Đề án Vai trò của Tiểu thương trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay

Đề tài: Vai trò của Tiểu thương trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thế nào là tiểu thương 1.1. Khái niệm về tiểu thương 1.2. Các đặc điểm của doanh nghiệp vưa và nhỏ ở Việt Nam 2. Sự cần thiết khách quan phát triển vừa và nhỏ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Lợi thế và bất lợi của tiểu thương 2.2. Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của tiểu thương 2.3. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các tiểu thương 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của tiểu thương ở Việt Nam 3.1. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp 3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường kinh doanh và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước 4. Những nội dung và yêu cầu để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 4.1. Những nội dung cơ bản để phát triển tiểu thương ở VN hiện nay 4.2. Những yêu cầu đảm bảo cho sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả các tiểu thương ở nước ta PHẦN II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Đánh giá chung về quá trình phát triển tiểu thương ở Việt Nam trong thời gian qua 2. Những đóng góp tích cực của tiểu thương 3. Thực trạng và những hạn chế, khó khăn của tiểu thương 4. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Xu thế phát triển tiểu thương ở Việt Nam trong thời gian tới 2. Một số biện pháp nhằm phát triển các tiểu thương ở Việt Nam 3. Một số kiến nghị để phát triển nhanh, mạnh và bền vững tiểu thương ở Việt Nam trong thời gian tới KẾT LUẬN (33 TRANG) 30-10-2010, 22:36 PHẦN I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. THẾ NÀO LÀ TIỂU THƯƠNG 1.1 Khái niệm về tiểu thương: Doanh nghiệp là các đơn vị sản xuất kinh doanh có đăng ký. Theo cách hiểu này thì khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay gồm các doanh nghiệp với các hình thức pháp lý được đăng ký là doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh đăng ký theo nghị định 66/HĐBT. Khu vực tiểu thương (DNV&N) là một bộ phận nằm trong khu vực doanh nghiệp nêu trên. Doanh nghiệp trực thuộc tổng công ty lớn không là DNV&N vì chúng phải tuân thủ sự chi phối của Tổng công ty mẹ. Một số nước quy định về tỷ lệ cổ phần tối đa do công ty lớn sở hữu đối với DNV&N, vượt quá mức độ, doanh nghiệp sẽ không được coi là vừa và nhỏ nữa. Việc định nghĩa khu vực DNV&N ở Việt Nam cũng cần xét đến những khía cạnh này. Yếu tố quan trọng nhất khi nói đến DNV&N là quy mô doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố thể hiện quy mô doanh nghiệp, thí dụ vốn hoặc lao động phản ánh quy mô đầu vào, doanh thu hay giá trị gia tăng thể hiện quy mô đầu ra của doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp là khái niệm tổng quát phản ánh mức độ và trình độ sử dụng các nguồn lực và khả năng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội. Có nhiều chỉ tiên khác nhau thể hiện quy mô doanh nghiệp và không một chỉ tiêu hay nhóm chỉ tiêu nào có thể phản ánh đầy đủ quy mô doanh nghiệp. Trên cơ sở những phân tích trên đây chúng ta đưa ra định nghĩa sau đây về DNV&N ở Việt Nam, trong Dđiều kiện hiện nay: DNV&N ở Việt Nam là các cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô theo một số tiêu chí thoả mãn quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Tiêu chí và trị số các tiêu chí xác định DNV&N ở Việt Nam. Trong thực tế, việc lựa chọn chỉ tiêu để đo lường quy mô doanh nghiệp thường nhằm đảm bảo tính đơn giản, thông dụng, dễ hiểu và khả thi về mặt thống kê. Với những yêu cầu đó thì ở Việt Nam, việc lựa chọn chỉ tiêu lao động và vốn kinh doanh ( như nhiều công trình nghiên cứu về DNV&N đề nghị) làm các chỉ tiêu xác định quy mô doanh nghiệp là có thể chấp nhận được trong điều kiện hiện nay. Sự lựa chọn này cũng phù hợp với thông lệ ở phần lớn các nước trên thế giới và trong khu vực trong việc xác định DNV&N. Ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng nhiều trị số khác nhau về lao động và về vốn để xác định DNV&N. Sau đây là một số thí dụ cụ thể: - Ngân hàng Công thương Việt Nam coi DNV&N là các doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng. - Liên Bộ Lao động và Tài chính coi doanh nghiệp nhỏ là có: + Lao động thường xuyên dưới 100 người. + Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng + Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng - Dự án VIE/US/95/004 Hỗ trợ DNV&N ở Việt Nam là doanh nghiệp có: + Lao động dưới 200 người + Vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD (tương đương khoảng 5 tỷ đồng Việt Nam) - Quỹ hỗ trợ DNV&N thuộc chương trình Việt Nam EU hỗ trợ các doanh nghiệp có số lao động từ 10-500 người và vốn điều lệ từ 50 ngàn đến 300 ngàn USD tức từ khoảng 600 triệu đến 3,8 tỷ đồng VN. - Quỹ phát triển nông thôn (thuộc Ngân hàng Nhà nước) coi DNV&N là các doanh nghiệp có: + Giá trị tài sản không quá 2 triệu USD + Lao động không quá 500 người. - Tiêu chí trên được sắp đặt cho phù hợp với các mục tiêu chính sách và các tiêu chí DNV&N sẽ biến động theo năng lực của nền kinh tế và theo nguyên tắc bảo vệ khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có xu hướng lớn mạnh.

