Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống trường dạy nghề của nhà nước. Chương trình đào tạo tập trung chủ yếu vào những kiến thức chủ yếu cho việc phát triển làng nghề truyền thống với máy móc và công nghệ hiện đại. Phương pháp đào tạo cần kết hợp lý thuyết với thực hành, truyền thống với hiện đại phù hợp với đặc tính của từng nghề. Chính quyền địa phương có nhiều làng nghề cần phối hợp với trường dạy nghề đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở các làng nghề truyền thống. Kết hợp dạy chữ với dạy nghề ở các làng nghề để nâng cao trình độ văn hoá cho lao động làng nghề. ứng dụng rộng rãi tiến bộ KHKT và công nghệ đổi mới vào các trường dạy nghề và làng nghề. Để khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng CNH, HĐH nhất thiết phải đổi mới máy móc thiết bị và ứng dụng những tiến bộ KHKT và công nghệ mới vào sản xuất. Vì vậy, vai trò của đội ngũ lao động có trình độ cao về khoa học công nghệ trong các làng nghề, kể cả truyền thống mới có ý nghĩa quyết định. Bài học rút ra từ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động ở các làng nghề truyền thống là KHCN phải đi trước một bước trong quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống theo hướng CNH, HĐH. Giải pháp cho vấn đề này là lựa chọn đúng những máy móc, thiết bị mới và công nghệ tiên tiến phù hợp với yêu cầu sản xuất các sản phẩm của các làng nghề. Để làm được việc đó nhất thiết phải cải tiến nội dung và phương pháp đào tạo lao động trong các làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống.
38 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò lao động trong tăng trưởng và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tối thiểu nhất sự tái sản xuất sức lao động.
Doanh nghiệp muốn mở tộng quy mô sản xuất thì cần phải thuê thêm lao động. Xong phải dựa vào nguyên tắc.
DL = MPL = MC.
Tóm lại chi phí cho cầu lao động đó là khoản tiền doanh nghiệp phải bỏ ra để thuê lao động làm việc.
Lợi ích: Lao động tạo ra lợi ích tiềm năng. Nhờ có lao động doanh nghiệp thu lợi nhuận từ hoạt động sản xuất, lợi nhuận đó sẽ dùng trả tiền công, một phần dùng tái sản xuất và một phần mở rộng sản xuất để phát huy được lợi thế nhờ qui mô. Khi lực lượng lao động có việc làm, tăng thu nhập làm tăng trưởng kinh tế giảm nghèo dẫn đến tăng nhu cầu tiêu dùng.
1.2- Chất lượng lao động
Là nói đến thể lực và trí lực của người lao động.
Trình độ của lao động rất quan trọng nó liên quan trực tiếp đến năng suất của lao động. Ngày nay khi khoa học công nghệ phát triển thì việc đưa công nghệ mới, hiện đại vào dây chuyền sản xuất đòi hỏi người lao động cần phải có đủ trình độ thì mới vận hành được.
Trong giai đoạn hiện nay doanh nghiệp nào có bước tiến nhanh về đổi mới công nghệ thì càng chiếm được ưu thế và có thể cạnh tranh về giá thành và chất lượng sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.
Lao động thu nguồn ngoại tệ của nước ngoài tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế.
Sức khoẻ cho người lao động là vấn đề quan tâm hàng đầu vì khi người lao động có sức khoẻ tốt sẽ dẫn đến khả năng đáp ứng được với cường độ lao động cao đảm bảo được tiến độ sản xuất, tăng năng suất lao động. Vì vậy cần phải có chế độ khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động và có bảo hiểm y tế cho người lao động.
2 – Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế
Lao động là yếu tố đầu vào của sản xuất và cũng chính là yếu tố tạo nên tăng trưởng kinh tế . Đặc biệt đối với các nước đang phát triển do điều kiện về vốn và khoa học công nghệ bị hạn chế bên cạnh đó có một lực lượng lao động lớn, đây là tiềm năng mà các nước đang phát triển cần biết vận dụng và khai thác triệt để nguồn lực này.
Lao động trình độ kỹ thuật cao sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế được biểu hiện bằng việc khi trình độ lao động cao thì tổ chức sản xuất càng khoa học và năng lực sản xuất ngày càng tăng. Sự tăng năng suất lao động dẫn đến tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải trả mức tiền lương phù hợp với trình độ của người lao động vậy sẽ làm tăng thu nhập bình quân đầu người.
Theo quy luật của sự tăng thu nhập bình quân thì tỉ trọng nông nghiệp giảm, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định thì tỉ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỉ trọng của công nghiệp. Có sự chuyển dịch đó là do khi thu nhập đầu người tăng lên, khả năng chi tiêu đáp ứng đòi hỏi nhu cầu tiêu dùng cao của con người cũng tăng lên. Vì vậy theo quy luật tiêu dùng của Elgel thì tiêu dùng lương thực thực phẩm giảm xuống tiêu dùng hàng cao cấp tăng lên. Vì vậy khi tiêu dùng tăng làm thúc đẩy quá trình sản xuất và mở rộng qui mô sản xuất dẫn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Ngoài ra do lợi thế nguồn lực lao động lớn đã tạo ra lợi thế so sánh về lao động cho nền kinh tế ở tiền lương rẻ hơn so với các nước phát triển khi đó có thể cạnh tranh về giá cả ở những sản phẩm cùng loại. Xong do lực lượng lao động lớn thì yêu cầu giải quyết việc làm cũng phải tăng tạo nhu cầu cho nền kinh tế tăng.
Ngược lại nếu lực lượng lao động có trình độ thấp sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế. Do năng suất lao động phụ thuộc nhiều vào khoa học công nghệ, để có thể đưa khoa học công nghệ vào sản xuất thì điều kiện cần đó là yêu cầu lực lượng lao động có trình độ cao mới có thể đáp ứng được qui trình sản xuất.
3 - ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế với lao động việc làm
Thực chất của tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về sản lượng là sự đáp ứng đầy đủ về cơ sở vật chất cho sự phát triển kinh tế xã hội. Khi một nền kinh tế có sự tăng trưởng nó sẽ tác động tích cực nguồn lao động đó chính là giải quyết nhu cầu việc làm bằng việc mở rộng qui mô sản xuất tìm đầu ra cho lao động nhờ việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, mở rộng thị trường trong và ngoài nước tạo điều kiện thu hút nhiều lao động hơn nhờ mở rộng sản xuất và xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế tạo nhiều cơ hội việc làm hơn cho người lao động và việc làm sẽ phù hợp với trình độ và năng lực của người lao động. Tăng khả năng cống hiến sức lao động cho công việc nhờ điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất mà tăng trưởng tạo ra.
Tăng trưởng kinh tế sẽ có điều kiện để quan tâm đến phúc lợi xã hội cho người lao động, hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bằng những hoạt động cụ thể như : Phát triển giáo dục đào tạo, tạo ra hệ thống giáo dục đào tạo có qui mô về số lượng và nâng cao về chất lượng giảng dạy, vì giáo dục đào tạo là nguồn gốc của việc nâng cao trình độ và năng lực cho người lao động. Chỉ có phát triển giáo dục đoà tạo mới có thể hoàn thiện trình độ cho nguồn nhân lực.
