Nguồn vốn vay ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn vay ngắn hạn của Công ty. Để có được số vốn này thì hàng năm Công ty đã phải trả một số tiền lãi là rất lớn, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong khi đó vẫn còn nhiều nguồn khác có thể huy động được, chẳng hạn, nguồn vốn huy động từ công nhân viên. Đặc biệt từ năm 2005 Công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần nên việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên và các nhà đầu tư khác có phần linh động hơn. Đây là một thuận lợi của công ty bởi lẽ nguồn vốn này có chi phí lãi vay thấp đồng thời đây cũng là biện pháp góp phần khuyến khích tinh thần trách nhiệm của các cán bộ công nhân viên trong công ty lam việc tích cực và hiệu quả hơn
Ngoài ra, Công ty cần tăng cường thu hút vốn từ hoạt động liên doanh, liên kết. Muốn vậy, Công ty phải đẩy mạng liên doanh, liên kết khong chỉ với các cơ sở kinh tế trong nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, Công ty không những giải quyết phần nào nhu cầu vốn kinh doanh mà còn để tranh thủ máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hơn nữa, cũng nhờ liên doanh, liên kết mà đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Công ty có cơ hội để học hỏi thêm những kinh nghiệm trình độ KHKT tốt của các đối tác về tổ chức quản lý xây lắp, về thi công các công trình. Nhờ đó, Công ty sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia đấu thầu và trúng thầu những dự án lớn trong và ngoài nước.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ gốc
p: giá bán của mỗi mặt hàng
Như vậy, khối lượng tiêu thụ chung của một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng thuộc phạm vi nghiên cứu ở mỗi kỳ đều không tổng hợp được theo đơn vị hiện vật mà theo đơn vị giá trị.
Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Laspeyres: phản ánh biến động chung của lượng tiêu thụ và ảnh hưởng biến động đó đối với mức tiêu thụ (doanh thu) của mặt hàng. Với quyền số là giá bán các mặt hàng kỳ gốc, chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Laspeyres thể hiện theo công thức:
Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Passche: với quyền số là giá bán các mặt hàng kỳ nghiên cứu theo công thức sau:
Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Fisher: sử dụng kết hợp quyền số là giá các mặt hàng kỳ gốc và kỳ nghiên cứu thông qua công thức sau:
2. Chỉ số không gian
2.1. Chỉ số đơn
Khi so sánh theo không gian, chỉ số đơn phản ánh quan hệ so sánh về giá bán hay lượng tiêu thụ của từng mặt hàng ở hai thị trường, khu vực...
- Chỉ số đơn giá so sánh giữa thị trường A và thị trường B là:
- Chỉ số đơn lượng tiêu thụ so sánh giữa thị trường A và thị trường B là:
2.2. Chỉ số tổng hợp
Chỉ số tổng hợp giá: so sánh không gian sử dụng để so sánh giá bán một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng ở hai điều kiện không gian khác nhau.
Trong đó: Q = qA+qB: Tổng lượng tiêu thụ của từng mặt hàng ở hai thị trường
Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ: quyền số của chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ so sánh giữa hai thị trường có thể là giá cố định do Nhà nước ban hành hoặc giá trung bình của từng mặt hàng ở hai thị trường.
Trong đó: pn là giá cố định của các mặt hàng
3. Chỉ số kế hoạch
Chỉ số kế hoạch biểu hiện nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình thực hiện kế hoạch đối với từng chỉ tiêu.
- Nếu căn cứ vào dữ liệu về sản lượng thực tế của doanh nghiệp ở các kỳ, có thể thiết lập các chỉ số sau:
Chỉ số kế hoạch giá thành:
Chỉ số thực hiện kế hoạch:
- Nếu căn cứ vào sản lượng kế hoạch của doanh nghiệp, có thể thiết lập các chỉ số sau:
Chỉ số kế hoạch giá thành:
Chỉ số thực hiện kế hoạch:
III. Hệ thống chỉ số
1. Khái niệm và cấu thành của hệ thống chỉ số
Hệ thống chỉ số là một dãy các chỉ số có liên hệ với nhau hợp thành một phương trình cân bằng.
Hệ thống chỉ số thông thường được vận dụng để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong quá trình biến động. Trong nghiên cứu kinh tế, nhiều chỉ tiêu tổng hợp có thể được cấu thành từ những nhân tố liên quan thể hiện dưới dạng các phương trình kinh tế và chính mối quan hệ đó là cơ sở để thiết lập các hệ thống chỉ số. Một hệ thống chỉ số bao gồm một chỉ số toàn bộ phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp và các chỉ số nhân tố phản ánh ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với hiện tượng phức tạp.
Thực hiện phân tích nhân tố theo phương pháp này phải tuân thủ hai điều kiện mang tính giả định như sau:
Một là, phải xác định được phương trình kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Trong đó, thứ tự sắp xếp các nhân tố phải theo trình tự: từ nhân tố chất lượng đến nhân tố số lượng, hoặc ngược lại.
Hai là, khi xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố nào đó đến sự biến động (tương đối và tuyệt đối) của chỉ tiêu phân tích thì ta cho nhân tố cần nghiên cứu biến động và cố định các nhân tố còn lại: nhân tố số lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ báo cáo (theo cách của Paasche), còn nhân tố chất lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ gốc (theo cách của Laspeyres).
Có hai phương pháp xây dựng hệ thống chỉ số là phương pháp liên hoàn và phương pháp biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng biệt. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế riêng và tuỳ theo điều kiện thực tế có thể vận dụng một cách thích hợp.
Theo phương pháp liên hoàn, hiện tượng nghiên cứu được phân tích thành bao nhiêu nhân tố thì trong hệ thống chỉ số có bấy nhiêu chỉ số nhân tố và mẫu số của chỉ số nhân tố đứng trước là tử số của chỉ số nhân tố đứng sau.
Theo phương pháp biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng biệt, tất cả các chỉ số nhân tố đều được xây dựng theo cùng một nguyên tắc là thời kỳ quyền số được lựa chọn là kỳ gốc để biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố. Trong hệ thống chỉ số còn bao gồm chỉ số liên hệ biểu hiện ảnh hưởng chung của các nhân tố cùng biến động và cùng tác động lẫn nhau.
Ví dụ, ta có phương trình mà các nhân tố ảnh hưởng được sắp xếp theo thứ tự từ nhân tố chất lượng đến nhân tố số lượng.
Z = X x Y
Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z ta có:
2. Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ số
2.1. Phương pháp liên hoàn:
Sử dụng phương pháp này cũng cần tuân thủ hai điều kiện như của phương pháp trên. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z ta có:
- Do tác động của nhân tố X:
- Do tác động của nhân tố Y:
- Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố:
2.2. Phương pháp biến động riêng:
Khi xác định ảnh hưởng biến động riêng (biến động tuyệt đối) của nhân tố nào đó (DY(xi)) đến mức tăng (giảm) tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích (DY) thì các nhân tố khác đều cố định ở kỳ gốc.
Mức tăng (giảm) của chỉ tiêu phân tích luôn lớn hơn tổng mức tăng (giảm) do ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố ồDY(xi) với i = 1, 2, 3...
