng và xu hướng thay đổi việc làm trong những năm gần đây.
Biểu 8: Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên
thời kỳ 1996-2002
(đơn vị: nghìn người).
Các tiêu chí
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số
33978
34352
34801
35679
36205
37677
39286
1.1. nông lâm ngư nghiệp
23431
22589
23018
22861
22670
22813
23835
1.2. Xây dựng, công nghiệp
3698
4170
4049
4435
4744
5428
5942
1.3. dịch vụ
6849
7593
7734
8382
8791
8426
9508
Nguồn: số liệu thống kê Lao động- Thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996-200.NXB Lao động- xã hội.HN2001.
Theo số liệu trên, chúng ta dễ nhận thấy rằng số người làm việc thường xuyên tăng lên liên tục trong thời kỳ 1996-2000, mỗi năm tăng trung bình 740 nghìn người, đặc biệt là năm 2002 so với năm 2001 tăng lên 1609 nghìn người. Ngoài các nguyên nhân như quy mô, cơ cấu dân số, nguồn lao động còn phải chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân, sự ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới và khu vực, sự ảnh hưởng của giá cả, đời sống, sự thay đổi cơ cấu kinh tế, sự tác động tích cực của các chính sách kinh tế nhà nước…
Xu hướng thay đổi như biểu trên phần nào phản ánh qua sự thay đổi cơ cấu việc làm theo hai nhóm tiêu chí phân loại. Số việc làm trong nông, lâm, ngư nghiệp trong thời kỳ này nói chung không thay đổi nhiều, có xu hướng giảm nhẹ, nhưng không đều. Đối với nhóm ngành xây dựng, công nghiệp xu hướng thay đổi là tích cực. Số việc làm đã tăng liên tục trong suốt thời kỳ. Đối với nhóm ngành dịch vụ, xu hướng thay đổi cũng tích cực tương tự, số tuyệt đối việc làm tăng liên tục. Mấy năm gần đây, cơ cấu lao động của nước ta có xu hướng giảm tỷ lệ ở khu vực nông- lâm- ngư nghiệp, tăng ở khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Điều này cũng phản ánh xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Đến năm 2003 lao động có việc làm khu vực thành thị là 9,534 triệu người chiếm 24,08% tổng số việc làm cả nước; lao động có việc làm ở nông thôn là 30,051 triệu người chiếm 75,92% tổng số việc làm cả nước.(biểu 9).
Biểu 9: lao động việc làm phân theo giới tính, thành thị nông thôn năm 2003.
Chung
Nam
Nữ
Số lượng (Triệu người)
Cả nước
39,858
20,237
19,348
Thành thị
9,534
5,041
4,492
Nông thôn
30,051
15,196
14,855
Cơ cấu (%)
Cả nước
100
51,12
48,88
Thành thị
24.08
52,88
47,12
Nông thôn
75,92
50,57
49,43
Tỷ lệ cơ cấu việc làm giữa khu vực thành thị và nông thôn cũng tương thích với tỷ lệ cơ cấu LLLĐ khu vực thành thị(24,24%) và khu vực nông thôn (75,76%). Số lao động nam có việc làm chiếm tỷ lệ lớn hơn so với lao động nữ ở cả thành thị và nông thôn.
Trong tổng số lao động có việc làm cả nước, lao động khu vực nhà nước có 2,973 triệu người năm 1996, tăng lên 4,103 triệu người năm 2003, với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,81%; khu vực ngoài nhà nước có 31 triệu người năm 1996 tăng len 34,952 triệu người vào năm 2003, với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 0,91%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vào năm 1996 là chưa có đến năm 2002 đã có 0,437 triệu người và năm 2003 tăng lên 0,530 triệu người, với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 20,18%.
