Cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao để hoàn thiện hơn bộ máy quản lý của nhà nước từ đó sẽ thực hiện tốt được các vấn đề quản lý kinh tế và đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển mạnh dẫn đến tạo được việc làm cho người lao động và hạn chế lạm phát. Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài trong sản xuất, đầu tư những ngành có trọng điểm, hướng mạnh thị trường xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, thế kỷ của trí tuệ, là sinh viên kinh tế em tự cho mình phải phấn đấu học tập, rèn luyện để sau này trở thành một cán bộ kinh tế tốt sẽ cống hiến sức mình góp phần vào xây dựng đất nước trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển mạnh đứng trong hàng ngũ các nước phát triển trên thế giới.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế và một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoà tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. Quá trình chuyển đổi đó được bắt đầu từ đại hội VI năm 1986. Trong quá trình chuyển đổi từ đó đến nay nền kinh tế nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa nước ta thoát khỏi sự trì trệ về phát triển kinh tế sang một nền kinh tế mới, phát triển mạnh hơn. Trong tương lai, có thể nền kinh tế nước ta sẽ theo kịp được nền kinh tế của những nước phát triển trên thế giới. Những thành công bước đầu của nền kinh tế có được là do Đảng và nhà nước ta đã nhận ra rằng sự vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã chủ chương chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhưng nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý mà là nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhà nước với tư cách là người điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Vậy Nhà nước có vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nhưng Nhà nước thự hiện chức nưng đó bằng những công cụ gì và thực hiện như thế nào? đó là vấn đề làm tôi quan tâm và đi sâu vào tìm hiểu vấn đề nà. đề án sẽ đề cập đến những vấn đề: Tính tất yếu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Và một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Phần I
Sự cần thiết và tính tất yếu của việc chuyển đổi nèn kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sụ quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
I - Kinh tế kế hoạch hoá tập trung những ưu điểm và nhược điểm
1- ưu điểm
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vậ chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ, ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tậpt rung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời nó cũng thích hợp với kinh tế thời chiến lúc đó.
2 - Nhược điểm.
Sau ngày giải phóng Miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nên fkt tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó gây ra rất nhiều hậu qủa xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế “gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đàu tư chủ yếu dựa vào vay viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng một gia tăng.
- Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gían tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
- Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
II - sự cần thiết phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta.
Trước sự suy thoái k nghiêm trọng viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hộiVI của Đảng đã chủ chương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến Đaih hội VII Đảng ta xác định roc việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại.
- Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tàm mươi đã chỉ rõ thự hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên lục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của Xã họi đạt mức rất thấp, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
- Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường, Về vấn đề này có nhiều ý kiến đáng giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lãnh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
- Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thé giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
- Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của môix nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia là tảoa đượcnhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp, tiềm lực kinh tế đã trở thành thức đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần túy. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình”, vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đối với nứoc ta vait rò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng.
Phần II
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
I - Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế.
Tại sao Chính phủ phải can thiệp vào nền kinh tế ? Adam Smith, một nhà kinh tế học đã lập luận trong tác phẩm kinh điển của mình vào năm 1776, cuốn “của cải các dân tộc”, rằng người ta trong khi theo đuổi lợi ích riêng của mình dường như được “một bàn tay vô hình” dẫn dắt để tăng thêm lợi ích cho xã hội, nếu như thị trường phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả sao cho các nhu cầu của người tiêu dùng được thoả mãn với chi phí tối thiểu, thì tại sao Chính phủ lại can thiệp vào nền kinh tế để làm gì ? Nhà kinh tế học bắt đầu từ cuốn “của cải các dân tộc” của Adam Smith. Song với tư tưởng cho rằng, nguồn gốc của sự giàu có mỗi dân tộc nằm ở sự tự do kinh tế, Adam Smith về thực chất chưa nhìn thấy sự phát triển . Theo ông nền kinh tế phát triển được, xã hội giàu có được là nhờ tự do cạnh tranh, còn vai trò của nhà nước chỉ bao hàm ở việc bảo vệ quyển sở hữu thông qua luật pháp, đảm bảo hoạt động cho các nhà kinh doanh và chống thù trong giặc ngoài , bảo đản môi trường ổn định cho nhà nước cũng có chức năng kinh tế nhất định, như chăm lo tới những việc đào sông, đắp đường...Nhưng nhing chung Adam Smith vẫn thiên về ý tưởng coi nhà nước chỉ là “người bảo vệ”, “người canh gác” cho nền kinh tế.