Chăm sóc sức khoẻ cho người lao động: Khi nền kinh tế tăng trưởng thì việc hướng tới sự nâng cao sức khoẻ cho người lao động là điều tất yếu vì sức khoẻ của nguồn lao động có tốt thì mới đảm bảo được khả năng lao động ở hiện tại và phát triển nguồn lực cho tương lai. Khi người lao động được chăm sóc sức khỏe tốt họ sẽ yên tâm tham gia lao động và cống hiến hết khả năng của mình cho công việc nhằm đạt năng suất lao động tốt nhất.
Tăng trưởng kinh tế làm giảm tỷ lệ thất nghiệp nhờ mở rộng sản xuất tăng việc làm dẫn đến tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Ngoài ra khi tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập, giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Theo Kuznet khi nền kinh tế tăng trưởng trong xã hội có xu hướng giảm bất bình đẳng. Tạo điều kiện cho việc thực hiện bình đẳng giới trong xã hội, đặc biệt là khi kinh tế càng phát triển tì vai trò của người phụ nữ càng được đề cao, tạo nhiều cơ hội cho sự tham gia cống hiến của người phụ nữ cho xã hội. Đặc biệt là những người phụ nữ tham gia công việc nghiên cứu khoa học, họ có điều kiện để nâng vị thế giới của mình lên.
Tóm lại tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến lao động việc làm, vì tăng trưởng kinh tế là nền tảng của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để giải quyết các mục tiêu xã hội.
4 – Lao động với hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói hiện nay cùng với xu thế toàn cầu hoá thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là việc bắt buộc phải có sự tham gia của các quốc gia trong quá trình tăng trưởng bởi vì chỉ tham gia hội nhập thì quốc gia đó mới có thể phát huy hết lợi thế so sánh của mình, tạo nhiều cơ hội để tham gia thị trường thế giới.
Từ những kinh nghiệm của số nước đang phát triển trong khu vực Asean và Trung Quốc cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng đã giúp các quốc gia đạt được mức tăng trưởng cao và có nhiều cơ hội việc làm hơn, góp phần nâng cao mức thu nhập cho người lao động. ở Việt Nam cũng đang từng bước tiến sâu vào nền kinh tế thế giới bằng việc xúc tiến gia nhập các tổ chức quốc tế như WTO, AFTA…. Hội nhập để có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước về quá trình phát triển kinh tế xã hội đồng thời để Việt Nam có điều tiếp thu công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thụât bầng việc chuyển giao công nghệ, tiếp thu trình độ sản xuất, để có thể chuyên môn hoá sản xuất, tăng năng suất lao động. Bên cạnh đó sự tác động của thị trường thế giới vào thị trường lao động Việt Nam trở nên mạnh hơn, làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt, cơ hôi thu hút các nguồn đầu tư, tạo việc làm tăng lên, dẫn đến hình thành nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút nhiều lao động đến làm việc nhất là lao động từ khu vực nông thôn. Hiện nay nước ta có 106 khu công nghiệp, khu chế xuất chưa kể hai khu công nghiệp Dung Quất và Chu Lai. Ngoài ra còn có 124 khu công nghiệp vừa và nhỏ ở 19 tỉnh thành. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút 1442 dự án nước ngoài với tổng số vốn đầu tư 11,39 tỷ USD và 1422 dự án đầu tư trong nước góp phần khai thác tốt hơn lợi thế lực lượng lao động lớn của Việt Nam. Đặc biệt trong xu thế hiện nay sự di chuyển lực lượng lao động giữa các quốc gia ngày càng gia tăng tạo cơ hội cho việc xuất khẩu lao động Việt Nam sang làm việc tại các quốc gia khác.
Bảng1: Số liệu các yếu tố tăng trưởng vĩ mô của Việt Nam
Thời gian
Tăng trưởng kinh tế
Lao động
Vốn
TFP
1993-1997
8,8%
16%-1,4%
69%-6,1%
15%-1,3%
1998-2002
6,3%
20%-1,3%
57,5%-3,6%
22,5%-1,4%
Chương II :
Đánh giá vai trò của lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam
I – Thực trạng lao động ở Việt Nam
1 – Những ưu thế và hạn chế chung của lao dộng Việt Nam
1.1. ưu thế :
Cũng như các quốc gia đang phát triển khác, lực lượng lao động ở Việt Nam về số lượng dồi dào do qui mô dân số lớn gồm 82 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi lao động có tỉ lệ lớn chiếm 61% dân số, mức tăng dân số trong độ tuổi lao động trung bình hàng năm chiếm 2,4% là mức cao so với thế giới, tỉ lệ tham gia lao động cao khoảng 85% trên tổng dân số trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ lao động trẻ cao chiếm 50% trên tổng lực lượng lao động. Ngoài ra giá cả lao động tương đối rẻ hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam có lưu lượng lao động trình độ cao hơn so với các nước có sự phát triển tương tự bởi vì Việt Nam có hệ thống giáo dục đào tạo tốt.
1.2. Hạn chế:
- Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề thấp, phân bổ không đồng đều giữa các vùng, lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế phát triển như Đồng bằng sông Hồng, Tây Nam Bộ dẫn đến dư thừa lao động ở các vùng này như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu hụt lao động ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên…
- Cơ cấu lao động được đào tạo nghề bất hợp lý trong cấp đào tạo. Thực tế hiện nay Việt Nam thiếu rất nhiều công nhân kỹ thuật cao, không đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, mà đặc biệt là hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về thể lực của người Việt Nam rất kém không đáp ứng được chiều cao, cân nặng chiếm 50% dân số người suy dinh dưỡng, mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 30% trên tổng số lực lượng lao động.
Tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động chưa cao do dư âm của nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông, người lao động không có những điều kiện trang bị kiến thức kỹ năng để có thể bắt tay vào làm việc một cách khoa học.
2 – Thực trạng về số lượng và cơ cấu lao động Việt Nam
a.Về số lượng lao động
Tính chung cho tổng mẫu, số lao động bình quân của một doanh nghiệp năm 2003 là 110,3 người.
- Trong ba miền ở miền Bắc có quy mô lao động lớn nhất (bình quân một doanh nghiệp có 121,3 lao động/ doanh nghiệp) ; Tiếp đến là miền Trung (116,3 lao động / doanh nghiệp) ; Thấp nhất là miền Nam (93,6 lao động / doanh nghiệp).
- Bình quân một doanh nghiệp nhà nước có 274 lao động/ doanh nghiệp lớn gấp ba lần so với khu vực ngoài nhà nước.
b. Về cơ cấu lao động
- Chia theo giới tính:
+ Tính chung cho tổng mẫu lao động nữ chiếm 58,7%, nam chiếm 41,3%.
+ Trong ba miền, các doanh nghiệp ở miền Nam có tỉ lệ lao động nữ cao nhất (71,1%), tiếp đến là miền Bắc (62,4%), thấp nhất là miền Trung (43,8%).
+ Tỉ lệ lao động nữ trong các doanh nghiệp nhà nước cao hơn so với các doanh nghiệp ngoài nhà nước là (63,5% so với 57%).
- Chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
+ Tính chung cho tổng mẫu trong tổng số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp được khảo sát có 32,9% lao động phổ thông, 67,1% có chuyên môn kỹ thuật trong đó có 34,9% đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ bằng; nghề, 13,6% có chứng chỉ bằng nghề, 6% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 9,9% tốt nghiệp đại học,
cao đẳng và trên đại học.
