Căn cứ vào thực trạng của tình hình phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua, những chủ trương, đường lối, chính sách nhất quán của Đảng về phát triển khu vực kinh tế tư nhân , ta thấy rõ được vai trò của khu vực kinh tế này trong xu thế phát triển nền kinh tế nói chung. Cho nên khu vực kinh tế tư nhân phải được hưởng những điều kiện của Đảng và Nhà nước, được đối xử bình đẳng từ phía các cơ quan công quyền và từ môi trường kinh doanh thông thoáng phù hợp với đường lối của Đảng cũng như xu thế của thời kỳ hội nhập, thời kỳ phát triển kinh tế đất nước là trọng tâm.
Để thực hiện được điều này, vấn đề đặt ra về phía Đảng và Nhà nước là cần phải không ngừng đổi mới và phải hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát huy mọi hiệu quả của nền kinh tế đặc biệt là trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân . Đó chỉ là sự hỗ trợ từ phía Đảng và Nhà nước, còn cái chính phải nói đến là sự nỗ lực vươn lên của mỗi bản thân doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân . Có như vậy mới phát huy hết tiềm năng và sức mạnh của một nguồn lực to lớn và quan trọng này để góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân và các vấn đề thực tiễn đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhìn chung đã tăng lớn qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác.
Tỷ trọng khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong toàn nền kinh tế không những không được cải thiện mà còn suy giảm nhẹ , chủ yếu do trong những năm cuối thập kỷ 90 , nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi vào hoạt động và làm thay đổi cơ cấu toàn bộ nền kinh tế .
Cơ cấu GDP (giá thực tế) phân theo thành phần kinh tế, %
2000
2001
2002
2003
Tổng
100
100
100
Kinh tế Nhà nước
38,53
38,4
38,31
38,22
Kinh tế tập thể
8,58
8,06
7,98
7,90
Kinh tế tư nhân
3,38
3,73
3,93
39,81**
Kinh tế cá thể
32,31
31,84
31,42
Kinh tế hỗn hợp*
3,92
4,22
4,45
Kinh tế có vốn ĐTNN
13,28
13,75
13,91
14,07
Chú thích: (*) Tương đương với khái niệm về kinh tế tư bản nhà nước; **: tổng của 3 khu vực kinh tế: tư nhân, cá thể, hỗn hợp.
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
* Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội,nộp ngân sách cho nhà nước.
Là một bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư nhân đã góp phần khai thác tổng thể các nguồn lực kinh tế quốc gia thông qua việc huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, đồng thời sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực, công nghệ. Với vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển, khu vực tư nhân đã huy động nguồn vốn tăng liên tục trong những năm qua.Theo ước tính, từ khi luật doanh nghiệp ra đời tính từ 2000 đến 7/2003, tổng vốn các doanh nghiệp đạt 145.000 tỷ đồng cao gấp 4 lần so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân 9 năm trước cộng lại. Cũng thời gian đó, tỷ trọng vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư tăng lên nhanh chóng từ 22.9% năm 2000 giảm 22.6% năm 2001, lên 25.3% năm 2002,lên 31.1% năm 2003 ,lên 37.7% năm 2004,lên38% năm 2005. Với bản tính nhạy cảm trong kinh doanh và mục đích doanh lợi, kinh tế tư nhân luôn tìm cơ hội đầu tư, do đó ngoài vốn tự tích luỹ, các chủ doanh nghiệp tư nhân tìm mọi biện pháp linh hoạt và hiệu quả để huy động vốn từ nhiều nguồn góp phần làm phong phú hoá thị trường tài chính và đầu tư. Với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng, kinh tế tư nhân đã thu được một kết quả đáng kể đóng góp vào ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế, khu vực kinh tế tư nhân đã nộp vào ngân sách năm 2000 là 11003 tỷ đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân sách, năm 2001 nộp 11075 tỷ đồng chiếm 14,8% tổng thu ngân sách. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân còn thực hiện nhiều chương trình như đóng góp cho quỹ chất độc màu da cam, quỹ người nghèo, ủng hộ cho việc xây dựng các công trình công cộng như cầu, đường, nhà tình nghĩa, trường học, trạm xá
*Khu vực kinh tế tư nhân tạo viêc làm,góp phần xoá đói giảm nghèo.
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của nền sản xuất. Vì vậy, việc giải quyết việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội mà luôn là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước. Một số thành công của đường lối đổi mới trong thời gian qua đang làm thay đổi nhận thức về thị trường lao động của nước ta. Trước hết đó là quan niệm sức lao động là hàng hoá cho nên hình thức thể hiện dưới dạng "hợp đồng lao động" và được pháp luật đảm bảo thông qua Bộ luật lao động và các cơ quan thực thi. Chính sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân đang làm thay đổi cách nghĩ thụ động về việc làm, việc làm không phải chỉ do Nhà nước tạo ra cho người lao động mà người lao động sẽ tự tạo việc làm, tự kiếm sống và làm giàu. Lao động trước đây chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm , ngư nghiệp nay dần dần chuyển sang các ngành nghề khác như công nghiệp, dịch vụ để từ đó hình thành cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành, các vùng theo hướng hiện đại, hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, để tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, có năng lực có phẩm chất. Do đó, phải có chính sách phù hợp để đào tạo và khuyến khích sử dụng lao động, tránh tình trạng thiếu lao động giỏi.Kinh tế tư nhân không chỉ góp phần giải quyết một lực lượng lớn lao động thất nghiệp mà còn làm tăng sự lựa chọn cho người lao động khi tham gia thị trường lao động. Những người chuẩn bị tham gia vào thị trường lao động việc làm sẽ lựa chọn lĩnh vực và thành phần kinh tế trên cơ sở cân nhắc các yêu cầu từ doanh nghiệp và khả năng của họ. Còn những người đang làm việc tại một cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ có điều kiện di chuyển, thay đổi nơi làm việc một cách tự do không bị ràng buộc bởi các cơ chế. Như vậy, tính cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn và chính sự cạnh tranh khiến cho chất lượng lao động được nâng cao.Đồng thời, do kinh tế tư nhân có điều kiện đổi mới công nghệ nhanh nên trình độ kỹ năng của người lao động nhanh chóng được nâng cao. Khu vực kinh tế tư nhân đã giải quyết việc làm cho 38639 nghìn lao động chiếm 89.13% lực lượng lao động xã hội. Nếu tính tỷ lệ thu hút lao động trên vốn đầu tư thì kinh tế cá thể thu hút 165 lao động/tỷ đồng vốn, doanh nghiệp tư nhân thu hút 20 lao động/tỷ đồng vốn, trong khi doanh nghiệp Nhà nước chỉ thu hút 11,5 lao động/tỷ đồng vốn. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn . Theo thực tế khảo sát, thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân thường có mức tương hoặc cao hơn thu nhập của lao động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2000 của Tổng cục Thống Kê , mức thu nhập trung bình 1tháng/ 1 lao động (1000 đ)của các doanh nghiệp nói chung là: 1041,1; DNNN là 1048,2; DNtư nhân là 651,1; Cty cổ phần là 993,0; Tập thể là 529,3; CtyTNHHlà 801,8; DN có vốn dầu tư nước ngoài là 1754,5.Mức thu nhập của khu vực kinh tế tư nhân tuy thấp hơn các DNNN nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể . Thu nhập trung bình của 1 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân cao gấp 2đến 3 lần so với mức lương cơ bản của Nhà nước quy định .
