Đề án Xuất khẩu của Việt Nam sang Asean : thực trạng và triển vọng
Xuất khẩu của một nước phụ thuộc nhiều vào mức độ hội nhập kinh tế của nước đó vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế là sự tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính của khu vực và thế giới, sự quan hệ về kinh tế, thương mại của một nước với các quốc gia khác, với khu vực và thế giới. Nếu một nước có mức độ hội nhập kinh tế cao nghĩa là quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của nước đó với các nước khá chặt chẽ thì nước đó sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu. Do nước đó được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan, về các chính sách của Chính phủ, về thủ tục hải quan . của các nước bạn hàng. Sự ưu đãi này có thể là có đi có lại, cũng có thể do các nước khác giành cho một cách đơn phương. Sự ưu đãi này có thể do một nước khác giành cho vô điều kiện, cũng có thể do thỏa thuận song phương, đa phương hay quốc tế.
13 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Xuất khẩu của Việt Nam sang Asean : thực trạng và triển vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề án môn học
đề tài: Xuất khẩu của việt nam sang asean : thực trạng và triển vọng
Chương i
Lý luận chung về xuất khẩu
1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
Khái niệm xuất khẩu
xuất khẩu là việc bán hàng hóa ra nước ngoài, bán hàng hóa cho người nước ngoài ở trong nước ( người nước ngoài đang công tác hoặc du lịch ... ở trong nước ) hay bán hàng hóa vào trong các khu chế xuất ở trong nước.
1.2. Vai trò của xuất khẩu
Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu
Tất cả các nước trên thế giới đều phải nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ từ các nước khác để nhằm đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế trong nước. Muốn nhập khẩu thì cần phải có vốn. Đối với một nước nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
-Đầu tư nước ngoài
-Vay nợ, viện trợ
-Thu từ hoạt động du, lịch dịch vụ thu ngoại tệ
-Xuất khẩu sức lao động...
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ ... tuy quan trọng, nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Các nguồn vốn từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động đóng góp cũng không nhiều. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Hiện nay, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển ngành ô tô xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển sản xuất nguyên liệu như sắt, thép, cao su hay sơn. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế -kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi mỗi nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. - Xuất khẩu còn đòi hỏi cac doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công nghệ, công tác sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống của nhân dân bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hê kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại nói trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu, trong đó người xuất khẩu (người bán, người sản xuất, người cung cấp) xuất khẩu (bán) trực tiếp cho người nhập khẩu ( người mua).
Hình thức xuất khẩu trực tiếp có các ưu điểm sau:
- Cho phép người xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả để người bán thỏa mãn tốt nhu cầu của thị trường.
- Giúp cho người bán không bị chia sẻ lợi nhuận.
- Cho phép người xuất khẩu nắm bắt được thông tin phản hồi trực tiếp từ khách hàng.
- Giúp cho người xuất khẩu xây dựng chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp.
Bên cạnh đó hình thức xuất khẩu trực tiếp cũng có một số nhược điểm sau:
- Chi phí tiếp thị thị trường nước ngoài cao cho nên những doanh nghiệp có qui mô nhỏ vốn thì nên xuất khẩu theo hình thức ủy thác có lợi hơn.
- Kinh doanh xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu giỏi: giỏi về giao dịch đàm phán, am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo, có như vậy mới đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả.
Do những ưu, nhược điểm nêu trên, hoạt động xuất khẩu trực tiếp thường được thực hiện trong những trường hợp sau:
- Nhà xuất khẩu có nguồn tài chính lớn, có uy tín và có nhiều hiểu biết về thị trường.
- Thị trường xuất khẩu là thị trường quen.
- Hàng hóa xuất khẩu là hàng hóa đã được thị trường biết đến và có uy tín.
2.2. Xuất khẩu qua trung gian
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức xuất khẩu được tiến hành một cách gián tiếp thông qua một bên thứ ba gọi là bên trung gian. Bên trung gian này được hưởng một khoản tiền nhất định.
Bên trung gian phổ biến trong hoạt động xuất khẩu là đại lý và môi giới.