Tỷ trọng việc làm trong khu vực Nhà nước luôn luôn lớn, từ 91,25% năm 1996 xuống còn 88,3% năm 2003; khu vực nhà nước chỉ chiếm khoảng 10% việc làm cả nước và việc làm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiểm tỷ trọng không đáng kể (biểu 10)
Biểu 10: Số lượng và cơ cấu lao động có việc làm chia theo thành phần kinh tế 1996-2003
1996
2002
2003
Số lượng (triệu người)
Cả nước
33,978
39,290
39,585
Nhà nước
2,973
3,995
4,103
Ngoài nhà nước
31,005
34,857
34,952
đầu tư nước ngoài
0,000
0,437
0,530
Cơ cấu (%)
Cả nước
100
100
100
Nhà nước
8,75
10,17
10,36
Ngoài nhà nước
91,25
88,72
88,30
Đầu tư nước ngoài
0,00
1,11
1,34
Nhìn chung xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Tỷ lệ lao động việc làm nhà nước chỉ tăng từ 8,75% năm 1996 lên 10,36% năm 2003. Trong khi đó tỷ lệ lao động ngoài nhà nước thì giảm từ 91,25% năm 1996 xuống còn 88,3% năm 2003. Và tỷ lệ lao động việc làm trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy còn thấp, song có mức tăng rất nhanh, dự báo trong vài năm tới sẽ có mức cao.
Thất nghiệp, một trong vấn đề nan giải của mọi quốc gia trên thế giới. Thất nghiệp bao gồm tất cả những người từ 15 tuổi trở lên trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm hoặc những người đang tạm thời nghỉ việc mà không có gắn bó với công việc, hoặc đang đi tìm việc. Năm 1996 cả nước có 692 nghìn người thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp chung là 1,97%; năm 2003 số người thất nghiệp tăng lên 940 nghìn người với tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,27%. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động cả nước nói chung thấp và có xu hướng tăng cả về số lượng và tỷ lệ trong vài năm tới.
Biểu 11: số lượng và tỷ lệ thất nghiệp phân theo khu vực thành thị, nông thôn năm 2002- 2003.
2002
2003
Số lượng (Người)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng (Người)
Tỷ lệ
(%)
Cả nước
858408
2,19
948919
2,25
Thành thị
569013
6,01
570581
5,60
Nông thôn
289395
0,98
378338
1,18
Qua biểu trên ta thấy rõ tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn rất thấp, điều này nó kéo cho tỷ lệ chung của cả nước rất nhiều. Năm 1996 tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 5,67% thay đổi liên tục qua các năm, năm 1998 tăng lên đến 6,585 đó là thời điểm cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính- tiền tệ châu á vào năm 1999. Đến năm 2003 tỷ lệ này giảm xuống còn 5,60%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2003 so với năm 1996 giảm 0,07% song số người thất nghiệp tăng thêm 177 nghìn người. đây là con số đáng lo ngại.
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị hiện nay đang là vấn đề khó khăn cho các cấp lãnh đạo cũng như các nhà hoạch định chính sách. Nước ta đang dần dần đô thị hoá, nền kinh tế chuyển biến, có nhiều công việc mới được tạo ra, nhưng cũng có nhiều người thất nghiệp vì nhiều lý do khác nhau. Nước ta là nước có dân số trẻ, lực lượng thuộc lứa tuổi thanh niên chiếm đa số, nhưng lực lượng này cũng có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất so với các nhóm tuổi khác. Nhóm tuổi từ 15- 24 tuổi, năm 1996 tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này là 10,53% tăng dần lên 19,38% vào năm 1998 và giảm xuống còn 14,14% năm 2003. (biểu 12).
Biểu 12: tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động khu vực thành thị chia theo nhóm tuổi.
1996
2002
2003
Số thất nghiệp (người)
393836
569013
570581
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
5,67
5,84
5,60
15-24
10,53
16,08
14,14
25-34
6,24
5,54
6,00
35-44
3,74
3,55
3,45
45-54
2,78
3,08
3,32
55-59
2,30
2,92
1,93
Từ 60 tuổi trở lên
1,83
0,87
0,56
Nhóm tuổi càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng giảm, điều này cho thấy sự ổn định và kinh nghiệm trong công việc càng có vai trò quan trọng đối với công việc.