* Kinh tế tư nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiệu quả và hiện đại.
Một trong những nội dung quan trọng của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tiến bộ về khoa học và công nghệ nhằm nâng cao nội lực từng bước hội nhập bình đẳng với hệ thống kinh tế quốc tế. Trong quá trình đó có sự tham gia tích cực và có hiệu quả của kinh tế tư nhân bằng việc xác lập cơ cấu đầu tư cho phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong từng thời kỳ phát triển. Do ưu thế nổi trội của các doanh nghiệp tư nhân là năng động nhạy bén, linh hoạt trong đầu tư kinh doanh và nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường cho nên họ luôn tìm kiếm phát hiện ngành, lĩnh vực, mặt hàng mà xã hội đang thiếu để có thể đầu tư. Theo số liệu, kinh tế tư nhân chiếm đại bộ phận của ngành nông, lâm, ngư nghiệp như phân vùng chuyên canh, ứng dụng công nghệ sinh học, cơ giới hoá sản xuất, phát triển công nghiệp, chế biến nông sản, điện khí hoá nông thôn. Kinh tế tư nhân còn tham gia đầu tư vào các ngành khác như thương mại dịch vụ và cả trong công nghiệp như công nghiệp may, thực phẩm, sản phẩm từ cao su, da giày
*Kinh tế tư nhân góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện đại hoá sản xuất.
Với sự phát triển nhanh cả về quy mô và tốc độ của quá trình hội nhập quốc tế, các phạm trù giao dịch quốc tế ngày càng mở rộng như giao dịch hàng hoá, dịch vụ, thông tin, đầu tư, tài chính và Việt Nam đang mở rộng cửa hợp tác kinh doanh quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá, đa dạng hoá. Kinh tế tư nhân cũng góp phần đáng kể trong công cuộc ấy với việc tạo ra khối lượng lớn về hàng xuất khẩu ( nông, lâm, thủy, hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ), đồng thời mở rộng khả năng đầu tư và là đối tác thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, nhập về máy móc thiết bị công nghệ hiện đại để qua đó tận dụng và phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế trong nước. Việt Nam đang trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia ngày càng sâu rộng và đầy đủ vào các tổ chức kinh tế thế giới như: AFTA, APEC và WTO cho nên không thể thiếu được vai trò của khu vực kinh tế tư nhân . Với những thuận lợi vốn có như linh hoạt nhạy bén phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng, khu vực này đã mang lại một nguồn lợi lớn cho đất nước. Theo ước tính, năm 2001, khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp nhập khẩu trực tiếp 3,336 tỷ USD và xuất khẩu đạt 2,851 tỷ USD. Trong những năm vừa qua, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong quá trình hội nhập, kinh tế tư nhân đã liên doanh liên kết với nước ngoài hoặc làm môi giới với nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt để tạo điều kiện thu hút ngoại lực, tận dụng kinh nghiệm quản lý cũng như tiếp thu công nghệ mới cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Thực tế có nhiều Công ty của người Việt Nam ở nước ngoài đang muốn đầu tư về quê hương. Nếu Nhà nước có chính sách cởi mở về phát triển kinh tế tư nhân và tạo môi trường an toàn, tin cậy, hấp dẫn đối với họ thì đây là một nguồn lực không nhỏ (hiện nay mỗi năm tiền từ nước ngoài gửi về cho người thân ở Việt Nam khoảng 2,7 tỷ USD, phần lớn trong đó là cho đầu tư sản xuất kinh doanh).
Chương IIThực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
I. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Cùng với việc ban hành các luật, cơ chế chính sách với biện pháp hỗ trợ, khuyến khích, khu vực kinh tế tư nhân đã phát huy sức mạnh nội tại đầu tư vào nhiều lĩnh vực, địa bàn trên cả nước. Trong báo cáo tổng kết thực hiện luật Doanh nghiệp từ 2000 cho đến hết tháng 4/2004 cả nước có 93.208 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, gần gấp 2 lần số doanh nghiệp đựơc thành lập trong thời gian trước đó (trong 9 năm từ 1991 đến 1999 chỉ có 45000 doanh nghiệp đựơc thành lập). Như vậy cho đến nay cả nước có 138.208 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình hàng năm gấp 3,75 lần so với trung bình của những năm trước 2000.Đến nayđã có khoảng 170.000 doanh nghiệp và 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể ở đô thị.
