Chúng ta cần thấy rõ vai trò tích cực của khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế-xã hội.Song chúng ta cũng không đựoc mơ hồ trước những tiêu cực và khiếm khuyết do khu vực kinh tế tư nhân gây ra.Đó là :quy mô doanh nghiệp nhỏ,tích tụ vốn còn hạn chế;trình độ quản lý còn yếu;bản thân các chủ doanh nghiệp do mới ra khỏi thời kỳ bao cấp nên chịu nhiều ảnh hưởng của sự trông chờ,mong đợi sự giúp đỡ che chở của Nhà nước;sản phẩm làm ra có chất lượng thấp,khả năng cạnh tranh yếu.Một mặt,cần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật,chính sách để tạo môi trường thông thoáng, bảo đảm cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh,cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Mặt khác,phải có cơ chế quản lý và chỉ đạo thực tiễn hợp lý để trợ giúp,hỗ trợ,kiểm tra và xử lý kịp thời.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1570 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong thành phần kinh tế này có địa vị chính trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm, bị kinh tế quốc doanh, tập thể chèn ép. Quan niệm cũ của xã hội là khu vực KTTN gắn liền với tự quyền đi lên chủ nghĩa tư bản nó đối lầp với con đường đi lên CNXH. Ngay trong điều kiện khó khăn như vậy, khu vực KTTN vẫn tồn tại và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng quỹ thu nhập của hộ dân cư. Chẳng hạn, trong thu nhập của hộ người nông dân là xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thu từ kinh tế tập thể thường chiếm 30 - 40%, kinh tế phụ gia đình (thực chất là khu vực KTTN) chiếm 60 - 70%. Như vậy có nghĩa là trong nhà nước nơi có phong trào hợp tác hoá mạnh nhất, triệt để nhất nhưng luôn tồn tại kinh tế cá thể.
Đại hội Đảng lần thứ vi là mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghiã quyết đình đối với sự hình thành mô hình kinh tế phối hợp với tiền tệ Việt Nam và quy luật khách quan. Đường lối đổi mới được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ vii. Viii, và ix.
chủ trương đối với kinh tế tư nhân được đại hội Đảng VI đề ra :”Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự liên kết chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”- Văn kiện Đại Hội đại biểu lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội (tr44). Đại hội còn chỉ rõ:”Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào, cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể”.
Đối với kinh tế tiểu tư sản, Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể.
Cương lĩnh tại Đại hội vii của Đảng(1991) đã xác định :”Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyên dân chủ cùng có lợi.Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh, do luật pháp qui định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Đại Hội Đảng lần thứ ix xác định :
“Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trựờng định hướng XHCN” ( Văn kiện Đại hội Đảng, trang 95 – 96).
“Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn “ ( Văn kiện Đại hội Đảng ix, trang 98).
“Khuyến khích phát triển kinh tế Tư bản tư nhân rộng rãi trong những nghành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế Tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước “.
“Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xác định tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai “
Như vậy trong quan điểm của Đảng và của Nhà nước đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức, đánh giá về khu vực kinh tế tư nhân; và dần được cụ thể hoá bằng những chích sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển :
-Từ chỗ chia kinh tế thành 2 bộ phận: XHCN và phi XHCN,chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế phi XHCN, đã chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu, tổ chức kinh doanh đa dạng.
-Từ chỗ coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo, phải nắm giữ mọi ngành nghề, lĩnh vực, độc quyền nắm tiền,nắm hàng đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế thị trường định hựớng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô.
Những nỗ lực trên về việc tạo lập hành lang pháp lý để cho KTTN của nước ta phát triển nhanh chóng và vững chắc. Qua đó khẳng định: Đảng, Nhà nước ta tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển thuận lợi, phát huy hết mọi tiềm lực, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, tiến lên CNXH. Được Nhà nước khuyến khích phát triển, tồn tại bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực KTTN có vai trò như thế nào và tình hình phát triển của khu vực này ra sao, chúng ta cùng xem xét ở chương sau.
Chương II : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam
I. Vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
1. Ưu thế của kinh tế tư nhân
Những đặc điểm vốn có:
-KTTN có sức sống mạnh mẽ:
Khác với kinh tế nhà nước, KTTN dễ thành lập, mang tính tự nhiên, lan truyền, không cần sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước. Sự phát triển của KTTN là mang tính khách quan, phản ánh quy luật cung cầu trên thị trường. Sức sống mãnh liệt của KTTN thể hiện sự tồn tại của nó trong nền kinh tế dù cho Nhà nước không thừa nhận, không chấp nhận nó, dù cơ chế kinh tế kìm hãm nó.
-Tính bền vững, truyền thống lưu truyền kinh nghiệm :
KTTN ra đời cùng sự ra đời của sản xuất hàng hoá và nó là nhân tố thúc đẩy sản xuất phát triển. Hộ gia đình là thành phần kinh tế không thể thiếu trong KTTN; với đặc trưng là một tế bào của nền kinh tế, hộ gia đình luôn tồn tại, phát triển trong nền kinh tế, dưới nhiều hình thức, quy mô.
Gắn với sở hữu tư nhân và quá trình tự phát, quá trình phát triển KTTN là quá trình lưu truyền kinh nghiệm truyền thống trong bản thân các doanh nghiệp, xí nghiệp tư nhân, trong các hộ kinh tế gia đình. Những bí quyết công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh thường tồn tại trong phạm vi nhỏ và đặc trưng nhất là các làng nghề truyền thống; nó được chuyển từ đời này qua đời khác.