+ Đại lý là một người hoặc một công ty ủy thác cho người khác, công ty thực hiện việc mua bán hoặc dịch vụ phục vụ cho việc mua bán như quảng cáo, vận tải và bảo hiểm. Quan hệ giữa người ủy thác với đại lý thể hiện trên hợp đồng đại lý.
+ Môi gới là một thương nhân hay một công ty làm trung gian giữa bên mua và bên bán, được bên mua hoặc bên bán ủy thác tiến hành bán hoặc mua hàng hóa hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ môi giới, người môi giới không đứng tên của mình, mà đứng tên của người ủy thác, không chiếm hữu hàng hóa và không chịu trác nhiệm cá nhân trước người ủy thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng.
+ ư u điểm của hình thức xuất khẩu qua trung gian:
- Nhà xuất khẩu tận dụng được tri thức, kinh nghiệm, cơ sở vật chất và các quan hệ vốn có của bến trung gian.
- Bên trung gian thường am hiểu thị trường xấm nhập, pháp luật và tập quán buôn bán của địa phương, họ có khả năng đẩy mạnh buôn bán và tránh bớt rủi ro cho nhà xuất khẩu.
- Bên trung gian, nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó khi sư dụng họ, nhà xuất khẩu đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước tiêu thụ hàng.
- Nhờ dịch vụ trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói, nhà xuất khẩu có thể giảm bớt chi phí vận tải.
+ Nhược điểm của hình thức xuất khẩu qua trung gian:
- Nhà xuất khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường, không thu được các thông tin phản hồi từ nhà nhập khẩu hay thị trường.
- Vốn hay bị bên đại lý chiếm dụng.
- Nhà xuất khẩu hay phải đáp ứng các yêu sách của đại lý và môi giới.
- Lợi nhuận bị chia sẻ.
Do những nguyên nhân nêu trên, xuất khẩu qua trung gian thường chỉ được sử dụng trong các trường hợp sau:
- Khi thâm nhập vào thị trường mới.
- Khi mới đưa vào thị trường mặt hàng mới.
- Khi tập quan đòi hỏi phải xuất khẩu qua trung gian.
- Khi mặt hàng đòi hỏi cần có sự chăm sóc đặc biệt ( như hàng tươi sống).
2.3. Hình thức tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước khác, những hàng hóa đã mua ở nước ngoài nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Do nước thực hiện hoạt động tái xuất khẩu có khả năng mua rẻ hàng hóa ở nước này và bán đắt hàng hóa ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn phải bỏ ra ban đầu.
Hoạt động tái xuất khẩu bao gồm có hai hình thức:
+ Hinh thức chuyển khẩu: chuyển khẩu là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu ) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu ) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào nước thực hiện chuyển khẩu và cũng không làm thủ tục xuất khẩu từ nước thực hiện chuyển khẩu. Hình thức chuyển khẩu bao gồm các dạng sau:
- Hàng hóa được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu không qua nước thực hiện chuyển khẩu.
- Hàng hóa được vận chuyển đến nước thực hiện chuyển khẩu nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào nước thực hiện chuyển khẩu mà đi tới luôn nước nhập khẩu.
- Hàng hóa được vận chuyển tới nước thực hiện chuyển khẩu tạm thời đưa vào kho ngoại quan rồi mới vận chuyển tới nước nhập khẩu, không làm thủ tục nhập khẩu vào nước thực hiện chuyển khẩu và cũng không làm thủ tục xuất khẩu từ nước thực hiện chuyển khẩu.
+ Hình thức tạm nhập tái xuất khẩu: tạm nhập tái xuất là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào nước thực hiện hoạt động tạm nhập tái xuất. Thời gian hàng hóa tạm nhập để tái xuất được lưu chuyển tại mỗi nước là khác nhau, ở Việt nam là 60 ngày.
Hoạt động tái xuất khẩu thường được thực hiện trong cac trường hợp sau:
- Nước thực hiện hoạt động tái xuất khẩu có quan hệ ngoại thương với cả nước xuất khẩu cũng như nước nhập khẩu, trong khi đó hai nước xuất khẩu và nhập khẩu lại không có quan hệ thương mại với nhau hoặc có quan hệ thương mại với nhau nhưng hạn chế. Do đó hàng hóa từ nước xuất khẩu không thể xuất khẩu sang được nước nhập khẩu hoặc vẫn có thể xuất sang được nhưng hàng hóa sẽ đắt hơn hoặc gặp khó khăn hơn trong trường hợp thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu thông qua nước thứ ba.