1. Phát triển khu vực kinh tế nhân trong thời gian qua từ khi có chính sách đổi mới
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong 15 năm qua, kinh tế tư nhân tăng nhanh cả về số lượng và đơn vị, vốn kinh doanh và lao động, phát triển rộng khắp trong cả nước ở các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ năm 1990 về trước, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong cả nước chỉ có vài trăm doanh nghiệp được chuyển đổi từ các tổ hợp tác, từ các hợp tác xã. Riêng thành phố Hà Nội có khoảng 30 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ và sản xuất gia công những sản phẩm phục vụ tiêu dùng nhỏ lẻ trong dân cư và phục vụ các ngành sản xuất khác. ở thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm dân cư và kinh tế lớn ở phía Nam thì số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều hơn Hà Nội nhưng cũng không vượt quá con số 100. Còn ở nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước chỉ có một vài doanh nghiệp, thậm chí có những tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi không có doanh nghiệp tư nhân nào. Từ 1991 - 1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng ký. Và từ 2000 đến 2004, tức là khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, thì có 73000doanh nghiệp đăng ký,tâng 3.75 lần với giai đoạn 1991-1999.Cho tới năm 2004 có khoảng 150000 doanh nghiệp hoạt động theo luât doanh nghiệp với tổng số vốn điều lệ là 182000 tỷ đồng
Xét về cơ cấu loại hình doanh nghiệp thì tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ 64% giai đoạn 1991 - 1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000 - 2004. Trong khi đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong 4 năm qua có khoảng 7.165 công ty Cổ phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 - 1999. Sự thay đổi về tỷ lệ loại hình doanh nghiệp mới thành lập cho thấy các nhà đầu tư trong nước đã nhận thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp nên có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng chính quy, minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế chính sách, có xu hướng đầu tư dài hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn. Theo Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003, doanh nghiệp tư nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp trong toàn quốc, đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm xã hội, 31% tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Số lượng hộ kinh doanh trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ tăng từ khoảng 0,84 triệu hộ năm 1990 lên 2,2 triệu hộ năm 1996 và khoảng gần 3 triệu hộ tính đến cuối năm 2004. Ngoài ra, cả nước còn có khoảng 130.000 trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, trong đó có khoảng 70.000 trang trại có diện tích đất trên 2 ha và doanh thu trên 100 triệu đồng/năm. Tính đến tháng 6/2003, tổng số doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh lên tới 12 vạn doanh nghiệp (chưa kể gần 2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Trong đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là 17%, xây dựng 14%, nông nghiệp 14%, trong lĩnh vực dịch vụ là 55% đã có gần 6.200 doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung khoảng 23000 tỷ đồng, tăng 31% so với vốn đăng ký bổ sung năm 2003. Mức vốn đăng ký trung bình một doanh nghiệp tăng nhanh từ 570 triệu đồng/1dn thời kỳ 1991 1999 lên 2,015 tỷ đồng năm 2004.
Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập mới và mở rộng quy mô doanh nghiệp tăng lên mạnh mẽ. Trong 4 năm, các doanh nghiệp đã đầu tư (gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.715 tỷ đồng (tương đương khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ): trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là gồm 3 tỷ USD, năm 2003 là khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5/2004 là khoảng 1,8 tỷ USD. Từ năm 2000 - 2003, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng: từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2001, lên 25,3% năm 2002 và khoảng 27% năm 2003 và khoảng 29% năm 2004. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tổng nguồn vốn đầu tư xã hội đã liên tục tăng và năm 2004 đã vượt lên hơn hẳn so với tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, khu vực này thường xuyên nằm trong tình trạng khó khăn về vốn, phần lớn các doanh nghiệp (90%) đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Số liệu năm 2003 cho thấy, bình quân vốn của một hội phi nông nghiệp ít hơn 30 triệu đồng, của trang trại là 94 triệu đồng, của một doanh nghiệp phi nông nghiệp là 3,7 tỷ đồng. Trong khi đó, vốn vay từ các ngân hàng thương mại và quỹ hỗ trợ phát triển còn ít và chiếm tỷ trọng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Xét về quy mô doanh nghiệp thì thấy quy mô doanh nghiệp ngày càng lớn. Thời kỳ 1991 - 1999 vốn đăng ký kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3 tỷ đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng.
Xét về lao động thì thấy nước ta có lực lượng lao động dồi dào mỗi năm có khoảng 1,4 triệu - 1,5 triệu người tham gia thị trường lao động cho nên vấn đề giải quyết việc làm luôn luôn được đặt ra nhằm đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung. Thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là 21.017.326 người, chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong toàn xã hội (số liệu năm 2000). Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp, số lao động thuộc kinh tế tư nhân là 4.643.844 người năm 2000, tăng 20,12% so với năm 1996. Tính riêng trong 4 năm (1997 - 2000) khu vực kinh tế tư nhân thu hút thêm 997.000.000 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế Nhà nước và từ năm 2000 - 2003,khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra gần 2 triệu chỗ việc làm mới cho lao động. Từ khi có luật khuyến khích đầu tư trong nước đã thu hút và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đầu tư trung bình 70 triệu đến 100 triệu đồng là tạo ra được một chỗ làm việc, trong đó đối với doanh nghiệp Nhà nước thì số tương ứng là 210 - 280 triệu.
2. Các kết quả đạt được, các yếu kém cần khắc phục
2.1. Các thành tựu chủ yếu
* Khả năng huy động vốn và tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tăng một cách đáng kể.
Theo số liệu ước tính, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 27% năm 2003. Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Số liệu đã chứng minh cho ta thấy tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh trong tổng đầu tư toàn xã hội tương ứng là 2000 là 19,5%/ 18,25% năm 2001 là 23,5%/19,3%; năm 2002 là 25,9%/16,87% năm 2003 là 26,73%/17,74%. Vốn đầu tư của doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương.Ước tính cứ đầu tư vào cùng một lĩnh vực thì khu vực kinh tế tư nhân sử dụng vốn ít hơn khu vực kinh tế Nhà nước 0,1 lần nhưng lại sử dụng lao động xã hội nhiều hơn khu vực kinh tế Nhà nước là 1,25 lần.