Sở dĩ như vậy, vì ngoài phần ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố, còn có phần ảnh hưởng biến động đồng thời của chúng (DY(c)) đến chỉ tiêu phân tích. Do vậy, muốn cho bất phương trình trên thì phải cộng (DY(c)) vào vế phải của nó.
Theo phương trình này, nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z có:
+ Do tác động của nhân tố X:
+ Do tác động của nhân tố Y:
+ Do tác động đồng thời của hai nhân tố:
+ Do tác động tổng hợp của cả hai nhân tố đến Z:
B. lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp
I. Những vấn đề cơ bản
1. Khái niệm
Doanh nghiệp (DN) là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh (HĐKD).
Khái niệm trên đã nhấn mạnh DN phải là một tổ chức kinh tế chứ không phải là một tổ chức chính trị hay tổ chức xã hội. Mục đích của DN là tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nên muốn tồn tại và phát triển DN phải thu được lợi nhuận.
Từ góc độ của DN, có thể thấy rằng lợi nhuận của DN là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà DN bỏ ra để đạt được lợi nhuận từ các hoạt động của DN đưa lại.
2. Cách xác định
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 3 bộ phận:
a. Lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi chi phí bao gồm giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá. dịch vụ đã tiêu thụ.
Lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây cũng là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp thực hiện tích luỹ cho tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Đồng thời cũng là điều kiện tiền đề để lập ra các quỹ của doanh nghiệp : quỹ dự phòng mất việc làm, quỹ khen thưởng , quỹ phúc lợi…là điều kiện để không ngừng nâng cao điều kiện làm việc và đời sống tinh thần cho người lao động.
Lợi nhuận từ HĐSXKD = DT thuần - Giá thành toàn bộ SP tiêu thụ trong kỳ
Doanh thu thuần = Doanh thu từ HĐSXKD – Các khoản giảm trừ( nếu có)
Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ = Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng
Trong đó:
- Các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, trị giá hàng bán bị trả lại và thuế gián thu.
- Giá vốn hàng bán (GVHB) là trị giá vốn của hàng xuất bán , bao gồm: chi phí nguyên vật liệu (NVL) trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng là những chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
-Chi phí quản lý doanh nghiệp (QLDN) là chi phí có liên quan đến hoạt động quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và quản lý điều hành chung của toàn DN.
b. Lợi nhuận thu từ hoạt động tài chính(HĐTC).
Là chênh lệch giữa doanh thu HĐTC và chi phí HĐTC.
Lợi nhuận HĐTC = Doanh thu HĐTC - Chi phí HĐTC
Nó bao gồm các khoản sau: lợi nhuận thu từ góp vốn liên doanh, từ các hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán, từ các hoạt động cho thuê tài sản, từ kinh doanh bất động sản, hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn...
c. Lợi nhuận khác
Lợi nhuận khác là các khoản chênh lệch khác và chi phí khác.
Các khoản thu nhập khác và chi phí khác là những khoản thu nhập hay chi phí mà DN không dự tính trước được hoặc dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện, hoặc đó là những khoản thu, chi không mang tính chất thường xuyên.
Thu nhập khác gồm: thu từ hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu từ các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu tiền phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng,... Còn chi phí khác gồm: chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chi do bị phạt thuế, truy nộp thuế, các khoản chi do kế toán nhầm hoặc bỏ sót khi ghi sổ kế toán và các khoản chi khác.
Lợi nhuận khác = Thu nhập khác - Chi phí khác
3. Vai trò của lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh giá trị hàng hoá, thành phẩm hoặc dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ. Tăng lợi nhuận thực chất là tăng lượng tiền về cho doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc tăng lượng hàng hóa bán ra trên thị trường. Do vậy, tăng lợi nhuận vừa có ý nghĩa xã hội vừa có ý nghĩa đối với doanh nghiệp.
* Đối với doanh nghiệp: Tăng lợi nhuận để doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng kinh doanh thu hồi vốn nhanh, bù đắp các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên sẽ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tích cực phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu, đồng thời lợi nhuận tăng sẽ tạo ra một môi trường làm việc cho người lao động được tốt hơn, nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động.
* Đối với xã hội: Tăng lợi nhuận góp phần thoả mãn tốt hơn các nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cho xã hội. Đảm bảo cân đối cung cầu ổn định giá cả thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, các nước.
Các chỉ tiêu về lợi nhuận còn là cơ sở để phân tích và tính các chỉ tiêu kinh tế như: Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh , phân tích chi phí hay kết quả kinh doanh…Ngoài ra nó còn là căn cứ, cở sở để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho kỳ sau.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Xác định và phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp là nhiệm vụ của các nhà quản lý trong doanh nghiệp. Việc phân tích và nghiên cứu lợi nhuận sẽ cho ta biết xu hướng phát triển của hiện tượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời cũng cho ta biết được tác động của các nhân tố (nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan) đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể giúp cho doanh nghiệp đưa ra những biện pháp ra tăng lợi nhuận hợp lý và hiệu quả hơn.
4.1. Nhóm nhân tố chủ quan.
- Nhân tố số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Về nguyên tắc, việc tăng số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ làm tổng doanh thu và lợi nhuận tăng lên (các nhân tố khác không thay đổi). Việc tăng số lượng sản phẩm phụ thuộc vào năng lực sản xuất và công tác lập kế hoạch về khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Tuy nhiên, nhân tố số lượng cũng chịu sự chi phối của một số yếu tố khách quan đó là nhu cầu của thị trường. Nếu khối lượng sản xuất quá lớn dẫn đến cung vượt cầu, sẽ gây ra tình trạng ứ đọng hàng tồn kho, vòng quay vốn chậm dẫn đến bất lợi cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu số lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu khách hàng thì doanh nghiệp đã bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu. Do đó, doanh nghiệp cần nắm vững nhu cầu thị trường, đầu tư thoả đáng cho năng lực sản xuất để có thể đưa ra một khối lượng sản phẩm hợp lý. Đây là vấn đề phụ thuộc chủ yếu vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp.
- Nhân tố chất lượng sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu và mang tính chiến lược lâu dài. Một sản phẩm có chất lượng tốt, giá trị sử dụng cao, đáp ứng được thị hiếu và có giá bán hợp lý sẽ được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là con đường gia tăng lợi nhuận hiệu quả và bền vững. Tất nhiên, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhu trình độ tổ chức quản lý sản xuất và lao động, kỹ thuật công nghệ, đặc điểm thu nhập và tiêu dùng của mỗi vùng thị trường. Cũng có thể thấy, việc hoàn toàn chỉ chú trọng vào chất lượng sản phẩm chưa chắc đã đem lại hiệu quả như mong muốn, nó có thể đẩy giá bán lên quá cao và sẽ làm thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Rõ ràng, nâng cao chất lượng vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu và nó phụ thuộc rất nhiều vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp.
- Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất, tiêu thụ và tài chính.
Đây là nhân tố thể hiện rất rõ tính chủ quan của doanh nghiệp. Tổ chức tốt việc quản lý sản xuất kinh doanh là cách thức tốt nhất nhằm hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Điều này thể hiện từ khâu thu mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất phải đảm bảo tiết kiệm chi phí đầu vào, tồn kho vật tư hợp lý, giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng, đáp ứng đầy đủ kịp thời, sản xuất phải liên tục, nhịp nhàng về thời gian. Bên cạnh đó, các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng cũng cần tính toán hợp lý, tránh lãng phí không cần thiết. Có thể nói, đây là nhân tố chủ quan thể hiện chất lượng quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp.