- Nước thực hiện tái xuất khẩu có uy tin và kinh nghiệm trên thị trường quốc tế còn nước xuất khẩu không có uy tín hoặc không có kinh nghiệm trên thị trường quốc tế. Do đó hàng hóa từ nước xuất khẩu khó có khả năng xâm nhập vào thị trường quốc tế nếu không thông qua một nước trung gian là nước thực hiện hoạt động tái xuất khẩu.
3. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu
3.1.Tình hình kinh tế-chính trị khu vực và quốc tế
Trong tình hình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội hiện nay thì tình hình kinh tế - chính trị khu vực và quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của một quốc gia nói chung và tình hình xuất khẩu của một quốc gia nói riêng. Kinh tế luôn gắn liền với chính trị, khi tình hình chính trị có thay đổi thì kinh tế cũng thay đổi theo chiều hướng tương tự. Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay nền kinh tế của các quốc gia đều có liên hệ với nhau không nhiều thì ít. Khi nền kinh tế của một hay một số quốc gia thay đổi thì có thể gây ảnh hưởng đến cả khu vực hay toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu á năm 1997 các nền kinh tế lớn của thế giới như Mỹ, Nhật và Eu đều bị ảnh hưởng, và hầu khắp các nước trên thế giới đều bị ảnh hưởng. Khi nền kinh tế thay đổi thì ít nhiều làm thay đổi tình hình xuất khẩu.
3.2. Tình hình kinh tế chính trị trong nước
Tình hình kinh tế - chính trị trong nước có ảnh hưởng đáng kể đến vấn đề xuất khẩu của một nước, nhiều khi có tính quyết định. Khi trong nước có thay đổi về kinh tế hay chính trị nó có thể làm thay đổi chiến lược, kế hoạch, mục tiêu kinh tế của đất nước, do đó có thể dẫn đến thay đổi xuất khẩu. Khi nền kinh tế trong nước dơi vào tình trạng cung không đáp ứng được cầu, thì trước hết các nguồn lực trong nước sẽ được giành cho sản xuất các mặt hàng để đáp ứng các nhu cầu trong nước sau đó mới đến sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Còn khi tình hình chính trị không ổn định nó ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu.
3.3. Hệ thống chính sách của chính phủ
Tùy theo từng giai đoạn phát triển của đất nước, tùy theo chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước mà Chính phủ của nước đó sẽ đưa ra hệ thống chính sách khác nhau nhằm đạt được mục tiêu mà họ đề ra. Nếu Chính phủ nước đó muốn phát triển nền kinh tế theo hướng hướng nội, thì mọi nguồn lực cũng như chính sách đều khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc sản xuất hàng hóa nhằm đáp ứng các nhu cầu trong nước, còn vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu sẽ không được chú ý. Do đó kim gạch xuất khẩu của nước đó sẽ rất thấp. Còn nếu Chính phủ nước đó muốn phát triển nền kinh tế theo hướng hướng ngoại, thì vấn đề sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được coi trọng, các chính sách của Chính phủ sẽ tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu cũng như việc sản xuất hàng xuất khẩu. Thậm chí còn có những chính sách nhằm khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu. Do đó kim ngạch xuất khẩu của nước đó sẽ tăng đáng kể.