-KTTN có cơ cấu tổ chức linh hoạt:
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thì vấn đề then chốt là phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. KTTN với sự linh hoạt của mình sẽ phủ đầy những lỗ trống trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng tốt hơn kinh tế nhà nước. Với những đặc điểm vốn có đó, KTTN có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế .
2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ vi (tháng 12/1986), và nhất là khi Luật công ty, Luật doanh nghiệp có hiệu lực, KTTN đã được chú trọng và có điều kiện phát triển: số doanh nghiệp trong khu vực KTTN tăng mạnh cả về số lượng, quy mô và vốn đầu tư, tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của xã hội. Qua đó cho thấy sức sống mạnh mẽ của khu vực KTTN; KTTN khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế. Vai trò đó thể hiện qua từng lĩnh vực:
2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Trong lĩnh vực nông nghiệp, số hộ tư nhân, cá thể kinh doanh sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn: 81.659 hộ. Đây thực sự là một lực lượng kinh tế mạnh, thể hiện ở các mặt sau:
- Trong một thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm nhiều thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước, cụ thể đã mua: 109483 máy phát điện, 36011 động cơ chạy xăng, 72286 máy kéo nhỏ, 5378009 máy bơm …
- Kinh tế trang trại phát triển mạnh: trong thời gian ngắn, số trang trại được thành lập là: trên 110000 trang trại trong cả nước, trong đó các tỉnh phía Bắc chiếm 67000 trang trại, tương đương 61% .
Hình thức kinh tế trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hoá. Lượng vốn bình quân của mỗi trang trại là 291,43 triệu đồng, nguồn vốn chủ yếu là do chủ trang trại bỏ vốn ra, chiếm 91,03%.
Trang trại tạo ra lượng hàng hóa lớn, trung bình một trang trại cung cấp một lượng giá trị hàng hoá là 91.45 triệu đồng, chủ yếu là nông sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi.
Như vậy, kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên kinh tế hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo việc làm cho trên 60 vạn lao động, với tiền công trung bình 434.29 nghìn đồng/gười /tháng.
Kinh tế trang trại huy động vốn của người dân, khai thác hiệu quả nguồn lực về nông nghiệp của địa phương.
Khu vực KTTN trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần quan trọng vào ngành nông nghiệp: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam, 30% kim ngạch hàng xuất khẩu. Qua đó, góp phần tích cực trong việc công hiệp hoá nông nghiệp nông thôn, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
2.2. Trong lĩnh vực công nghiệp:
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, KTTN tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình đã đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước là:58% năm 2000, Khu vực KTTN mà đặc biệt là các doanh nghiệp, hộ gia đình có vai trò quan trọng tronglĩnh vực công nghiệp chế tạo. Năm 1999 có 600000 doanh nghiệp, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công ngiệp chế tạo.
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì thể chế pháp lý từ năm 1998 đến nay, nhất là luật doanh nghiệp được phê chuẩn và có hiệu lực từ năm 2000.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng 18 – 20% số hộ nông dân tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó 1/2 là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thuộc KTTN, cá thể và hộ gia đình.
Hoạt động công nghiệp của KTTN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lại có tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông thôn. Điều này thể hiện:
- Hình thành loại hoạt động có tính chất công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn cạnh hoạt động nhà nước.
- Giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ, góp quyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
- Góp phần nâng cao đời sống ngưòi dân nông thôn, do đó mở rộng thị trường trong nước: thị trường hàng tiêu dùng, hàng tư liệu sản xuất, sức lao động.
- Góp phần tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Việc xây dựng nông thôn mới hiện đại là mục tiêu lớn của công nghiệp hoá hiện đại hoá theo tinh thần mới, đòi hỏi cơ sở hạ tầng có nguồn vốn lớn mà chỉ Nhà nước thì không thể làm được. Thu nhập từ hoạt động của khu vực KTTN sẽ là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho sự nghiệp này.
Với sự năng động của mình, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sẽ góp phần thu hút vốn, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, tận dụng tri thức con người, kinh nghiệm kinh doanh, qua đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước
2.3. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ:
Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi động, ngày càng lấn át khu vực kinh tế quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm1986 có 56,8 vạn hộ, năm 1995 có 94 vạn hộ. Tư thương và hộ cá thể ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ: năm 1987, khu vực này đảm nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội là 59%, năm 1995 là 79,4%.
- Về mặt số lượng, cơ cấu: 12/2001 số hộ cá thể trong cả nước là 7685978 hộ, trong lĩnh vực thương mại và khách sạn chiếm 54,4%; tập trung nhiều ở thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh 17%, Hà Nội 13,6%, Quảng Ninh 7,17%...
- Về mặt lao động: lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân có thể thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm tốt, tỷ trọng lao động thương nhân cá thể năm 2001 chiếm 87,2%, khu vực khác chiếm 12,8%.
- Về doanh số kinh doanh: tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân tăng từ 66,9% lên 75,1% (từ 1990 – 2001). Thương nghiệp quốc doanh và khu vực khác giảm từ 33,1% xuống còn 24,9%.
- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách khu vực này cũng rất đáng kể, tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước tăng từ 908 tỷ đồng năm 1991 lên 9782,7 tỷ đồng năm 2001.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trong giá trị xuất khẩu tăng từ 12% năm 1997 lên 22% năm 2000 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%.
Như vậy, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt là trong việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thì khu vực KTTN làm tốt hơn khu vực kinh tế nhà nước.
2.4. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng:
Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và mục tiêu tới năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương ứng, bao gồm những công trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ, hàng không. Để xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp cho mục đích phát triển kinh tế cần nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ có nguồn vốn Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau nói lên điều đó: vốn đầu tư ngành năng lượng hàng năm khoảng 2ữ2,5 tỷ USD, dành 5,3ữ5,5% GDP đầu tư cho kết cấu hạ tầng ngành năng lượng; số vốn cần thiết đầu tư cho ngành giao thông vận tải là 11,6 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP tích luỹ.