docx38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của Tiểu thương trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÁCH QUAN PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1 Lợi thế và bất lợi của tiểu thương: Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ có những lợi thế sau: Gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Các DNV&N dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong sản xuất kinh doanh DNV&N chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít nhưng hiệu quả cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. DNV&N có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn. Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNV&N gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp. Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ – thợ) trong các DNV&N khá chặt chẽ. Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các DNV&N có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế – xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền. Bên cạnh những lợi thế quan trọng, DNV&N cũng có những bất lợi sau: Nguồn vốn tài chính hạn chế Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hậu. Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNV&N bị hạn chế rất nhiều Trình độ quản lý ở các DNV&N còn rất hạn chế. Các DNV&N có năng suất lao động và sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. 2.2 Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của DNV&N: Mặc dù có những bất lợi trên nhưng DNV&N có vị trí, vai trò và tác động kinh tế – xã hội rất lớn. Thứ nhất, các DNV&N có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, số lượng các DNV&N chiếm trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng các DNV&N nhanh hơn số lượng các doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam con số này cũng tương tự. Thứ hai, các DNV&N có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP ở mỗi nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì hiện nay khu vực DNV&N của cả nước chiếm khoảng 24% GDP Thứ ba, tác động kinh tế xã hội lớn nhất của các DNV&N là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động thì khu vực này vượt trội hơn hẳn các khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Ở hầu hết các nước, DNV&N tạo việc làm cho khoảng 50 – 80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì các DNV&N lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn các doanh nghiệp lớn. Thứ tư, các DNV&N góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường cho nên các DNV&N có vai trò to lớn góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Thứ năm, khu vực DNV&N thu hút được khá nhiều vốn ở trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán và yêu cầu về lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNV&N có vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi tầng lớp nhân dân để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thứ sáu, các DNV&N có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNV&N ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại – dịch vụ phát triển. Sự phát triển của các DNV&N ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNV&N còn góp phần làm thay đổi và đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp. Thứ bảy, các DNV&N còn góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi tập trung và thực hiện phương châm “Ly nông bất ly hương” Thứ tám, các DNV&N là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện các doanh nghiệp. 2.3 Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các tiểu thương Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn sản xuất hàng hoá giản đơn không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá vừa là người sở hữu các tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người quản lý công việc của mình, vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kỳ hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để đi làm việc được, đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Với một số vốn trong tay ít ỏi, với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ của riêng mình, tự sản xuất – kinh doanh. Trong sản xuất, kinh doanh có một số người gặp vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, khéo léo điều hành và tổ chức sắp xếp công việc, càn cù, chịu khó, tiết kiệm… đã thành đạt, ngày càng giàu lên, tích luỹ được nhiều của cải, tiền vốn, thường xuyên mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, đến một giai đoạn nào đó, lực lượng lao động gia đình không đảm đương hết các công việc, cần phải thuê người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hoá nhỏ khác, hoặc do không gặp vận may trong kinh doanh – sản xuất và đời sống, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ, không có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, không biết tính toán quản lý và điều hành công việc, hoặc thiếu cần cù chịu khó, nhưng lại hoang phí trong chi tiêu… đã dẫn đến thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất, đi làm thuê cho người khác. Những giai đoạn đầu, các ông chủ và những người thợ cùng trực tiếp lao động và những người thợ làm thuê thường là bà con họ hàng và láng giềng của ông chủ, về sau mở rộng ra đến những người hàng xóm và ở xa đến. Các học giả thường xếp những loại doanh nghiệp này vào phạm trù DNV&N . Trong quá trình sản xuất-kinh doanh, một số người thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình, bằng cách mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, và nhờ vậy nhu cầu về vốn sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn ngày càng tăng, nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất-kinh doanh đã thôi thúc các nhà doanh nghiệp, hoặc một số người cùng nhau góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần. Bằng các hình thức liên kết ngang, dọc hoặc hỗn hợp, nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn đã hình thành và phát triển. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, nhỏ tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lởn trưởng thành, phát triển từ các DNV&N và thông qua liên kết với các DNV&N. Quy luật đi từ nhỏ lên lớn là con đường tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hoá. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp nhiều loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên tính đa dạng, phong phú, linh hoạt, vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không thể không có các doanh nghiệp quy mô lớn, vốn nhiều, kỹ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng nghành, nhằm tạo ra sức mạnh để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây dựng những doanh nghiệp lớn thật cần thiết chúng ta còn phải thực hiện những biện pháp để tăng khả năng tích tụ và tập trung của các DNV&N, tạo điều kiện cho chúng ta có thể vươn lên trở thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp trong từng ngành, cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển các DNV&N là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với điều kiện xuất phát điểm về kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy, phát triển mạnh mẽ các DNV&N với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. 