II. Đánh giá chung cho lao động việc làm ở nước ta.
1. Vai trò của lao động nước ta trong sự phát triển kinh tế.
Chúng ta đang trên con đường hội nhập với thế giới, đang dần dần tự khẳng định mình, có có thể “ đứng ngang với các cường quốc năm châu”. Cùng với nhiều thuận lợi, sự phát triển của nước ta đang đứng trên nhiều thách thức mới. Nhân tố con người đang là vị trí trọng tâm để làm cho đất nước phát triển, kinh tế đi lên. Yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, bền vững và chuyển dịch mạnh cơ cấu theo hướng tiến bộ, năng suất cao, hiệu quả lớn đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, điều này đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao, mới có thể đáp ứng được.
Trong thời đại công nghệ mới, các cuộc cách mạng khoa học- công nghệ cùng với sự hình thành các nền kinh tế tri thức dựa trên công nghệ cao, hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản phẩm, các nguồn thông tin nhanh chóng đa dạng, phong phú và dễ tiếp cận đang đến với tất cả mọi người, điều này đã tác động lớn đến đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội, điều này đòi hỏi nguồn nhân lực phải năng động, nhanh chóng tiếp thu những công nghệ cao, nắm bắt những kiến thức mới, những tri thức có ích, thích nghi với cuộc sống đang thay đổi liên tục.
Nước ta đang trong tiến trình hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại đang thúc đẩy sự phát triển vượt bậc và triệt để về chất các yếu tố của lực lượng sản xuất. Một cuộc cách mạng quy mô lớn và toàn diện trong hệ thống lực lượng sản xuất đang được thực hiện với 3 nội dung cơ bản: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Chính cuộc cách mạng này đã tạo ra những điều kiện để thúc đẩy nhanh chóng quá trình toàn cầu hoá. Trong điều kiện hiện nay, khả năng cạnh tranh của mỗi nước ngày càng được xác định nhiều hơn bởi chất lượng các nguồn lực con người, tri thức khoa học – công nghệ. Tri thức có thể nói là lợi thế so sánh lâu dài. Vì vậy, cần nhấn mạnh rằng việc nước ta cần tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu (ASEAN – AFTA, APEC, WTO, …) đòi hỏi yếu tố không thể thiếu được la nguồn nhân lực của nước ta, và năng lực làm chủ công nghệ, tiếp cận nhanh chóng với công nghệ hiện đại. Vì vậy, nguồn nhân lực của chúng ta phải phát triển để xứng ngang tầm quốc tế nhằm đáp ứng những nhu cầu mới mà quốc tế yêu cầu, đồng thời cũng giữ gìn và phát huy được truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc ta.
Lực lượng lao động của chúng ta chính là nòng cốt để xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công bằng cho tất cả mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội. Nước ta vẫn đang trong thời kỳ cải cách nền kinh tế xã hội. Do vậy, nguồn nhân lực là vai trò chủ chốt trong công tác quản lý, điều hành, và thực hiện nó.
Bước vào thế kỷ của làn sóng kinh tế mới, nguồn nhân lực Việt Nam đã có bước tiến đáng kể trong so sánh với quốc tế. Điều này được thể hiện thông qua chỉ tiêu tổng hợp – chỉ số phát triển con người (HDI) đã tăng từ 0,58 (1985) lên 0,671 năm 1998 đạt thứ hạng 108/174 nước tham gia xếp hạng. tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ tăng từ 86,6% (1992-1993) lên 91,1% (1999) và đến nay chung ta đã phổ cập giáo dục tiểu học. Trình độ học vấn của dân số trong độ tuổi lao động đã tăng lên, tạo tiền đề cho đào tạo các ngành nghề chuyên môn kỹ thuật. Số người mù chữ đã giảm từ 8,4% (thành thị 3,7%, nông thôn 10,2%) năm 1989 xuống còn 3,58% (thành thị 1.07%, nông thôn 4,35%) năm 2001. Tỷ lệ biết chữ cao nhất ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ (99,23%), Bắc Trung Bộ 99,05%, các vùng khác như Tây Nguyên, ĐB Sông Cửu Long có tỷ lệ mù chữ cao hơn mức trung bình cả nước. Năm 2001 cả nước có trên 18 triệu người hoạt động kinh tế thường xuyên đã tốt nghiệp THCS trở lên. Tỷ lệ này đã tăng từ 41,8% (1989) lên 50,27% (2001). Tỷ lê người có trình độ tốt nghiệp PTTH trở lên chiếm 17,58% LLLĐ. Quy mô lao động đã qua đào tạo đã tăng lên với tốc độ cao 4,05%/năm thời kỳ 1980 – 1989 và 4,45%/năm thời kỳ 1990 – 200 . Năm 200 đã có gần 6 triệu người đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên, chiếm 15,52% tổng số LLLĐ. Năm 2001 con số nói trên là lần lượt là 6,73 triệu và 17,05%. Tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học/1000 dân đã tăng từ 11 người năm 1995 lên 14 người năm 2000. Năm 2002, lao động qua đào tạo la 8,02 triệu người.