Chỉ với 2 ngành nêu trên, số vốn hàng năm cần thiết cho đầu tư là 3,4ữ3,5 tỷ USD, đó là chưa kể tới những kết cấu hạ tầng khác như viễn thông, nước sạch…
Trong thập kỷ tới, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, khảng 6ữ7% GDP. Vì thế việc thu hút tham gia của khu vực KTTN là hết sức quan trọng, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế, vốn nhàn rỗi trong dân sẽ đựơc huy động cho hoạt động kinh tế, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
II. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam – những đóng góp và những hạn chế:
1. Những đóng góp tích cực, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua:
Với những quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm gần đây khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ, cụ thể là: tính đến hết tháng 9-2003 cả nước có khoảng 12,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 1000 doanh nghiệp tư nhân. Khu vực KTTN chiếm tỷ trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế lượng vốn huy động cho đầu tư khá lớn; tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 là 28.8%.
1.1. Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
a. Xét trên giác độ tổng cung:
Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN khá ổn định, năm 2002 tăng trưởng cả nước là 7% thì khu vực KTTN trong cả nước tăng 19%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 15%. Với tốc độ tăng trưởng trên, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra 43,36% GDP năm 1995; 42,65% GDP năm 1996; 41,54% GDP (1997); 41,07% GDP (1998) và 40,179% GDP (1999). Đây là đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
b. Xét trên góc độ tổng cầu:
Vấn đề tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là vấn đề quan trọng. Vì vậy nhiều quốc gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam đã có chính sách kích cầu. ở Việt Nam, theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trựởng 1% GDP cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1ữ2,2%. Khi khu vực KTTN phát triển sẽ làm tổng cầu tăng, vì:
- Do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào tăng.
- Thu nhập người lao động tăng và số lao động được huy động tăng.
1.2. Huy động vốn trong xã hội:
Khu vực KTTN có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của KTTN chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%). Với hoạt động khu vực KTTN, nguồn vốn trong dân đã dần dần được khơi thông, góp phần thúc đẩy quy mô đầu tư của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân dễ huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Theo kết quả điều tra nguồn lực do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tiến hành cho thấy có tới trên 70% vốn sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình là huy động của bà con họ hàng.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999 – 2000
TT
Chỉ Tiêu
Đơn vị tính
1999
2000
Tăng so với năm trước
1
Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội
Tỷ đồng
131171
147633
12.55
2
Khu vực KTTN
Tỷ đồng
31542
35894
13.79
2.1
Doanh nghiệp tư nhân
Tỷ trọng trong toàn xã hội
Tỷ trọng trong khu vực KTTN
Tỷ đồng
%
%
5628
4.29
17.04
6627
4.48
18.46
17.75
2.2
Hộ kinh doanh cá thể
Tỷ trọng trong toàn xã hội
Tỷ trọng trong khu vực KTTN
Tỷ đồng
%
%
25914
19.75
82.15
29267
19.82
81.53
12.93
1.3. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giữ gìn ổn định xã hội:
Tạo công ăn việc làm có thể coi là đóng góp quan trọng nhất của khu vực KTTN. Trong điều kiện nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cải cách, không tạo thêm được nhiều việc làm mới, khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000-2002) các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm mới. Cùng với sự tăng trưởng của khu vực KTTN là thu nhập của người lao động ngày một nâng cao. Theo Tổng cục Thống kê thì mức thu nhập bình quân tháng một lao động như sau:
Các loại hình doanh nghiệp
Mức thu nhập trung bình(1000đ)
Chung các loại hình doanh nghiệp
- Doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty cổ phần
- Tập thể
- Công ty trách nhiêm hữu hạn
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1041.1
1048.2
651.1
933.0
529.3
801.8
1754.5
Thu nhập người lao động tăng, đời sống nhân dân được nâng cao, góp phần quan trọng trong phân phối lại thu nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, qua đó tình hình chính trị đất nước được củng cố ổn định.
1.4. Tăng thu cho ngân sách quỗc gia
Đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước đang có xu hựớng tăng nhanh, từ khoảng 6.4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch, tăng 13% so với năm 2001.
Ngoài ra khu vực KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như: thuế môn bài, VAT và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng lớn như: thành phố Hồ Chí Minh là 15%, Tiền Giang: 24%, Đồng Tháp: 16%, Gia Lai: 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định: 33%...
1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hoàn thiện hệ thống ngành nghề:
KTTN phát triển bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, nó sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ở các loại hình doanh nghiệp. KTTN ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, do vậy những lĩnh vực vốn trước đây có sự độc quyền thì nay KTTN tham gia sẽ phá vỡ thế độc quyền đó. Các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ thúc đẩy nhu cầu cải tiến sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
KTTN góp phần khai thác triệt để lợi thế so sánh từng khu vực, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội. Khi môi trường cạnh tranh lành mạnh, nó sẽ giúp người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn sản phẩm phù hợp với mình hơn.