+ Trong ba miền cũng có sự khác biệt rõ rệt về trình độ chuyên môn kỹ thuật, các vùng có tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo nói chung cao nhất là đồng bằng sông Hồng 31,9%, Đông Nam Bộ 31,8%, Duyên hải Nam Trung Bộ 25,4%, thấp nhất là vùng Tây Bắc 11,3%. Các vùng khác tỷ lệ này 14-18%. Xét ba vùng kinh tế trọng điểm, lực lượng lao động ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có tỉ lệ đã qua đào tạo nói chung cao nhất 33,7%, tiếp đến là vùng phía Nam 32,02% và miền Trung tỉ lệ này mới đạt 28,7%
3 – Thực trạng về đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam
Với số dân trên 80,902 triệu người (năm 2003) và có mức tăng hàng năm khoảng 1,5% trong thời gian gần đây, có thể nói rằng Việt Nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn và tốc độ tăng dân số nhanh. Điều này làm cho bộ phận dân số ở độ tuổi trẻ và số người trong độ tuổi lao động trong dân số chiếm tỷ lệ lớn. Thực vậy theo số liệu của tổng cục dạy nghề, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của Việt Nam ngày càng cao. Năm 1998 số người trong độ tuổi lao động chiếm 53,9%, tỷ lệ này tăng lên 55% vào năm 2000 và dự kiến đến năm 2010 tỷ lệ này còn cao hơn. Nguồn lao động đông đảo đó là một trong những nguồn lực quan trọng nhất và đang là một lợi thế cho sự phát triển của Việt Nam. Trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những năm tới, nguồn lực quý giá đó rất cần được đào tạo một cách bài bản, có chất lượng tốt để sử dụng đạt hiệu quả cao nhất.
Trong những năm qua, đào tạo nguồn nhân lực của chúng ta có những bước phát triển quan trọng. Tính đến năm 2003 cả nước có 124 trường đại học và cao đẳng, 268 trường trung học và 220 dạy nghề. Nhờ đó mỗi năm nước ta có trên 150 nghìn người tốt nghiệp đại học cao đẳng, khoảng 120 nghìn người tốt nghiệp trung cấp và trên 1 triệu công nhân được đào tạo nghề dưới các hình thức khác nhau. Đó là những thành tựu rất đáng kể về quy mô và số lượng người đào tạo. Điều này cũng cho thấy chúng ta có nhiều tiềm năng để phát triển đào tạo một cách đa dạng để đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho xã hội.
Trong đào tạo, với chiến lược và nhiều chính sách thích hợp hơn lĩnh vực này đang được xã hội hoá mạnh mẽ. Ngày càng nhiều các trường, các cơ sở đào tạo ngoài công lập dưới các hình thức khác nhau được thành lập. Tính đến năm 2003 ở bậc đào tạo đại học, cao đẳng đã có đến 27 trường ngoài công lập chiếm gần 21,7%. Số trường ngoài công lập ở hệ trung cấp là 30 chiếm trên 11%. Trong đào tạo nghề cho công nhân bên cạnh các trường công lập đào tạo chính quy cả nước còn có 359 trung tâm đào tạo nghề và 634 cơ sở dạy nghề khác, đa số trong đó là các cơ sở ngoài công lập. Trong năm 2003 hệ thống các trường và cơ sở này đào tạo trên 13 nghìn người có trình độ đại học và trên 8 nghìn người có trình độ trung học và khoảng 800 nghìn công nhân kỹ thuật. Thực tế cho thấy, sự ra đời và hoạt động của các trường, các cơ sở đào tạo ngoài công lập đã đóng góp một phần quan trọng vào đào tạo nghề cho người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được như trên đào tạo vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Người lao động được đào tạo do nhiều nguyên nhân khác nhau mà chất lượng đào tạo nói chung chưa cao thể hiện trong hiệu quả làm việc, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, dịch vụ tạo ra. Về số lượng mặc dù có sự tăng nhanh nhưng so với yêu cầu thực tế thì vẫn chưa đáp ứng được. Trong tổng số lao động xã hội số người lao động được đào tạo nghề và chuyên môn vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ. Năm 2000 chỉ có 15,5% số người lao động được đào tạo, năm 2002 là 17,1% ước tính năm 2004 khoảng 21%. Với quy mô và tốc độ tăng như vậy chúng ta khó có thể đạt chỉ tiêu mà Đại hội Đảng IX đề ra năm 2005 là 30% và 40% vào năm 2010. Như vậy trong vài năm tới ở nước ta sẽ vẫn còn một bộ phận lớn lao động chưa qua đào tạo làm việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp. Đây có thể coi đó là một sự lãng phí lớn trong sử dụng nguồn nhân lực hiện nay.
Cơ cấu theo cấp trình độ qua đào tạo cũng là một chỉ tiêu khi đánh giá về tình hình đào tạo của một quốc gia. ở các nước tiên tiến trên thế giới tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các cấp trình độ: Đại học/trung cấp/công nhân kỹ thuật là 1/4/10. Đối với Việt Nam vào cuối những năm 90 tỷ lệ này là 1/1,6/3,63. Trong mấy năm gần đây đào tạo ở các cấp tuy có tăng khá nhưng quan hệ tỷ lệ đó vẫn chưa thay đổi, năm 2002 tỷ lệ là 1/1/3,65. Đây là một sự mất cân đối lớn và là một trong những nguyên nhân làm chúng ta không thể sử dụng hợp lý lao động theo cơ cấu trình độ được. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ là một hiện thực. Điều này cũng gây ra không ít lãng phí về nhân tài, vật lực cả trong đào tạo và sử dụng lao động.
Về đào tạo công nhân kỹ thuật, dù chúng ta đang có mức tăng rất nhanh về số lượng nhưng tình hình đào tạo ở một số mặt khác vẫn chưa được như mong muốn. Những công nhân được đào tạo nghề chủ yếu vẫn là đào tạo ngắn hạn không chính quy. Năm 2002 trong số 1005000 người được đào tạo nghề thì chỉ có 146000 người được đào tạo nghề dài hạn đạt tỷ lệ 14,5%. Năm 2004 trong tổng số 1145000 chỉ tiêu đào tạo nghề thì chỉ có 198000 chỉ tiêu dài hạn chính quy xấp xỉ 17,3%. Việc không được đào tạo một cách chính quy sẽ làm tăng khả năng phát triển nghề nghiệp trong tương lai của người lao động rất hạn chế, chất lượng và kết quả làm việc không thể cao được.
4 – Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
Cơ cấu lao động theo nhóm ngành là một trong những đặc trưng chủ yếu được sử dụng để phân tích sự chuyển dịch cơ cấu, có thể lấy để đối chiếu với cơ cấu kinh tế theo ngành, từ đó cho phép về sự vận động của chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu lao động với tư cách là một nhân tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với nước ta trước sức ép lớn của quy mô và tốc độ dân số đặc biệt là ở vùng nông thôn cơ cấu lao động theo nhóm ngành sẽ khó có thể chuyển dịch nhanh được. Trước hết chúng ta phân tích cơ cấu lao động theo ba nhóm ngành trong thời kỳ từ 1990 nhất là từ 1996 đến nay.
Bảng 2 : Cơ cấu lao động đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên thời kỳ 1990-2004.