3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các DNV&N ở nước ta chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố, chúng ta có thể khái quát thành hai nhóm nhân tố cơ bản sau: 3.1 Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp: Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ tới hiệu quả hoạt động và sự phát triển của các DNV&N. Nhóm nhân tố này bao gồm: Vốn tài chính: Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu bẩo đảm tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Thiếu vốn, các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thiết bị, công nghệ: “Bộ ba” thị trường – vốn – công nghệ luôn là vấn đề cốt lõi của mọi donh nghiệp trong đó có DNV&N. Điều kiện thiết bị , công nghệ sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như vị thế của doanh nghiệp trên thị trường Nhà xưởng, mặt bằng sản xuất – kinh doanh và các kết cấu hạ tầng khác cũng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của DNV&N. Kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp là nhân tố quan trọng đưa doanh nghiệp ngày một phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt Trình độ tri thức và tay nghề của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp đó. Những người có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại làm ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt. Khả năng tiếp cận thông tin và hệ thống thông tin nhất là những thông tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp trong đó có DNV&N giúp các doanh nghiệp đó có những quyết định đúng đắn trong chiến lược sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. 3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường kinh doanh và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Nhóm nhân tố này bao gồm: Thị trường: đây là nhân tố mang tính tổng hợp nhất, là nhân tố hàng đầu tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp. Theo nghĩa đầy đủ thì thị trường bao gồm cả thị trường yếu tố đầu vào và thị trư ờng đầu ra Môi trường thể chế, Luật pháp và cơ chế chính sách tạo hành lang pháp lý và những điều kiện cần thiết duy trì và phát triển các DNV&N. Nhân tố này đặc biệt quan trọng trong điều kiện cơ chế thị trường còn nhiều bất cập, vướng mắc như ở nước ta hiện nay. 4.NHỮNG NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA&NHỎ Ở VIỆT NAM 4.1 Những nội dung cơ bản để phát triển DNV&N ở Việt Nam hiện nay: Đường lối đổi mới của Đảng ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã hội, dân chủ hoá đời sống kinh tế. DNV&N có tiềm tàng to lớn, tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và trong nhân dân, đang được khơi dậy và phát triển với những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất là phát triển DNV&N theo chiều rộng, có nghĩa là không ngừng mở rộng quy mô, tăng nhanh số lượng các DNV&N thông qua các hình thức sau: - Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển đồng bộ cân đối các loại hình DNV&N bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh tế cá thể sao cho các DNV&N chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng số các doanh nghiệp của cả nước. - Phát triển rộng rãi các DNV&N trong nhiều ngành kinh tế trong đó tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: Thương mại, dịch vụ sửa chữa, công nghiệp và xây dựng, vận tải và dịch vụ kho bãi.... Điều này có nghĩa là phát triển các DNV&N về mặt không gian lãnh thổ, việc phát triển các DNV&N không chỉ tập trung ở khu vực thành thị mà phải phát triển rộng khắp như một yếu tố phụ trợ cho các khu công nghiệp tập trung. DNV&N sẽ là cầu nối giữa công nghiệp với nông thôn, nông nghiệp, sản xuất và với hàng tiêu dùng theo xu hướng xã hội hoá, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Thứ hai, là phát triển DNV&N theo chiều sâu có nghĩa là không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu quả kinh tế xã hội của các DNV&N ở nước ta biểu hiện ở việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh, cải thiện vị thế của doanh nghiệp, đóng góp tích cực vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội. Muốn vậy ngoài nỗ lực của bản thân doanh nghiệp còn cần sự trợ giúp từ phía nhà nước và các cá nhân, tổ chức để nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào (thiết bị công nghệ, lao động, vốn....) sử dụng tối ưu các nguồn lực đó. 4.2 Những yêu cầu đảm bảo cho sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả các DNV&N ở nước ta: Để đảm bảo cho sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả các DNV&N ở nước ta, thực hiện tốt những nội dung trên thì cần phải đạt được những yêu cầu sau: - Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách,luật pháp của nhà nước, hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ phát triển, đồng thời cải thiện hệ thống tổ chức kiểm soát của nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các DNV&N tiến hành sản xuất kinh doanh không ngừng mở rộng qui mô và phát triển. - Nhanh chóng khắc phục những khó khăn đồng thời phát triển đồng bộ các loại thị trường đặc biệt là thị trường lao động, thị trường chứng khoán và thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. - Tăng cường việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, hoàn thiện hệ thống ngân hàng tín dụng đảm bảo đủ vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng của các DNV&N ở Việt Nam hiện nay. - Cần có sự cố gắng nỗ lực từ phía chính quyền nhà nước các cấp để cải thiện, nâng cao số lượng và chất lượng hệ thống thiết bị công nghệ, nhà xưởng, mặt bằng sản xuất kinh doanh và kết cấu hạ tầng khác. - Đẩy mạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực để phát triển sản xuất kinh doanh. - Tăng cường đẩy mạnh khả năng tiếp cận thông tin của các DNV&N ở nước ta, đảm bảo thông tin nhanh chóng, kịp thời chính xác và đầy đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. PHẦN II - THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA: Lịch sử ra đời của các DNV&N ở Việt Nam đã có từ rất lâu, chúngđược hình thành cùng với quá trình ra đời nghề thủ công và làng nghề truyền thống trong nông thôn. Trong thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, nghề thủ công truyền thống vẫn được tiếp tục tồn tại và phát triển. Dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật và cách kinh doanh tư bản chủ nghĩa, các DNV&N đã hình thành, bước đầu được cơ giới hoá, cho phép sản xuất hàng hoá phát triển, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các DNV&N vẫn phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bộ đội, nhân dân và phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ vang. Từ năm 1954 đến 