Quản lý tài chính là quản lý việc tổ chức sử dụng vốn. Vốn đầu tư cho từng khâu phải hợp lý, từ khâu dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm đến việc quản lý các khoản phải thu, phải trả, khoản vay nợ ngân hàng, các khoản đầu tư ngoài doanh nghiệp... Thông qua đó, kiểm tra tình hình luân chuyển vốn ở từng khâu, phát hiện những mất mát, hao hụt, ứ đọng vốn và có những biện pháp xử lý. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, Nếu các nhân tố này bị xem nhẹ thì hậu quả trước mắt và lâu dài sẽ rất lớn, có thể dẫn tới tình trạng phá sản của doanh nghiệp.
- Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng con người.
Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và hạ giá thành, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tổ chức lao động khoa học tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý. Đó là cơ sở để loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy. Muốn tạo ra một đội ngũ lao động có chất lượng cần chú ý từ khâu tuyển dụng đến bố trí công việc, sắp xếp thời gian. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến việc học tập nâng cao trình độ cũng như các chế độ thưởng, phạt nhằm khuyến khích tinh thần, tâm lý cho người lao động, khiến họ yên tâm và gắn bó với công việc.
4.2. Nhóm nhân tố khách quan.
- Nhân tố giá bán.
Giá bán được xác định bởi quy luật cung cầu trên thị trường và mang tính khách quan. Nếu các nhân tố khác không đổi thì việc nâng cao được giá bán sản phẩm là cơ hội để tăng doanh thu và lợi nhuận. Do vậy việc xác định một chính sách giá cả hợp lý là rất quan trọng.
- Vòng đời sản phẩm.
Mỗi sản phẩm đều có một vòng đời tồn tại trải qua 4 giai đoạn từ khi xuất hiện, tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Mỗi giai đoạn khác nhau sẽ cho doanh thu và lợi nhuận khác nhau, nếu như DN tổ chức quản lý, khai thác và kéo dài giai đoạn tăng trưởng và bão hoà, rút ngắn thời gian suy thoái và hình thành ban đầu, sẽ giúp DN thu được nhiều lợi nhuận hơn. Do vậy, DN cần nắm vững, có kế hoạch cho cụ thể cho từng giai đoạn để có thể sản xuất sản phẩm hợp lý nhất.
- Nhân tố khoa học công nghệ.
Là nhân tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là phương thức tốt nhất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí hạ giá thành nâng cao lợi nhuận cho DN. Ngược lại, nếu không áp dụng thì sản phẩm của DN không bắt kịp được thị trường, chất lượng không được như ý, sẽ bị đào thải và làm cho DN hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận thu được thấp thậm chí thua lỗ.
Với những nhân tố tác động tới lợi nhuận như vậy, DN cần chó những giải pháp để phát huy yếu tố tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN.
II. Hệ thống chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp
Tổ chức hạch toán doanh nghiệp công nghiệp tính chỉ tiêu lợi nhuận thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp của doanh nghiệp như sau:
- Tổng lợi nhuận gộp (MG): là chỉ tiêu lợi nhuận chưa trừ đi các khoản chi phí tiêu thụ.
Nếu ký hiệu z là giá vốn một đơn vị sản phẩm bán (hay giá thành công xưởng một đơn vị sản phẩm bán) thì MG còn được xác định theo các công thức:
MG = ồ(p – t – z)q’
Hoặc: MG = ồ(p’ – t)q’
- Tổng lợi nhuận thuần trước thuế (MT): là chỉ tiêu lợi nhuận sau khi đã trừ tiếp đi các khoản chi phí tiêu thụ.
Nếu ký hiệu c là chi phí tiêu thụ tính trên một đơn vị sản phẩm thì MT còn được xác định theo các công thức:
MT = ồ(p – t – z - c)q’
Hoặc: MT = ồ(p’ – t - c)q’
- Tổng lợi nhuận thuần sau thuế hay tổng lãi ròng (MR): là chỉ tiêu lợi nhuận sau khi đã trừ tiếp đi thuế thu nhập doanh nghiệp nộp ngân sách Nhà nước.
Lợi nhuận ròng là cơ sở để chia lãi cho các chủ sở hữu vốn (chia liên doanh, trả lãi vay ngân hàng và trích lập các quỹ của doanh nghiệp (gồm quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính (quỹ dự trữ), quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và phúc lợi...)
Chương II
Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê phân tích
lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt
giai đoạn 2000 – 2005
I. lợi nhuận của Công ty Cổ phần công trình đường sắt giai đoạn 2000-2005
1. Tổng quan về Công ty cổ phần công trình đường sắt
Công ty công trình đường sắt là đơn vị trực thuộc Tổng công ty đường sắt Việt Nam, trước đây là xí nghiệp liên hợp công trình thuộc liên hợp công trình đường sắt Việt Nam, là một doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân. Từ khi thành lập tới nay Công ty có những bước phát triển không ngừng, Công ty đã trở thành một doanh nghiệp trực tiếp tham gia xây dựng các công trình lớn vừa thực hiện hoàn thành kế hoạch của Tổng công ty giao phó vừa khai thác, đấu thầu các công trình mới. Tiền thân với tên gọi là đội cầu, đường, kiến trúc, thông tin, tín hiệu, trụ sở đóng tại số 131 đường Thạch Hãn - TP Huế - Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến ngày 20/03/2003 được đổi tên thành Công ty Công trình đường sắt theo quyết định số 734/2003/QĐ - GTVT của Bộ Giao thông vận tải. Đến tháng 6/2003 do yêu cầu và nhiệm vụ mới công ty chuyển trụ sở ra đóng tại số 09 Láng Hạ, Hà Nội. Đến tháng 5/2005 công ty chuyển thành Công ty cổ phần công trình đường sắt, trong đó nhà nước chiếm 67% vốn, số vốn còn lại được đóng góp từ các cổ đông trong công ty và cổ đông bên ngoài.
Trong những năm vừa qua Công ty đã thực hiện một số công trình, hạng mục công trình như: cầu Thịnh Kỷ (Hà Nội), cầu chui Lạng Sơn, ga Giáp Bát, cầu Long Biên, cầu Diễn Hồng… Các công trình đều được xây dựng với chất lượng tốt, thi công và bàn giao công trình đúng tiến độ, đã và đang ngày càng tạo uy tín, khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
Trong nhiều năm tới, nhu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông, công trình công nghiệp và dân dụng còn rất lớn, đó là những thuận lợi cơ bản cho nghành xây dựng nói chung và cho Công ty cổ phần công trình đường sắt nói riêng.
2. Tình hình lợi nhuận của Công ty thời kỳ 2000-2005
2.1. Tình hình biến động lợi nhuận của Công ty
Phân tích lợi nhuận của Công ty là quá trình đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của Công ty sau một năm hoặc một thời kỳ thông qua hệ thống chỉ tiêu kết quả. Việc phân tích này giúp cho Công ty có cái nhìn khái quát về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, thấy được những thành công cũng như khó khăn, hạn chế của Công ty để từ đó có biện pháp khắc phục thích hợp.