Quả thật tư tưởng ủng hộ nèn kinh tế thị trường từ do cỉa Adm Smith và các nhà kinh tế học thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển. Song sự phát triển tự do cũng gây nên những tệ nạn như khủng hoảng thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, bất nình đẳng. Từ đó dẫn đến khủng hoảng chính trị, xã hội sâu sắc, đe doạ sự tổn hại của chủ nghĩa tư bản đương thời. Trong bối cảnh đó nhiều nhà kinh tế học thế kỷ XIX đã đưa ra những tư tưởng Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế. Nổi bật là tư tưởng của Karl marx (1818 - 1883) kế thừa quan điểm của những nhà không tưởn Châu âu đầu thế kỷ XIX, K.Mark nhìn nhận nguyên nhân sâu xa của những khủng hoảng thất nghiệp, phân hoá, bất bình đẳng thừ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chế độ tư hữu này đã phân chia xã hội thành hai giai cấp tư sản và vô sản. Giai cấp tư sản là người nắm trong tay về tư liệu sản xuất. Họ là chủ sở hữu, có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt về tư liệu sản xuất và những kết quả của sản xuất. Còn giai cấp vô sản là những người bị tước hết tư liệu sản xuất. Để sống họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản chủ nghĩa và quan hệ giữa tư bản và lao động cho nhà tư sản và họ bị bóc lột giá trị thặng dư. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và quan hệ giữa tư bản và lao động như vậy làm cho nền kinh tế phát triển tự do, vô chính phủ lâm vào tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, phân hoá bất bình đẳng. Để khắc phục những tệ nạn đó giai cấp vô sản phải thông qua cách mạng xã hội về tư liệu sản xuất, từng bước tiền dần tời một xã hội phồn thịnh, bình đẳng và văn minh.
Có nhiều người đã đi theo con đường của Kmark và nhiều nơi trên thế giới đã tiền lên xây dựn XHCN, mà nền tảng của xã hội mà nền tảng của đó là chế độ sở hữu ch về tư liệu sản xuất.
Mặc dù có nhiều cách lý giải khác nhau, sự thể hiện có những đặc điểm riêng biệt, song những người theo tư tưởng này đều cho rằng, thông qua sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, nhà nước nắm được các điều kiện vật chất của sản xuất từ đó sẽ tổ chức quản lý thống nhất nền kinh tế, đưa nó vận hành theo định hướng của nhà nước.
Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nôt ra năm 1929 - 1933 đã chứng tỉo rằng “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần phải có sự cân thiệp của n vào quá trình hoạt động của nền kinh tế điều tiết nền kinh tế. Nhà kinh tế người Anh Jonh Meynard keynes (1884 - 1946) đã đưa ra ký thuyết nhà nước điều tiết kinh tế thị trường.
Tư tưởng nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường của Keynes xuất phát từ chỗ cho rằng, sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng chậm hơn so với thu nhập.
Vì vậy, cầu giảm xuống. Sự giảm sút cầu tiêu dùng hay tiêu dùng không đủ sẽ kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá, từ đó làm cho tỷ xuất lợi nhuận giảm xuống. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất vay thì các chủ đầu tư, họ sẽ không dẫn nền kinh tế đi đến chỗ trì trệ, khủng hoảng và là cho nạ thất nghiệp ngày càng tăng.
Để khắc phục tình trạng đã nêu, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường, phải mở ra các cuộc đầu tư lớn. Có làm như vậy mới huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu tăng lên sẽ làm sản xuất tăng nhanh, nhờ đó mà điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp. Theo thuyết của trường phải Keynes, nhà nước can thiệp vào kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển v..v...ở tầm vi mô nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Tóm lại nền kinh tế thị trường lý tưởng là nền kinh tế - Trong đó các hàng hoá và dịch vụ tự nguyện trao đổi bằng tiền theo giá thị trường. Hệ thống này cho phép tạo lợi ích tối đa từ các nguồn tiềm năng sẵn có của xã hội mà không cần sự can thiệp của chính phủ. Nhưng trên thực tế không có nền kinh tế nào hoàn toàn là lý tưởng của “bàn tay vô hình”. Mỗi nền kinh tế đèu có những khuyết tật dẫn đến những căn bệnh như ô nhiễm, thất nghiệp, chênh lệch giàu nghèo quá mức nên bất cứ nơi nào trên thế giới không có chính phủ, dù bảo thủ tới đâu lạ không nhúng tay vào nền kinh tế.