Các tiêu chí
1990
1996
2000
2002
2004
1.Tổng số(Nghìn)
I.Nông lâm ngư nghiệp
II.Xây dựng công nghiệp
III.Dịch vụ
2.Tỉ lệ%
I.Nông lâm ngư nghiệp
II.Xây dựng công nghiệp
III.Dịch vụ
33268
21889
4209,7
7169,3
100
65,8
12,65
21,55
33978
23431
3698
7593
100
68,96
10,88
20,16
36205
22670
4744
8791
100
62,62
13,1
24,28
39286
22670
5942
9509
100
60,67
15,12
24,21
42329,1
24511,5
7345,6
10472
100
57,91
17,35
24,74
Nguồn: Niên giám thống kê 1995.nxb Thống kê-HN 1996.Số liệu thống kê lao động thương binh xã hội VN 1996-2000.NXB Lao động xã hội HN 2001,kết quả điều tra lao động 1-7-2001;2002;2004.
Số liệu từ bảng 2 cho thấy trong thời kì 14 năm số lao động tăng lên thêm 9 triệu từ 33268 nghìn năm 1990 lên 42329,1 nghìn năm 2004 trung bình mỗi năm tăng gần 650 nghìn nghĩa là tốc dộ tăng trung bình năm là 1,53%.Từ năm 1996 đến 2004 bình quân mỗi năm tăng hơn 1 triệu 43 nghìn ngưòi với tốc độ 2,46%/năm.Như vậy tốc độ tăng nguồn lao động ở nửa cuối thời kì 1990-2004 đã nhanh hơn.Điều đó chứng tỏ sức ép nguồn lao động cho việc chuyển dịch cơ cấu vẫn đang lớn.
Nhận xét tiêu theo là mặc dù có sức ép cung lao động như trên song cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển dịch tích cực ,tỉ lệ lao động nhóm nghành nông,lâm,ngư nghiệp giảm từ 65,8% năm 1990 xuống còn 57,91% năm 2004 nghĩa là trung bình mỗi năm giảm 0,56%.Nhưng tính từ năm 1996 đến 2004 thì sự chuyển dịch này còn lớn hơn trong 8 năm tỉ lệ lao động nhóm 1 giảm 11,05% trung bình mỗi năm giảm 1,4% nghĩa là hơn gấp đôi so với thời kì 14 năm.Như vậy thời kì này được chia làm 2 giai đoạn,giai đoạn 1 với 6 năm cơ cấu lao động chuyển dịch theo xu hướng ngược,tỉ lệ lao động nhóm 1 tăng nhanh trong khi tỉ lệ lao động nhóm 2 và 3 giảm đi.Tuy nhiên trong giai đoạn 2 giảm đi xu hướng chuyển dịch tương đối nhanh tích cực đã bù đắp và duy trì được mức độ đều đặn.Có thể giải thích sự đứt đoạn này với 2 lí do chính:một là những năm đầu của thập kỉ 90 thế kỉ trước cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đang có sự thay dổi theo quỹ đạo,theo sự chuyển đổi của nền kinh tế,từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường,những sự bất hợp lí trước kia như sự bao cấp vấn đề sở hữu nhà nước do đó nền kinh tế làm ăn không hiệu quả, năng suất lao động thấp ssống dựa vào ngân sách nhà nước đã thực hiện chuyển đổi theo hướng giảm đi.Tất nhiên quá trình này phù hợp với các chính sách chế độ nhà nước kí do nữa cũng phải kế đến sự thay đổi phương pháp điều tra về lao động làm cho nguồn số liệu giữa hai giai đoạn trước và sau năm 1996 có sự sai lệch nhất định,song đây là lí do kĩ thuật không ảnh đến kết quả xu hướng phân tích chuyển dịch.
Như vậy năm 1996 cơ cấu lao động của 3 khu vực I,II,III tương ứng là 68,96;10,88 và 20,16% đến năm 2004 đang là 57,91; 17,35; 24,74%.So sánh với mục tiêu đề ra cho năm 2005 là khu vực I :56-57% ;khu vực II:20-21% ;khu vực III:22-23%.
Nếu so sánh với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung ta sẽ thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động rõ hơn và thực chất hơn.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế phân theo khu vực được thấy trong
Bảng3: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước(GDP) theo giá so sánh năm 1994 phân theo khu vực kinh tế thời kì 1990-2003
Các tiêu chí
1990
1996
2000
2002
2003
1.Tổng số(Nghìn tỉ)
I.Nông lâm ngư nghiệp
II.Xây dựng công nghiệp
III.Dịch vụ
2.Tỉ lệ%
I.Nông lâm ngư nghiệp
II.Xây dựng công nghiệp
III.Dịch vụ
131968
42003
33231
56744
100
38,74
22,67
38,59
213833
53577
67016
93240
100
27,76
29,73
42,51
273666
63717
96913
113036
100
24,53
36,73
38,74
313247
68350
117125
127770
100
23,03
38,49
38,48
335989
70575
129247
136167
100
21,83
39,95
38,22
Nguồn: Niên giám thống kê HN 2004
Theo số liệu bảng 3 xu hướng chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng mang tính tích cực, cụ thể là tỷ trọng của GDP của khu vực I giảm liên tục từ 1990-2003 từ 38,74% xuống còn 21,83%, trung bình mỗi năm giảm 1,2%, ngược lại tỷ trọng GDP của khu vực II tăng liên tục từ 22,67% lên 39,95%, trung bình mỗi năm tăng 1,23%, tương đương với mức giảm của khu vực I, nghĩa là tỷ trọng GDP của khu vực III không thay đổi nhiều, hàng năm xoay quanh 38-40%.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng chuyển dịch cơ cấu lao động trong so sánh với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là năng suất lao động. Chúng ta dùng chỉ tiêu tương đối là GDP/Số lao động, kết quả cụ thể được tính toán trong biểu 4.
Từ năm 1990 đến năm 2003 năng suất lao động của cả nước đã tăng lên hơn 2 lần (8,212/3,967), trung bình mỗi năm năng suất lao động chung tăng 103,98%. Nếu so sánh với năm 1996 năng suất lao động tăng nhanh hơn 1,3 lần, trung bình hàng năm tăng 100,27%. Trong thời kỳ 1990-2003 năng suất lao động khu vực I tăng gần 1,5 lần, khu vực II tăng hơn 2,42 lần và ở khu vực III tăng 1,74 lần. Điều này phản ánh hoàn toàn đúng theo tính quy luật năng suất lao động trong công nghiệp, xây dựng tăng nhanh hơn cả, sau đó đến năng suất của các ngành dịch vụ và cuối cùng là nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Khi so sánh mức suất theo mức thời gian có thể thấy năm 1990 năng suất lao động của khu vực II và III tương đương nhau (7,9%), và lớn hơn 4,1 lần so với năng suất lao động của khu vực I, nhưng đến năm 1996 năng suất lao động của khu vực II tăng nhanh lớn hơn năng suất lao động của khu vực I gần 8 lần và hơn khu vực III là 1,5 lần. Đó là những điểm tích cực của xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động, tuy nhiên cần lưu ý rằng từ năm 1996 đến nay xu hướng chuyển dịch này đã chậm lại, thậm chí có năm như năm 2000 và 2002 năng suất lao động của nhóm ngành công nghiệp và xây dựng (năm 2000: 20,429; năm 2002: 19,712 và năm 2003: 19,126 triệu đồng/ lao động). Đây là một cảnh báo quan trọng về chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế không cao. Chúng ta thấy rằng mặc dù trong những năm này tốc độ tăng GDP vẫn tăng, năm 2000: 6,79%; năm 2002: 7,08% và năm 2003: 7,26%, nhưng do tốc độ tăng lao động cao hơn nên nhìn chung năng suất lao động có xu hướng giảm.