Trải qua giai đoạn lựa chọn, kinh tế tư nhân đã góp phần hình thành hệ thống ngành nghề mang tính cạnh tranh tương đối hoàn thiện. Những ngành nghề tương đối tập trung của kinh tế dân doanh là:(1) Nghề dịch vụ cho giai đoạn trước và sau khi sản xuất một sản phẩm nông nghiệp ( vận tải nông nghiệp, chế biến thức ăn gia súc…), (2) Ngành dịch vụ đô thị ( xây dựng, sửa chữa, ăn uống…), (3) Dịch vụ thông tin…
1.6. Tạo ra đội ngũ những nhà quản lý, doanh nghiệp giỏi, tạo dựng một cơ chế tốt cho việc hình thành nguồn nhân lực:
- Phát triển KTTN sẽ tạo ra một đội ngũ những nhà doanh nghiệp theo đúng nghĩa của kinh tế thị trường: năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng chịu mọi thử thách của thị trường và tự chịu trách nhiệm. Những cơ sở sản xuất kinh doanh của KTTN không chỉ là nơi thu hút vốn, lao động, giải quyết việc làm mà còn là lò luyện để rèn bản lĩnh, tích luỹ tri thức, kinh nghiệm kinh doanh. Chính quá trình lăn lộn trên thị trường sẽ tạo ra những nhà doanh nghiệp có năng lực, khả năng quản lý doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp phát triển. Qua mấy năm gần đây, số doanh nghiệp thu được vốn lớn tăng, xuất hiện những gương mặt chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân còn rất trẻ. Đó là nguồn cung cấp đội ngũ cán bộ quản lý giỏi cho mọi nghành, mọi cấp.
1.7. Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy thị trường phát triển, từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống thị trường hiện đại:
Trong quá trình tự phát triển và hoàn thiện, khu vực KTTN đã trở thành lực lượng không thể thay thế được trong việc thúc đẩy thị trường phát triển. Nguyên nhân chính là sự ra đời và phát triển từng bước của khu vực KTTN đã tạo nên chủ thể thị trường mới, thúc đẩy việc xây dựng và hoàn thiện từng bước hệ thống thị trường, thúc đẩy việc phát huy sức mạnh của cơ chế thị trường, thúc đẩy việc xây dựng hệ thống tổ chức và điều hành thị truờng.
Sự phát triển của KTTN là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển ( thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trựờng khoa học công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân.
1.8. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế quản lý kinh tế – xã hội từ mệnh lệnh hành chính sang quản lý nhà nước vĩ mô, mang tính định hướng, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát huy năng lực sang tạo.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút ngày càng nhiều lao động nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đặc biệt là chiến lược đầu tư tập trung trong các ngành thương mại, dịch vụ trong thời gian qua đã tác động làm chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng cường vào ngành phi sản xuất.
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân:
2.1. Hạn chế của bản thân các loại hình kinh tế tư nhân:
* Phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có qui mô nhỏ, năng lực và sức cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường.
Hiện nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỉ đồng, những doanh nghiệp có vốn từ 10 tỉ đồng trở lên chiếm 1%, trong đó từ 100 tỉ đồng trở lên có 0,1%. Nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu là do chính bản thân chủ doanh nghiệp, gia đình góp vào, việc tiếp cận với vốn vay ngân hàng là khó khăn. Đó là rào cản lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nguồn vốn huy động từ xã hội của khu vực kinh tế tư nhân rất ít. Nguyên nhân có thể bắt nguồn từ chính bản thân khu vực kinh tế tư nhân với những hoat động manh mún, tự phát…
Các yếu tố cần cho một sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường nước ngoài trong đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam còn yếu như: uy tín sản phẩm, chất lượng, mẫu mã, thương hiệu… Nguyên nhân là do công nghệ sản xuất lạc hậu, khẳ năng tiếp thị hạn chế. Vì vậy, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn rất nhiều hạn chế.
* Máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế:
Khả năng đổi mới thiết bị máy móc, công nghệ sản xuất tư nhân hạn chế ( do thiếu vốn ), vì vậy phần lớn đều đang sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu; có khoảng 18% số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và 5% số doanh nghiệp ở Đà Nẵng không thể tăng khả năng sản xuất với những thiết bị hiện có. Đa số các cơ sở sản xuất tư nhân, hộ cá thể tiểu chủ đều sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu 2-3 thế hệ.
Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của kinh tế tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kĩ năng, trình độ. Trong khu vực kinh tế tư nhân chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học, 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn. Cùng với sự lạc hậu về công nghệ, sự yếu kém trong đội ngũ lao động là nguyên nhân làm hạn chế khả năng sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân.
* Năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp:
Quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, bất cập như: thiếu chiến lược, kế hoạch kinh doanh, chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính. Theo khảo sát của MPDF thì chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân ở Việt Nam có tới gần 70% là ở tuổi 21ữ40 tuổi.
Chính vì vậy mà năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp thuộc khu vực này thường thấp hơn so với khu vực khác, như: thiếu tính kế thừa, ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần hợp tác, cạnh tranh không lành mạnh, kém linh hoạt trong nắm bắt thị trường, vận dụng quy luật khách quan của thị trường…
* Khả năng tiếp cận thông tin thị trường và công nghệ:
Với tất cả loại hình kinh doanh, sản xuất thì thông tin thị trường và công nghệ đều rất quan trọng với vấn đề sống còn của nó. Đối với khu vực kinh tế tư nhân, lượng thông tin quan trọng nó tiếp nhận được là rất ít, vì chi phí cao và xử lý còn nhiều bất cập. Thực trạng hiện nay: 10% doanh nghiệp nước ta chưa hiểu biết chung về hội nhập, 26% không hiểu về lộ trình AFTA, 34% không có thông tin hội nhập WTO.
Với năng lực cạnh tranh yếu, thông tin không đầy đủ thì khả năng vươn tới thị trương nước ngoài của kinh tế tư nhân Việt Nam còn rất nhiều khó khăn.
* Một số doanh ngiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật:
Do tính tự phát của khu vực kinh tế tư nhân, hiện nay tình trạng vi phạm pháp luật kinh doanh, trốn thuế, gian lận thương mại của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng gia tăng.