II - Vai trò nhà nước Việt nam trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý.
1 - Nhà nước ta quản lý kinh tế hay làm kinh tế.
Mặc dù không có nhà nước đứng trên nền kinh tế hay ngoài nền kinh tế nhưng phải nhấn mạnh rằng nhà nước theo nguyên nghĩa của từ này “các nhà chủ nô, phong kiến, tư sản cổ điển không làm kinh tế hay “quản lý nền kinh tế “ khi chủ thể của hoạt động này ý thức được rằng: Tài nguyên là khan hiếm một cách tương đối do đó các giá trị sử dụng cũng khan hiếm một cách tương đối cho dù đát nước ở bất kỳ trình độ phát triển nào trên thang bậc của nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy chính phủ luôn phải lựa chọn các phương án phát triển kinh tế - xã hội sao cho với một nguồn lực hiện như đang có của nền kinh tế có khả năng thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư về hàng hoá và dịch vụ, các doanh nghiệp phải lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh sao cho đạt được lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, sự khácnhau giữa nhà nước với doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp nhà nước) chỉ là ở chỗ:
- Các doanh nghiệp làm kinh tế theo nghĩa của từ này: tính hiệu quả kinh tế bằng thước đo lợi nhuận.
- Nhà nước không “làm kinh tế”như doanh nghiệp làm nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế tức là: Lựa chọn phương án phát triển kinh tế - xã hội can thiệp, điều khiển mỗi hi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế - chính trị - xã hội bên trong và bên ngoài.
2 - Vai trò kinh tế của nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường .
Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là do tác động của qui luật giá trị và cạnh tranh. ở đâu tồn tại các điều kiện về môi trường vủa kinh tế sẽ vận hành theo cơ chế của nó. Mọi sự đều vận động theo một qui chế hay một phương thức nhất định. Trong mỗi nền kinh tế có cơ chế hoạt động từ bản thân của nó và sự quản lý nền kinh tế ấy.
Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế và đã làm cho các qui luật khách quan hệ trao đổi ngang bằng giá trị méo mó, phân phối hàng tiêu dùng theo định hướng quan hệ cung cầu của hàng triệu con người bằng kế hoạch chủ quan, hạn chế cầ, giảm nhu cầu vô hạn của dân chúng xuống thấp hơn năng lự của họ phân phối vạt tư theo định lượng thực chất là làm giảm cung vì các yếu tố đầu vào ít thì làm sao có sản phẩm đầu ra tăng lên. Để ổn định kinh tế, Nhà nước đã chú trọng giải quyết việc làm cho tất cả, tăng biên chế theo kiểu biên chế suốt đời, không còn có sự cạnh tranh nào nữa, thực ra là đã làm giảm năng suất lao động xã hội xuống và cũng không còn động lực cho sự phát triển vì mọi lợi ích đã tự xã hội hoá. Do sự can thiệp quá lớn các nền kinh tế chỉ huy đã bị thất bại.
Trong nền kinh tế hốn hợp, các nhà nước đã lựa chọn kiều lượng can thiệp của mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp của mình vào trong thị trường một cách thích hợp hơn. Có ba loại can thiệp ở các mức độ khác nhau:”điều tiết” “điều khiển”và quản lý. Trước đây trong nền kinh tế chỉ huy cơ chế kinh tế của chúng ta đã cho nhà nước quản lý. Nhà nước đã quản lý tư liệu sản xuất, quản lý giá cả và quản lý việc phân phối tiền lương, thu nhập. Nay khi đã chuyển sang cơ chế thị trường quyết định. Nhà nước quản lý kinh tế hiệ nay hoàn toàn khác với cơ chế cũ. ở đây nn phải điều chỉnh thị trường bằng các công cụ thuế, chi tiêu tài chính, lãi xuát và luật pháp. Do vậy mà trong cơ chế thị trường của ta, sự điều tiết của nhà nước bằng các công cụ gián tiếp là chủ yếu. Ngoài ra nhà nước cũng phải nắm trong tay một lực lượng kinh tế quốc doanh đủ mạnh, có hiệu quả và được xen như là một lực lượng kinh tế cho đất nước.
