Đề án Xuất khẩu lao động Việt Nam, giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế, đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài là một tất yếu khách quan và đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước. Đối với nước ta, XKLĐ cũng xuất phát từ nhu cầu nội tại và xu hướng chung nhằm góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho CNH -HĐH, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới. Qua nghiên cứu đề tài này cho thấy XKLĐ trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, phần nào đã đạt được mục tiêu để ra của XKLĐ là giải quyết vi?c làm, tăng thu nhập cho người lao động . Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định về công tác quản của nhà nước, đặc biệt là hạn chế về chất lượng nguồn lao động đưa đi làm việc. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những phương hướng và giải pháp nhất định để giải quyết vấn đề này. Mặc dù đã có những cố gắng thu thập số liệu, điều tra, phân tích và đánh giá vấn đề XKLĐ đối với nước ta, nhằm thấy được tầm quan trọng của XKLĐ – một hướng giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang hội nhập ngày càng sâu rộng, để từ đó có phương hướng và giải pháp thúc đẩy XKLĐ có hiệu quả hơn. Tuy nhiên do khả năng có hạn của mình, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn để giúp tôi hoàn thiện đề án này.

doc35 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Xuất khẩu lao động Việt Nam, giải pháp tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ngoài, ký kết hợp đồng cung ứng lao động theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận và luật pháp nước XKLĐ; sau đó tổ chức tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ, bổ túc tay nghề, giáo dục định hướng về luật pháp, phong tục tập quán của nước tiếp nhận lao động và làm các thủ tục cần thiết để đưa lao động đến nơi làm việc và đưa họ về nước khi hết hạn hợp đồng. Với hình thức này, số lượng người lao động đưa đi nhiều hơn, tổ chức và quản lý chặt chẽ hơn, quyền lợi người lao động cũng được bảo vệ hơn. Thứ ba, lao động đi làm việc theo trương trình thầu khoán, liên doanh, liên kết, hợp tác trực tuyến, đầu tư ra nước ngoài. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực theo các quy định của luật pháp. Lao động đi theo loại hình này được tổ chức chặt chẽ, quyền lợi được bảo vệ tốt. Thứ tư, lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua các hiệp đinh, thỏa thuận, cam kết của chính phủ. Theo thỏa thuận của chính phủ nước XKLĐ với chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế tiếp nhận, lao động được tiếp nhận đến làm việc thông qua các tổ chức XKLĐ phi lợi nhuận. Thứ năm, lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng thực tập, nâng cao tay nghề. Người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp, học sinh tại các trường đi thực tập, tu nghiệp nâng cao tay nghề được phía tiếp nhận trả lương trong thời gian thực tập, tu nghiệp. 5. lợi ích của XKLĐ XKLĐ là hoạt động đã xuất hiện từ lâu và mang lại những lợi ich quan trọng: Cho phép phát huy lơi thế so sánh về nhân công, khai thác tối đa yêú tố ngoại lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. XKLĐ là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động , giảm thất nghiệp, góp phần xoá đói giảm nghèo. XKLĐ còn là một kênh đem lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho quốc gia. XKLĐ là công cụ chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng, nâng cao tay nghề và rèn luyện tác phong công nghiệp. XKLĐ cũng giúp tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới. 6. Các yếu tố tác động đến XKLĐ 6.1. Các yếu tố thuộc về nước nhập khẩu lao động +Văn hoá, phong tục tập quán +Luật pháp +Tình hình ổn định chính trị 6.2. Các yếu tố thuộc về nứơc XKLĐ +Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước + Chất lượng người lao động, thể hịên ở các mặt: * Thể lực: Bao gồm chiều cao và cân nặng. * Trí lực: Bao gồm trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, ý thức tổ chức, kỷ luật, tác phong công nghiệp, chất lượng của doanh nghiệp XKLĐ. 6.3. Các yếu tố khác: Như thị trường lao động quốc tế ,quan hệ chính trị, kinh tế giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu và các yếu tố không thựờng xuyên, bất khả kháng khá như chiến tranh, dịch bệnh … II. viÖc lµm vµ t¹o viÖc lµm cho ng­êi lao ®éng 1. Một số khái niệm. 1.1. Việc làm Trong tất cả các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất (vốn, tài nguyên, công nghệ), thì yếu tố con người là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của tổ chức. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Qúa trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc hay nói cách khác, là khi họ có việc làm. Vậy việc làm có ý nghĩa là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm. Khái niệm 1: Việc làm là trạng thái phù hợp của sức lao động và những điều kiện thích hợp (vốn, tư liệu sản xuât, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó. Việc tạo việc làm phụ thuộc vào mối quan hệ tỉ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc, thiết bị… và chi phí lao động (V). Tỷ lệ này phải phù hợp với trình độ công nghệ sản xuất nhất định. Hiện nay mối quan hệ giữa C và V thường xuyên biến đổi dưới nhiều dạng khác nhau: + Sự phù hợp giữa C và V: Khi có mối quan hệ này chúng ta có 2 khái niệm: Việc làm đầy đủ: Tức là sử dụng hết thời gian làm việc, mọi người có khả năng và có nhu cầu thì đều có việc làm. Việc làm hợp lý: C và V kết hợp và đều dựa vào tiềm năng của vốn, tư liệu sản xuất, lao động. + Sự không phù hợp giữa C và V: dẫn đến thiếu việc làm và thất nghiệp. Khái niệm 2: Theo điều 13, chương II, Bộ luật lao động của Nước CHXHCNVN ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.” Theo như khái niệm này, việc làm cần thỏa mãn 2 điều kiện, tạo thu nhập, được pháp luật công nhận và nó được biểu hiện dưới các dạng sau: Một là, những công việc mà người lao động nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. Hai là, làm những công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân( người lao động có quyền sử dụng, sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất ra sản phẩm). Ba là, làm công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dứới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó( do chủ gia đình làm chủ sản xuất). Khái niệm 3: Theo tổ chức lao động quốc tế: “việc làm là hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”. => Từ 3 khái niệm trên thì ta có thể thấy khái niệm 1 là khái niệm chung nhất và đầy đủ nhất. 1.2. Thất nghiệp Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội. Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Khái niệm thất nghiệp ngày càng được bổ sung và mở rộng dần trong thời nay, tuy nhiên vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về thất nghiệp. Có quan niệm cho rằng: thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng kí ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết. Một quan niệm khác cho rằng: thất nghiệp là tình trạng trong khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành, còn người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tham khảo( tức tuần lễ tiến hành điều tra thu thập thông tin) không có việc làm, đang có nhu cầu tìm việc và có đăng ký tìm việc theo quy định. Cùng với khái niệm thất nghiệp, ta còn khái niệm thiếu việc làm. 1.3. Thiếu việc làm (bán thất nghiệp, thất nghiệp trá hình): là những người làm việc ít hơn mức mình mong muốn. Thất nghiệp trá hình là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Trong khu vực thành thị, dạng thất nghiệp này tồn tại dưới dạng khác nhau: làm việc với năng suất thấp không góp phần tạo nên thu nhập cho người lao động, cho xã hội mà chỉ tạo ra thu nhập đủ sống ( nhiều khi dưới mức tối thiểu). Dạng thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp vô hình. Trong khu vực nông thôn, thất nghiệp trá hình chủ yếu tồn tại dưới dạng thiếu việc làm. Nguyên nhân là do giới hạn của đất đai nông nghiệp, do khu vực kinh tế phi nông thôn phát triển chậm. Mức độ thiếu việc làm ở nông thôn càng trầm trọng hơn khi chúng ta xem xét đến tính thời vụ của việc làm, tức là vào thời gian mùa vụ nhu cầu lao động lớn, người nông dân phải làm việc nhiều, không hết việc trong khi đó, ở thời kì nông dân lại không có việc làm, thời gian làm việc ít. Thất nghiệp tồn tại dưới dạng này còn gọi là bán thất nghiệp. 1.4. Một số khái niệm khác Người có việc làm: là những người làm việc trong khoảng thời gian xác định cuộc điều tra kể cả lao động nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc đang tạm thời nghỉ việc do tai nạn, bệnh tật, nghỉ lễ,… Người thất nghiệp: là những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm, đang tích cực làm việc và có nhu cầu làm việc. Người thiếu việc làm: là những người trong khoảng thời gian xác định điều tra có tổng số giờ lao đông nhỏ hơn thời gian quy định. Như vậy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm và tình trạng thiếu việc làm hay thất nghiệp. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì đều thấy đây là vấn đề đáng lao hàng đầu ở mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển. Chúng ta không thể và không có cách nào để hoàn toàn xóa bỏ tình trạng thất nghiệp mà chỉ có thể giảm thất nghiệp bằng cách tạo thêm việc làm cho người lao động. Vậy tạo việc làm là như thế nào? 1.5. Tạo việc làm Tạo việc làm là tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Có thể mô hình hóa quá trình tạo việc làm theo phương trình sau: Y=f(c,v,x,…) Trong đó, Y: Số lượng việc làm được tạo ra C: Vốn đầu tư V: Số lao động X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm… Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố vốn đầu tư (C) và số lao động (V). Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất của doanh nghiệp. 2. Vai trò của tạo việc làm Xu hướng của mọi quốc gia hiện nay là chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, vì vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động, một số nước lao động mất việc làm dẫn đến thất nghiệp. Do vậy, việc tạo việc làm chính là một giải pháp quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để giảm thất nghiệp góp phần phát triển và ổn định kinh tế xã hội của đất nước. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội càng văn minh hơn. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần xây dựng đất nước. III. tiÕn tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ 1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế vận động tất yếu của nền kinh tế trên thế giới trong điều kịên hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Đối với các nước đang và kém phát triển ( trong đó có Việt Nam ) thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hiệp tác quốc tế. hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiên từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế . Có ý kiến cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Ý kiến khác lại cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng dào thương mại quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Mặc dù có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quyết định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoài khác. 2. Đặc điểm của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là qúa trình xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. 3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế Không thể một quốc gia nào trên thế giới tồn tại độc lập, phát triển có hiệu quả mà không có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Bởi vì ngày nay hai phạm trù thực tiễn tồn tại khách quan đó là: quan hệ hàng hoá tiền tệ và sự trao đổi này đã ra khỏi phạm vi của một quốc gia và sự tồn tại của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Cho nên quan hệ kinh tế giữa các nước mang tính tất yếu khách quan. Đối với các nước phát triển thì mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế ra bên ngoài giúp cho việc bành trường mau lẹ sức mạnh kinh tế của mình, như tìm kiếm thị trường mới để giải quyết tình trạng khủng hoảng thừa về háng hoá, để tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi đem lại lợi nhuận cao, giảm được chi phí sản xuất do sử dụng nhân công và tài nguyên rẻ của các nước chậm phát triển. Đối với các nước đang phát triển: hội nhập kinh tế quốc tế có lợi trong việc tiếp nhận kĩ thuật mới tiên tiến làm cho năng suất lao động tăng, và ở các nước đang phát triển việc thiếu vốn trở nên trầm trọng, nên mở rộng quan hệ ra bên ngoài tạo điều kiện thu hút vốn để thực hiện hiện đại hoá quá trình kinh tế diễn ra ở các nước này. Hơn nữa thị trường trong nước các nước nàh nhỏ và hẹp, không đủ đảm bảo để phát triển công nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt, do đó không tạo được công ăn việc làm, nạn thất nghiệp ngày càng nghiêm trọng. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với nước ngoài giúp cho việc tập trung phát triển các thế mành của đất nước. Nắm bắt được vấn đề mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có ý nghĩa thực tiễn to lớn đặc biệt đối với đất nước Việt Nam chúng ta, nơi đã trải qua bao cuộc chiến tranh giữ nước hào hùng, nhưng đói nghèo, hiểm hoạ đe doạ. Muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, xích lại trình độ phát triển cao của khu vực và thế giới thì phải thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước: “đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá mối quan hệ kinh tế”. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu: Thứ nhất là, đàm phán cắt giảm thuế quan; Thứ hai là, giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; Thứ ba là, giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Thứ tư là, điều chỉnh các chính sách thương mại quốc tế; Thứ năm là, giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ; Thứ sáu là, triển khai các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu. 4. XKLĐ - 1 hướng tạo việc làm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Lao động và việc làm là vấn đề bức xúc, có tính toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với nước ta, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập thì vấn đề lao động, việc làm càng trở nên quan trọng, là một trong những chính sách xã hội cơ bản của nhà nước nhằm sử dụng hiệu quả và phát huy tối đa tiềm năng nguồn nhân lực to lớn của đất nước để thể hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 do đại hội X của Đảng đề ra. Để giải quyết vấn đề việc làm có nhiều biện pháp việc làm khác nhau, trong đó XKLĐ và chuyên gia là một họat động kinh tế xã hội góp phần tạo việc làm, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước… Cùng với mục tiêu tạo việc làm trong nước là chính tạo việc làm ngoài nước thông qua con đường XKLĐ được coi là một định hướng quan trọng, lâu dài, góp phần phát triển đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH … Và đây cũng là một biện pháp được nhiều nước trên thế giới quan tâm và khai thác tối đa. Chương II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XKLĐ - HƯỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC TẾ I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XKLĐ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 1. Giai đoạn 1980-1990 Đây là giai đoạn đầu Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động ra nước ngoài làm việc, chủ yếu đưa sang các nước thông qua việc nhà nước ký kết các Hiệp định lao động và trực tiếp thực hiện, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận lao động với số lượng không nhỏ được đưa đi làm việc ở Iraq, Libya và đưa chuyên gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc ở một số nước châu Phi. Trong 10 năm (1980 – 1990) Việt Nam đã đưa được 244.186 lao động, 7.200 lượt chuyên gia đi làm việc và 23.713 thực tập sinh vừa học vừa làm ở nước ngoài. Ngân sách Nhà nước thu được khoảng 800 tỷ đồng (theo tỷ giá rúp /đồng Việt Nam năm 1990), hơn 300 triệu USD; Đồng thời, người lao động và chuyên gia đã đưa về nước một lượng hàng hoá thiết yếu với trị giá hàng nghìn tỷ đồng. 2. Thời kỳ 1991 đến nay 2.1. Giai đoạn 1991 - 2000 Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Châu Phi, Iraq có tiếp nhận lao động Việt Nam đều xảy ra những biến động chính trị và kinh tế. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt Nam. Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu bức xúc là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Ngày 9 tháng 11 năm 1991, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 370/HĐBT về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Theo Nghị định này, Các tổ chức kinh tế được thành lập và được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động cung ứng lao động và chuyên gia cho nước ngoài. Việc xuất khẩu lao động và chuyên gia được thực hiện thông qua các hợp đồng do các tổ chức kinh tế đó ký với bên nước ngoài. Cho đến tháng 8 năm 1998, nước ta đã có 55 tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nước có giấy phép đang hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. Trong giai đoạn từ 1996 đến 1999, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động theo Nghị định 07/CP là 77 doanh nghiệp trong đó có 53 doanh nghiệp thuộc Bộ, ngành và 24 doanh nghiệp địa phương. Nhờ đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu lao động và sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp tham gia vào dịch vụ xuất khẩu lao động làm cho số lượng lao động và chuyên gia của Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài gia tăng nhanh chóng. Năm 1991 là 1.022 người, đến năm 2000 tăng lên 31.500 người, năm 2003 là 75.000 người. Trong giai đoạn này, nước ta đã đưa 320.699 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Với mức lương bình quân (kể cả làm thêm giờ) của người lao động ở nước ngoài khoảng 400 USD /tháng, ước tính từ năm 1996 đến nay, số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế mới đã chuyển về nước khoảng 500 triệu USD mỗi năm. 2.2. Giai đoạn 2000 - 2005 Trong những năm gần đây XKLĐ đã đạt được những thành tựu to lớn, thị trường ngày càng mở rộng (hiện khoảng 40 thị trường), số lao động đưa đi hàng năm có xu hướng tăng lên, ngành nghề làm việc đa dạng. (Xem Biểu 1) Biểu 1: Tống số lao động đưa đi theo quốc