Lợi nhuận của Công ty giai đoạn 2000 – 2005
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Giá trị
(triệu đồng)
1.024
2.209
2.510
1.710
1.066
1.275
%
-
215,73
113,63
68,13
62,34
119,61
Nhìn vào bảng trên ta thấy, tốc độ tăng lợi nhuận của công ty năm 2001 so với năm 2000 là 115,73% là do một số nguyên nhân sau:
- Do công tác tổ chức sản xuất xây lắp đã tăng lên đáng kể, công ty đã hoàn thành được nhiều công trình thực hiện.
- Do giá trị sản xuất công nghiệp tăng, đặc biệt do có chế độ ưu đãi của Tổng Công ty nên giá thành sản xuất một số sản phẩm giảm.
Tuy nhiên, trong hai năm 2003 và 2004 lợi nhuận Công ty lại có xu hướng giảm mạnh, năm 2004 giảm 37,66% so với năm 2003 nguyên nhân chủ yếu là do:
- Chất lượng các sản phẩm chưa được nâng cao và đảm bảo ổn định lâu dài
- Do giá nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm cao hơn kế hoạch và luôn biến động nên các đơn vị chưa có biện pháp khắc phục kịp thời cụ thể để thực hiện giảm chi phí, giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
Mặc dù quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty rất lớn, các chỉ tiêu GO, G của Công ty đều đạt giá trị cao nhưng lợi nhuận của Công ty lại chưa tương xứng với quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, công ty cần có những biện pháp để tăng lợi nhuận lên cao hơn nữa.
Một số chỉ tiêu phân tích biến động lợi nhuận
Chỉ tiêu
M
di
Di
ti
Ti
gi
2000
1024
-
-
-
-
-
2001
2209
1185
1185
2,1572
2,1572
10,24
2002
2510
301
1486
1,1363
2,4512
22,09
2003
1710
-800
686
0,613
1,6670
25,1
2004
1066
-644
42
0,6234
1,041
17,1
2005
1275
209
251
1,1961
1,2451
10,66
Nhìn vào bảng trên ta thấy:
- Năm 2001 lợi nhuận của Công ty tăng 1185 triệu đồng so với năm 2000 tương ứng với tốc độ tăng là 115,73%. Đây là thành tích tốt của Công ty trong năm qua thể hiện việc sản xuất kinh doanh, quản lý chi phí là có hiệu quả, quy mô kinh doanh đã được mở rộng.
- Năm 2002 lợi nhuận của Công ty tăng 301 triệu đồng so với năm 2001, tương ứng với tốc độ tăng là 13,63%, giá trị 1% tăng là 22,09 triệu đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận bắt đầu giảm từ năm 2002 và giảm một cách trầm trọng. Nguyên nhân của hiện tượng này là do năm 2003 doanh thu và giá trị gia tăng của Công ty đều giảm rất nhiều, nên dẫn đến lợi nhuận của Công ty năm 2003 cũng bị giảm theo. Trong năm 2004 mặc dù doanh thu và giá trị gia tăng của Công ty có tăng, đặc biệt là doanh thu nhưng do biến động của nền kinh tế trong nước đang gặp khó khăn do chỉ số lạm phát đạt rất thấp nên việc chịu ảnh hưởng nền kinh tế đến Công ty cũng là điều không tránh khỏi. Việc thị trường đầu ra cho các sản phẩm hoạt động kinh doanh của Công ty có bị thu hẹp, thị trường nội bộ của các công trình lớn, trọng điểm trong Tổng công ty hầu như không có nhu cầu cung cấp vật tư thiết bị kết hợp với việc giá nguyên vật liệu đầu vào cũng tăng lên. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm tăng giá thành sản phẩm dẫn đến các lợi nhuận của Công ty bị giảm sút.
- Năm 2005 mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện giảm chi phí đầu vào, tiết kiệm vật tư nguyên vật liệu để từ đó giảm giá thành sản xuất nhưng do sản xuất kinh doanh được mở rộng và hiệu quả đã tác động tới cán bộ, công nhân viên của công ty. Cùng với sự gia tăng của lợi nhuận, đời sống của công nhân viên cũng được cải thiện.
Nhìn chung, Công ty CPCT đường sắt là một DN làm ăn có lãi và đang phát triển mạnh mẽ. Sự nỗ lực không ngừng của công ty đã thu được những thành quả tốt đẹp mà không phải bất cứ DN nào cũng đạt được.
2.2. Biến động về quy mô và cơ cấu lợi nhuận
Phân tích biến động về quy mô và cơ cấu lợi nhuận theo lĩnh vực hoạt động là căn cứ để phân tích và đánh giá sự biến đổi, tăng giảm và xu hướng phát triển của các lĩnh vực để từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn trong việc hoạch định các chiến lược đầu tư. Để thuận tiện cho việc phân tích ta chia hoạt động của Công ty thành:
+ Lợi nhuận thu từ hoạt động xây lắp
+ Lợi nhuận thu từ hoạt động kinh doanh
+ Lợi nhuận thu từ hoạt động vận tải và sửa chữa cơ khí
Một số chỉ tiêu lợi nhuận từ lĩnh vực hoạt động Công ty năm 2004-2005
Lĩnh vực hoạt động
Sản xuất xây lắp
Kinh doanh
Vận tải CK và SC
2004
2005
2004
2005
2004
2005
Quy mô (tr.đ)
516,58
668,1
507,84
586,5
41,58
20,4
Cơ cấu (%)
48,46
52,4
47,64
46
3,9
1,6
Từ kết quả bảng trên ta thấy: Lợi nhuận thu từ các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong hai năm 2004 và 2005 xét về qui mô và cơ cấu có sự tăng (giảm) cụ thể như sau:
Lợi nhuận từ hoạt động xây lắp năm 2005 so với năm 2004 tăng cả về qui mô lẫn cơ cấu, chiếm 48,46% tổng doanh thu vào năm 2004 và 52,4% vào năm 2005.
Hai hoạt động còn lại, lợi nhuận năm 2005 so với năm 2004 đều giảm cả về qui mô lẫn cơ cấu. Tuy nhiên, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh vẫn chiếm một tỷ lệ khá cao (chiếm 47,64% năm 2004 và 46% năm 2005). Nguyên nhân của việc lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh vẫn đạt giá trị cao là do Công ty mở rộng các hoạt động kinh doanh để phục vụ cho nhu cầu sản xuất xây lắp của Tổng Công ty và của Công ty.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của lĩnh vực này chủ yếu là phục vụ cho tổng Công ty và Công ty cho nên lợi nhuận từ lĩnh vực hoạt động này là không đáng kể. Từ khi bước vào cơ chế thị trường, hoạt động vận tải và sửa chữa cơ khí được Công ty mở rộng hơn. Ngoài việc phục vụ cho các nhu cầu vận chuyển và sửa chữa cơ khí cho các Công ty khác nhưng số lượng nhận thầu không nhiều, phần lớn các hợp đồng có giá trị không lớn. Hơn nữa do các thiết bị phục vụ cho hoạt động vận tải và sửa chữa cơ khí hầu hết đã gần hết khấu hao nhưng chưa được thay mới nên làm cho lợi nhuận từ hoạt động này đạt thấp, chiếm tỉ trọng không đáng kể trong tổng lợi nhuận.
II. Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê phân tích biến động lợi nhuận của Công ty CPCTĐS giai đoạn 2000-2005
Lợi nhuận là chỉ tiêu kết quả biểu hiện mức độ lãi lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, là chỉ tiêu mà căn cứ vào đó doanh nghiệp phải đóng thuế lợi tức với Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp khi tính các chỉ tiêu lợi nhuận người ta thường tính các chỉ tiêu lãi gộp, lãi thuần. Chỉ tiêu để doanh nghiệp đóng thuế với Nhà nước là chỉ tiêu lãi thuần. Thực lãi thuần là số tiền mà doanh nghiệp còn lại sau khi đóng thuế thu nhập doanh nghiệp với Nhà nước.
Để phân tích chỉ tiêu lợi nhuận của Công ty ta sẽ dùng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của lợi nhuận.
a. Mô hình 1: Phân tích sự biến động của lợi nhuận theo ảnh hưởng của ba nhân tố: Giá bán đơn vị sản phẩm (p); giá thành đơn vị sản phẩm (q) và lượng bán bằng hệ thống chỉ số.
Ta có phương trình kinh tế sau:
M = Z(p – z).q’
Hay:
Từ số liệu ở trên ta có:
Biến động tương đối:
1,1916 = 0,3927 x 1,7523 x 1,7379
119,61% = 39,27% x 175,23% x 173,79%
Biến động tuyệt đối của tổng lợi nhuận:
triệu đồng
Do ảnh hưởng của giá bán đơn vị sản phẩm:
triệu đồng
Do ảnh hưởng của giá thành đơn vị sản phẩm:
triệu đồng
Do ảnh hưởng của lượng sản phẩm tiêu thụ:
triệu đồng
Từ kết quả tính toán trên ta thấy: Tổng lợi nhuận của Công ty năm 2005 tăng 19,61% so với năm 2004 tương ứng với 209 triệu đồng là do ảnh hưởng của ba nhân tố:
- Do giá bán đơn vị hàng hoá bình quân tăng làm cho lợi nhuận của công ty giảm 60,73% tức là giảm 1971,43 triệu đồng.
- Do giá thành đơn vị sản phẩm bình quân giảm làm cho tổng lợi nhuận của Công ty tăng 175,23% hay là tăng 1393,8 triệu đồng. Đây là nhân tố chủ yếu làm tăng lợi nhuận của Công ty. Có thể nói, giá thành đơn vị bình quân sản phẩm của Công ty giảm là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty. Việc giá thành đơn vị sản phẩm của Công ty giảm chứng tỏ Công ty đang thực hiện các biện pháp giảm giá thành đơn vị sản phẩm để tạo cho các sản phẩm có được sức cạnh tranh trên thị trường với các sản phẩm cùng loại của các công ty khác.
- Do quy mô và cơ cấu của lượng bán tăng làm cho tổng lợi nhuận của Công ty tăng 73,79% hay tăng 786,63 triệu đồng.
Như vậy, tổng lợi nhuận năm 2005 so với năm 2004 tăng lên là do giá thành đơn vị hàng hoá và lượng bán tăng lên. Tuy vậy, nếu Công ty tiếp tục áp dụng chiến lược giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành đồng thời áp dụng chỉ tiêu giá bán một cách hợp lý thì tổng lợi nhuận của Công ty sẽ còn tăng nhiều hơn nữa.
b. Mô hình 2: Phân tích sự biến động của lợi nhuận theo ảnh hưởng của các nhân tố: Tổng doanh thu bán hàng, tỷ suất các khoản giảm trừ trong tổng doanh thu, tỷ suất giá vốn hàng bán trong tổng doanh thu và tỷ suất chi phí tiêu thụ trong tổng doanh thu.
Để phân tích sự biến động của tổng lợi nhuận theo ảnh hưởng của các nhân tố trên ta sử dụng phương trình kinh tế sau:
M = DT – GT – GV – C
Hay: M = DT.(1 – TGT – TGV – TC)
Trong đó: GT: các khoản giảm trừ doanh thu
GV: giá vốn hàng bán
C: tổng chi phí tiêu thụ
TGT, TGV, TC : tỷ suất các khoản giảm trừ, giá vốn hàng bán, chi phí tiêu thụ trong tổng doanh thu
Các chỉ tiêu trong mô hình
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
D
%
Tổng lợi nhuận
1066
1275
209
119,61
Tổng doanh thu
289935
312728
22793
107,86
Các khoản giảm trừ
20485
21188
703
103,43
Giá vốn hàng bán
224950
230795
5845
102,60
Tổng chi phí tiêu thụ
43434
59470
16036
136,92
0,0707
0,0678
-0,0029
95,90
0,7759
0,7380
- 0,0379
95,12
0,1498
0,1902
0,0404
127,0
Từ kết quả bảng trên áp dụng phương pháp phân tích thay thế liên hoàn ta có:
- Biến động tuyệt đối của tổng lợi nhuận:
triệu đồng
- Do ảnh hưởng của tổng doanh thu:
triệu đồng
- Do ảnh hưởng của tỷ suất các khoản giảm trừ trong tổng doanh thu:
triệu đồng
- Do ảnh hưởng của tỷ suất tổng giá vốn bán hàng trong tổng doanh thu:
triệu đồng
- Do ảnh hưởng của tỷ suất các khoản giảm trừ trong tổng doanh thu:
triệu đồng
- Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố:
209 = 82,0548 + 906,9112 + 11852,391 + (-12634,211)
Từ kết quả tính toán ta thấy: tổng lợi nhuận của Công ty năm 2005 tăng 209 triệu đồng so với năm 2004 do ảnh hưởng của bốn nhân tố:
- Do tổng doanh thu của Công ty tăng 22793 triệu đồng làm cho tổng lợi nhuận của Công ty tăng 82,0548 triệu đồng.
- Do tỷ suất các khoản giảm trừ trong tổng doanh thu giảm 0,0029 lần làm cho tổng lợi nhuận của công ty tăng 906,9112 triệu đồng.
- Do tỷ suất giá vốn hàng bán trong tổng doanh thu giảm 0,0379 lần làm cho tổng lợi nhuận của công ty tăng 12634,211 triệu đồng.
- Do tỷ suất chi phi tiêu thụ trong tổng doanh thu tăng 0,0404 lần làm cho tổng lợi nhuận của Công ty giảm 12634,211 triệu đồng.
Như vậy, nhân tố chủ yếu làm tăng lợi nhuận của Công ty là tỷ suất giá vốn hàng bán trong tổng doanh thu giảm, tiếp đo là tỷ suất các khoản giảm trừ giảm và do tổng doanh thu tăng. Nhân tố làm giảm lợi nhuận của công ty là tỷ suất chi phí tiêu thụ tổng doanh thu. Việc tỷ suất chi phí tiêu thụ trong tổng doanh thu tăng chứng tỏ tổng chi phí tiêu thụ của công ty năm 2005 tăng so với năm 2004 là 16036 triệu đồng. Lợi nhuận của Công ty sẽ còn tăng cao hơn nữa nêu công ty thực hiện các biện pháp giảm chi phí tiêu thụ.
c. Mô hình 3: Phân tich sự biên động của lợi nhuận theo ảnh hưởng của các nhân tố vê tình hình tiêu thụ và tình hình sử dụng vốn kinh doanh.