1975, DNV&N ở hai miền có sự phát triển khác nhau. Sau ngày đất nước thống nhất, trong thời kỳ 1976 – 1985 các DNV&N đã được phát triển mạnh mẽ dưới nhiều hình thức (doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty hợp danh, hộ gia đình…) Tuy nhiên trong thời kỳ bao cấp này, phần lớn các doanh nghiệp lựa chọn quy mô lớn vì có nhiều ưu điểm nổi bật (được nhà nước ưu đãi) Cho tới 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau.chủ trương này tạo điều kiện phát triển sâu rộng các loại hình DNV&N. Từ 1988 đến nay nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chế độ, chính sách đối với các DNV&N. Nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa phương đã nghiên cứu về DNV&N và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế hỗ trơ tài chính và khoa học cho DNV&N ở nước ta. Theo số liệu thống kê của viện nghiên cứu quản lý TW, năm 1998 cả nước ta có 5970 doanh nghiệp nhà nước, 2607 doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài và gần 35.000 công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân, 5487 hợp tác xã kiểu mới và 2.000.000 hộ phi nông nghiệp kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT. Trong tổng số các cơ sở kinh doanh nói trên, kể cả số doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, khoảng 95% là DNV&N, chưa kể 110.000 trang trại gia đình kinh doanh nông lâm ngư nghiệp đều là quy mô nhỏ. Hiện nay, DNV&N ở Việt Nam có mặt hầu hết các ngành kinh tế, trong đó phần lớn tập trung ở ba lĩnh vực: thương mại, dịch vụ sửa chữa chiếm tỷ trọng lớn (46,2%); công nghiệp và xây dựng (18%); vận tải, dịch vụ kho bãi (10%). Riêng trong lĩnh vực công nghiệp có tới 37,3% số DNV&N hoạt động trong ngành chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Sự phân bố DNV&N tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long (55%) tổng số doanh nghiệp cả nước, Đồng Bằng Sông Hồng (18,1%), Duyên hải miền trung (10,1%). Hiện nay doanh nghiệp nhà nướcđang trong bước xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hóa, cho thuê và bán cho các thành phần khác, đồng thời thực hiện Nghị quyết lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII theo hướng phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, DNV&N sẽ có xu hướng và điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa. 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC CỦA TIỂU THƯƠNG Trong những năm qua, DNV&N đã có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển chung của đất nước. Thứ nhất, các doanh nghiệp này góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Theo số liệu thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì giá trị sản phẩm hàng hoá của DNV&N chiếm khoảng 24% GDP. DNV&N tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản phẩm hàng hoá của một số nghành nghề như xẻ gỗ, chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ. Do số lượng DNV&N tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xã hội, khả năng cạnh tranh của sản phẩm tăng lên, thị trường sôi động hơn. DNV&N còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn, thị trường đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc. Nhờ phát huy lợi thế của DNV&N nên trong thời gian qua, tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân trong đó chủ yếu là DNV&N đạt khá cao. Trong công nghiệp, giá trị sản lượng toàn ngành tăng lên 251% thì khu vực nhà nước tăng lên 282,4%, khu vực công nghiệp tập thể giảm xuống còn 12,59%, khu vực công nghiệp tư nhân tăng rất mạnh đạt 449,5%. Thứ hai, các doanh nghiệp này góp phần giải quyết những vấn đề xã hội, trước hết là tạo công ăn việc làm và thu nhập dân cư Hàng năm nước ta có khoảng trên 1 triệu người gia nhập lực lượng lao động. Theo số liệu tính toán thì có khoảng 6,6 triệu lao động làm việc trong các cơ sở phi nông nghiệp ngoài quốc doanh, chủ yếu là DNV&N, và có khoảng 1,2 triệu lao động làm việc trong các DNV&N thuộc khu vực nhà nước. Như vậy DNV&N dã thu hút 7,8 triệu người chiếm 25 – 26% lực lượng lao động cả nước(1995). Các doanh nghiệp này còn thu hút lao động bị loại của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên chỉ tiêu này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, ở đó DNV&N thu hút 50-60% lực lượng lao động xã hội. Lao động trong các DNV&N thường có thu nhập cao hơn nhiều so với thu nhập của lao động của nông nghiệp, thấp cũng khoảng 200-300 nghìn đồng/tháng. Đây là một giải pháp xoá đói giảm nghèo cơ bản thiết thực và có hiệu quả. Thứ ba, các doanh nghiệp này thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế DNV&N chủ yếu là thuộc khu vực tư nhân và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó sự phát triển của các DNV&N thực hiện chính sách kinh kế nhiều thành phần, vừa góp phần chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 1985 đến nay, cơ cấu ngành kinh tế (nông nghiệp , công nghiệp và dịch vụ) đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp, tăng giá trị sản lượng công nghiệp và dịch vụ. Điều quan trọng là nhiều DNV&N phát triển ở vùng nông thôn đã thu hút lao động nông nghiệp nông thôn sang hoạt động công nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp tại địa phương thực hiện “ly nông bất ly hương”. Thời gian qua các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang được sằp xếp, củng cố lại đảm bảo doanh nghiệp Nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt. Đây là điều kiện để DNV&N vừa tiếp tục phát triển vừa góp phần củng cố và nâng cao vi thế của doanh nghiệp Nhà nước. Những kết quả và đóng góp tích cực của DNV&N dã nêu trên có nhiều nguyên nhân. Trước hết là do chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, do tính tích cực sáng tạo nhậy bén của nhân dân. Bên cạnh đó các chủ doanh nghiệp có tâm huyết và biết cách làm ăn. Sự đóng góp tích cực còn do ưu thế của DNV&N mang lại. 3. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ: Các DNV&N ở nước ta đã và đang gặp khó khăn về nhiều mặt trong đó tập trung chủ yếu về những mặt sau: 3.1 Quan điểm và chủ trương chính sách: Trước đây, nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của các DNV&N chưa rõ ràng dẫn tới sự phát triển của các DNV&N còn mang tính tự phát, chưa có định hướng và hỗ trợ từ phía nhà nước. Tình hình đã thay đổi cùng với việc Chính phủ công nhận tầm quan trọng trong việc phát huy hết tiềm năng của các DNV&N tại Đại hội Đảng VIII và gần đây là công văn số 681/CP – KTN của Chính phủ đã đưa ra tiêu chí xác định DNV&N và giao Bộ Kế Hoạch và Đầu tư làm kế hoạch chủ trì phối hợp cùng với các Bộ, ngành, các địa phương tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNV&N. Đây là bước tiến lớn trong thực hiện chủ trương và kế hoạch của Đảng và Chính phủ về các DNV&N. 3.2 Vấn đề vốn và tín dụng: DNV&N gặp nhiều khó khăn về vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất, mức độ thiếu vốn không giống nhau. Thị trường cung ứng vốn cho DNV&N chủ yếu là thị