gia, vùng lãnh thổ giai đoạn 2000 - 2004 Số lượng Cơ cấu (%) Tổng số 256237 100,00 Đài Loan 95285 31,19 Hàn Quốc 21531 8,40 Nhật Bản 11956 4,67 Malaysia 73021 28,50 Nước khác 54444 21,24 Xuất khẩu lao động góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ lao động XKLĐ trong tổn số lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 3,42%. Bình quân hàng năm trên 1 tỷ USD được chuyển về nước, góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo. Đã có nhiều doanh nghiệp XKLĐ của nước ta đầu tư thành lập trường dạy nghề XKLĐ nhằm đáp ứng nhu cầu về lao động kỹ thuật của các đối tác ở các thị trường cơ bản: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và một số thị trường khác. Tỷ lệ lao động có tay nghề trước khi đưa đi xuất khẩu lao động có xu hướng giảm xuống từ năm 2000 đến 2003, năm 2004 có xu hướng tăng lên từ 34,62% năm 2003, năm 2004 tỷ lệ này là 45,15% và chung cả 5 năm tỷ lệ này là 43,34%. Tỷ lệ lao động có nghề trước khi đi XKLĐ cũng có sự khác nhau đáng kể giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong tổng số lao động đưa đi, tỷ lệ lao động có nghề đi qua các doanh nghiệp XKLĐ Nhà nước là 43,69%, cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp XKLĐ ngoài nhà nước (13,72%). 2.3. Từ 2006 đến nay Năm qua trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nước XKLĐ trên thị trường quốc tế diễn ra ngày càng gay gắt, nhưng họat động XKLĐ vẫn thu được nhiều thành tựu quan trọng. Cả nước đã đưa được 78.885 lao động đi làm việc ở nước ngoài, bằng 105% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra gấp 2.5 lần trong 5 năm năm trước đó, trong đó Malaisia là 37.950 người, Đài Loan 14.120 người, Hàn Quốc 10500 người, Nhật Bản gần 5400 người. Cho đến thời diểm này đã có khoảng 400 nghìn lao động dang làm việc ở hơn 40 nước trong khu vực và trên thế giới, hàng năm thu nhập xấp xỉ 1.6 tỷ USD. Dẫn đầu về số lượng là thị trường Malaisia với trên 100 nghìn lao động, có thu nhập bình quân khoảng 2-3 triệu đồng / tháng, một số nghề thu nhập từ 5-7 triệu /tháng; Đài Loan có trên 90 nghìn lao động có thu nhập lên tới 300-500USD/ tháng; Hàn Quốc có trên 30 nghìn lao động, thu nhập bình quân khoảng 900-1000 USD/tháng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng lên so với những năm trước, đạt 20% so với 13.4% năm 2001. Quản lý lao động ngoài nước cho biết trong 8 tháng đầu năm 2007 cả nước đã đưa được 55.501 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 69% kế hoạch năm và vượt 11% so với cùng kỳ năm 2006. Hai thị trường Malaysia và Đài Loan có số lượng lao động đi đông nhất, với 33.351 người, chiếm 60,09% tổng số lao động đưa đi. Theo đánh giá của cục, hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đang có nhiều chuyển biến tích cực. Đáng chú ý nhất là đến nay, có khoảng hơn 40 doanh nghiệp được thẩm định hợp đồng tuyển chọn đưa lao động sang các thị trường mới, thu nhập cao như: Latvia, Ba Lan, Romania, Úc, Mỹ, Canada, Brunei, Macau, Singapore, Jordan... với số lượng đưa đi khoảng 500 người. Cũng theo đánh giá của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Dafel), đáng chú ý nhất ở lĩnh vực này là nhiều doanh nghiệp (DN) tích cực chuyển hướng khai thác thị trường mới, thị trường thu nhập cao, tạo nhiều cơ hội cho người lao động (NLĐ) lựa chọn. C ác th ị tr ư ờng đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của những người có nhu cầu đi xuất khẩu lao động nh ư Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, và gần đây là Ma Cao, Síp và Cộng hòa Séc, trong đó thu hút sự quan tâm lớn nhất của người lao động là Mỹ. Năm 2007 được coi là năm điểm nhấn cho công tác đào tạo nhân lực xuất khẩu lao động, kể cả về tay nghề lẫn ý thức kỷ luật. Dự kiến quy mô dạy nghề sẽ là 21%. 4. XKLĐ - một hướng tạo việc làm cho người lao động Tỷ trọng việc làm do XKLĐ tạo ra cũng tăng đều đặn qua các năm so với tạo việc làm trong nước, từ 2.8% năm 2001 lên 4.78% năm 2006. Điều này cho thấy XKLĐ đang dần trở thành một kênh giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng. Trong giai đoạn 2001 - 2005, bằng các giải pháp đột phá về cơ chế, chính sách, pháp luật hướng vào giải phóng và phát huy tối đa tiềm năng nguồn nhân lực, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm nên từ năm 2001 đến năm 2005 đã tạo việc làm cho 7, 5 triệu người, bình quân 1, 5 triệu người/năm. Trong đó, tạo việc làm mới thông qua Chương trình phát triển kinh tế - xã hội chiếm 74,4%, thông qua chương trình mục tiêu hỗ trợ việc làm và XKLĐ chiếm 25,6%. Theo dự báo, đến năm 2010, dân số nước ta sẽ có khoảng 88, 