Vai trò quản lý của nhà nước vào cơ chế thị trường những công cụ gián tiếp không có nghĩa là giảm vai trò của nhà nước trong việc quan rlý kinh tế ch ở nước ta. Ngược lại , vai trò của nhà nước rất lớn là yeu cầu rất cao. Khi việc quản lý, vĩ mô của nhà nước mạnh, nhà nước đủ sức can thiệp một cách giản tiếp vào thị trường thông qua các công cụ của mình nhưng lại rất hiệu qủa đối với nền kinh tế. Ví dụ, Nhà nước không cần kiểm soát thông qua việc đặt giá, nâng giá mà thông qua công cụ thuế , luật chống độc quyền, chống đầu cơ buôn lậu, chống hàng gỉ và nhiều biện pháp kế hoạch hoá vùng, lãnh thổ quy hoạch đô thị quy hoạch xây dựng nhà ở, kết cấu hạ tầng, xây dựng chiến lược và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực con người, kế hoạch lựa chọn công nghệ mới cũng sẽ làm tăng rất nhanh nguồn lực của đất nước. Vai trò can thiệ của nhà nước trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế nước ta đã có ý nghĩa thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế hiện nay.
III - đặc trưng cơ bản của nèn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần rồi chuyển lên kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy nội dung định hướng của XHCN là gì ? Đây là vần đề rất phức tạp, theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam thì định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính sau:
Một là: hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường được hcủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua luật pháp, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. nếu ở tầm vi mô, các doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mụ tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vi mô. Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hai là: Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái được chủ động bảo vệ và phát triển qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành đúng đắn luật pháp chính sách môi trường của nhà nước trong từng thời kỳ.
Ba là: Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phải là nền kinh tế phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ kém phát triển tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp dẫn tới mức thu nhập bình quân đầu người thấp không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN đây là yêu cầu rất quan trọng của định hướng XHCN, đành rằng nếu chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì đã có nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế XHCN.
Bốn là: Định hướng XHCN phải được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta, đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế. Để giữ được định hướng XHCN, “Kinh tế quốc doanh phải nắm được những bộ phận thên chốt có vị trí chi phối nền kinh tế có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở mức độ nhất định”.
Ngoài ra Nhà nước cũng phải đầu tư phát triển các doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác nhằm tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tập thể hợp tác xã phải được phát triển theo nguyên tắc tự nguyện dưới dạng cổ phần, liên doanh. Kinh tế tư nhân được phát triển bình đẳng vf có thể đan xen vào các thành phần kinh tế khác. Để có được cơ cấu kinh tế như vậy cần phải giải quyết những vấn đề phân phối thu nhập. Ngoài tiền lương, tiền công người lao động còn được hưởng phân phối từ các nguồn hữu sản của họ. Cơ cấu kinh tế mới được hình thành một phàn do tự điều chỉnh của nền kinh tế, một phần do nhà nước điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh và huy động được tối đa tiềm lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế xã hội.
Năm là: Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Đây là một nọi dung quan trọng không thể thiếu được đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó phải được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, công bằng xã hội trong phân phối và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân bằng hệ thống hàng hoá công cộng. Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đánh giá tổng quát và rút kinh nghiệm đổi mới ở nước ta như sau: “...cùng với sự kích thích sản xuất phát triển kinh tế thị trường cũng là một môi trường thuận lợi để nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn ch. Để hạn chế và khắc phục được những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của XHCN, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp , kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác”.
Sáu là: Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà hợp với nền kinh tế quốc tế. Với xu hướng phát triển kinh tế mở rộng, nội dung trên có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy được lợ thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý vè lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác nó làm cho nền kinh tế từ đó có điều kiện tiếp thu các yếu tố khoahọc kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng hơn.
Phần III
Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước.
I - Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
1 - Mục tiêu:
Mục tiêu kinh tế của nhà nước được thể hiện trong văn kiện đại hội VIII là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao. Quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa ra nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp phát triển”.
Nội dung cụ thể của những mục tiêu:
a - Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả:
Muốn phân bố nguồn lực có hiệu quả. Nhà nước phải đựa vào công cụ kế hoạch để hoạc định sự phát triển toàn diện nền kinh tế, thông qua công cụ này, nhà nước có thể nắm bắt được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cầu, trạng thái nền kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bố nguồn lực, nhà nước: vốn, lao động,...cho phù hợp với từng vùng và sử dụng có hiệu quả nhất, để từ đó nâng cao chất lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà chính phủ khẳng định được ý đồ đó của mình trong lĩnh vực: Xây dựng công trình công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, giảm bứt những rủi ro đối với các thành phần kinh tế, đảm bảo các hoạt động kinh tế để từ đó làm cho ngày càng hoạt động có hiệu quả và tốt hơn.
b - Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội.
Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ pháp luật điều tiết thu nhập bảo hộ và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của nhà nước có thể là gián tiếp hoặc trực tiếp, song phải thực hiện phân phối thưo lao động đối với sản phẩm làm ra bởi vì nước ta nền kinh tế phát triển ở trình ọ chưa cao mà phân phối theo nhu cầu. Do đó mà đối với các vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực như: trợ cấp, phân phối lại, bảo hiểm...
c - Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Để giải quyết tốt mục tiêu và ổn định tăng trưởng kinh tế n phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường, phát huy các mặt tích cực của nó xác định rõ nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới. Khuyến khích phát minh sáng kiếm, sử dụng nguồn lực chất xám, cạnh tranh lành mạnh chống độc quyền ...thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả mọi mặt: lao động vốn kỹ thuật, đất đai trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
d - Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là nền tảng phát triển kinh tế đất nước, nó được coi là nền nhân tố không thể thiếu được hay nói cách khác là nhà nước nắm hầu hết (sở hữu) phần lớn để đả bảo định hướng là kinh tế - làm như vậy nhà nước không ngừng đầu tư cho giáo dục và đào tạo, đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật mới nhất của thế giới để chuẩn bị cho tương lai đưa nứoc ta thành một nước công nghiệp phát triển.
e - Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội góp phần vào sự hoà bình chung của thế giới, ổn định phát triển kinh tế, hoà nhập với tấ cả các nước trên thế giới.
2 - Một số công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên nhà nước phải áp dụng các công cụ kinh tế vĩ mô sau:
a - Hệ thống pháp luật:
Nhà nước pháp quyền trước hết phải được thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ và hoa học, pháp luật phải được thực hiện một cách công minh, bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật phải phản ánh trong bản thân nó sự vận động của cơ chế thị trường, tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do bình đẳng. Pháp luật là một biện pháp tạo độ tin cậy rất cao của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Vì vậy có thể nói rằng nó có tính ổn định cao hơn so với các chính sách tạo niềm tin vào sự bảo đảm cho vấn đề phát triển kinh tế. Công cụ pháp luật sẽ kiểm soát được hành vi hoạt động sản xuất kinh doanh do đó sẽ hạn chế được các mặt tieu cực do hoạt động kinh doanh gây ra.
b - Chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá nhằm diều chỉ thu nhậpvà chi tiêu của chính phủ để hưởng nền kinh tế vào một nước sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khoá có 2 công cụ chủ yếu là chi tiêu của Chính phủ và thuế. Chi tiêu của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô của chi tiêu công cộng do đó có thể trực tiếp tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế làm giảm các khoản thu nhập do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân. Từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng.
Tóm lại: chính sách tài khoá được áp dụng để giảm sự suy thoái của nền kinh tế làm cho sản lượng nền kinh tế tăng lên do đó GDP cũng sẽ tăng lên.
chẳng hạn tăng chi tiêu của Chính phủ như đầu tư cơ sở hạ tầng, công cộng các công trình phúc lợi , đầu tư cho quốc phòng làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư tư dẫn đến làm tăng trưởng kinh tế, hoặc khi chính phủ giảm thuế cũng sẽ làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế và làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Chính sách tài khoá rất quan trọng nó làm công cụ điều tiết trong nền kinh tế, tạo ra sự phát triển ổn định, làm cho biên độ dao động trong một chu kỳ kinh tế sát với mức sản lượng tiền năng.
c - Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm vào đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có 2 công cụ chủ yếu là lượng cung tiền và lãi xuất chính sách tiền tệ được thực hiện bởi Ngân hàng Trung ương. Khi ngân hàng trung ương tăng lượng cung về tiền sẽ làm cho lãi xuất giảm do đó sẽ kích thích được đầu tư tư nhân và nền kinh tế sẽ đạt được mức tăng trưởng mong muốn.
Còn khi NHTW tăng lãi xuất thì hoạt động đầu tư kém hơn.
Tóm lại, chính sách tiền tệ cũng như chính sách tài khoá đều nhằm mục đích là điều tiết nền kinh tế, đạt được mức tăng trưởng mong muốn, giảm tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp.
d - Chính sách thu nhập.