Một hiện tượng rất đáng lưu ý là: một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân lớn chia nhỏ doanh nghiệp, không muốn đăng ký thành lập công ty lớn mà chỉ liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể để núp bóng trốn lậu thuế, hoạt động kinh tế ngầm; một số chủ doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân móc nối với cán bộ nhà nước thoái hoá để bòn rút chiếm đoạt tài sản nhà nước.
2.2. Những rảo cản đối với sự phát triển kinh tế tư nhân:
Trong thời gian qua , tuy nhà nước có sự điều chỉnh về chính sách song vẫn còn nhiều bất cập. Kinh tế tư nhân còn gặp nhiều rào cản trong sự phát triển của mình.
* Những vấn đề bất cập trong khuôn khổ pháp lý ảnh hưởng tới sự phát triển, tính năng động, tự chủ của kinh tế tư nhân:
Khi gia nhập thị trường, doanh nghiệp của kinh tế tư nhân phải mất nhiều thời gian và chịu chi phí khá cao. Theo Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội, sau khi đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp còn phải gõ tới 8 “cửa” với hàng loạt thủ tục rườm rà, trùng lặp và phải mất tới 60 ngày. Mỗi doanh nghiệp ít nhất phải chi 3 triệu đồng, cả về thuế môn bài thì phải tốn tới 4 triệu đồng.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, sau khi đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp của kinh tế tư nhân còn gặp phải “ bức tường đá “ về thủ tục hành chính với ba “ eo chai ” là: khắc dấu, lấy mã số thuế và xin hoá đơn.
Hệ thống pháp luật của ta còn chưa thống nhất, hoàn chỉnh. Thay vì chỉ cần có luật doanh nghiệp lại có tới 5 bộ luật khác nhau: Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Như vậy, trong luật pháp thể hiện sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp, vi phạm quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế.
Tình trạng lạm quyền, quan liêu, tham nhũng của bộ máy quản lý cũng là rào cản cho sự phát triển của KTTN. Chẳng hạn như, việc thi hành luật doanh nghiệp chưa nghiêm túc,nhiều doanh nghiệp phản ánh rằng: UBND một số tỉnh, thành phố ban hành một số văn bản trái thẩm quyền, trái quy định của luật doanh nghiệp; một số bộ ngành địa phương lúng túng trong công tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, thông tin hỗ trợ doanh nghiệp.
Những bức xúc về môi trường pháp lý, sự yếu kém, bất cập của cơ quan quản lý nhà nước lam sai lệch, méo mó những chủ trương, chính sách của Đảng, kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân.
* Thái độ của xã hội và bộ máy hành chính:
Trong một thời gian dài chúng ta chỉ coi trọng kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, thành kiến, bài xích kinh tế tư nhân. Từ thái độ tiêu cực trong nhận thức dẫn đến thái độ đối xử không đúng, gây cản trở kinh tế tư nhân và cả những người ( chủ doanh nghiệp) trong khu vực đó phát triển. Những thái độ, thành kiến này làm ảnh hưởng tới quyết định của cá nhân đối với việc tham gia vào khu vực kinh tế tư nhân, gây mất lòng tin, giảm khả năng vốn có của kinh tế tư nhân.
Một số bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa thật sự có cách nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.Đây là vấn đề bức xúc cần được tháo gỡ.Tâm lý dè dặt, e ngại đối với kinh tế tư nhân đang là rào cản đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Nhận thức rõ vai trò và thực trạng phát triển của kinh tế tư nhân để từ đó có suy nghĩ đúng đắn , hoàn thiện hệ thống pháp luật,chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân tạo diều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Những giải phát cụ thể đó như thế nào chung ta sẽ cùng xem xét trong chương sau.
Chương III: Những quan điểm,giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam
I. Triển vọng của kinh tế Việt Nam
Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX chủ rõ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm từ 2001-2005 là bước phát triển quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 10 năm,giai đoạn 2001-2010 nhằm: “Tăng trưỏng kinh tế nhanh,bền vững,ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh cung cầu kinh tế,cầu lao động theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá.Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Mở rộng kinh tế đối ngoại,tạo cải biến mạnh về giáo dục,đào tạo,khoa học- công nghệ,phát huy nhân tố con người.Tạo nhiều việc làm,cơ bản xoá đói giảm nghèo,đẩy lùi các tệ nạn xã hội.Tiếp tục tăng cường kích cầu hạ tầng kinh tế-xã hội,hoàn thành bước quan trọng trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.Trong kế hoạch 5 năm giai đoạn 2001-2005 phấn đấu tổng sản phẩm trong nước tăng 7%/năm.
Với kế hoạch trên,Đảng và Nhà nước tiếp tục quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,đa dạng hóa loại hình sở hữu,cụ thể:kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,là lực lượng vật chất quan trọng,là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế;kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt,kinh tế cá thể tiểu chủ ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài;khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất-kinh doanh mà pháp luật không cấm;phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước dưới hình thức liên doanh,liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước,tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi.Cải thiện môi trường pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Trong bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay,xu huớng hội nhập kinh tế thế giới đang lan toả khắp các quốc gia.Những cơ hội và thách thức luôn tồn tại song song với nhau.Như vậy,chúng ta cần phải có sự nhìn nhận đúng đắn về vị trí kinh tế tư nhân trong nền kinh tế.Để nền kinh tế phát triển thì kinh tế tư nhân phải được thúc đẩy phát triển,đáp ứng nhu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
1. Một số quan điểm về phát triển khu vực tư nhân
1.1. Sự phát triển khu vực tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.ở đó có nhiều hình thức sở hữu,nhiều trình độ phát triển,tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ.Trong đó khu vực kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế.Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam,chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,coi trọng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đa đem lại những thành công ngoạn mục.Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì trên thế giới.