trường tài chính không chính thức. Chủ doanh nghiệp thường phải vay với lãi suất cao, vay vốn của thân nhân, bạn bè mà ít được tiếp cận với vốn tín dụng chính thức của hệ thống ngân hàng. Theo kết quả điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, ở Hà Nội, Hải Phòng và Đồng Nai có 44,29% số doanh nghiệp và 68,57% số công ty trong tổng số được điều tra nêu khó khăn về vốn. Theo điều tra của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thì ở Miền Đông Nam Bộ có 69% số doanh nghiệp vừa và 47,9% số doanh nghiệp nhỏ trong tổng số được điều tra nêu khó khăn về vốn. Tình trạng thiếu vốn của DNV&N có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng chú ý là: Hệ thống tín dụng ngân hàng chưa tiếp cận với cầu tín dụng của các loại doanh nghiệp này vì nguồn vốn bị phân tán, chi phí cho vay lớn, khó đòi nợ, độ rủi ro cao. Nhiều DNV&N không có khả năng đáp ứng đòi hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp và điều kiện lãi xuất. Một số DNV&N không muốn vay vốn ngân hàng (vì như vậy khó trốn nghĩa vụ nộp thuế), nên thường vay của tư nhân. Trình độ kinh doanh yếu, rủi ro lớn nên khó tích tụ vốn và khó trả nợ ngân hàng. 3.3 Vấn đề đất đai: Đất đai cho các hoạt động của DNV&N còn thiếu. Các DNV&N gặp nhiều khó khăn trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc gặp khó khăn khi thuê đất làm trụ sở và nhà máy. Nguyên nhân là các thủ tục được cấp quyền sử dụng đất là không rõ ràng và thường không công nhận đối với các DNV&N. Đặc biệt trong trường hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhượng và cầm cố, quyền sử dụng đất để ký quỹ vẫn còn chưa được chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án đầu tư mới năm 1997 chỉ có 17 dự án thuộc khu vực tư nhân. Cũng do những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nên còn tồn tại một thị trườngđất đai đáng kể hoạt động không chính thức và bất hợp pháp. 3.4 Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ Trình độ trang thiết bị máy móc và công nghệ của DNV&N nói chung là yếu kém và lạc hậu. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị rất thấp, ngay tại Thành Phố Hồ Chí Minh – trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước cũng chỉ đạt 10% / năm tính theo vốn đầu tư. Qua khảo sát điều tra 20 DNV&N ở TPHCM cho thấy: Thiết bị có trình độ tiên tiến: 15% Thiết bị có trình độ trung bình 20% Thiết bị có trình độ lạc hậu 65% Nhiều DNV&N sử dụng thiết bị loại thải của doanh nghiệp nhà nước, thiết bị chế tạo trong nước hoặc tự thiết kế chế tạo với trình độ thiết kế và gia công thấp. Đáng chú ý là trang thiết bị và công nghệ của DNV&N phổ biến thiếu trang bị xử lý môi trường như tiếng ồn, chất thải rắn, chất thải lỏng, khí độc nên thường gây ô nhiễm môi trường xung quanh, gây hại tới sức khoẻ người lao động và nhân dân trong vùng. 3.5 Trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý: Lao động trong các DNV&N chủ yếu là lao động phổ thông ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy, chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Phần lớn các chủ DNV&N mới được thành lập gần đây chưa được đào tạo, trong đó 42,7% những người là chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (chủ DNV&N) là người đã từng là cán bộ, công nhân viên chức. Trên 60% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có độ tuổi trên 40; khoảng 48,4% không có bằng cấp chuyên môn; chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ từ cao đẳng trở lên. Khó khăn đối với đội ngũ quản lý DNV&N là trình độ và kỹ năng quản trị kinh doanh yếu, thiếu cơ bản và rất lúng túng trước sự biến động của thị trường. 3.6 Thị trường eo hẹp và khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá thấp: Với dân số khoảng 80 triệu dân, trong đó 80% dân số ở nông thôn có nhu cầu khiêm tốn về chất lượng hàng hoá và dịch vụ là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho DNV&N. Tuy nhiên thị trường rộng lớn của DNV&N đang bị thu hẹp lại do sức mua của nông dân quá thấp; do hàng hoá nhập lậu qua biên giới không thể nào kiểm soát, đã làm giảm thị phần của DNV&N; do khả năng cạnh tranh của hàng hoá của các doanh nghiệp này lại rất yếu, do công nghệ lạc hậu, trình độ tay nghề của người lao động và trình độ quản trị kinh doanh yếu. Khả năng tiêu thụ hàng trong nước đã khó, xuất khẩu lại càng khó, đặc biệt trước cơn khủng hoảng tài chính của các nước Châu Á đang lan ra cả thế giới và tác động vào Việt Nam. Qua số liệu điều tra ở Hà Nội, Hải Phòng và Đồng Nai thì có tới 26,4% số doanh nghiệp tư nhân và công ty tư nhân trong tổng số doanh nghiệp và 37,6% trong tổng số công ty tư nhân gặp khó khăn về thị trường. Còn ở miền Đông Nam Bộ, theo điều tra của Bộ Lao động – thương binh và xã hội thì có 44,4% số doanh nghiệp nhỏ và 29,2% số doanh nghiệp vừa gặp khó khăn và thiếu thị trường. Chính vì thế đầu tư kinh doanh công nghiệp có xu hướng giảm, còn đầu tư DNV&N có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực buôn bán, dịch vụ. …. 3.7 Tình hình công nợ: Một hiện tượng hiện nay là nhiều DNV&N bán hàng cho trả chậm rât nhiều nhưng khó thu hồi vốn. Tình trạng dây nợ nần “dây dưa” khó đòi và chiếm dụng vốn lẫn nhau lan rộng dây chuyền giữa các doanh nghiệp – giữa doanh nghiệp với các đại lý và tiêủ thương đang là một căn bệnh trầm kha, ngày càng nghiêm trọng. Các DNV&N ngày nay đang đứng trước nỗi lo âu: cần phải mở rộng hệ thống phân phối, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm; nhưng nợ phải thu ngày càng cao và nợ khó đòi ngày càng lớn theo. Theo một cuộc khảo sát về tình hình tài chính của 300 doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Cục Thuế TPHCM đã phát hiện nhiều con số ảo, có 250 doanh nghiệp báo cáo tình trạng tài chính là có số vốn điều lệ âm, thậm chí có doanh nghiệp trong số này âm hơn 30 lần mà vẫn hoạt động. Cũng theo Cục thuế TPHCM, qua đợt đăng ký tại các doanh nghiệp thì có đến 1170 doanh nghiệp không đến đăng ký thuộc diện chờ giải thể hay cố tình không kê khai, 750 doanh nghiệp được cấp giấy phép nhưng không rõ trụ sở ở đâu, còn hoạt động hay ngừng hoạt động (theo thời Báo Kinh tế Việt Nam, số 45 ngày 5-6-1999). 