2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Cơ cấu lao dộng còn lạc hậu, đang có xu hướng chuyển dịch tích cực nhưng còn chậm. Trước hết là cơ cấu tuổi. Như đã trình bày, tỷ trọng nguồn lao động của nước ta tăng lên, từ 50,39% năm 1979 đến 58,39%năm 1999 và sẽ còn tiếp tục tăng. Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật là một trong những yếu tố cấu thành nên chất lượng cung lao động. Cơ cấu này đã có những thay đổi đáng kể.
Chênh lệch về trình độ học vấn của LLLĐ giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các vùng còn khá lớn.
Tỷ lệ người có trình độ tốt nghiệp PTTH trở lên trong tổng LLLĐ ở thành thị cao gấp 3,33 lần ở nông thôn, còn trình độ tốt nghiệp CĐ, ĐH& trên ĐH là trên 7,5 lần. LLLĐ thuộc các vùng phía bắc có ưu thế về trình độ học vấn so với các vùng phía nam. Tỷ lệ người tốt nghiệp từ THCS trở lên cao nhất là vùng ĐB Sông Hồng (75,99%), Bắc Trung Bộ (69,33%), Đông Bắc (55,11%).
Đội ngũ nhân lực đã qua đào tạo mặc dù đã tăng liên tục, cao hơn tốc độ tăng NNL, nên tỷ trọng lao động đã qua đào tạo trong tổng LLLĐ trong độ tuổi đã tăng nhưng rất chậm từ 8%(1979) lên 10,4% (1989); 12,2% (1995); 15,51% (2000) và 17,05% (2001). Do đó lao động đã qua đào tạo là quá thấp chưa tương ứng với nhu cầu lao động kỹ thuật cho phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, số tăng lên chủ yếu do tăng số người đươcị đào tạo ngắn hạn (sơ cấp) còn những người có trình độ CNKT có bằng trở lên tăng không đáng kể từ 9,3% (1998) lên 11,73% (2000) và 11,76% (2001).
Cơ cấu trình độ đội ngũ lao động đã qua đào tạo hiện tại còn bất hợp lý và chậm phát triển. Cơ cấu lao động đã qua đào tạo nói chung (trình độ CĐ, ĐH trở lên/ THCN/ CNKT) thay đổi theo chiều hướng xấu và chậm được cải thiện từ 1/ 2,25/ 7,1 vào năm 1979 còn 1/ 1,24/ 2,35 năm 2000 và 1/0,98/2,7 năm 2001. Xét về mặt tổng thể, cơ cấu trên cho ta thấy chúng ta mắc phải tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta thiếu công nhân kỹ thuật và kỹ thuật viên, đó là những người trực tiếp chuyển giao công nghệ, kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. đặc biệt là khu vực sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp. Tuy nhiên, trong từng nhóm nghành thì mức độ mất cân đối không giống nhau.
Có sự khác biệt lớn về trình độ chuyên môn nghề nghiệp của lực lượng lao động giữa các vùng, các ngành kinh tế quốc dân và các cấp quản lý.
Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2001, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong LLLĐ cao nhất vùng Đông Nam Bộ (24,53%). ĐB Sông Hồng (22,18%) và thấp nhất là Tây Bắc (10,16%), ĐB Sông Cửu Long là vùng có LLLĐ lớn thứ 2 cả nước, gần bằng ĐB Sông Hồng nhưng tỷ lệ LĐ qua đào tạo chỉ bằng một nửa (0,67%). Lao động kỷ thuật tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn đó là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Ngành nông- lâm- ngư nghiệp với 62,76% tổng số lao động nhưng chỉ chiếm khoảng 10,5% tổng số lao động qua đào tạo. Số lao động qua đào tạo tập trung chủ yếu trong khu vực dịch vụ (50,4%), đặc biệy là ngành giáo dục và y tế, khu vực CN & XD là 39,13%. điều này dẫn tới sự khác nhau về tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong các ngành (CN & XD là 47,15%; dịch vụ là 38,37%; nông – lâm – ngư nghiệp chỉ có 2,9%).