3.4. Nguồn lực đầu tư cho xuất khẩu
Muốn xuất khẩu thì phải có hàng hóa phù hợp với thị trường của nước mà hàng hóa xuất khẩu sang, mà muốn có hàng hóa thì cần phải đầu tư để sản xuất ra chúng. Với mỗi thị trường xuất khẩu khác nhau cần phải có hàng hóa khác nhau phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của các thị trường ấy. Đối với thị trường của nước phát triển, đời sống của nhân dân cao thì để xuất khẩu được vào thị trường này hàng hóa trước tiên cần phải có chất lượng tốt, an toàn vệ sinh, mẫu mã đẹp, còn về phần giá cả tuy cũng quan trọng nhưng là phần thứ yếu. Còn đối với thị trường các nước đang phát triển, hay có trình độ phát triển thấp thì lại ngược lại vấn đề giá cả lại phải đặt nên hàng đầu còn vấn đề chất lượng hàng hóa, an toàn vệ sinh được coi ở hàng thứ yếu. Do vậy mà tùy theo hướng sản xuất hàng hóa để xuất khẩu sang thị trường nào thì cần phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ, quy mô cho phù hợp. Quy mô đầu tư cho xuất khẩu cũng là nhân tố quyết định đến kim ngạch xuất khẩu. Nếu quy mô đầu tư cho xuất khẩu là lớn thì kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ lớn và ngược lại nếu quy mô đầu tư cho xuất khẩu nhỏ thì kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ nhỏ. Đầu tư cho xuất khẩu không có nghĩa là chỉ đầu tư cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu mà cả đầu tư cho hoạt động kinh doanh hàng xuất khẩu và các hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu, cung cấp các thông tin về thị trường xuất khẩu ...
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện qua đơn vị tiền tệ của các nước khác.
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị các chi phí sản xuất của một xí nghiệp nào đó với giá cả thị trường thế giới. Nó tạo khả năng biểu thị và đối chiếu về mặt số lượng kết quả của các giao dịch kinh tế đối ngoại. Do đó, thông qua việc phản ánh tương quan giá trị của các đồng tiền của các nước khác nhau mà tỷ giá hối đoái có được vai trò nhất định đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng một loạt các nhân tố khác, nó tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư nước ngoài và khả năng cạnh tranh của các công ty.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các nhân tố khác ảnh hưởng thì sẽ có tác động khuyến khích xuất khẩu (vì các nhà xuất khẩu sẽ nhận được lãi do đổi ngoại tệ lấy đồng bản tệ đã bị rẻ đi, đồng thời do đồng bản tệ mất giá do đó giá cả hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn tương đối so với hàng hóa thế giới nên khả năng cạnh tranh sẽ lớn hơn do có khả năng bán hàng hóa theo giá thấp hơn giá thế giới). Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng lên có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các nhân tố khác ảnh hưởng có tác động hạn chế xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn một cách tương đối so vơi hàng hóa của thế giới, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường thế giới giảm xuống, hàng hóa khó bán ra nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái còn tác động đầu tư nước ngoài, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các nhân tố khác ảnh hưởng thì sẽ có tác động khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước (vì hàng hóa nước đó có khả năng xuất khẩu cao hơn, mặt khác vốn mà nhà đầu tư nước ngoài mang sang có thể bằng ngoại tệ hay máy móc thiết bị, công nghệ sẽ có giá trị hơn do đồng nội tệ mất giá ). Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng lên có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các nhân tố khác ảnh hưởng có tác động hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước (vì khả năng xuất khẩu hàng hóa sẽ giảm xuống ). Đầu tư nước ngoài thay đổi ít nhiều làm thay đổi nguồn lực đầu tư cho xuất khẩu, mà khi thay đổi thì nguồn lực đầu tư cho xuất khẩu sẽ làm thay đổi kim ngạch xuất khẩu. Nghĩa là tỷ giá hối đoái còn tác động gián tiếp đến xuất khẩu thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài.
Mức độ hội nhập của nền kinh tế với khu vực và thế giới
Xuất khẩu của một nước phụ thuộc nhiều vào mức độ hội nhập kinh tế của nước đó vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế là sự tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính của khu vực và thế giới, sự quan hệ về kinh tế, thương mại của một nước với các quốc gia khác, với khu vực và thế giới. Nếu một nước có mức độ hội nhập kinh tế cao nghĩa là quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại của nước đó với các nước khá chặt chẽ thì nước đó sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu. Do nước đó được hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan, về các chính sách của Chính phủ, về thủ tục hải quan ... của các nước bạn hàng. Sự ưu đãi này có thể là có đi có lại, cũng có thể do các nước khác giành cho một cách đơn phương. Sự ưu đãi này có thể do một nước khác giành cho vô điều kiện, cũng có thể do thỏa thuận song phương, đa phương hay quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33718.doc