3.8 Hiệu quả kinh doanh và tốc độ tăng trưởng: Đây là kết quả tổng hợp của các tình trạng nêu trên. Hiệu quả kinh doanh của các DNV&N so với các doanh nghiệp nhà nước là rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 1995 cho thấy, doanh thu bình quân lao động trong năm của các doanh nghiệp nhà nước đạt 59,7 triệu đồng, tiền lãi 1,8 triệu đồng. Cũng trong doanh nghiệp nhà nước, nhưng đối với doanh nghiệp vừa, chỉ tiêu trên là 40,5 triệu đồng và 0,8 triệu đồng; doanh nghiệp nhỏ: 23 triệu đồng và 0,4 triệu đồng. Hiệu quả kinh doanh của DNV&N ngoài quốc doanh nhìn chung còn thấp hơn nữa, điều đó được chứng minh bằng tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực ngoài quốc doanh đạt khoảng 6,5% đến 7%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nước. 4. NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA TÌNH TRẠNG TRÊN: Sở dĩ các DNV&N có tình trạng như trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có 3 nhóm nguyên nhân chính: nhóm nguyên nhân thuộc bản thân doanh nghiệp; môi trường kinh doanh, thị trường và tác động quản lý của Nhà nước. Bản thân doanh nghiệp: do quy mô vừa và nhỏ nên vốn ít, công nghệ lạc hậu, tay nghề kém, quản lý kinh doanh hạn chế, thiếu thông tin, trong khi môi trường kinh doanh đặc biệt là thị trường thiếu lành mạnh và ổn định, quản lý nhà nước còn hạn chế dễ đưa các DNV&N gặp nhiều sai phạm như: + Trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng đăng ký. + Làm hàng giả, kém chất lượng. + Trốn thuế + Hoạt động phân tán, ngầm, ngoài sự kiểm soát của nhà nước - Môi trường kinh doanh: bao gồm thị trường còn sơ khai (đặc biệt thị trường chứng khoán và thị trường lao động), thiếu ổn định và lành mạnh; về môi trường thể chế, cả về luật pháp và cơ chế chính sách chưa thật thuận lợi cho DNV&N. Tác động quản lý của nhà nước: ngoài cơ chế chính sách và thể chế còn nhiều vướng mắc thì quản lý của nhà nước đối với DNV&N còn nhiều hạn chế: chưa có chiến lược rõ ràng và chính sách nhất quán đối với DNV&N, tệ quan liêu còn nặng, thủ tục nhiêu khê phiền hà, gây khó khăn cho việc thành lập và hoạt động của DNV&N. PHẦN III - MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 1. XU THẾ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI: Đường lối đổi mới của Đảng ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã hội, dân chủ hoá đời sống kinh tế. DNV&N có tiềm năng to lớn, tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và trong nhân dân, đang được khơi dậy và phát triển. Số lượng doanh nghiệp quốc doanh, mà phần lớn là các DNV&N, tăng lên nhanh chóng trong khi khu vực kinh tế tập thể và doanh nghiệp nhà nước đang được tổ chức sắp xếp lại theo xu hướng giảm về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Về cơ cấu theo loại hình kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước kém phát triển, năng xuất lao động và tích luỹ còn thấp, dân chưa có khả năng đầu tư lớn nên giải pháp thực tế là đầu tư nhỏ với diện rộng để có tích luỹ từ nội bộ dân cư, từ số lượng chuyển hoá thành chất lượng. Bên cạnh đó các doanh nghiệp lớn sở hữu nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, chúng ta có một hệ thống DNV&N rộng khắp. Với lợi thế vốn có, DNV&N sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà doanh nghiệp lớn khó có thể làm tốt được: lao động, việc làm, môi trường chi phí đầu tư thấp, phù hợp với khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp Trong tương lai, DNV&N sẽ phát triển rộng khắp như một yếu tố phụ trợ cho các khu công nghiệp tập trung. DNV&N sẽ là cầu nối giữa công nghiệp với nông thôn, nông nghiệp, sản xuất với tiêu dùng theo xu hướng xã hội hoá. Nền kinh tế cung một lúc sẽ phát triển theo hai hướng: vi hoá và tập đoàn hoá; hai xu hướng đó không biệt lập mà xâu chuỗi, hợp tác thành một hệ thống mà DNV&N là hạ tầng cơ sở trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Sự co dãn và chuyển động xen kẽ của các DNV&N và doanh nghiệp lớn là liệu pháp cả cho sự trì trệ và sự phát triển “quá nóng” của nền kinh tế. Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với mạng lưới rộng khắp và truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế – xã hội nông thôn. DNV&N là động lực quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển: hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển. Các làng nghề sẽ được hiện đại hoá. Không còn nghi ngờ gì nữa, tiềm năng và lợi thế của DNV&N là hết sức to lớn. Tuy vậy, nó cần được sự hỗ trợ bằng một số chủ trương, chính sách phù hợp của Nhà nước từ quan điểm, chiến lược, chính sách đến bộ máy vận hành. Thế giới và khu vực đã có những bài học quý mà chúng ta có thể lựa chọn. Đó là Nhà nước phải có chiến lược và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N; Chính phủ sẽ không làm thay nhưng tạo điều kiện và môi trường để phát huy sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp. Sự kết hợp nỗ lực từ ba phía: Chính phủ, cộng đồng và doanh nghiệp sẽ làm bật dậy nhiều tiềm năng mới để phát triển kinh tế – xã hội. Chủ trương phát huy nội lực chính là đánh giá vai trò của DNV&N, tạo điều kiện cho nó phát triển, đóng góp ngày càng nhiều vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC DNV&N Ở VIỆT NAM 2.1 Nhanh chóng thực hiện luật doanh nghiệp mới thay thế luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty năm 1990 nhằm hợp lý hoá hơn nữa các thủ tục thành lập và đăng ký đồng thời quy định các khả năng huy động vốn linh hoạt cho mục đích đầu tư sản xuất. Luật này phải thoả mãn các điều kiện như: hợp lý hoá và đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp và công ty; giúp các DNV&N một cách huy động hơn trong việc huy động vốn; quy định một cơ cấu vốn mền dẻo hơn, bảo vệ tốt hơn các cổ đông thiểu số, có quy tắc rõ ràng về trách nhiệm pháp lý của giám đốc và các giao dịch quan trọng của công ty như sát nhập và chuyển đổi hình thức công ty; quy định những điều khoản rõ ràng và toàn diện hơn đối với việc quản lý công ty nhằm cải thiện việc quản lý các công ty và kiểm soát tốt hơn những nhà quản lý của các cổ đông. Ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để tạo ra một cơ sở dữ liệu để tập trung thông tin các doanh nghiệp và công ty đã đăng ký và công khai các thông tin đó ra công chúng. Điều này cho phép các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác có được những thông tin cơ bản về bất kỳ doanh nghiệp nào có trên thị trường như tên, địa chỉ, hoạt động kinh doanh và hình thức pháp lý của doanh nghiệp đó. 2.2 Tiếp tục hoàn thiện chính sách tài chính – tín dụng và vốn Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, các DNV&N cần tài chính để tồn tại và phát triển. Bên cạnh vốn tự có, có hai nguồn tài chính cho các doanh nghiệp đó là tín dụng và vốn. Cần phải tạo ra một “Sân chơi bình đẳng” về tín dụng chung và dài hạn để tất cả người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau; sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật và những quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại, tạo điều kiện cho người cho vay thực hiện bắt buộc cầm cố và thế chấp; mở rộng khả năng tiếp cận của DNV&N tới vốn và các quỹ đầu tư. Mở rộng khả năng tiếp cận của DNV&N với vốn có thể theo hướng tạo ra một cơ cấu vốn mềm dẻo hơn; cho phép các DNV&N tiếp cận với vốn nước ngoài bằng cách cho phép các công ty bán một số cổ phiếu của họ cho các nhà đầu tư nước ngoài; khuyến khích và cho phép các DNV&N tham gia nhiều hơn vào các công ty liên doanh; xem xét thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng riêng biệt cho các DNV&N để trợ giúp các DNV&N đang gặp khó khăn đáp ứng được những yêu cầu về thế chấp để vay tín dụng từ các nguồn chính thức. 2.3 Tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai Đất đai và các công trình xây dựng là các yếu tố không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp bao gồm cả các DNV&N. Không có được quyền sử dụng, sở hữu hoặc thuê đất đai và các công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn và rõ ràng thì không có một doanh nghiệp nào có thể tiến hành kinh doanh hoặc sản xuất. Do đó việc xác định rõ ràng đối với đất đai và các công trình xây dựng và quyền thích đáng đối với đất đai trở thành một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy các DNV&N. Việc hoàn thiện có thể đi theo các hướng: Thống nhất và hiện đại hoá việc đăng ký đối vớiđất đai và các công trình xây dựng và hợp lý hoá các thủ tục đăng ký đất đai và các công trình xây dựng. Làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất đai và nhà cửa. Khuyến khích nhân dân đăng ký bằng cách loại bỏ những biện pháp tài chính nặng nề đối với việc đăng ký đất đai và các công trình xây dựng, tức là mức lệ phí và thuế vượt quá 25% mức giá trị tài sản. Quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng, thậm chí trong trường hợp những tài liệu cần thiết không có. 2.4 Về chính sách công nghệ Khuyến khích các hợp đồng thuê, thuê mua hoặc bán trả góp, tạo điều kiện cho các DNV&N có được máy móc, thiết bị mới hoặc cải tiến nâng cấp máy móc, thiết bị. Nhiều DNV&N không có khả năng mua máy móc mới đồng thời các doanh nghiệp đó lại khó có các khoản vay tín dụng từ ngân hàng. Hình thức thuê mua là một giải pháp cho vấn đề này khi một doanh nghiệp không mua máy móc, thiết bị mới hoặc tốt hơn dùng cho hoạt động kinh doanh của họ mà không phải thanh toán toàn bộ ngay từ khi mua hàng, thay vào đó, họ phải trả số tiền mua máy móc nhỏ hơn nhiều. Hiện nay vẫn tồn tại những trở ngại căn bản các DNV&N tiếp cận với công nghệ mới. Những biện pháp dưới đây có thể loại bỏ những trở ngại này và thúc đẩy cách tiếp cận tới công nghệ của các DNV&N ở Việt Nam: cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo hướng càng đơn giản càng tốt. Các thủ tục đăng ký kinh doanh hiệu quả và hợp lý sẽ cho phép nhiều doanh nghiệp hơn đặc biệt là các DNV&N gia nhập thị trường. Điều này sẽ tăng sự cạnh tranh, và đây là khả năng lớn nhất thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm cả các DNV&N ; tạo điều kiện cho các DNV&N có khả năng đầu tư cải tiến liên tục công nghệ; tạo điều kiện cho quỹ hỗ trợ để cung cấp thông tin và đào tạo cho những nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của DNV&N. Cùng với việc loại bỏ các trở ngại, cần theo sát các quỹ hỗ trợ cho phép các cơ quan có khả năng – như các tổ chức kinh doanh và các tổ chức giáo dục có chất lượng – cung cấp thông tin và đào tạo cho các DNV&N về công nghệ mới. Những thông tin và các dịch vụ đào tạo này có thể được tài trợ một phần từ quỹ hỗ trợ và một phần lệ phí do DNV&N trả. 2.5 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Để phát triển nguồn nhân lực trước hết cần đào tạo nguồn lao động. Tổ chức hệ thống dạy nghề hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Hệ thống dạy nghề cần được tổ chức phân cấp, theo cơ cấu ngành gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội theo lãnh thổ và phát huy tính xã hội hoá trong công tác đào tạo dạy nghề. Cơ quan trung ương quản lý chung về công tác dạy nghề chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các điạ phương nghiên cứu hoạch định, quy hoạch, kế hoạch trình Chính phủ về công tác dạy nghề cho các giai đoạn và những bước tiếp theo. Nội dung không chỉ hoạch định về quy mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường dạy nghề. Đồng thời với các trường các cơ sở do Nhà nước quản lý cần khuyến khích đầu tư cho các hình thức tổ chức dạy nghề đa dạng, phong phú khác do các địa phương, do dân tự tổ chức để đào tạo và truyền nghề kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu thiết thực, cấp bách đang đặt ra. Nhà nước cần tăng cường ưu tiên đầu tư cho công tác dậy nghề, tổ chức tốt khâu quản lý công tác dậy nghề. Mặt khác chúng ta cần có hình thức tổ chức mới về dậy nghề để đáp ứng được yêu cầu thực tế của phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn sắp tới. Song song với công tác đào tạo nguồn lao động, cần đào tạo chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp. Cần đa dạng hoá loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác nhau để phù hợp với nhu cầu học tập đa dạng của chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý, điều hành của các DNV&N. Để đáp ứng yêu cầu của đông đảo của chủ doanh nghiệp nước ta, cần xây dựng mới hệ thống đầo tạo bồi dưỡng bao gồm nhiều loại trình độ, thời gian khác nhau, phù hợp với yêu cầu đa dạng về học tập của các doanh nghiệp. Phương thức đào tạo có khác nhau, nhưng về mục đích hoạt động đào tạo này phải có sự thống nhất ở tầm vĩ mô. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ DNV&N phải đáp ứng yêu cầu trình độ, kỹ thuật quản lý sản xuất – kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt Nam. Chương trình, nội dung phải phù hợp vói quản lý – kinh doanh trong cơ chế thị trường, các lý thuyết đương đại. Cần xây dựng các khoa quản trị doanh nghiệp của các trường đại học kinh tế chính quy của Nhà nước, có chương trình chuẩn và đào tạo theo nhiều phương thức học không thường xuyên. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các trường đại học dân lập, các trung tâm dậy nghề làm nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng chủ DNV&N. Cần tăng cường quản lý Nhà nước, thực hiện việc quản lý thống nhất đối với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng chủ DNV&N. Tuy phương thức đào tạo đa dạng, nhưng chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải được quản lý thống nhất. 2.6 Thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ cho các DNV&N ở nước ta để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồng thời tiếp tục mở rộng khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế cho các DNV&N. Nghị định 57/CP ngày 31/7/1998 và Hiệp định thương mại Việt Mỹ mới được ký kết gần đây là một bước tiến quan trọng của Chính phủ mở ra thị trường xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong đó có các DNV&N ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề. 2.7 Tăng cường quản lý của nhà nước đối với sự phát triển của các DNV&N Để tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với sự phát triển của các DNV&N, trước hết, ban hành các văn bản chính sách và pháp luật thích hợp ở mức độ cao, hỗ trợ cho sự phát triển của các DNV&N. Các văn bản chính sách và pháp luật cấp cao phảI được ban hành có thể ở cấp chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ nhằm: có định nghĩa chính thức về các DNV&N để xây dựng và thay thế định nghĩa tạm thời trong công văn 681; khẳng định tầm quan trọng của sự phát triển các DNV&N đối với sự phát triển kinh tế của cả nước; hỗ trợ toàn diện cho sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh của các DNV&N; chỉ dẫn rõ ràng cho các quan chức chính phủ từ trung ương đến địa phương thực hiện chính sách này và hỗ trợ sự tăng trưởng phát triển nhanh chóng, bền vững của các DNV&N thông qua: đơn giản hoá và đẩy mạnh việc thành lập và đăng ký các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần mới theo hướng dẫn và tinh thần của Thông tư liên Bộ số 05 của Bộ Kế Hoạch và đầu tư và Bộ TàI Chính ngày 10/7/1998, cũng như các hộ kinh doanh mới theo Nghị định 66, khi phần lớn những đơn vị kinh doanh mới này chắc chắn sẽ là các DNV&N; thực hiện mọi cố gắng có thể để đảm bảo rằng các DNV&N nhận được sự bảo vệ công bằng trước pháp luật, được bảo đảm bởi hiến pháp và theo đó, các DNV&N bình đẳng khi tiếp cận với các nhân tố sản xuất đặc biệt là đất đai, những lợi ích của luật đầu tư trong nước mới, các cơ hội để tham gia vào các liên doanh đầu tư nước ngoài. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH, MẠNH VÀ BỀN VỮNG TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Loại bỏ yêu cầu phải xin cấp các mã thuế hoặc đẩy nhanh quá trình cấp các mã thuế. Nhanh chóng ban hành các mã số hải quan tạm thời khi doanh nghiệp trình giấy phép thành lập của mình trong khi chờ Bộ Tài chính cấp số mã thuế; Bộ Tài chính ban hành mã thuế tạm thời ngay sau khi nhận đơn xin đăng ký mã thuế, trên cơ sở đó người làm đơn có thể được cấp mã số hải quan; tạm thời chưa yêu cầu phải có mã số hải quan trong một thời gian nhất định(có thể là một năm) hoặc cho đến khi những người làm đơn hiện tại đã nhận được mã thuế và từ đó có thể có được mã số hải quan. Quy định về thời hạn cuối cùng để Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan cấp mã thuế và mã số hải quan cho các doanh nghiệp, tương tự như quy định hiện nay đang được áp dụng cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Sở liên quan khác trong việc đăng ký các doanh nghiệp và công ty mới, ví dụ như các mã số thuế và mã số hải quan sẽ được cấp không quá 15 ngày sau khi nộp đơn. Trong tương lai cũng cần phải nghiên cứu xem xét liệu việc cấp mã thuế có nên kết hợp với quá trình xin đăng ký kinh doanh các doanh nghiệp hay không. Hoàn thiện việc tiếp cận các thị trường thế giới bằng cách hạ thấp thuế quan xuống mức thuế quan của các nước trong khu vực. Cụ thể, cần hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với tất cả các thiết bị sản xuất, linh kiện và nguyên vật liệu. Đồng thời trong tương lai gần tiến tới loại bỏ các trường hợp giảm thuế để đơn giản hoá quản lý và chi phí hải quan. Giảm bớt số lượng các mức thuế và làm rõ hệ thống phân loại các mức thuế. Việc định giá của hải quan và các thủ tục khác phải được quy định đơn giản hơn, rõ ràng hơn và đồng bộ hơn trên mọi lĩnh vực. KẾT LUẬN Việc nghiên cứu các DNV&N, hình thành một hệ thống các chính sách thích hợp nhằm thúc đẩy phát triển các DNV&N là công việc liên quan đến nhiều ngành, nhiều kĩnh vực. Chính vì thế mà tính thực tiễn của nó càng cao trong điều kiện nước ta hiện nay. Việc tìm ra mô hình và các giải pháp phát triển DNV&N là cần thiết. Với sự cố gắng bản thân, sự tận tính hướng dẫn của thầy giáo Vũ Phán em đã hoàn thành đề án này. Trong phạm vi giới hạn về dung lượng của đề án em đã trình bày một cách khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển DNV&N ở Việt Nam, lấy đó làm căn cứ cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề trên đồng thời đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm phát triển DNV&N theo định hướng phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Mặc dù vấn đề phát triển DNV&N ở nước ta đã, đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thử thách song em hi vọng và tin rằng bằng sự nỗ lực từ phía bản thân doanh nghiệp cùng với sự trợ giúp củat nhà nước và các tổ chức quốc tế thì các DNV&N ở nước ta sẽ có được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân cũng như trên trường quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình: Kinh tế và Quản lý công nghiệp Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở VN đến năm 2005 – PGS,TS Nguyễn Cúc Đổi mới cơ chế quản lý DNV&N trong nền KTTT VN – Nguyễn Hữu Hải Chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở VN – Nguyễn Cúc, Hồ văn Vĩnh Tổ chức và điều hành doanh nghiệp nhỏ Quản lý điều hành doanh nghiệp nhỏ và vừa – Quốc Cường Vai trò của các DNV&N trong phát triển kinh tế Nhật Bản – khả năng hợp tác với Việt Nam – Lê văn Sang Tạp chí kinh tế và dự báo – Số 3/2000, số 4/2000 Tạp chí phát triển kinh tế – 4/2000 Tạp chí công nghiệp – 3/2000, số 23/2000 Tạp chí nghiên cứu lý luận – 1/1999 Tạp chí kinh tế và dự báo Tạp chí nghiên cứu kinh tế – 1/1999 Tạp chí thông tin lý luận – 3/2000 Tạp chí kinh tế phát triển MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU………………………………….…………… …. 1 PHẦN I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY…………………………………………….…… 2 1. THẾ NÀO LÀ TIỂU THƯƠNG…………………………………… 2 1.1 Khái niệm về tiểu thương: ……………………………….. 2 1.2 Các đặc điểm của doanh nghiệp vưa và nhỏ ở Việt Nam…………. ……4 2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY…………………………………. ….5 2.1 Lợi thế và bất lợi của tiểu thương…………………………5 2.2 Vai trò và tác động kinh tế - xã hội của tiểu thương………6 2.3 Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển các tiểu thương ………………………………………………..….7 3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM………………………………..9 3.1 Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp……………………. ……...9 3.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường kinh doanh và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước………………………………………………………… 10 4.NHỮNG NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM….. ………………………………………………….. ..10 4.1 Những nội dung cơ bản để phát triển tiểu thương ở VN hiện nay….……………………………………………………………………....10 4.2 Những yêu cầu đảm bảo cho sự phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả các tiểu thương ở nước ta……………………….11 PHẦN II - THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA..…………..13 1. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA……………………………………………..13 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC CỦA TIỂU THƯƠNG ……. 14 3. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN CỦA TIỂU THƯƠNG……………………………………………………………….. …………….16 4. NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA TÌNH TRẠNG TRÊN……………………. …..20 PHẦN III - MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI…………………………….. … 22 1. XU THẾ PHÁT TRIỂN TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI……………………………………………….……………………………. 22 2.MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM ……………………………………………………..…………………. 23 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN NHANH, MẠNH VÀ BỀN VỮNG TIỂU THƯƠNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ………. KẾT LUẬN ……………………………………………………………

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxkinh te chinh tri 08.docx
Tài liệu liên quan