đội ngũ các bộ quản lý nói chung còn có nhiều bất cập so với yêu cầu thực tiễn hiện nay, ảnh hưởng tới hiệu quả công tác quản lý cả tầm vĩ mô và vi mô. 70% đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế (QLKT) trong các cơ quan nhà nước tập trung ở nhóm tuổi 40-50 tuổi; phần lớn trưởng thành từ công tác chuyên môn (84 % tốt nghiệp CĐ, ĐH và trên ĐH) và đa số chưa được trang bị kiến thức về quản lý kinh tế phù hợp với cơ chế mới, quản lý hành chính nhà nước, số sử dụng thành thạo các công cụ hỗ trợ cho công tác chuyên môn còn ít. Cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh (77% có trình độ đại học) song, đa số thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh, kiến thức về pháp luật, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc làm ở nước ta còn thiếu nhiều, cơ cấu việclàm chuyển dịch chậm do nhu cầu lao động còn hạn chế so với cung lao động.
Tiền công lao động, thu nhập còn thấp, đang có xu hướng tăng lên, có sự khác biệt rõ rệt ở các khu vực, các thành phần kinh tế, các loại doanh nghiệp, ngành nghề và các nhóm dân cư.
Thể chế thị trường lao động đã và đang hoàn thiện, hệ thống chính sách đang được xây dựng tương đối toàn diện nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Nguyên nhân chủ yếu của sự yếu kém:
Công tác quản lý NNL nói chung, giáo dục - đào tạo nói riêng mà trước hết ở việc xây dựng, chỉ đạo chiến lược, qui hoạch, kế hoạc và chính sách phát triển NNL, trong đó giáo dục - đào tạo là một bộ phận quan trọng, còn có những bất cập. Hệ thống pháp qui về phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo còn thiếu, chưa hoàn chỉnh. Mặc dù vài năm gần đây dã có sự ngiên cứu sửa đổi, bổ sung, và xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực trong tổng thể phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Song cho tới nay, chúng chưa được ban hành chính thức và thống nhất cùng với chiến lược phát triển giáo dục 2001 -2010 trên cả nước để di vào thực tiễn cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước trong xu thế hội nhập và nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân.
Cơ chế quản lý nguồn nhân lực nói chung, giáo dục - đào tạo nói riêng còn chưa hợp lý. Buông lỏng chức năng quản lý nhà nước, thiên về chỉ đạo tác nghiệp, chưa có sự liên hệ phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan để thực hiện chức năng quản lý về NNL, chưa gắn nhu cầu đào tạo với nhu cầu sử dụng, dễ gây ra hiện tượng thừa thầy thiếu thợ.
Công tác quản lý trong nội bộ ngành giáo dục - đào tạo còn nhiều yếu kém và bất cập. Có nhiều hiện tượng mua bán văn bằng, tham ô hối lộ….
Chính sách, cơ chế đầu tư và sử dụng các nguồn lực tài chính cho đào tạo còn dàn trải, chưa hợp lý và đủ mạnh, thiếu sự thống nhất và phối howpj giữa các cấp. Biện pháp tổ chức thực hiện còn chưa tốt do đó chưa tạo nên được bước chuyển biến cơ bản, thiếu quy định cụ thể và khuyến khích các cơ sở sử dụng lao động thực hiện đào tạo…
Chất lượng đào tạo và hiệu quả thấp do cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, nội dung chương trình đào tạo vừa thiếu và thiếu thực tiễn, đặc biệt là khối kỹ thuật. Đội ngũ giáo viên còn thiếu và yếu về chất lượng, thiếu động lực cần thiết trong hoạt động nghề nghiệp. đào tạo chưa gằn với nhu cầu sử dụng dẫn đến lãng phí lớn.