Cần khẳng định quan điểm:hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm là chủ trương,chính sách nhất quán lâu dài trong đường lối phát triển kinh tế của đảng và Nhà nước,coi đó là quan điểm chủ đạo trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới.
1.2. Đặt khu vực kinh tế Nhà nước,khu vực kinh tế tư nhân có vị trí bình đẳng trước pháp luật.
Đây là điều kiện quan trọng để huy động hết sạch tiềm ẩn về vốn,lao động,công nghệ của các khu vực kinh tế,đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Về mặt pháp lý,doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư bản tư nhân đều là các pháp nhân,chịu trách nhiệm như nhau trước pháp luật.Trong sản xuất kinh doanh,chúng là những đơn vị kinh tế độc lập,cùng cạnh tranh trên thị trường và cùng chịu sự chi phối của các quy luật thị trường.Do đó,chúng cần được đối xử bình đẳng với nhau về mọi phương diện.
1.3. Khuyến khích,hỗ trợ,tạo môi trường pháp lý ,kinh tế-xã hội thuc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Tăng cường đầu tư vốn,tài sản vào sản xuất kinh doanh,qui mô sản xuất đủ lớn,tăng khả năng cạnh tranh với công ty của các nước khác trong khu vực.Trên thị trường khu vực và quốc tế,dần dần hoàn thiện cơ chế chính sách(vốn,tín dụng,thuế,đất đai...)tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
2. Phương hướng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
Để phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới,phát triển kinh tế xã hội đất nước đạt tới những mục tiêu đã đề ra,cần khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào những lĩnh vực sau:
-Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp,nông thôn,bao gồm nhóm ngành công nghiệp chế biến như xay xát,chế biến lương thực,thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước,đẩy mạnh các mặt hàng chế biến nông sản.
-Nhóm ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động như: dệt may,giày phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.Những ngành này đòi hỏi vốn không lớn,lao động phù hợp với trình độ lao động Việt Nam hiện nay,nếu được khuyến khích sẽ mở rộng về quy mô và phát triển cao hơn cả về công nghệ.
-Nhóm ngành cơ khí chế tạo phục vụ sản xuất nông,ngư nghiệp: sản xuất máy cày,máy kéo,máy xay xát...Đây chính là ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho sản xuất nông nghiệp.
-Nhóm ngành tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống phục vụ xuất khẩu và các ngành hàng tiêu dùng khác phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như nhu cầu xuất khẩu.
Trên đây là những quan điểm,phương hướng cơ bản để phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới.Để những phương hướng phát triển trên được đúng hướng thì ta phải có những giải pháp phát triển kinh tế tư nhân thích hợp.
3. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
3.1. Về phía Nhà nước
a. Hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo môi trường kinh doanh thông thoáng ,ổn định.
Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến các hoạt động của các pháp nhân kinh tế vốn chưa được thống nhất và còn phân biệt theo hình thức sở hữu.Do đó,các luật khác nhau áp dụng cho các pháp nhân thuộc các hình thức sở hữu khác nhau,Điều đó vi phạm quan điểm bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế.Đây là cản trở cho việc phát huy các nguồn lực cho phát triển hiện nay.Như vậy,giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp lý trước tiên là phải tính tới ban hành một số luật doanh nghiệp chung cho mọi khu vực kinh tế,chi phối và điều chỉnh sự hoạt động của các pháp nhân kinh tế,không phụ thuộc vào hình thức sở hữu để đảm bảo cho chúng cùng tồn tại,phát triển và bình đẳng trước pháp luật.
Đồng thời,cũng nên có thêm đạo luật về chống độc quyền,đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu.Hai đạo luật này ra đời sẽ thực hiện đầy đủ đường lối của Đảng,đồng thời cho người dân yên tâm bỏ vồn đầu tư lâu dài phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Trong quản lý cần tăng cường quản lý Nhà nước để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.Giải pháp cụ thể tăng cường quản lý là:
-Hoàn chỉnh không gian kiến trúc đô thị,quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng,sử dụng đất của địa phương,vùng.
-Nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân và tổ chức trong bộ máy chính quyền các cấp tỉnh,thành phố trong việc giải quyết thủ tục hành chính.
-Tăng cường giám sát,quản lý,hỗ trợ của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
-Phân cấp cụ thể công tác “hậu kiểm” đối với khu vực kinh tế tư nhân.
-Hình thành cơ quan đầu mối,chịu trách nhiệm chính về quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
b. Cải cách hành chính.
Hiện nay,Việt Nam đang tiến hành cải cách hành chính với cơ chế một cửa và đã thu được những kết quả tích cực,giảm những thủ tục hành chính rườm rà,rút ngắn thời gian giải quyết công việc,tạo thuận lợi cho người dân.Nhưng không phải trong thủ tục hành chính không tồn tại những vấn đề cần quan tâm.Để tránh tình trạng công tác quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân nặng về thủ tục hành chính,chồng chéo,Chính phủ nên sớm có quyết định thành lập một cơ quan đầu mối chuyên lo về mặt quản lý Nhà nước để hỗ trợ chính sách cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.Nó sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước vừa quản lý chặt chẽ,vừa nắm thông tin kịp thời và đưa ra các đối sách,giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp được linh hoạt,hiệu quả hơn.
c. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Với trình độ,qui mô phát triển doanh nghiệp như hiện nay,sức cạnh tranh còn yếu,việc Nhà nước hỗ trợ trong phát triển thị trường là điều rất quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.Nhà nước có thể hỗ trợ bằng chính sách thuế,sử dụng mức thuế ưu đãi đối với doanh nghiệp trong nước,với những vùng,mặt hàng nhất định nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.Các giải pháp kích cầu của Nhà nước cần được tiếp tục đẩy mạnh để tháo gỡ khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho khu vực kỹ thuật;hợp tác,quan hệ giao lưu buôn bán với nước ngoài tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường quốc tế.
d. Đảm bảo hệ thống thông tin được cập nhật nhanh,đầy đủ và chính xác.