5 – Thực trạng về trình độ lao động trong các làng nghề Việt Nam
Theo báo cáo của các địa phương đến đầu năm 2004 cả nước có trên 1300 làng nghề trong đó có 900 làng nghề truyền thống. Các địa phương có nhiều làng nghề là Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên , Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hoá, Nghệ An … Các làng nghề đang sử dụng khoảng trên 700 ngàn lao động các loại baogồm lao động chuyên, lao động kiêm, lao động dịch vụ và lao động thuần nông là chính. Sản phẩm làng nghề rất đa dạng nhất là từ hàng cao cấp như đồ gỗ, mỹ nghệ, điêu khắc, mây tre đan, thêu ren, sơn mài, dệt lụa, may mặc xuất khẩu … đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường như chiếu cói, vải sợi, chế biến lương thực thực phẩm, dệt màn đan lát, gốm sứ, vật liệu xây dựng, cơ khí, tranh dân gian … phục vụ tiêu dùng trong nước là chính. Do vậy quy mô và cơ cấu làng nghề và trình độ lao động trong các làng nghề đa dạng và khác nhau giữa các làng nghề, các địa phương. Làng nghề chế biến tinh dầu ở làng Bình Minh – Hưng Yên có 1200 lao động, còn làng nghề thêu ren Mại Xá, Kim Động chỉ có 70 lao động. Hà Tây là tỉnh có nhiều lao động làm việc trong các làng nghề nhất cả nước nhưng quy mô và trình độ của lao động cũng rất khác nhau. Trong số 160 ngàn lao động của tỉnh có 14,48% lao động chuyên môn hoá cao có trình độ tay nghề khá, trong đó có khoảng 1% là nghệ nhân 55,3% là lao động làng nghề kiêm nông nghiệp, trình độ chuyên môn không cao chủ yếu là kinh nghiệm làm các ngành chế biến nông sản giản đơn như bún, bánh và 5,88% là lao động dịch vụ, các vệ tinh của làng nghề chuyên làm các công việc vận chuyển môi giới, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm các làng nghề còn lại gồm những lao động nông nghiệp là chính kiêm nghề phụ tiểu thủ công nghiệp hoặc dịch vụ các làng nghề.
Trải qua nhiều bước thăng trầm do sự biến động của thị trường và các chính sách của nhà nước lao động các làng nghề có sự biến chuyển cả về số lượng lẫn trình độ tay nghề. Từ năm 1996 đến nay do các chính sách hỗ trợ của nhà nước về vốn, thị trường, thuế … nên số lao động làm việc trong các làng nghề tăng lên, chất lượng và trình độ tay nghề có nhiều tiến bộ, trong đó đáng chú ý là nhiều nghệ nhân có tay nghề cao, kinh nghiệm phong phú đã trở thành những người dạy nghề cho lực lượng lao động trẻ mới vào nghề. Thêm vào đó do trình độ kỹ thuật và yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu nên máy móc thiết bị công nghệ mới đã được đưa vào làng nghề góp phần nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. Nhiều công việc trước đây làm thủ công nay đã được cơ khí hoá, điện khí hoá vừa nâng trình độ của lao động vừa làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm các làng nghề nhờ đó chiếm lĩnh được thị trường trong nước và ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu sản xuất tại các làng nghề năm 2003 đạt 367 triệu$ tăng 10,6% so với năm 2002 và 4 tháng đầu năm 2004 đạt 135 triệu$ tăng 6,3% so với cùng kì năm 2003.
Những thành tích trên đạt được là nhờ một phần quan trọng là trình độ tay nghề của lao động trong các làng nghề, cả truyền thống lẫn hiện đại được nâng lên. Trong công tác đào tạo bồi dưỡng kỹ năng lao động có nhiều tiến bộ so với trước. Nhiều mô hình đào tạo nghề xuất hiện, đó là đào tạo tại chỗ trong các làng nghề đào tạo tập trung của các trung tâm dạy nghề cho thanh niên phụ nữ, dạy nghề trong các HTX tiểu thủ công nghiệp ...
* Những bất cập và hạn chế trong đào tạo nghề:
Điều này thể hiện rõ trên các mặt: quy mô đào tạo nhỏ, nội dung nghèo, tính chất phân tán tự phát thiếu quy hoạch, kế hoạch, đầu tư. Phương thức đào tạo tay nghề trong các làng nghề tuy khá hợp lý và tiết kiệm kinh phí của nhà nước nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế vì chủ yếu theo phương pháp truyền nghề kinh nghiệm chưa kết hợp với tiến bộ KHCN mới nên chưa đạt chất lượng cao. Đối với các loại lao động ngành nghề kiêm nông nghiệp hoặc chuyên dịch vụ trong các làng nghề chưa được đào tạo hoặc bồi dưỡng tay nghề nên trình độ rất hạn chế. Vì vậy cho đến nay trình độ các làng nghề còn thấp chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mới đạt 10% trong đó có 1% là nghệ nhân hoặc lao động có trình độ cao 90% còn lại là lao động chưa qua đào tạo. Đối với lao động đã qua đào tạo trình độ vẫn không cao và không đều.
Những bất cập và hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đầu tiên là nội dung và phương pháp đào tạo chưa hợp lý, phương pháp kèm cặp trong lao động thực tế vừa học vừa làm là chủ yếu thiếu máy móc và công cụ hiện đại. Lao động trẻ làm việc trong các làng nghề phổ thông có trình độ văn hoá thấp nên khó tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến máy móc thiết bị hiện đại. Đội ngũ giáo viên ít về số lượng trình độ tay nghề chưa cao nghệ nhân ít. Trong khi đó cả thầy và trò đều có nhiệm vụ tạo ra sản phẩm vật chất chạy theo lợi ích trước mắt thích bắt trước cách làm và mẫu hàng nước ngoài, ít quan tâm đến tính truyền thống và chất lượng sản phẩm, nhất là các sản phẩm xuất khẩu. Những bất cập giữa yêu cầu sản xuất hàng hoá chất lượng cao và trình độ hạn chế của lao động trong các làng nghề là vấn đề nổi cộm hiện nay cần có các giải pháp đồng bộ của nhà nước về đào tạo nghề.
II - Đánh giá vai trò lao động trong các làng nghề Việt Nam
Lao động có vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế được thể hiện bằng việc đào tạo việc làm, tăng thu nhập duy trì tốc độ tăng trưởng GDP từ 2001-2005 trên 7%, tạo việc làm trong nước cho 1.1490 ngàn người, đạt 103,8% kế hoạch; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5,6%, nâng tỷ lệ sử dụng quỹ thời gian lao động nông thôn lên 79%; Cơ cấu, chất lượng lao động chuyển dịch tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn 57,9%, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ lên 43,1% thu nhập của lao động tăng bình quân 9% so với năm 2003; lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng, đặc biệt khu vực dân doanh tăng 26%, đầu tư nước ngoài tăng 17,5%; quan hệ lao động được cải thiện, phần lớn doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ký hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể; điều kiện lao động, an toàn vệ sinh lao động được quan tâm.