Ta có phương trình kinh tế phản ảnh mối quan hệ giữa chúng như sau:
Hay M =RDTx LV x V
Trong đó: RDT : mức doanh lợi (tỉ suất lợi nhuận)
LV : vòng quay của tổng vốn sản xuất kinh doanh
V : tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân
Biến động của lợi nhuận theo ảnh hưởng tổng hợp các yếu tố về tình hình tiêu thụ và tình hình sử dụng vốn
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2004
Năm 2005
±
%
1. Lợi nhuận
Trđ
1066
1275
209
119,61
2.Tổng doanh thu
Trđ
289935
312728
22793
107,86
3.Tổng vốn sxkd BQ
Trđ
238758
280191
41433
117,35
4.
Trđ/Trđ
0,0037
0,0041
0,0004
110,81
5.
Vòng
1,2143
1,1161
-0,0982
91,91
6.
Trđ
-
1157,0683
-
-
7.
Trđ
-
1258,8729
-
-
Từ kết quả mô hình trên ta có:
Hay : I(M)=
Thay số vào ta có:
Biến động tương đối:
1,1961= 1,1019 x0,9191 x 1,1081
119,61% =110,81% x 91,91% x110,81%
Biến động tuyệt đối:
M1-M0=(-)+(-)+(-)
1275-1066=(1275 -1157,0683)+(1157,0683 -1258,8729)+(1258,8729 -1066 )
209 = 117,9317 + (-101,8046) + 192,8729
Từ kết quả tính toán ta thấy: tổng lợi nhuận của công ty năm 2005 tăng 19,61% so với năm 2004 hay 209 triệu đồng ,do ảnh hưởng của ba nhân tố:
- Do mức doanh lợi tăng 0,0004 trđ/trđ làm cho tổng lợi nhuận của công ty tăng 117,9317 triệu đồng hay tăng 10,81%.
- Do số vòng quay của tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân giảm 0,0982 vòng, làm cho tổng lợi nhuận của công ty giảm 101,8046 triệu đồng hay giảm 8,09%. Đây là nhân tố chủ yếu làm giảm lợi nhuận của công ty. Từ bảng trên ta thấy số vòng quay của tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân giảm chứng tỏ việc sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh của công ty là không đạt hiệu quả do lượng vốn bị ứ động nhiều (đặc biệt là vốn lưu động) nhiều khoản chi phí phát sinh không đáng có dẫn đến chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tăng lên.
- Do quy mô và cơ cấu của tổng vốn sản xuất kinh doanh bình quân tăng 41433 triệu đồng, làm cho lợi nhuận của công ty tăng 192,8729 triệu đồng hay tăng 10,81%. Đây là nhân tố chủ yếu làm tăng lợi nhuận của công ty.
Như vậy qua phân tích trên ta thấy: lợi nhuận của công ty tăng chủ yếu là do số vốn sản xuất kinh doanh bình quân toàn công ty tăng, tiếp đó là mức doanh lợi. Bên cạnh đó, chỉ tiêu số vòng quay của tổng số vốn sản xuất kinh doanh bình quân lại giảm đi nên làm cho lợi nhuận của công ty cũng bị giảm.
Lợi nhuận của công ty sẽ còn tăng cao hơn nữa nếu công ty có các biện pháp tăng số vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh. Bởi vì, qua các số liệu trong bảng trên số vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh trong hai năm 2004 và 2005 đạt thấp: tốc độ quay vòng của vốn sản xuất kinh doanh năm 2004 chỉ đạt 1,2143 vòng/ năm; năm 2005 đạt 1,1161 vòng/ năm.
Chương III
Một số kiến nghị và giải pháp
I. Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả cũng như tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt hơn các giải pháp đó cần sự hỗ trợ lớn từ Nhà nước, Tổng công ty và sự nỗ lực không ngừng của công ty.
* Đối với Nhà nước:
Nhà nước cần bỏ đi các thủ tục hành chính tỏ ra rườm rà trong xét duyệt hồ sơ dự án, hồ sơ giải ngân hay trong điều chỉnh tổng mức đầu tư, cần được rà soát và cải cách. ở tầm vĩ mô, bên cạnh những dự án đang thực hiện, nếu Nhà nước tiếp tục có những đầu tư mới thì cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các công ty xây dựng nói riêng. Nếu được thực hiện các công trình mới, các doanh nghiệp sẽ không chỉ khấu hao được trang thiết bị, có được doanh thu, lợi nhuận, mà còn tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho đội ngũ lao động vốn khá đông trong ngành xây dưng công nghiệp.
Đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhưng thiếu vốn thì Nhà nước có thể bổ sung vốn cho những doanh nghiệp này bằng cách điều tiết lợi nhuận từ những doanh nghiệp không có nhu cầu bổ sung vốn. Hiện nay Chính phủ đã có những điều chỉnh tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty xây dựng có thêm được nguồn vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thay vì phải tiếp tục vay các khoản nợ mới từ ngân hàng. Đây thực sự là một điều kiện ưu đãi của Nhà nước mà công ty nên tận dụng để phục vụ lợi ích hoạt động kinh doanh của mình
Ngoài ra Nhà nước cần sớm bình ổn giá cả các loại vật liệu để việc thực hiện giá thành theo định mức được chính xác hơn.
* Đối với Tổng công ty:
Tăng cường hỗ trợ về dự án, về vốn: giao thầu cho công ty nhiều hơn, giảm hơn nữa tỷ lệ trích nộp. Những công trình được Tổng công ty giao cho khi kết thúc năm tài chính để công trình có điều kiện thanh quyết toán vốn góp phần đẩy nhanh kỳ thu tiền giảm các khoản phải thu, Tổng công ty nên xác định doanh thu cụ thể càng sớm càng tốt.
Tổng công ty nên có biện pháp điều động máy móc thiết bị, hỗ trợ để Công ty không phải mua ngoài.
Tổng công ty cần quan tâm hơn trong việc thuyết phục Nhà nước cấp bổ sung thêm vốn cho Công ty.
II. giải pháp
Để gia tăng được lợi nhuận phải có được những biện pháp tốt, khả thi để thực hiện được những mục tiêu đề ra. Dựa trên tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong năm qua, em xin có một số giải pháp nhằm hoàn thiện thêm các giải pháp gia tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới.
1.Phối hợp các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Như ta đã biết, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành là một biện pháp cơ bản, cần thiết cho sự phát triển của một DN. Trong lĩnh vực XDCB tìm cách tiết kiệm chi phí mà vẫn giữ được chất lượng công trình cao sẽ góp phần giúp cho các công trình giảm bớt các khoản chi phí phát sinh thêm trong quá trình xây dựng, tạo uy tín cho công ty từ đó công ty có thể nhận được nhiều công trình hơn, từ đó góp phần làm gia tăng lợi nhuận của công ty. Việc quản lý chi phí tốt phải thực hiện được tiết kiệm trong từng khoản mục cấu thành và phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp cho từng công trình. Do vậy, đòi hỏi công ty phải có kế hoạch quản lý tốt và xác định chi phí phải dựa trên định mức đã lập.