Chính sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong xã hội nỗ lực đầu tư, năng động trong việc khai thác mọi nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu cho mình và đóng góp cho xã hội. Ngoài việc khuyến khích đầu tư vốn của tư nhân vào kinh doanh thì sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân còn giải quyết một số lượng lớn việc làm cho người lao động. Việc tạo thêm công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế, mà còn giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề ổn định và phát triển của nước ta hiện nay. Nước ta hàng năm có khoảng 1,2 triệu - 1,4 triệu người đến tuổi lao động trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp khá cao khoảng dưới 7% là một thách thức không nhỏ của Nhà nước trong việc giải quyết đủ công ăn việc làm cho người lao động để họ có thể ổn định cuộc sống.Theo Bà Phạm Chi Lan, cố vấn Ban Nghiên cứu của Chính phủ, khu vực tư nhân đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam với 49% GDP, 27% tổng đầu tư và 27% công nghiệp sản xuất. Khu vực tư nhân đó tạo ra rất nhiều việc làm và những cơ hội mới; giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển nhiều công nghiệp chế tạo và ngành nghề mới
Khu vực kinh tế tư nhân chiểm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 9,7% của khu vực Nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động), thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9%, cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này cũng đã chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
*Kinh tế tư nhân đóng góp vào nguồn thu ngân sách và thúc đẩy nên kinh tế tăng trưởng.
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào ngân sách Nhà nước đang có xu hướng tăng lên từ khoảng 6,4% năm 2001 lên 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,2% và 6%; của doanh nghiệp Nhà nước là 21,6% và 23,4%). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003: số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm khoảng 15% tổng số thu, tăng 29,5% so với cùng kỳ các năm trước.
Với cơ chế chính sách kinh tế khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến quy mô hoạt động, đã góp phần không nhỏ vào việc phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Doanh nghiệp tư nhân hiện nay đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa; 30% công nghiệp may mặc.Đến nay, doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2002, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000.
* Thúc đẩy việc hình thành các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị trường tạo sự cạnh tranh trong nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, trừ một số lĩnh vực ngành nghề mà Nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề khác kinh tế tư nhân đều tham gia. Thực tiễn cho thấy nhiều lĩnh vực mà kinh tế tư nhân không những phát triển mà còn chiếm ưu thế áp đảo như sản xuất lương thực thực phẩm, nuôi trồng thuỷ sản và với các mặt hàng như gạo, các chế phẩm từ nông nghiệp đã mang về hàng tỷ đô la cho nền kinh tế. Tuy nhiên đang đặt ra vấn đề cần xem xét là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong những ngành nghề mà khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn. Chính sự phát triển phong phú và đa dạng các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp Nhà nước buộc khu vực kinh tế Nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới, công nghệ và phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế làm cho nền kinh tế trở nên năng động, đồng thời tạo sức ép lớn buộc cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
* Tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, thực hiện dân chủ hoá kinh tế, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển đa dạng về hình thức sở hữu với các trình độ xã hội hoá về sở hữu, về quản lý và về phân phối tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở các ngành, các lĩnh vực sản xuất. Từ đó tạo ra khả năng huy động rộng rãi tiềm năng nguồn lực, động lực trong toàn xã hội để đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải làm giàu cho mình và cho đất nước khắc phục tình trạng trì trệ trong nền kinh tế tập trung, bao cấp trước đây. Các loại hình tổ chức của kinh tế tư nhân được tự do phát triển, Nhà nước còn tạo điều kiện và khuyến khích đầu tư sản xuất kinh doanh, được luật pháp bảo hộ và là biểu hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế trong xã hội ta. Cho nên, nó thúc đẩy và phát huy tính năng động, nhạy bén, cần cù sáng tao của quần chúng nhân dân trong lao động và sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Mặc khác, quá trình dân chủ hoá đời sống kinh tế được mở rộng nói trên sẽ tác động và đòi hỏi sự cải tiến về tổ chức, quản lý của Nhà nước theo hướng hiện đại, văn minh, tiến bộ, cũng như thúc đẩy, nâng cao đời sống văn hoá, dân trí và tinh thần trong toàn xã hội.
2.2.Nguyên nhân kinh tế tư nhân phát triển đạt kết quả tỉch cực thời gian vừa qua.
-Sự lãnh đạo của Đảng:
Đảng không ngừng đổi mới chủ trương,chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phận đã thúc đảy kinh tế tư nhân phất triển.
Chủ trương chính sách của đảng từng bước được thể chế hoá.
-Quản lý của nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân:
Xây dựng luật và văn bản pháp luật.
Tạo môi trường tâm lý thuận lợi, xoá bỏ phân biệt đối sử với kinh tế tư nhân.
-Nỗ lực,cố gắng của khu vưc kinh tế tu nhân
2.3. Những tồn tại yếu kém:
- Những năm vừa qua ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu phát triển theo bề rộng mà điển hình là tăng thêm số lượng doanh nghiệp.
Sự thay đổi quy mô và trình độ công nghệ không đáng kể thậm chí có xu hướng giảm xuống. Đa phần các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ nên khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, chống đỡ, vượt qua những biến động, rủi ro, bất chắc trong sản xuất kinh doanh bị hạn chế.Hầu hết các doanh nghiệp đều khởi sự hoàn toàn bằng vốn tự có của mình, có vay nhưng số tiền vaylà ít.Ngân hàng thì luôn trong tình trạng chờ doanh nghiệp đến vay vốn đầyđủ các điều kiện về tài sản thế chấp chứ không phải là tìm phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay. Mặt khác, bản thân doanh nghiệp cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn tiếp cận thông tin, thành lập doanh nghiệp dựa trên kinh nghiệm chứ chưa tính toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ. Đồng thời còn là tình trạng kế toán của Doanh nghiệp không minh bạch, báo cáo tài chính không đầy đủ, doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo tiền vay, rủi ro tín dụng lớn, gặp nhiều khó khăn trong việc hưởng tín dụng ưu đãi bởi vì không đủ hiểu biết về thủ tục vay và hoàn thiện hồ sơ vay.
- Máy móc thiết bị lạc hậu và nguồn nhân lực - còn nhiều hạn chế.
Phần lớn các cơ sở sản xuất thuộc khu vực kinh tế tư nhân đều sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ. Máy móc thiết bị phục vụ sản xuất đại đa số đều mua lại của các doanh nghiệp Nhà nước thanh lý, nhiều máy móc ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XX, như vậy sự lạc hậu có thể lên tới hàng trăm năm, chí ít cũng là năm, bảy chục năm. Phần lớn các hộ kinh doanh cá thể sử dụng phương thức sản xuất truyền thống với các công cụ thủ công và bán cơ khí. Đối với các doanh nghiệp tư nhân và các hợp tác xã đã sử dụng máy móc với tỷ lệ cơ khí hoá đạt 40,6%. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy trình độ công nghệ, chất lượng máy móc thiết bị ở nhiều cơ sở vẫn còn thấp kém không thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển.