Xuất khẩu lao động 67.447 người nâng tổng số lao động, chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài lên gần 400 ngàn người; thu nhập của người lao động đạt trên 1,5 tỷ$, 100% lao động xuất khẩu được giáo dục định hướng; 50% được đào tạo nghề trước khi đi, đặc biệt lao động làm việc ở các thị trường có thu nhập khá chiếm 67,32%; mở thêm thị trường mới như Vương Quốc Anh, CaNaDa,…
Dạy nghề cho 1153 ngàn người, đạt 100,3% kế hoạch, tăng 7,3% so với năm 2003, trong đó: dài hạn 2002,7 ngàn người, đạt 100,2% kế hoạch; ngắn hạn 950,3 ngàn người, đạt 100,3% kế hoạch số học sinh ra trường 1100 ngàn người trong đó dài hạn 150 ngàn người, ngắn hạn 950 ngàn người. Chất lượng học sinh tốt nghiệp trường dạy nghề được thị trường lao động chấp nhận, khoảng 70% học sinh tìm được việc làm ngay sau khi ra trường.
Mạng lưới cơ sở dạy nghề tiếp tục phát triển tăng thêm 18 trường, trong đó có 10 trường ngoài công lập tăng 18% trung tâm dạy nghề ngoài công lập chiếm 30%.
Lao động góp phần ổn định đời sống nhân dân, nâng cao mức sống dân cư đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị xã hội, phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động.
Do Việt Nam có thị trường lao động tiềm năng vên đã tạo điều kiện cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Theo số liệu thống kê về FDI trong các giai đoạn:
- Giai đoạn 1988 – 1990 :
+ Vốn đầu tư : 16 tỉ $
+ Vốn thực hiện : 7,153 tỉ $
- Giai đoạn 1998 – 2000:
+Vốn đầu tư : 3,987tỉ $( Suy thoái do khủng hoảng kinh tế Châu á)
+ Vốn thực hiện đầu tư lớn hơn 2 tỉ $ và thực hiện 2 tỉ $
Lao động làm tăng đầu tư cho sản xuất bằng việc xây dựng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất với quy mô lớn tiêu biểu như khu công nghiệp ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, … đều là những khu công nghiệp lớn thu hút lực lượng lao động đông đảo, giải quyết việc làm cho người lao động đặc biệt phù hợp với điều kiện Việt Nam khi cung lao động đang lớn hơn cầu lao động thì việc phát triển nhiều khu công nghiệp càng giải quyết vấn đề việc làm và vấn đề xã hội.
Lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
+ Theo nhóm ngành đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn với những chính sách phát triển nhiều thành phần đa dạng hoá đa phương hoá nền kinh tế đã thúc đẩy các hoạt động công nghiệp xây dựng đặc biệt các hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển với tốc độ nhanh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996 - 1999:
1996
1997
1998
1999
Bình quân
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
4,4
14,5
8,8
4,3
12,6
7,7
3,5
10,3
4,2
5,2
7,7
2,3
4,35
11,3
5,6
Phát triển mạnh các ngành công nghệ cao (tin học, viễn thông, tự động hoá, vật liệu mới … ) để tạo việc làm sử dụng lao động trình độ cao và gắn với xuất khẩu. Phát triển các khu công nghiệp lớn hoặc các vùng kinh tế trọng điểm, nhất là khai thác các vùng có lợi thế kinh tế tạo ra các tầng thu hút lao động (trình độ cao bậc trung và phổ thông).
Phát triển mạnh các ngành có ưu thế trong xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động ( dệt may, giầy da, thuỷ sản, dịch vụ, du lịch … )
+ Kỹ thuật thấp lên kỹ thuật cao, chuyển dịch cơ cấu có xu hướng sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật cao bởi vì hiện nay do quá trình đổi mới tiến bộ khoa học kỹ thuật vì vậy cần phải đáp ứng kịp thời sự thay đổi của quá trình công nghệ cao, thay sản xuất từ kỹ thuật thô sơ sang sản xuất với máy móc thiết bị hiện đại vì vậy cần trang bị kiến thức cho người lao động để có điều kiện tham gia sản xuất.
Chương III :
Giải pháp nâng cao vai trò lao động ở Việt Nam
1 – Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực
Qua những phân tích trên có thể có một số nhận xét, kết luận như sau:
1.1. Đào tạo chuyên môn và nghề nghiệp cho người lao động đang đóng vai trò chính trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước. Trong điều kiẹn về dân số và lao động và trình độ chuyên môn, tay nghề như hiện nay và trong những năm tiếp theo, lĩnh vực đào tạo đang đứng trước nhiều áp lực và đòi hỏi bức xúc của xã hội. Do vậy, đào tạo ở nước ta cần có được những chiến lược đúng và phải được tổ chức chặt chẽ và quản lý tốt.
1.2. Đào tạo đang phát triển nhanh về quy mô và số lượng người lao động được đào tạo. Bên cạnh nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho đào tạo thì những nguồn lực khác, ngoài ngân sách nhà nước cũng đang tăng mạnh. Đây là một xu hướng mới và tốt vì các nguồn này đang còn rất nhiều tiềm năng và là sự bổ sung quan trọng cho sự nghiệp đào tạo nói chung của Việt Nam.
1.3. Các trường và cơ sở đào tạo ngoài công lập đã, đang và sẽ khai thác, tận dụng và sử dụng có hiệu quả các điều kiện sẵn có của các cơ sở đào tạo công lập (cơ sở vật chất, trường lớp, tài sản, thiết bị, chương trình và đội ngũ giảng viên …). Điều đó đang góp phần thúc đẩy sự phát triển và đem lại hiệu quả cao hơn về mọi mặt trong đào tạo.
1.4. Chất lượng đào tạo ở từng cấp và cơ cấu đào tạo theo trình độ vẫn còn nhiều hạn chế và chưa hợp lý. Đó là một trong nhiều nguyên nhân chủ yếu làm cho hiệu quả sử dụng lao động, chất lượng lao động trên thực tế chưa cao và đang đặt ra những thách thức trong chiến lược đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực của nước ta.
Để lĩnh vực đào tạo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn, làm tốt vai trò chủ đạo trong phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, xin đưa ra một số kiến nghị dưới đây:
- Thứ nhất: Về tổng thể chúng ta cần có một chiến lược về đào tạo, có một quy hoạch về hệ thống đào tạo nghề và chuyên môn hợp lý để phát triển nhanh, tăng quy mô và năng lực nhanh hơn nữa trong đào tạo trình độ chuyên môn và tay nghề cho người lao động. Để đạt được tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề như mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra, mỗi năm chúng ta phải đào tạo cho được trên 1,5 triệu người. Ngoài việc tăng đầu tư phát triển cho đào tạo (từ mọi nguồn) thì những mục tiêu trong chiến lược đào tạo phải được xem như là một trong những chỉ tiêu quốc gia quan trọng và cần phải quyết tâm thực hiện cho bằng được cùng với các chỉ tiêu khác trong phát triển nguồn nhân lực.