Đó là một số lý do cơ bản dẫn đến sự yếu kém trong NNL của nước ta. Cong người, nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc đáp ứng nhu cầu nhân lực nhằm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội 2001 - 2010 đòi hỏi phải có sự đổi mới căn bản và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Để nguồn nhân lực nước ta có đủ khả năng đón nhận xu thế phát triển, thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước. Do đó chúng ta cần những biện pháp cụ thể.
Chương III: Giải pháp nâng cao vai trò
của lao động ở Việt Nam.
Nhiều mục tiêu cụ thể phát triển nguồn nhân lực cho 10 năm đầu của thế kỷ 21 đã được đề ra trong Chiến lược phát triển nền kinh tế xã hội thời kỳ 2001 - 2010. Những mục tiêu này phản ánh khá toàn diện các nội dung cơ bản nhất của phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đến năm 2010 về trí lực (bao gồm trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật…), về thể lực (nâng cao tầm vóc trung bình của thanh niên, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em…) và về giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá bản sắc dân tộc để đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Mặc dù vậy, trong bối cảnh mới và sự nhận thức mới, đúng đắn và toàn diện về sự phát triển nguồn nhân lực, do đó chúng ta cần có những biện pháp cụ thể rõ ràng để nâng cao vai trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Đó là những biện pháp sau:
1. Cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực, tầm vóc và thể trạng đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hoà giữa thể lực và trí lực con người Việt Nam. Mục tiêu cơ bản của nội dung này là nâng cao một cách liên tục, bền vững tầm vóc của người Việt Nam chúng ta, thể hiện bằng việc tăng cân nặng và chiều cao, cũng như sức bền lên ngang bằng với các nước trong khu vực Đông A, và dần dần tiến lên ngang bằng với thế giới. Thể trạng chúng ta phải không ngừng được nâng cao, để đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa chiều cao, trọng lượng cơ thể, và trạng thái sức khoẻ chung như là thể lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, độ khéo, …) điều này cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu học tập, lao động, sáng tạo, và các hoạt động bình thường khác của mỗi cá nhân.
2. Phát triển nâng cao trí lực, trình độ chuyên môn - kỹ thuật, năng lực sáng tạo, kỹ năng làm việc. Tiếp tục kế thừa và phát huy phẩm chất người Việt chúng ta, nâng cao năng lực và trí tuệ bằng học tập nghiên cứu. Nâng cao năng lực tự thích nghi với cuộc sống đang thay đổi. Cùng với thực hiện những kiến thức chung bằng cách thực hiện phổ cập trung học cơ sở trên phạm vi cả nước vào năm 2010, cần phải tạo ra những bước chuyển biến trong việc đào tạo có chất lượng trình độ học vấn, sao cho những kiến thức được trang bị cho người học có thể sự dụng thiết thực trong đời sống hàng ngày, những kiến thức này có thể hoà nhập với thế giới, tiếp thu nhanh chóng những tri thức mới của nhân loại trên thế giới. Cần phải xây dựng và phát huy được đội ngũ trí thức, các nhà quản lý mới, các nhà kinh doanh, doanh nghiệp có đầy đủ trình độ kiến thức và kỹ năng giỏi để có thể đưa đất nước ta hoà nhập với các nước trong khu vực trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, việc trang bị đầy đủ kiến thức để có thể sẵn sàng hoà nhập với thế giới chưa hẳn đã là đủ, chúng ta cần phải trang bị cả tư duy, chiến lược, tinh thần quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, nghèo nàn lạc hậu, dám mạo hiểm, tao ra một tính năng động cần cù và sáng tạo cao, sẵn sàng thích ứng với mọi biến đổi của tinh hình thế giới.
3. Giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và xoá đói giảm nghèo. Phương hướng chủ yếu tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động là phải có sự kết hợp giữa các cấp các trình độ công nghệ để không ngừng tăng năng suất lao động, liên tục đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều này sẽ làm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta, và từ đó giải quyết được nhiều việc làm.Lựa chọn công nghệ ngoại nhập thích hợp để đảm bảo việc làm cho người lao động. Lựa chọn công nghệ hiện đại để phát triển ngành kinh tế có ứng dụng công nghệ cao, các ngành mũi nhọn tạo ra giá trị cao sẽ là hết sức cần thiết để nâng cao năng suất lao động xã hội, khắc phục tụt hậu về khoa học công nghệ, từ đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, nhà nước cần phải sử dụng các chính sách tài chính, giá cả, tiền tệ, thuế, cơ chế pháp luật giám sát để tác động đến sự lựa chọn công nghệ của các ngành, doanh nghiệp.