Thêm vào đó, chất lượng nguồn nhân lực thấp. ở khu vực kinh tế này, số lao động không được đào tạo chiếm từ 55 - 75%. Với số lao động không được đào tạo chiếm quá nửa nên cũng gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận với khoa học và công nghệ mới,cũng như giảm năng suất lao động và hiệu suất công việc. Số liệu thông kê, cótới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấpvà phổ thông các cấp.Cụ thể,số người là tiến sĩ chỉ chiếm 66%;thác sĩ 2,33%;đố tốt nghiệp đại học 37,82%;tốt nghiệp cao đăng 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Với cơ cấu cán bộ quản lý như vậy, tuyệt đại bộ phận doanh nghiệp tư nhân không có tầm nhìn dài hạn trong kinh doanh, sự kém hiểu biết về pháp luật, sự chi phối của thị trường dẫn đến phương pháp kinh doanh ngắn hạn, phi vụ trong kinh doanh là khó tránh khỏi. Đó là mặt hạn chế không dễ khắc phục một sớm, một chiều và điều này ảnh hưởng lớn đến kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân .
- Thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định.
Thêm nữa, chính sách tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp còn nhiều bất cập như thủ tục phiền hà. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà gắn liền với đất còn chậm nên nhiều khi làm mất cơ hội kinh doanh; cộng với sự phân biệt đối xử trong việc giao đất của Nhà nước cho các doanh nghiệp cũng như cho thuê đất với các cơ sở kinh tế tư nhân cũng gây bất lợi và thiệt thòi cho khu vực kinh tế tư nhân . Rất ít doanh nghiệp có được mặt bằng sản xuất ngay từ khi mới thành lập mà thường phải đi thuê hoặc tận dụng đất ở, chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh.
- Thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân .
Do ảnh hưởng từ nguồn lao động ít được đào tạo, công nghệ thiết bị lạc hậu nên sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh trên thị trường, cả thị trường tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đặc biệt là những sản phẩm cơ khí có yêu cầu độ chính xác cao. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này mua nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra trên thị trường địa phương chủ yếu dựa vào mạng lưới quan hệ cá nhânvà khả năng tiếp cận thị trường của hộ cá thể tiểu chủ. Vả lại, công tác xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu sản phẩm gặp nhiều hạn chế bởi quy mô nhỏ, sản lượng sản phẩm làm ra không nhiều, chi phí cho mỗi lần tham gia các cuộc triển lãm giới thiệu sản phẩm, thương hiệu cũng là lớn cho nên nhiều cơ sở sản xuất ra không có đủ khả năng kinh tế để tham gia mà đã bỏ lơ cơ hội quảng bá thương hiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng cũng như với những hợp đồng tiêu thụ.
- Sự phát triển của kinh tế tư nhân có tốc độ cao nhưng không đều.
Nó được thể hiện ở khía cạnh là giữa các vùng, địa phương, giữa các lĩnh vực hoạt động và các loại hình doanh nghiệp. ở các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng tập trung hàng ngàn doanh nghiệp tư nhân thì ở các vùng miền núi Trung Du và Tây Nguyên mỗi nơi chỉ có khoảng 500 - 700 doanh nghiệp. Lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ đã chiếm hơn một nửa trong tổng số doanh nghiệp tư nhân và 2/3 số doanh thu thuộc thành phần kinh tế này. Dù pháp luật có quy định quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế; song trên thực tế, kinh tế tư nhân vẫn bị hạn chế trong việc tiếp cận một số lĩnh vực hoạt động như xuất nhập khẩu, tài chính, ngân hàng.
- Những tồn tại từ chủ trương chính sách và từ cơ quan công quyền ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam.
Các nhà kinh tế tư nhân chưa yên tâm đầu tư và phát triển lâu dài vì có tình trạng sân chơi không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Dù chính sách chung là bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế, trong con mắt của các quan chức, công chức ở các cơ quan công quyền vẫn phân biệt đối xử với các doanh nghiệp dân doanh. Với cơ chế tiền kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật thì có quá nhiều điều kiện để kiểm tra và thanh tra doanh nghiệp. Có không ít cuộc kiểm tra, thanh tra trái pháp luật đã gây tổn hại đến sự phát triển của doanh nghiệp và làm giảm sút lòng tin của các doanh nghiệp vào các cơ quan Nhà nước. Đặc biệt là chính sách kinh tế không ổn định, các văn bản ban hành ra liên tục thay đổi và bổ sung, nội dung có xu hướng bảo vệ sự an toàn và mang lợi ích cục bộ của cơ quan ban hành, không xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, giá cả các dịch vụ công như điện, nước, cước phí viễn thông vào loại đắt trên thế giới ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều doanh nghiệp. Cải cách hành chính đang còn là vấn đề rất phức tạp. Nguyên nhân chính là nhận thức về nội dung cải cách hành chính của cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương còn rất khác nhau, nên thực hiện chưa được tốt gây khó khăn cho nhà đầu tư khi giải quyết các thủ tục liên quan đến quá trình đầu tư của họ.Đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật thông tin như hiện nay thì nguồn thông tin kịp thời, đúng lúc luôn là cơ sở quan trọng để các nhà kinh doanh thực hiện đầu tư. Nhưng trên thực tế, thông tin đến các doanh nghiệp là rất chậm và hoàn toàn không có những quy định từ Nhà nước trong việc cung cấp thông tin cho các giám đốc doanh nghiệp nhằm giúp họ biết lựa chọn và xử lý những thông tin có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đáng lưu tâm là thông tin quan trọng thiếu thường là thông tin về văn bản pháp luật mới ban hành, thông tin về thị trường, về kinh tế xã hội.
- Tình trạng không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm luật pháp của Nhà nước là biểu hiện chủ yếu của kinh tế tư nhân .