- Thứ hai : Đẩy nhanh hơn nữa xã hội hoá đào tạo. Trong điều kiện kinh phí đào tạo từ nguồn ngân sách nhà nước chưa nhiều, chưa thoả mãn hết mọi nhu cầu về đào tạo thì việc xã hội hoá đào tạo phải là giải pháp quan trọng nhất để đạt được mục tiêu quốc gia về đào tạo. Về tiềm năng và nguồn lực để xã hội hoá là hoàn toàn có thể, vấn đề chính trong giải pháp này là cần có những chính sách và biện pháp phù hợp để huy động mọi nguồn lực có thể có cho sự phát triển đào tạo của chúng ta.
- Thứ ba: Chú trọng để tăng nhanh hơn nữa năng lực đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật. Đây là một bộ phận của lĩnh vực đào tạo có thể phát triển nhanh do có đặc điểm là linh hoạt về quy mô và hình thức, diện nghề đào tạo đa dạng và dễ huy động các nguồn lực trong xã hội. Đẩy nhanh sự phát triển đào tạo công nhân kỹ thuật sẽ tạo ra một sự thay đổi trong cơ cấu trình độ lao động được đào tạo tiên tiến hơn, khắc phục những bất hợp lý như hiện nay.
- Thứ tư: Cùng với tăng nhanh về quy mô và năng lực đào tạo cần tập trung hơn nữa vào các chỉ tiêu chất lượng phát triển của đào tạo. Trong quản lý và tổ chức hoạt động của các cơ sở đào tạo, một mặt cần củng cố và tăng cường hơn nữa các trường đào tạo chính quy dài hạn để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Mặt khác cần từng bước cần chính quy hoá các cơ sở đào tạo ngoài công lập nhất là về kết cấu nội dung và thời lượng các chương trình đào tạo, hiện đại hoá phương pháp và quá trình đào tạo của các cơ sở này. ở đây vai trò của Nhà nước đối với các cơ sở dạy ngoài công lập là rất cần thiết và quan trọng.
- Thứ năm: Tăng cường quản lý nói chung và có những hỗ trợ cần thiết, trước hết là những hỗ trợ của Nhà nước để tăng cường sự phối hợp, kết hợp giữa các trường, các cơ sở đào tạo giữa hai hệ thống công lập và ngoài công lập và giữa các cấp từ đại học – cao đẳng, đến trung học và dạy nghề để cùng phát triển và khai thác hiệu quả nhất các nguồn lực và điều kiện đào tạo của cả nước. Qua đó làm cho lĩnh vực đào tạo phát triển nhanh toàn diện và hiệu quả hơn.
Với chiến lược hợp lý về đào tạo và với những tiềm năng hiện tại cũng như trong tương lai về sự phát triển của đất nước, lĩnh vực đào tạo củ chúng ta sẽ phát triển nhanh về mọi mặt. Đào tạo sẽ góp phần quyết định một phần tạo ra một lực lượng lao động thoả mãn nhu cầu sử dụng cả về số lượng và chất lượng trong phát triển kinh tế và xã hội.
2. Một số giải pháp chủ yếu cho công tác đào tạo nghề ở các làng nghề
Một là: Đổi mới quan điểm và chính sách của nhà nước về lao động và đào tạo nghề nghiệp cho người lao động trong các làng nghề phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nếu trước đây, làng nghề chỉ được xem là kinh tế phụ của nông dân, để tận dụng thời gian lao động nông nhàn và tăng thu nhập “phụ” cho nông dân, thợ thủ công thì ngày nay cần nhận thức lại: làng nghề là một nội dung quan trọng, một bộ phận chủ yếu trong chiến lược CNH, HĐH đất nước. Do vậy, khôi phục và phát triển làng nghề, thu hút lao động vào các làng nghề là nhiệm vụ trung tâm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động xã hội, nhất là khu vực nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế và lao động ở nước ta. Làng nghề gắn với trung tâm cụm xã, có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp và tạo ra thu nhập chính ở nông thôn. Làng nghề còn là trung tâm tạo việc làm mới thu hút lao động dư thừa và đào tạo nghề nghiệp trong nông nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn. Từ đó nhà nước cần có chính sách khuyến khích và đầu tư thoả đáng để khắc phục tình trạng tự phát, manh mún trong đào tạo nghề hiện nay, biến các làng nghề trong các làng nghề thành những mắt xích quan trọng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Quan điểm và chính sách đào tạo nghề trong các làng nghề cần phải đổi mới theo hướng phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hai là: Bổ sung và hoàn thiện quy hoạch các làng nghề làm căn cứ cho công tác kế hoạch, đầu tư về đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động trong các làng nghề. Để quy hoạch, điều trước hết cần làm là điều tra, khảo sát toàn bộ lao động trong các làng nghề, phân tổ chi tiết theo ngành, nghề, sản phẩm, trình độ hiện nay ở nông thôn và thành thị, bao gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới với các tiêu chí rõ ràng. Trên cơ sở kết quả điều tra, khảo sát toàn diện và chính xác, các ngành chức năng và các địa phương tính toán lại năng lực sản xuất hiện tại và tiềm năng mỗi loại làng nghề gắn với các ngành nghề và sản phẩm làm căn cứ cho công tác kế hoạch đào tạo nguồn lao động 5 năm và hàng năm. Quy hoạch và kế hoạch sản xuất nhất thiết phải gắn với nhu cầu của thị trường trong nước va ngoài nước hiện tại và tương lai theo nguyên tắc: Lấy thị trương làm căn cứ, gắn với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, từng vùng, từng địa phương, nhất là quy hoạch phân bố, sử dụng đào tạo nguồn lao động cho các làng nghề theo từng loại ngành nghề và theo trình độ.
Ba là: Tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ giảng dạy, bổ sung chương trình, máy móc thiết bị, học cụ cho các trường dạy nghề trong các làng nghề với sự đầu tư của Nhà nước. Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của các làng nghề là chính với hệ thống các ngành nghề phù hợp với truyền thống của địa phương và sản phẩm có thị trường tiêu thụ ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa, cần thiết mời các chuyên gia và nghệ nhân của nước ngoài vào giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm về bí quyết sản xuất và chiếm lĩnh thị trường các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho các làng nghề Việt Nam. Đây là một hình thức đào tạo mới nhằm kết hợp kỹ thuật truyền thống của làng nghề nước ta với kinh nghiệm và kỹ thuật tiên tiến của thế giới nhằm nâng cao trình độ tay nghề và chất lượng đào tạo trong các làng nghề.
Bốn là: Giải quyết tốt vấn đề vốn cho các trường dạy nghề và các làng nghề. Trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch đã được duyệt, nhà nước cần hỗ trợ các trường dạy nghề và các làng nghề về vốn theo các hướng: Ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng vùng có làng nghề, theo phương châm nhà nước, các làng nghề, các doanh nghiệp và nhân dân cùng làm. Dành một phần ngân sách nhà nước đầu tư cho các trường dạy nghề phục vụ đào tạo nghề ở các làng nghề truyền thống. Xây dựng các trung tâm cụm xã, nâng cao tay nghề cho các chủ cơ sở làng nghề, áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi đối với các làng nghề, trong đó khuyến khích cho vay đổi mới máy móc thiết bị và áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất và cho các trường dạy nghề để nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường dạy nghề, các làng nghề. Giải pháp về vốn là rất quan trọng bởi vì muốn phát triển các làng nghề theo hướng công nghiệp hoá các làng nghề và tổ hợp các ngành nghề rất cần vốn để đầu tư vào công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động cả văn hoá và nghề nghiệp.