Tại Công ty CP công trình đường sắt, việc quản lý chi phí, giá thành được thực hiện khá tốt, chi phí gia tăng là do khối lượng công việc xây lắp tăng. Tuy nhiên, xem xét kỹ từng khoản mục thì vẫn còn tồn tại ở công tác quản lý chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, giá vốn hàng bán tăng cao, việc thực hiện các khoản chi phí khác tốt hơn nhưng tiết kiệm so với trước là chưa nhiều. Do vậy, công ty nên áp dụng một số biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành như sau:
* Với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Đây là thành phần chủ yếu cấu thành nên sản phẩm, là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí. Việc tiết kiệm được khoản chi này là rất cần thiết, đây cũng là khả năng tiềm tàng to lớn để hạ giá thành xây lắp.
- Về việc cung ứng nguyên vật liệu:
Phải có một đội ngũ chuyên trách lĩnh vực cung ứng, cấp phát vật liệu cho toàn đội công trình thi công. Công ty phải tính toán cẩn thận, dựa trên những quy định của Nhà nước để lập dự toán công trình phù hợp, xác định mức tiêu hao cho từng công trình.
- Lựa chọn nhà cung ứng thích hợp: giá cả phải rẻ, phù hợp với tài chính của công ty. Hiện nay trên thị trường có nhiều nhà cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy thị trường cung cấp là rất rộng lớn, công ty nên có sự tính toán kỹ trước khi lựa chọn mua hàng.
- Đối với những công trình thi công ở xa thì công ty nên sử dụng nguyên vật liệu ở địa phương để giảm tối đa chi phí vận chuyển và sự tiêu hao vật liệu trong quá trình vận chuyển.
- Trong quá trình thi công:
Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp là được sản xuất ngay tại nơi tiêu thụ nên trong quá trình thi công chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tốt khách quan và chủ quan có thể dẫn tới tình trạng gia tăng chi phí nguyên vật liệu như: thời tiết, khí hậu, mưa gió.....hay do quản lý không tốt nên dẫn đến sự tiêu hao khá lớn.
- Trong quá trình cấp phát nguyên vật liệu cần có sự giám sát chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tránh cấp phát thừa, cấp phát không đủ chủng loại.
- Thực hiện việc bảo quản và sử dụng vật liệu tốt tại nơi thi công tránh lẫn lộn và tiêu hao do nguyên nhân khách quan như thời tiết,.... công ty phải phân loại vật liệu cẩn thận và có biện pháp bảo quản ở kho tàng, bến, bãi tuỳ theo tính chất của từng loại vật liệu.
- Trong quá trình thi công, công ty cần phải đảm bảo công thức, tính toán tỷ lệ vật liệu sử dụng hợp lý tránh việc thừa vật liệu đã chế biến gây lãng phí, hoặc thiếu vật liệu dẫn tới chất lượng công trình không đảm bảo, phải phá đi làm lại.... và sử dụng tối đa phế liệu thu hồi nếu có thể.
* Đối với chi phí nhân công.
Thực tế, giảm chi phí tiền lương, tiết kiệm chi phí lao động luôn đi đôi với tăng năng suất lao động. Yếu tố đóng vai trò quyết định chính là trình độ tay nghề của người lao động. Trình độ tay nghề của công nhân không những ảnh hưởng đến năng suất lao động mà còn là nguyên nhân của việc sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu, kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tổ chức các hình thức lao động là một nhân tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm của công ty. Việc tổ chức lao dộng khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, giờ máy, có tác động lớn thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
- Đối với nhân công của công ty thì phải có kế hoạch nâng cao tay nghề của họ, khi có đổi mới phát sinh về kỹ thuật cần cử đi học ngay. Có chế độ, chính sách ưu đãi, khuyến khích về mặt tài chính, tạo nơi ăn ở thuận tiện, chế độ bảo hiểm, ốm đau.... nhất là với những nhân công được điều chuyển theo công trình thực hiện ở xa để nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của họ.
- Đối với lao động thuê ngoài: có thể sử dụng lao động ngay tại địa phương nơi thi công sẽ tiết liệm được chi phí cho việc điều chuyển nhân công của công ty từ xa tới.
* Đối với chi phí quản lý doanh nghiệp.
Đây cũng là khoản chi khó dự toán được chính xác và không lường trước được sự phát sinh, do vậy công ty nên có những biện pháp sau:
- Tinh giảm biên chế bộ máy quản lý của công ty làm giảm chi phí nhân viên quản lý.
- Xác định mức giới hạn cho các khoản chi như: chi cho điện, điện thoại, chi phí hội họp, tiếp khách,... cho từng phòng ban cụ thể nếu như vượt giới hạn thì phòng ban đó phải tự bỏ tiền ra chi trả, để tránh tình trạng dụng tràn lan vào việc tư nhiều làm tăng chi phí cho công ty.
- Mọi chi phí quản lý, chi phí hội nghị trên cơ sở hoá đơn chứng từ rõ ràng đảm bảo tính hợp lý, mục đích của chi phí bỏ ra.
2. Chủ động trong công tác huy động và sử dụng vốn cho HĐKD
Công ty xây dựng đường sắt đã thực hiện quản lý và sử dụng vốn kinh doanh khá tốt thể hiện ở sự gia tăng của các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn và doanh lợi vốn. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu rất ít, công ty chủ yếu là đi vay để thực hiện đầu tư nên tăng sự mạo hiểm trong hệ số nợ. Để giải quyết hài hoà giữa việc sử dụng vốn vay và vốn chủ được, hiệu quả công ty cần thực hiện:
- Đánh giá một cách chính xác tình hình tài sản và vốn hiện có tại công ty. Để thực hiện được công ty cần phải có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoàn chỉnh, cụ thể và một đội ngũ đánh giá có năng lực để thẩm tra cẩn thận và chính xác trên cơ sở tình hình thực tế vốn của công ty.
- Trên cơ sở đánh giá đó, xác định một cách khoa học, hợp lý, nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh, tránh tình trạng thiếu vốn làm cho chậm tiến độ công trình thi công hay vốn thừa gây ứ đọng vốn.
- Sau khi xác định được nhu cần sử dụng vốn, công ty cần xây dựng kế hoạch huy động vốn, lựa chọn nguồn tài trợ thích hợp. Xác định khả năng vốn hiện có và huy động lượng vốn cần thiết phải huy dộng từ các nguồn khác như: xin cấp vốn bổ sung từ Tổng công ty, vay ngân hàng, hoặc tổ chức tín dụng khác,...
- Công ty phải dựa vào sự tính toán, đánh giá các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước và kết hợp với phương hướng hoạt động kinh doanh, biến động của thị trường và đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình để xây dựng, thiết lập kế hoạch cho việc phân phối và việc sử dụng vốn sao cho hiệu quả nhất.
- Trong khi thực hiện phải căn cứ vào kế hoạch huy dộng và sử dụng vốn đã tạo lập làm cơ sở điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Nếu như trong quá trình kinh doanh phát sinh nhu cầu vốn thì công ty phải chủ động cung ứng kịp thời để quá trình thi công không bị gián đoạn hoặc bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Nếu thừa vốn thì công ty cần có biện pháp xử lý linh hoạt như đầu tư mở rộng, cho vay lấy lãi, đem đi góp vốn liên doanh, liên kết.
3. Đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ
Nợ phải thu ngắn hạn của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn 34,80% trong tài sản ngắn hạn. Khoản này ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty. Trong đó khoản phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng 62,72%. Điều này cũng dễ hiểu và tất yếu trong ngành xây dựng cơ bản nhưng sẽ làm ứ đọng vốn ở khâu thanh toán, trong khi công ty lại đang thiếu vốn và phải đi vay phát sinh việc trả lãi nhiều. Việc tăng khoản phải thu sẽ dẫn tới tình trạng vốn bị chiếm dụng nhiều, tuy công ty cũng chiếm dụng được một khoản vốn nhưng chỉ có thể chiếm dụng trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó phải thanh toán tránh rủi ro về tài chính do không thanh toán nợ đến hạn. Vốn bị chiếm dụng sẽ tác động lớn tới công ty khi công ty không có vốn để tham gia xây dựng, các công trình sẽ chậm tiến độ gây thất thoát, vốn vay không trả được sẽ làm tăng lãi suất, công trình không hoàn thành thì doanh nghiệp không thể nghiệm thu từ đó sẽ không thu được lợi nhuận. Để làm tốt công tác này công ty cần thực hiện những biện pháp:
- Nhanh chóng hoàn thiện công trình đúng tiến độ thi công, hoàn thành chứng từ hồ sơ nghiệm thu ngay sau khi hoàn thành.
- Có chính sách, tỷ lệ chiết khấu nhất định giúp chủ đầu tư ứng trước vốn hoặc thanh toán ngay.
- Quy định rõ ràng về thời hạn trả nợ và tỷ lệ lãi suất mà khách hàng phải trả nếu như khách hàng xin thanh toán chậm, thanh toán không đúng thời hạn, có thể tính theo lãi suất quá hạn của ngân hàng.
4. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định
TSCĐ của một doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp thường lớn, thời gian khấu hao lâu dài do đó quản lý tốt việc mua sắm và sử dụng TSCĐ sẽ góp phần làm tăng năng suất lao động, hoàn thành được những công trình có giá trị lớn, đẩy nhanh tiến độ thi công sẽ giảm bớt được những khoản tiền phát sinh thêm làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện đại hoá máy móc thiết bị làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty, tiết kiệm chi phí, vật tư nhân công, đẩy nhanh tiến độ thi công. Vì vậy vẫn cần đầu tư đổi mới kết hợp đẩy mạnh khai thác tối đa năng lực sản xuất máy mốc thiết bị cần các giải pháp:
- Trước khi tiến hành đầu tư phải thực hiện phân loại rõ tàng từng nhóm tài sản cố định, xác định số TSCĐ sử dụng kém hiệu quả, hư hỏng để có kế hoạch thanh lý.
- Cần phát huy cao việc sử dụng và kiểm tra định kỳ máy móc thiết bị, tránh tình trạng tài sản hư hỏng không sử dụng được để vào bãi chờ sửa chữa.
- Có biện pháp cụ thể để đánh giá lại TSCĐ để xác định lại đúng giá trị còn lại của tài sản cố định từ đó có biện pháp khấu hao nhanh để thu hồi vốn.
- Trong thời gian tới công ty cần đầu tư lớn hơn nữa vào máy móc thiết bị thi công, giảm bớt đầu tư vào nhà cửa, vật kiến trúc.
Toàn bộ TSCĐ phải đuợc tận dụng tối đa công suất tránh hao mòn vô hình đồng thời thanh lý ngay những tài sản hỏng không phù hợp, không còn sử dụng được để tạo vốn tái đầu tư TSCĐ mới. Ngoài việc sử dụng cần xác định được hệ số hao mòn, đánh giá chính xác giá trị còn lại, áp dụng những biện pháp cho thuê tài sản. Công ty cần chú trọng nâng cao năng lực tay nghề cho công nhân trực tiếp sử dụng tài sản, định kỳ phải tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng nhằm đạt công suất theo kế hoạch. Công ty cần đẩy nhanh việc thu hồi vốn, thanh lý tài sản hư hỏng.
5. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn
Đối với các công trình xây dựng thì việc huy động được nguồn vốn lớn luôn là đòi hỏi bức thiết bởi đặc thù của các công trình này luôn yêu cầu một lượng vốn lớn đổ vào,nếu công ty chỉ dựa vào tiềm lực của minh thì không đủ do vậy cần phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Việc linh hoạt trong huy động vốn sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong việc thanh toán, đáp ứng kịp thời các yêu cầu về vốn góp phần đẩy nhanh tiến độ công trình, tránh tình trạng công trình bị trì hoãn vì thiếu vốn gây thất thoát, lãng phí cho doanh nghiệp từ đó tránh sự thua lỗ trong doanh thu cũng như trong lợi nhuận. Hàng năm nhu cầu vốn phục vụ sản xuất của Công ty là rất lớn nhưng khả năng thu hút vốn của Công ty vẫn còn hạn chế.
Nguồn vốn vay ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn vay ngắn hạn của Công ty. Để có được số vốn này thì hàng năm Công ty đã phải trả một số tiền lãi là rất lớn, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong khi đó vẫn còn nhiều nguồn khác có thể huy động được, chẳng hạn, nguồn vốn huy động từ công nhân viên. Đặc biệt từ năm 2005 Công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần nên việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên và các nhà đầu tư khác có phần linh động hơn. Đây là một thuận lợi của công ty bởi lẽ nguồn vốn này có chi phí lãi vay thấp đồng thời đây cũng là biện pháp góp phần khuyến khích tinh thần trách nhiệm của các cán bộ công nhân viên trong công ty lam việc tích cực và hiệu quả hơn
Ngoài ra, Công ty cần tăng cường thu hút vốn từ hoạt động liên doanh, liên kết. Muốn vậy, Công ty phải đẩy mạng liên doanh, liên kết khong chỉ với các cơ sở kinh tế trong nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, Công ty không những giải quyết phần nào nhu cầu vốn kinh doanh mà còn để tranh thủ máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hơn nữa, cũng nhờ liên doanh, liên kết mà đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Công ty có cơ hội để học hỏi thêm những kinh nghiệm trình độ KHKT tốt của các đối tác về tổ chức quản lý xây lắp, về thi công các công trình. Nhờ đó, Công ty sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia đấu thầu và trúng thầu những dự án lớn trong và ngoài nước.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận và tăng lợi nhuận đã và đang là vấn đề chung, có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp
Là một doanh nghiệp cổ phần, hoạt động kinh doanh trong một nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi Công ty cổ phần công trình đường sắt phải tích cực chủ động phấn đấu nâng cao hơn trong việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, duy trì và phát triển nhịp độ sản xuất kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Trong thời gian qua, cùng với sự cố gắng của toàn ngành giao thông, Công ty công trình đường sắt cũng không ngừng tự vươn lên. Điều đó thể hiện rõ bằng việc tăng cường củng cố vị thế kinh doanh, bảo toàn vốn và thu được lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, Công ty công trình đường sắt cũng gặp phải không ít khó khăn và đã bộc lộ một số mặt tồn tại đòi hỏi cong ty phải cố gắng hơn nữa trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn nhằm hoàn thiện hơn đề án môn học Lý thuyết thống kê.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Thanh Thuý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36102.doc