Thông tin thị trường là vấn đề rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,nó có thể quyết định sự tồn tại hay phá sản của một doanh nghiệp.Vì vậy,thông tin nhanh,chính xác sẽ giúp doanh nghiệp nắm được thời cơ.Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong hoạt động của các trung tâm thông tin,nâng cao chất lượng thông tin,trung tâm xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin về :sản phẩm,thị trường,tiến trình hội nhập,công nghệ...cho doanh nghiệp.
Để có thông tin chính xác,đầy đủ,đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp thì Nhà nước cần đầu tư cho hệ thống vật chất kỹ thuật,cơ sở hạ tầng ngành thông tin,có chính sách khuyến khích phát triển công nghệ thông tin,tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,thúc đẩy cải tiến kỹ thuật thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
e. Nhà nước hỗ trợ chuyển giao,đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh,yếu tố kỹ thuật,công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chất lượng sản phẩm,giá thành sản phẩm,khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.Tuy nhiên,trong điều kiện hiện nay,các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam với số vốn hạn chế,việc đầu tư vào công nghệ mới,mua máy móc thực sự hiện đại là rất khó khăn và càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận với những tiến bộ của thế giới.Vì vậy,việc hỗ trợ của Nhà nước là rất quan trọng theo các hướng sau:
-Thu thập,truyền thông các kỹ thuật công nghệ và các hướng cải tổ kỹ thuật công nghệ.
-Hỗ trợ thông qua các cơ quan thẩm định,cơ quan nghiên cứu.
-Hỗ trợ vốn vay để đổi mới công nghệ.
-Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để tiếp nhận và chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới.
f. Hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách đất đai,chính sách vốn,tín dụng,chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
*Chính sách tín dụng ngân hàng.
Khuyến khích cho vay ưu đãi theo loại dự án đầu tư,đồng thời loại bỏ những rào cản khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận với các loại hình tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước(vấn đề thế chấp,thủ tục vay,lãi suất...).
Điều tra gần đây cho thấy tỷ lệ vốn vay của các doanh nghiệp tư nhân trong ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm tỷ lệ 2%-5% tổng vốn mà ngân hàng cho các doanh nghiệp trong nước vay.Điều này cho thấy khả năng tiếp cận vốn của khu vực kinh tế tư nhân là thấp.Lý do là vì cơ chế phiền hà. Như vậy,Nhà nước cần có chính sách cụ thể,thích hợp tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận với vốn vay,nên có chính sách ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp này.
*Về chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn lực:
Hiện nay,các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế tư nhân có trình độ quản lý thấp kém,đội ngũ công nhân tay nghề thấy nên gặp nhiều khó khăn trong tổ chức sản xuất kinh doanh,tiếp cận thị trường thế giới,công nghệ mới.Do đó,cần có sự hỗ trợ của Nha fnước trong đào tạo nguồn nhân lực:cả nhà quản lý và người lao động,nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo thích hợp với từng trình độ,loại hình,qui mô doanh nghiệp.
*Về chính sách đất đai
Hiện nay,vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh đang là vấn đề rất bức xúc đối với nhiều doanh nghiệp.Trong những năm gần đây,Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến chính sách đất đai nhằm tiến tới sự công bằng trong chính sách đất đai,cụ thể là đưa về một mặt bằng giá thuê đất đối với mọi hình thức kinh tế.Tuy nhiên,do đặc điểm của quá trình lịch sử phát triển,thực tiễn lại diễn ra không như mong muốn,các doanh nghiệp Nhà nước ra đời trước được bao cấp đất đai,nhà xưởng,các doanh nghiệp tư bản tư nhân ra đời sau không có đất tổ chức sản xuất kinh doanh phải đi mua hoặc thuê lại của Nhà nước,cá nhân,doanh nghiệp Nhà nước.Như vậy,Nhà nước cần hoàn thiện chính sách đất đai,tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,cụ thể là:
-Hoàn thiện chính sách đăng ký đất đai,cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai.
-Chính sách giá cả đất đai.
-Chính sách thuế và lệ phí.
-Bồi thường khi giải phóng mặt bằng.
-Tăng cường biện pháp quản lý đất đai vào mục đích sản xuất kinh doanh.
-Thành lập các công ty,dịch vụ bất động sản như trung tâm giao dịch,định giá bất động sản.
g. Điều chỉnh thái độ xã hội.
Như trên đã phân tích,thái độ của xã hội nhận thức về kinh tế tư nhân là một cản trở đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.Vì vậy,để kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng,cần có sự thay đổi trong quan điểm và nhận thức của xã hội.Cụ thể là :
-Nhà nước cần có biện pháp tuyên truyền,giáo dục để người dân dần thay đổi quan điểm.
-Đổi mới quan điểm về kinh doanh,bóc lột.
-Nhìn nhận đúng đắn về doanh nhân,có cơ chế bảo vệ doanh nhân,khắc phục khuynh hướng hình sự hoá các quan hệ dân sự.
-Xây dựng hình tượng doanh nhân điển hình tạo động lực thúc đẩy sự phát triển lớp doanh nhân.