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng nguồn vốn vào sổ sách kế toán, việc tăng giảm vốn còn tuỳ tiện, khai báo doanh thu không đúng. Còn có trường hợp doanh nghiệp kinh doanh không đúng mặt hàng đã đăng ký, trong hoạt động kinh doanh vì chạy theo lợi nhuận nên đã sản xuất hàng giả, thành lập các công ty ma để trốn thuế. Với rất nhiều thủ đoạn tinh vi, một số doanh nghiệp tư nhân đã gây sự mất ổn định trong kinh doanh làm ảnh hưởng tới nền kinh tế nói chung, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và khách hàng nói riêng.
3. Nguyên nhân của yếu kém, hạn chế trên
Nguyên nhân sự yếu kém của doanh nghiệp thì có nhiều nhưng tập trung lại hình thành 3 nhóm nguyên nhân chính.
3.1. Vẫn có sự phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân
Một yếu tố không thể không nói tới là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn còn tâm lý dè dặt trong đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự lo ngại chính xuất phát từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Tư duy của thể chế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn tồn tại với nhiều bất cập đó là sự không công nhận kinh tế thị trường, không công nhận kinh tế tư nhân đã chi phối một số cán bộ lập cơ chế chính sách, luật pháp cũng như hoạt động thực tiễn của bộ máy Nhà nước. Điển hình cho ví dụ về sự đối xử không công bằng giữa các thành phần kinh tế là giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân có sự khác nhau về thủ tục vay vốn ở ngân hàng. Doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế hơn trong thủ tục cũng như điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, việc thuê đất dễ dàng, tiếp cận tín dụng ưu đãi của chính phủ dễ hơn.
3.2. Những nguyên nhân từ cơ chế chính sách
Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thiếu đồng bộ và nhất quán tạo ra sự bất hợp lý cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân .
- Về chính sách đất đai: Cho dù luật đất đai được ban hành từ rất sớm là từ năm 1993 nhưng việc triển khai các văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá luật còn chậm, gây nhiều băn khoăn trong thực hiện. Luật đã quy định tổng thể 5 quyền đối với những việc sử dụng các quyền đó như thế nào vẫn chưa được giải quyết rõ ràng trong các quy định gây nên tình trạng vô nguyên tắc "móc ngoặc", hối lộ trong các cơ quan và cán bộ quản lý.
- Về chính sách thuế: Chúng ta đã có cải tiến và đổi mới thể hiện ở việc áp dụng thuế giá trị gia tăng từ ngày 1/1/1999 nhưng nhìn chung, chính sách thuế còn phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, ưu đãi đầu tư nước ngoài hơn là đầu tư tư nhân trong nước. Chính đó là nguyên nhân làm giảm sút lòng tin của chủ đầu tư tư nhân, không kích thích lòng nhiệt tình của họ. Thêm nữa là việc ưu đãi thuế tràn lan và một số khoản thu chưa hợp lý, lý do ưu đãi chung chung như tạo động lực sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư và tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp; trong khi đó căn cứ chủ yếu nhất để thể hiện ưu đãi là luận chứng cơ cấu theo hướng ưu tiên ngành vùng lại bị bỏ qua. Vì thế, chưa định hướng phát triển kinh tế tư nhân trong cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh doanh phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Về chính sách tiền tệ và tín dụng: Theo phản ánh của nhiều địa phương, cho đến nay thủ tục, hồ sơ cấp tín dụng ưu đãi vẫn còn rườm rà phức tạp, quy trình xét cấp kéo dài do phải đi qua nhiều đầu mối, một số quy định về thủ tục không thiết thực đối với doanh nghiệp. Việc phải có tài sản thế chấp làm cho nhà đầu tư, đặc biệt là chủ doanh nghiệp khó tiếp cận đến nguồn tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển.
- Về chính sách thương mại và xuất khẩu: Tuy theo đuổi mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu nhưng chính sách thương mại chưa định hướng được cơ cấu xuất nhập khẩu có triển vọng lâu dài, chưa làm tốt chức năng đưa ra căn cứ thị trường để hoạch định chính sách phát triển. Một số doanh nghiệp tư nhân tuy không trực tiếp xuất khẩu nhưng có tham gia sản xuất hàng xuất khẩu vẫn chưa nhận được sự khuyến khích thoả đáng về tín dụng, thuế. Vấn đề bảo hộ thị trường nội địa mặc dù là nghiệp vụ có quan hệ đến sự sống của nền công nghiệp nội địa đang non yếu nhưng chúng ta chưa có hướng giải quyết tổng thể rõ ràng, chưa có giải pháp đồng bộ và hữu hiệu.
- Về cơ chế bộ máy thực thi chính sách: Công tác quản lý chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập, có trường hợp gây khó khăn, phiền hà cho các doanh nghiệp. Về phía Nhà nước do nhiều đầu mối quản lý nên xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý, các cơ quan quản lý ỷ vào nhau đưa ra những yêu cầu cần thậm chí trái ngược nhau. Còn các cán bộ quản lý thì lợi dụng để sách nhiễu các doanh nghiệp gây ra tình trạng hồi lộ và sâu xa hơn thì các doanh nghiệp phải thực hiện hành vi trốn thuế, buôn lậu để trả cho các khoản phí không phải là nhỏ ấy. Năng lực của một số cán bộ còn thấp kém, có phẩm chất đạo đức tồi đã tiếp tay cho các nhà doanh nghiệp tư nhân lợi dụng làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Về cơ cấu quản lý thì thiếu sự phối hợp giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong một kế hoạch phát triển có bài bản ở tầm chiến lược. Trong phát triển kinh tế của ngành hầu như không tính đến khu vực kinh tế tư nhân , hoạt động sản xuất kinh doanh và vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực chưa được xác định trong kế hoạch phát triển. Chức năng dẫn dắt khu vực kinh tế tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa của khu vực kinh tế nhà nước mờ nhạt, thậm chí còn có tình trạng doanh nghiệp Nhà nước chèn ép lấn át kinh tế tư nhân để dành nhiều thuận lợi cho mình.