Những nội dung xoá đói giảm nghèo được thay đổi, nhằm nâng cao chất lượng, vai trò nguồn nhân lực. Chủ yếu là hướng vào việc nâng cao chất lượng của các mục tiêu giảm nghèo và cải thiện đời sống, sử dụng mức chuẩn nghèo quốc tế đồng thời lồng ghép các mục tiêu phát triển của quôc gia, cũng như mục tiêu phát triển Thiên Niên Kỷ mà nước ta đã ký kết vào tháng 9- 2000. Những tiến bộ trong cơ cấu lao động, cùng với quá trình giảm nghèo sẽ góp phần đưa đời sống của nhân dân ta đi lên một mức.
4. Giáo dục những giá trị đạo đức, văn hoá bản sắc dân tộc, tăng cường tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần hợp tác, lương tâm nghề nghiệp, tính cộng đồng, lòng tin và trách nhiệm cua công dân. Trong điều kiện nay, nướcta với đặc điểm là nước nông nghiệp với nông dân chiếm phần lớn dân số, thì đây là nội dung không thể thiếu của việc phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Từ lâu chúng ta đã có những thói quen và phong cách làm việc, lối sống của những người làm nông, sản xuất nhỏ, điều này không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự năng động. Chúng ta phải giữ gìn phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, giúp nâng cao, và phát triển con người Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ và hội nhập, hợp tác quốc tế đòi hỏi chúng ta không chỉ giữ gìn và phát huy những truyền thống, giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta, mà cần phải tiếp thu một cách chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
5. Chúng ta cần có chính sách về ưu tiên, đãi ngộ cho các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi và những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng tay nghề cao. Trong đó, đặc biệt có chính sách ưu đãi về đất đai, nhà cửa, lương, thu nhập… Chúng ta phải đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ lao động có trình độ. Hoàn thiện chính sách kích thích phát triển khu công nghệ cao, ngành kinh tế mũi nhọn. ưu đãi về thuế, giảm thuế xuất, nhập khẩu đối với các sản phẩm công nghệ cao, ưu đãi đầu tư vào các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế mũi nhọn. đồng thời sử dụng chính sách tuyển dụng, đãi ngộ người lao động, có chính sách cụ thể thu hút người lao động có trình độ, nghiên cứu ban hành chính sách tiền lương áp dụng cho người lao động thuộc khu vực công nghệ cao. Có cơ chế giám sát hợp lý. Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực của cả nước đến năm 2010. Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước đã được phê duyệt để xây dựng hoàn chỉnh. Lồng ghép các chương trình có cùng mục tiêu, thực hiện sự quản lý thống nhất tập trung trong nghiên cứu và triển khai. Đổi mới chiến lược đầu tư cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của cả nước trong thời kỳ mới. Đổi mới đồng bộ và triệt để các cơ chế chính sách và thủ tục hành chính đã và đang hạn chế khả năng thu hút các dự án đầu tư. Xoá bỏ cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng, quản lý và sử dụng nhân tài không phù hợp với tính chất và hoạt động của loại đối tượng này trong điều kiện của nền kinh tế thị trường phát triển hướng ngoại. Cần phải có cơ chế đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác đào tạo, gắn trách nhiệm của người tham gia quá trình đào tạo, người sử dụng lao động đã qua đào tạo cũng như vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động đào tạo và bố trí sử dụng lao động đã qua đào tạo.