Kinh tế tư nhân là một thành phần được đánh giá là năng động,sáng tạo,có sức trẻ,dám nghĩ dám làm,phải được phát triển mạnh mẽ,xem như một nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá.Vì vậy cần tiếp tục tháo gỡ những rào cản,hoàn thiện cơ chế chính sách,tạo môi trường kinh doanh thông thoáng,bình đẳng;Nhà nước tiếp tục hỗ trợ để kinh tế tư nhân phát triển,đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội.
3.2. Về phía doanh nghiệp.
Để đóng vai trò trung tâm của sự phát triển,các doanh nghiệp Việt Nam phải phát huy truyền thống vốn có của mình trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.Những thách thức và cơ hội hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lối đi mới cho sự phát triển của mình,cụ thể:
-Không ngừng cải tiến kỹ thuật,công nghệ,nâng cao chất lượng sản phẩm,nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.Trong nền kinh tế thị trường đây là yếu tố hết sức quan trọng,đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược chủ động tích cực.
-Cần có sự liên kết sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong nước tránh để bị thất bại ngay trên “sân nhà” khi Việt Nam đang hội nhập quốc tế(AFTA,WHO)
-Xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nhân,thiết lập mối liên hệ giữa các doanh nghiệp cùng phát triển.
Như vậy,để khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh,khẳng định vai trò,vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế;ngoài những điêu kiện,chính sách mà Đảng và Nhà nước tạo ra thì cần sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân các doanh ngiệp và đó là điều kiện quyết định cho sự tồn tại,phát triển của doanh nghiệp,của khu vực kinh tế tư nhân.
Kết luận
Nền kinh tế Việt nam đang đứng trước thời cơ và thách thức mới.Cơ hội phát triển rút ngắn,thực hiện thành công công nghiệp hoá-hiện đại hóa,phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực.Trong đó,không thể không kể đến vai trò của thành phần kinh tế tư nhân.Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế,khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế-xã hội.Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP,huy động nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất-kinh doanh;tạo được nhiều việc làm,góp phần cải thiện đời sống nhân dân,tăng thu ngân sách cho Nhà nước;tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế-xã hội;góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Chúng ta cần thấy rõ vai trò tích cực của khu vực kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế-xã hội.Song chúng ta cũng không đựoc mơ hồ trước những tiêu cực và khiếm khuyết do khu vực kinh tế tư nhân gây ra.Đó là :quy mô doanh nghiệp nhỏ,tích tụ vốn còn hạn chế;trình độ quản lý còn yếu;bản thân các chủ doanh nghiệp do mới ra khỏi thời kỳ bao cấp nên chịu nhiều ảnh hưởng của sự trông chờ,mong đợi sự giúp đỡ che chở của Nhà nước;sản phẩm làm ra có chất lượng thấp,khả năng cạnh tranh yếu.Một mặt,cần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật,chính sách để tạo môi trường thông thoáng, bảo đảm cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh,cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Mặt khác,phải có cơ chế quản lý và chỉ đạo thực tiễn hợp lý để trợ giúp,hỗ trợ,kiểm tra và xử lý kịp thời.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới cơ chế,chính sách,khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra bốn nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,đó là:
-Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển kinh tế tư nhân.
-Sửa đổi bổ xung một số cơ chế, chính sách.
-Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý Nhà nước.
-Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,phát huy vai trò Mặt trận tổ quôc,các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nhân đối với việc phát triển kinh tế tư nhân.
Vì vậy,tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân là một nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước,đồng thời cũng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế.Trong những năm tới,khu vực kinh tế tư nhân sẽ còn giữ vai trò bquan trọng trong phát triển kinh tế đất nước,nâng cao đời sống nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam :Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,NXB sự thật,Hà Nội,1987.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam :Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,NXB sự thật,Hà Nội,1991.
3. Đảng Cộng Sản Việt Nam :Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,NXB sự thật,Hà Nội,1996.
4. TS Hà Huy Thành.Thành phần kinh tế cá thể,tiểu chủ và tư bản tư nhân-Lý luận và chính sách.NXB chính trị quốc gia,Hà Nội 2002.
5. Trần Ngọc Bút:Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa,NXB Chính trị quốc gia,2002.
6. GS-TS Hồ Văn Vĩnh:Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân.NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội,2003.
7. Hồ Xị:Phát triển kinh tế tư nhân-giải pháp và một số suy nghĩ.
8. GS-TS Lê Hữu Nghĩa:Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam hiện nay-thực trạng và giải pháp.Tạp chí Cộng sản số 6,tháng 3-2004
9. PGS-TS Hoàng Văn Hoa:Một số vấn đề bức xúc và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội.Tạp chí kinh tế và phát triển.
10. GS-TS Nguyễn Văn Năm:Về thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.Tạp chí kinh tế và phát triển.
11. GS-TS Phạm Đức Thành,PGS-TS Phạm Quỳ Thọ,Th.S Hoàng Mạnh Hợp:Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay.Tạp chí kinh tế và phát triển.
12. GS-TSKH Lê Đình Thắng,TS Hoàng Cường,Th.S Vũ Thị Thảo:Chính sách đất đai trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.Tạp chí kinh tế và phát triển.
13. GS-TS Trần Túc,PGS-TS Mai Ngọc Cường:Phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.Tạp chí kinh tế và phát triển.
14. GS-TSKH Vũ Huy Từ:Doanh nghiệp dân doanh và giải pháp phát triển.Tạp chí kinh tế và phát triển.
15. PGS-TS Hoàng Văn Hoa:Một số vấn đề bức xúc giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội.Tạp chí kinh tế và phát triển.
16. PGS-TS Hoàng Văn Hoa:Tăng cường quản lý Nhànước nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở các địa phương.Tạp chí kinh tế và phát triển.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35644.doc