3.3. Nguyên nhân thuộc về bản thân doanh nghiệp
Do các Doanh nghiệp lúc mới thành lập còn nhỏ, quy mô vốn ít và phải mất vài năm để đạt tới quy mô lao động từ vài chục đến vài trăm người cho nên tình trạng thiếu vốn là phổ biến, đồng thời còn vấp phải những khó khăn về thị trường, bí quyết sản xuất, kinh doanh gây cản trở cho doanh nghiệp tăng quy mô. Thêm nữa, đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành trong những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Khó khăn chính về nguồn nhân lực là thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Vì thái độ của xã hội còn chưa thật sự coi trọng khu vực tư nhân nên nhiều người có trình độ cao ngại làm việc cho khu vực này.
Chương IIICác giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới
-Tạo sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế:Một khi đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là tất yếu khách quan, lâu dài thì phải đặt các khu vực kinh tế Nhà nước, tư nhân, hỗn hợp có vị trí bình đẳng trước pháp luật. Sự bình đẳng đựơc thể hiện: phải hoạt động kinh doanh tuân theo luật pháp, trong kinh doanh là đơn vị kinh tế độc lập, cùng cạnh tranh với nhau trên thị trường và cùng chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Mọi sự ưu tiên dành lợi thế cho khu vực này, hạn chế gây trở ngại cho khu vực kia là trái với yêu cầu của các quy luật khách quan, rốt cuộc sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế. Theo quan điểm này, các chính sách đầu tư (vốn, đất đai) khuyến khích phát triển phải được thực hiện theo lĩnh vực, đối tượng đầu tư chứ không phải theo chủ thể đầu tư là ai (Nhà nước hay tư nhân, trong nước hay nước ngoài).
-Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế:
Trước đây, Nhà nước hầu hết tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân . Đó là thời kỳ bao cấp, tự cung, tự cấp, nền kinh tế sản xuất nhỏ, lẻ tẻ, đóng cửa. Nhưng khi thực hiện mở cửa kinh tế, Nhà nước không thể thực hiện bảo hộ hay chỉ đạo sản xuất như trước đây nữa vì môi trường kinh doanh mới có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hoá sản xuất ra phải chịu sự cạnh tranh. Lúc này, Nhà nước chỉ còn thực hiện lãnh đạo, điều hành ở tầm vĩ mô thông qua các cơ chế chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Kinh tế tư nhân đã, đang và sẽ phát triển với xu hướng liên tục mở rộng quy mô và nâng cao vai trò kinh tế tư nhân trong việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế xã hội chính trị quan trọng (thực hiện tiết kiệm đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; xu hướng hình thành nhiều triệu hộ kinh doanh và sớm xuất hiện một số doanh nghiệp tư nhân với quy mô lớn, sẽ phát triển nhiều Doanh nghiệp tư nhân kinh doanh trong nước và nước ngoài). Đặc biệt là xu hướng mang tính xã hội hoá xã hội chủ nghĩa là phát triển quan hệ liên doanh liên kết, là hợp tác giữa các thành phần và loại hình doanh nghiệp, phát triển hợp tác xã kiểu mới và doanh nghiệp cổ phần.
- Chính sách giáo dục và đào tạo: Cần có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý Nhà nước và người lao động. Các địa phương cần có chính sách trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng giáo dục, phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doang nghiệp.
-Phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ, chú trọng cung cấp thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin:
Trong những năm tới, Nhà nước cần tiếp tục huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng. Nên chóng có một khung pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của các hiệp hội tư nhân. Những hiệp hội này sẽ đóng vai trò nòng cốt trong việc phối hợp hoạt động và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó có thể thành lập được các trung tâm cung cấp thông tin của Nhà nước với giá cả có thể chấp nhận được.
- Chính sách tín dụng ngân hàng: Ngoài việc khuyến khích cho vay ưu đãi theo loại dự án đầu tư không kể dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào; đối với khu vực kinh tế tư nhân ,cần phải loại bỏ những hàng rào ngăn cản khu vực này tiếp cận với những loại hình tín dụng. Các điều tra gần đây cho thấy ngân hàng Nhà nước chỉ quy định mức lãi suất trần nhưng trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân vẫn bị phân biệt đối xử, phải vay với mức lãi suất cao hơn và tỷ lệ vay vốn thấp chiếm khoảng 2 - 5% tổng vốn mà ngân hàng cho các doanh nghiệp trong nước vay. Nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề thế chấp và thủ tục vay vốn còn phiền hà. Cho nên vấn đề đặt ra là phải xem xét lại các thủ tục vay ngân hàng đối với khu vực kinh tế tư nhân , nên có các chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho các Doanh nghiệp này.
Cần sớm ban hành cơ chế quản lý tài chính đối với Doanh nghiệp dân doanh, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với trình độ doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa chống thất thu thuế, vừa đảm bảo công tác quản lý Nhà nước với doanh nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp dân doanh sử dụng dịch vụ kiểm toán, thực hiện công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm. Khi thực hiện chính sách tài chính tín dụng cần bảo đảm cho kinh tế tư nhân được hưởng ưu đãi. Nhà nước hỗ trợ về cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường khuyến khích thành lập và tham gia qũy bảo hiểm, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Về chính sách tài trợ của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân:
Tài trợ của Nhà nước được thể hiện dưới nhiều dạng như: miễn giảm thuế, tín dụng ưu đãi, trợ giá bao tiêu. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước cần có biện pháp giúp đỡ kinh tế tư nhân khi nó gặp khó khăn tạm thời nhưng có hướng phát triển lâu dài. Trong trường hợp này, để ổn định và phát triển, Nhà nước có áp dụng chính sách bao tiêu sản phẩm với giá có lợi cho doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân .
-Chú trọng phát triển các ngành phù hợp với điều kiện đất nước:
Phát triển kinh tế tư nhân với một cơ cấu ngành hợp lý, ngành này bổ trợ cho ngành kia là một cách thức tạo lợi nhuận cao và bảo đảm cho các ngành có sự phát triển ổn định
Phát triển nhóm ngành thu hút nhiều lao động tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho đại bộ phận dân cư đang trong độ tuổi lao động, lợi dụng tiềm năng sẵn có ở các địa phương để khai thác một cách có kế hoạch giúp cho việc sản xuất dễ dàng.