6. Các chính sách và giải pháp về quản lý việc phân bố, di chuyển và sử dụng nguồn nhân lực sao cho có hiệu quả. Như các chính sách và giải pháp nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi về kinh tế - xã hội. Tiến hành lập quy hoạch đô thị trong cả nước. Các chính sách nhằm khuyến khích phát triển ngành nghề phi nông nhgiệp ở nông thôn, tạo nguồn tài chính để hỗ trợ đào tạo, giải quyết việc làm và chuyển dich cơ cấu. Các chính sách giải pháp thúc đẩy thực hiện việc di dân, xây dựng kinh tế mới từ nội thành ra ngoại tỉnh và từ các khu đô thị tập trung đi ngoại tỉnh. Tăng cường quản lý công tác dân cư ở từng địa phương. Đi song song với biện pháp trên là các giải pháp và chính sách về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhânlực. Như các chính sách và giải pháp về đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho lao động. Mục đích là để cho người đang có việc làm tiếp tục được có việc, người chưa có việc làm thì thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động và tìm được việclàm thích hợp. Cần ưu tiên cho công tác dạy nghề, xã hội hoá dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, chính sách đào tạo và tái đào tạo nghề phổ thông, chính sách đào tạo đội ngũ lao động có tri thức và tay nghề cao, chính sách khuyến khích người học nghề và người đào tạo nghề.
Các giải pháp trên đây sẽ phần nào tăng cường vai trò của lao động nước ta trong sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Nội dung phát triển nguồn nhân lực và nâng cao vai trò của nguồn nhân lực rất rộng, nó mang tính liên ngành cao. Vì vậy, cần phải có các hệ thống các giải pháp phát triểnvà nâng cao vai trò của nguồn nhân lực. Cùng với các giải pháp mang tính chuyên ngành, cần phải có những giải pháp tổng hợp, liên ngành, mà mỗi ngành, lĩnh vực đều phải thực hiện. Đó là giải pháp đa dạng hoá các nguồn lực và huy động toàn xã hội để phát triển nguồn nhân lực, tăng cường mở rộng hợp tac quốc tế, và tăng cường vai trò của nhà nước trong việc nâng cao vai trò của nguồn nhân lực.
Kết luận
Nâng cao vai trò của lao động nước ta đã và đang là vấn đề bức xúc trong qua trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tế. Đảng và Nhà nước ta đang ngày càng quan tâm đến vấn đề này, và cũng đã khẳng định vai trò quyết định sự phát triển nền kinh tế xã hội và đặt nhiệm vụ xây dựng một thể chế xã hội chủ nghĩa là nguồn nhân lực trong nước. Nó là đầu vào của sự phát triển nhưng đồng thời cũng là đầu ra của sự phát triển, con người là vị trí trung tâm, là công cụ để phát triển kinh tế - xã hội. Những thay đổi trên thế giới gần đây buộc chúng ta phải lựa chọn sự đổi mới cho phù hợp với quy luật khách quan để tồn tại và phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người là nhân tố hàng đầu trong các nhân tố xã hội, hơn nữa nó lại có ý nghĩa quyết định sự vận động của lịch sử, của tiến bộ xã hội.
Trên cơ sở đổi mới và tiếp thu những lý luận về con người, đề án này đưa ra một số các luận điểm về vai trò của con người, và từ đó đề xuất ra các giải pháp nâng cao vai trò của con người để từ đó định hướng các chiến lược và giải pháp cơ bản để sử dụng và phát huy nhân tố con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên do nhận thức, và trình độ hiểu biết còn non kém, do đó không tránh khỏi sơ suất trong lý luận và các quan điểm cơ bản. Do vậy mong Cô hướng dẫn và chỉ ra những sai sót trong đề án. em chân thành cảm ơn Cô đã hướng dẫn tận tình trong lúc em thực hiện đề án.
Hà Nội, tháng11 năm 2004.
Sinh viên: Chu Tất Thịnh
Lớp: kinh tế phát triển 43B
Tài liệu tham khảo
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và cải thiện đời sống nhân dân thời kỳ 2001 - 2010. Ban khoa giáo TƯ, Hà Nội, Tháng 12 – 1999.
Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2002.NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
Lao động việc làm ở Việt Nam 1996 -2003. NXB Lao động - Xã hội. Hà Nội, 2004.
Giáo trình Kinh tế phát triển - ĐH KTQD.
Giáo trình Kinh tế – lao động - ĐH KTQD.
Chương trình giảng dạy kinh tế fulbirgt-
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35643.doc