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp (công cụ) mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại côn cụ, từ các công cụ cứng rắn như đông giá đông lươngg, những chỉ dẫn chung để ổn định tiền công và giá cả, những qui tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả, tiền lương. Đến những công cụ mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn khuyến khiách bằng thuế thu nhập...
e - Chính sách kinh tế đối ngoại.
Một nền kinh tế phát triển là nền kinh tế phải hoá nhập với nền kinh tế thế giới, phải quan hệ hợp tác với các nước trên t hế giới trên quan điểm bình đẳng cũng phát triển. Chính sách kinh tế đối ngoại nhằm ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các qui định về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ khác tác động vào hoạt động xuất khẩu. Nhà nước phải biết lựa chọn phương pháp phân phối lại để phải giải quyết được vấn đề đó Nhà nước dùng hệ thống thuế điều tiết thu nhập của người giàu đồng thời giúp đơc người nghèo có cơ hội làm giàu, thực hiện trợ cấp cho những người khó khăn không có khả năng lao đoọg người giá cô đơn, những người thất nghiệp tạm thời. Đó là công cụ có hiệu lực nhất để định hướng xã hội một nền kinh tế.
II - Một số giải pháo cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
1 - Tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một cách triệt để.
Nhà nước phải đề ra các biện pháp quản lý giá hết sức linh hoạt và đa dạng phù hợp với diễn biến của môí loại hình thái thị trường đang từng bước chuyển mình trong cơ chế mới.
+ Đối với thị trường độc quyền như ngành bưu điện, bưu chính viễn thông... phải có các biện pháp quản lý giá như sau:
- Qui định giá cước chuẩn đối với những dịch vụ độc quyền như giá điện, cước thư, cước điện thoại trong nước.
- Qui định chính sách, cơ chế quản lý giá sử dụng cước bưu chính viễn thông quốc tế.
- Qui định chính sách, cơ chế quản lý giá sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
+ Đối với thị trường cạnh tranh phải có các biện pháp quản lý giá thích hợp cho từng mức độ cạnh tranh.
Nhà nước phải hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết cho việc thương mại hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động, đưa các loại thị trường này vào hoạt động.
2 - Tăng cường khả năng kiểm kê, kiểm soát của nhà nước đối với sự hoạt động của các doanh nghiệp như:
- Tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh.
- Thành lập các công ty kiểm toán tư nhân và nhà nước đặt dưới sự quản lý và chỉ đạo nghiệp cụ của Bộ tư pháp. Không thừa nhận tư cách pháp nhân của các cơ quan kiểm toán do bộ chủ quản và bôh tài chính thành lập .
- Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng ký hệ thống kế toán.
3 - Hoàn thiện và đổi mới quản lý nhà nước về tiền tệ - tín dụng và Ngân hàng.
Chính sách tiền tệ được xem là một lĩnh vực hàng đầu để điều tiết nền kinh tế vận hàng theo cơ chê thị trường. Việc xác định roc nội dung của chính sách tiền tệ sẽ giúp cho Ngân hàng TW đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ, thực hiện được vai trò quản lý của nhà nước về tiền tệ - tín dụng và Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Để quản lý hoạt động tiền tệ - tín dụng Ngân hàng nhà nước phải có luật hoặc những văn bản pháp qui dưới luật do nhà nước ban hành. bên cạnh đó phải có tổ chức hoặc bộ máy đủ mạnh với những chức năng được giao để thực hiện.
4 - Tiếp tục kiềm chế lạm phát.
Lạm phát xảy ra đối với kinh tế không phải hoàn toán là do nước đó quá nghèo và nền kinh tế kém phát triển thì tất yếu sẽ có lạm phát cao. mà nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp làm cho lmạ phát gia tăng là có quá nhiều tiền trong lưu thông do đó cần phải có một chính sách tiền tệ đúng đắn để kiềm chế được lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
5 - Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô
Sức mạnh của quản lý nhà nước chính là nhờ ở phương pháp hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động toàn xã hội theo trật tự và phương hướng đề ra. Quản lý mệnh lệnh tác động trực tiếp đối tượng thực hiện. còn quản lý vĩ mô tác động gián tiếp đến các đối tượng, gây nên phản ứng dây chuyền và từ đó có thể gặt hái được những thành tựu to lớn. Nếu sử dụng các công cụ quản lý vi mô một cách riêng rẽ như quản lý theo mệnh lệnh, chẳng những kém hiệu quả mà có thể gây nên những tác hại nặng nề do tác động triệt tiêu lẫn nhau trong cả hệ thống dây chuyền. Vì vậy cần phải:
- Tổ chức một bộ phận cán bộ chuyên trách đủ mạnh để: Giúp Chính phủ nghiên cứu mọt cách đồng bộ hệ thống mô hình cần tạo lập và lộ trình thực hiệnphù hợp với điều kiện thực tế của nước ta.
Giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng của chính phủ trong việc phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô: kế hoạch, ngân sách, tiền tệ.
Tăng cường hơn nữa vai trò của nhà nước trong việc thiết lập kỉ cương trật tự mới để tạo môi trường cho cơ chế thị trường vận động có hiệu quả.
- Quản lý nhà nước cần được đổi mới cho phù hợp với cơ chế thị trường của nền kinh tế.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là tác động gián tiếp gây phản ứng dây truyền đẻe đạt hiệu quả tổng thể.
Kết luận
Quá trình chuyển đổi cơ chế trong nhưngc năm qua thu đợc những tành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng luôn đạt kết quả cao, năm 2000 là 9,5 %, năm 1999 là 3%. Năm 2001 GDP đạt khoản 6% là một trong số ít nước có tốc độ tăng trưởng cao ở Châu á. Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng 12% (năm 1998) tỷ trọng công nghiệp quốc doanh 47% và duy trì được tốc độ phát triển 8,7%. Về nông nghiệp vẫn giữ được tốc độ phát triển cao, sản lượng lương thực qui ra thóc đạt 31,7 triệu tấn (1998) tăng hơn 1 triệu tấn so với năm 1997, lương thực bình quân đầu người tăng dần năm 1995 là 372,8 kg lên 387 kg năm 1996, năm 1997 là 398 kg, và trên 409kg năm 1998. Đến năm 1998 Việt Nam đã vượt kế hoạch năm 2000. Trong 3 năm liền Việt Nam đã xuất khẩu trên 3 triệu tấn gạo mỗi năm:
3,04 triệu tấn năm 1996, 3,6 triệu tấn năm 1997, 3,8 triệu tấn năm 1998 đã vượt lên trở thành một nước có lượng xuất khẩu goạ lớn thứ hai trên thế giới sau Thái Lan. Về lạm phát đã giảm được mức lạm phát rất đáng kể từ siêu lạm phát năm 1986 khoảng 774% xuống còn 4,5% năm 1996 3,6% năm 1997 và 9,1 năm 1998. Tích luỹ của nền kinh tế tăng lên nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã lên tới 71219 tỷ đồng.
Điểm qua một vài thành tựu của Việt Nam đạt được từ khi đổi mới đến nay chúng ta thấy nền kinh tế của nước ta đang trên đà phát triển. Điều đó đạt được là do đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra từ Đại hội VI (1986). Trong cơ chế kinh tế mới này thì Nhà nước có vai trò rất qian trọng. Bằng những công cụ quản lý của mình Nhà nước điều chỉnh nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển lên một trình đọ cao hơn và đạt được những thành tựu mong muốn. Nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều những mặt tiêu cực xảy ra trong xã hội do hoạt động sản xuất kinh doanh gây ra, Theo tôi nghĩ thì nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển cao. Mọi người được phép tự do cạnh tranh do đó không thể không gây ra những tệ nạn xã hội vì vậy Nhà nước cần phải có những biện pháp quản lý đúng đắn công bằng cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh kinh tế thị trường sẽ gây ra sự phân hoá giàu nghèo vì thế sẽ phải có những chính sách đúng đắn để nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội trên cơ sở nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người.
Cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao để hoàn thiện hơn bộ máy quản lý của nhà nước từ đó sẽ thực hiện tốt được các vấn đề quản lý kinh tế và đưa nền kinh tế tăng trưởng, phát triển mạnh dẫn đến tạo được việc làm cho người lao động và hạn chế lạm phát. Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài trong sản xuất, đầu tư những ngành có trọng điểm, hướng mạnh thị trường xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, thế kỷ của trí tuệ, là sinh viên kinh tế em tự cho mình phải phấn đấu học tập, rèn luyện để sau này trở thành một cán bộ kinh tế tốt sẽ cống hiến sức mình góp phần vào xây dựng đất nước trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển mạnh đứng trong hàng ngũ các nước phát triển trên thế giới.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33712.doc