Tăng cường hợp tác kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước để có thể hỗ trợ nhau, phối hợp hài hoà giữa những nguồn lực
- Chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở: Tiếp tục nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích việc sử dụng đất ở những vùng còn nhiều đất chưa đựơc sử dụng, đất trống, đồi núi trọc. Tăng cường công tác chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho nhân dân ,giải quyết tốt việc cho thuê đất để các doanh nghiệp phấn khởi đầu tư hình thành các cụm công nghiệp ở các huyện, cụm làng nghề và các làng nghề trong tỉnh. Kiên quyết xử lý những hiện tượng tiêu cực trong việc giao đất, cho thuê đất.
- Chính sách thuế và hải quan: Thuế nói chung không những là nguồn thu chủ yếu của ngân sách mà còn là công cụ quan trọng trong điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt chính sách thuế và chính sách hải quan còn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, thể hiện chính sách hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như khung thuế suất cao, chính sách thuế nặng về tận thu, nặng về chế tài áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế, chưa thể hiện quyền dân chủ công bằng và bình đẳng trước pháp luật giữa các cơ quan Nhà nước với công dân. Cho nên vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế trong việc giảm bớt những chồng chéo trong các luật thuế, giảm bớt các sắc thuế, trong thu thuế xuất nhập khẩu cần thay bảng giá tối thiểu bằng bảng thuế tuyệt đối. Cơ quan thuế và hải quan phải đồng hành cùng doanh nghiệp hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Không hình sự hoá các quan hệ giao dịch hành chính, kinh tế dân sự.
-Hoàn thiện môi trường pháp lý, quản lý:
Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý doanh nghiệp, đặc biệt tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ngành, quận, huyện trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp sau cấp phép hoạt động.Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo sự bình đẳng khi tiếp cận các nguồn lực và thi trường; khuyến khích và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền; bảo vệ môi trường, chống sản xuất hàng giả.Khuyến khích khu vực kinh tế phi chính thức(tổ chức sản xuất kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể) chuyển sang đăng ký hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp.
- Chính sách thị trường và xuất khẩu: Thị trường là điều kiện quan trọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá, tạo ra cả thời cơ và nguy cơ cho các doanh nghiệp. Do đó, một chính sách thị trường đúng đắn sẽ có tác động hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển đúng hướng. Để thực hiện được điều đó cần có một sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin về thị trường, bỏ hoàn toàn chế độ phân phối hạn ngạch, doanh nghiệp nào có khả năng tìm được bạn hàng thì đương nhiên được xuất với mức hạn ngạch của nước bạn hàng cho phép. Một vấn đế nữa là Nhà nước vẫn cần có chính sách bảo hộ thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong hỗ trợ xuất khẩu hiện nay cần cải tiến mạnh về thủ tục hải quan, quy định thời gian tối đa để hoàn thành một thương vụ xuất khẩu hàng qua hải quan, nếu vượt quá thời hạn thì phải có chế tài với các bộ phận hải quan có liên quan.
-Nhóm chính sách hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế tư nhân:
Tăng cường giáo dục chính trị phát huy tinh thần dân tộc của chủ doanh nghiệp tư nhân nhằm chủ động thu hút họ tham gia vào các hoạt động chính trị dưới nhiều hình thức tổ chức thích hợp. Để phát huy tính tích cực của chủ doanh nghiệp tư nhân cần thường xuyên giáo dục đường lối của Đảng để củng cố lòng tin cho họ về con đường phát triển đất nước; đồng thời tiếp nhận những nguyện vọng chính đáng của họ để điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách và cơ chế kinh tế cho phù hợp với hoạt động thực tiễn của kinh tế tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Mở rộng tính công khai dân chủ đối với chủ doanh nghiệp tư nhân về chính sách và cơ chế quản lý có liên quan nhằm bảo vệ tính nhất quán giữa chính sách và cơ chế đó với việc thực thi chúng.
Tóm lại kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế được đánh giá là năng động, sáng tạo đầy tiềm năng phải được phát triển mạnh mẽ, đó là nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong sự nghiệp CNH- HĐH. Vì vậy cần tiếp tục tháo gỡ những rào cản, mở rộng điều kiện kinh doanh, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ thích hợp thì chắc chắn mọi nguồn lực trong dân sẽ được khai thác và phát huy có hiệu quả.
kết luận
Căn cứ vào thực trạng của tình hình phát triển kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua, những chủ trương, đường lối, chính sách nhất quán của Đảng về phát triển khu vực kinh tế tư nhân , ta thấy rõ được vai trò của khu vực kinh tế này trong xu thế phát triển nền kinh tế nói chung. Cho nên khu vực kinh tế tư nhân phải được hưởng những điều kiện của Đảng và Nhà nước, được đối xử bình đẳng từ phía các cơ quan công quyền và từ môi trường kinh doanh thông thoáng phù hợp với đường lối của Đảng cũng như xu thế của thời kỳ hội nhập, thời kỳ phát triển kinh tế đất nước là trọng tâm.
Để thực hiện được điều này, vấn đề đặt ra về phía Đảng và Nhà nước là cần phải không ngừng đổi mới và phải hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát huy mọi hiệu quả của nền kinh tế đặc biệt là trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân . Đó chỉ là sự hỗ trợ từ phía Đảng và Nhà nước, còn cái chính phải nói đến là sự nỗ lực vươn lên của mỗi bản thân doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân . Có như vậy mới phát huy hết tiềm năng và sức mạnh của một nguồn lực to lớn và quan trọng này để góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Tài liệu tham khảo
1)Sỏch : -phỏt triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam,lớ luận và thực tiễn
-văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX(nxb CTQG-HN 2001)
-giỏo trỡnh kinh tế chớnh trị Mỏc-Lờnin
2)Bỏo: -Thương mại
-Đầu tư
-Kinh tế và đụ thị
3)Tạp chớ: -Tạp chớ phỏt triển đụ thị
4)Website: -www.gso.vn
-www.mpi.gov.vn
-www.moi.gov.vn
-www.ciem.org.vn
-www.cpv.org.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11270.doc