Năm là: Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống trường dạy nghề của nhà nước. Chương trình đào tạo tập trung chủ yếu vào những kiến thức chủ yếu cho việc phát triển làng nghề truyền thống với máy móc và công nghệ hiện đại. Phương pháp đào tạo cần kết hợp lý thuyết với thực hành, truyền thống với hiện đại phù hợp với đặc tính của từng nghề. Chính quyền địa phương có nhiều làng nghề cần phối hợp với trường dạy nghề đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở các làng nghề truyền thống. Kết hợp dạy chữ với dạy nghề ở các làng nghề để nâng cao trình độ văn hoá cho lao động làng nghề. ứng dụng rộng rãi tiến bộ KHKT và công nghệ đổi mới vào các trường dạy nghề và làng nghề. Để khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng CNH, HĐH nhất thiết phải đổi mới máy móc thiết bị và ứng dụng những tiến bộ KHKT và công nghệ mới vào sản xuất. Vì vậy, vai trò của đội ngũ lao động có trình độ cao về khoa học công nghệ trong các làng nghề, kể cả truyền thống mới có ý nghĩa quyết định. Bài học rút ra từ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động ở các làng nghề truyền thống là KHCN phải đi trước một bước trong quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống theo hướng CNH, HĐH. Giải pháp cho vấn đề này là lựa chọn đúng những máy móc, thiết bị mới và công nghệ tiên tiến phù hợp với yêu cầu sản xuất các sản phẩm của các làng nghề. Để làm được việc đó nhất thiết phải cải tiến nội dung và phương pháp đào tạo lao động trong các làng nghề, nhất là các làng nghề truyền thống.
Sáu là: Tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề cho các làng nghề đi đôi với việc bảo tồn và nâng cao trình độ của các nghệ nhân, các “bàn tay vàng” để họ có thể sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới. Đó là sự kết hợp giữa các thế hệ lao động trong các làng nghề nhằm mục đích khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng CNH, HĐH nhưng vẫn duy trì và phát huy tính truyền thống, vai trò của các nghệ nhân. Sản phẩm của sự kết hợp đó là những di sản văn hoá, sản phẩm điêu khắc, nghệ thuật, các công trình kiến trúc và cả những sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày của con người … được sản xuất theo quy trình công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới.
Bảy là: Dạy nghề trong các làng nghề là mô hình tốt đã được thực tế chứng minh vì khả năng học đi đôi với làm, quyền lợi gắn với trình độ tay nghề. Vì vậy các làng nghề, các chủ cơ sở nghề trong các làng nghề cần chủ động tổ chức đào tạo nghề cho người quản lý và người lao động trực tiếp. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng dạy nghề trong các làng nghề, vai trò của nhà nước là rất quan trọng: Hỗ trợ máy móc thiết bị, KHCN mới, giảng viên, kể cả các nghệ nhân, các “bàn tay vàng” của các làng nghề.
Giải pháp cho vấn đề đào tạo bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như bảo vệ các bàn tay vàng chỉ có thể thực hiện bằng sự hỗ trợ của nhà nước kết hợp với sự tham gia của các làng nghề, chính quyền cấp xã và cấp huyện. Trong chương trình đào tạo hàng năm của Tổng cục dạy nghề cần bổ sung nội dung dạy nghề tại các làng nghề, xã nghề, đào tạo cả thầy và thợ. Đối với những nghệ nhân có bàn tay vàng trong các làng nghề truyền thống, nhà nước cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng và sử dụng hợp lý để họ gắn bó tâm huyết trong việc truyền nghề cho thế hệ trẻ, trở thành những thầy dạy nghề có chất lượng cao trong các trường dạy nghề của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.
3. Giải pháp giải quyết việc làm trong kế hoạch năm 2005 và kế hoạch 5 năm 2006 – 2010
3.1. Giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch
Thông qua các giải pháp chính sau: Các giải pháp chung là đẩy mạnh phát triển các chương trình phát triển KT- XH, tạo mở việc làm là giải pháp cơ bản quan trọng, quyết định đến tăng chỗ làm việc, với tốc độ tăng bình quân GDP trong 5 năm là trên 8% sẽ giải quyết được việc làm cho 8 triệu lao động trong 5 năm 2006 – 2010; trong đó riêng năm 2005 là 1,6 triệu lao động.
Tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia góp phần cải thiện môi trường lao động ngoài nước đưa số lao động đi làm nước ngoài năm 2005 là 70 nghìn người và trong 5 năm 2006 – 2010 là 35 vạn người. Lao động trong các dự án FDI là 1,2 triệu tăng thêm 40 vạn lao động. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm thông qua việc phát triển lành mạnh thị trường lao động, củng cố tổ chức, hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm, tiến hành quy hoạch và hoàn thiện hệ thống tổ chức các trung tâm giới thiệu việc làm, phát triển lành mạnh trung tâm lao động trong và ngoài nước.
3.2. Các giải pháp chính sách cụ thể
Thực hiện việc khuyến khích sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, lao động đến các vùng sâu vùng xa đề ra các chính sách và các biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động nhất là lao động nữ, lao động yếu thế.
Bổ sung nguồn vốn ngân sách cho CTMTQG về việc làm năm 2005 là 300 tỷ, 5 năm 2006 – 2010 là 2000 tỷ, bình quân mỗi năm 400 tỷ. Tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quốc gia hỗ trợ giải quyết việc làm, tập trung chỉ đạo và hoàn thiện cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, củng cố nâng cao thị phần thị trường xuất khẩu lao động hiện có, tiếp tục mở rộng thị trường mới kể cả Trung Đông và Châu Phi, chú ý thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, MaLaySia, chấn chỉnh sắp xếp và đổi mới hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp XKLĐ.
Sắp xếp chấn chỉnh hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm trong cả nước riêng năm 2005 tiến hành xây dựng 3 trung tâm xúc tiến việc làm ở ba khu vực Bắc, Trung, Nam. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động thông qua việc tổ chức hội chợ việc làm hàng năm ở các đô thị lớn. Khẩn trương xây dựng đề án thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động trong toàn quốc nhằm cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời về thị trường lao động của các doanh nghiệp và khu vực tạo điều kiện cho người tìm việc và việc tìm người. Nghiên cứu bổ sung các chính sách tháo gỡ nhằm khuyến khích các nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh tạo mọi việc làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp nông thôn. Có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động vào làm việc trong các chương trình trọng điểm về thuỷ lợi, giao thông, các ngành xuất khẩu, chế biến thuỷ hải sản, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn ưu đãi để thu hút nhiều lao động.
Thực hiện việc phát triển các tổng công ty nhà nước, đổi mới và sắp xếp lại các DNNN, giải quyết tốt chính sách lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hoá. Tập trung chỉ đạo các địa phương giải quyết tốt việc dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động mất đất canh tác trong quá trình đô thị hoá và chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Tổ chức tốt các hội trợ việc làm và tập trung chỉ đạo thực hiện tốt CTQG về giải quyết việc làm năm 2006 – 2010.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế phát triển.
Tạp chí tổng quan về thị trường lao động.
Tạp chí kinh tế phát triển của Thạc sỹ Lê Mạnh Hùng.
Tạp chí dân số và phát triển (tháng 7-2003).
Tạp chí lao động và công đoàn (tháng 5 kỳ II năm 2005).
Tạp chí lao động và xã hội (Số 251 từ 16 đến 30/11/2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28132.doc