3 triệu người, với 49 triệu lao động, bình quân mỗi năm có trên 1 triệu người bước vào tuổi lao động, cộng với số lao động trước đó chưa tìm được việc làm chuyển sang và số lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước… dẫn đến tổng nhu cầu về chỗ làm việc mới 8 triệu, trong khi đó việc làm được khoảng 6 triệu người nên sức ép về việc làm còn lớn. Do đó, cả nước phải xem Chương trình mục tiêu Quốc gia về Việc làm và XKLĐ là những giải pháp quan trọng góp phần tạo việc làm thêm cho 2 triệu lao động. II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XKLĐ TRONG THỜI GIAN QUA 1. Về mặt đạt được Thứ nhất, Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đã và đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát triển nhiều hình thức dịch vụ tiến bộ, đầu tư có trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Lao động và chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài với nhiều ngành nghề đa dạng như xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản; chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học… Nếu như ở những năm tám mươi, Đảng và Nhà nước ta đưa được 28 vạn lao động hợp tác với các nước XHCN và 7, 2 nghìn chuyên gia đến các nước Châu Phi làm việc với mục tiêu mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài, kết hợp với đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho chuyên gia, thì đến những năm 90, với các hình thức: hợp tác lao động đã đưa được 95 nghìn lao động đi làm việc chủ yếu là Đông Bắc á (Hàn Quốc, Nhật Bản) và Trung Đông. Đặc biệt giai đoạn 2001-2005, XKLĐ đã có bước phát triển vượt bậc, đã đưa khoảng 295 nghìn lao động và chuyên gia đi làm việc, gấp hơn 3 lần giai đoạn 1996-2000 (2001: 36.108 người; 2002: 46.122 người; 2003: 75.000 người; 2004: 67.000 người; 2005: 70.000 người) và đến năm 2006: 75.000 người. Thứ hai, Dịch vụ xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp góp phần làm cho hàng vạn người có việc làm với thu nhập cao; giảm được khoản đầu tư khá lớn cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong nước, người lao động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghệ sản suất mới và phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp. Thứ ba, thị trường xuất khẩu lao động của nước ta từng bước ổn định và mở rộng, số thị trường nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng lên từ chỗ chỉ có 15 nước vào năm 1995, đến nay lao động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước. Việc chỉ đạo khai thác, củng cố và mở rộng thị trường đã được định hướng: tập trung khai thác, củng cố các thị trường trọng điểm, từng bước tiếp cận, thí điểm để mở rộng sang các khu vựn Thứ tư, các hợp đồng ký kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài đều phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp nước sử dụng lao động, phù hợp với mặt bằng thị trường và đảm bảo được quyền lợi của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo, giáo dục những kiến thức cần thiết ,bổ túc tay nghề trước khi đi làm việc nước ngoài tăng dần qua các năm. Thứ năm, tỷ lệ lao động qua đào tạo, giáo dục những kiến thức cần thiết, bổ túc tay nghề trước khi đi làm việc nước ngoài tăng dần qua các năm. (2003: 35%, 2004: 50% động). từ năm 2001 đến năm 2006, đã có trên 6,6 triệu lao động được qua đào tạo nghề, tăng bình quân khoảng 6,5%/năm. Quy mô dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh cũng đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 13,4% năm 2000 lên gần 20% năm 2006. Thứ sáu, XKLĐ đã tạo việc làm cho hàng vạn người lao động với thu nhập cao, đồng thời nâng cao chất lượng lao động Từ 2001 đến 2005, đã tạo việc làm cho 7.5 triệu người , bình quân 1.5 triệu người /năm, trong đó XKLĐ chiếm 25.6 %, thu nhập chuyển về nước 1.5 tỷ USD /năm Hiện nay, lao động Việt Nam đang làm việc ở các nước như: Malaysia trên 100 nghìn ngựời, thu nhập bình quân 2-3 triệu USD /tháng, một số nghề lên tới 5-7 triệu đồng /tháng; Đài Loan có trên 90 nghìn lao động có thu nhập khoảng 300-500 USD/tháng; Hàn Quốc có trên 30 nghìn lao động ,thu nhập bình quân 900-1000USD /tháng; Nhật tiếp nhận theo hình thức tu nghiệp sinh, với khoảng 19 nghìn tu nghiệp sinh có thu nhập cao hơn các thị trường khác. Khu vực Trung Đông, vài nănm gần đây đã mở thị trường các nước khu vực vùng Vịnh: Ả rập thống nhất, Cata, Ả rập Xê-út…đây là khu vực thị trựờng đang phát triển mạnh, có thể lên đến hàng chục nghìn từ năm 2007 trở đi . Thứ bảy, Công tác quản lý lao động cũng được tăng cường. ở trong nước, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã chỉ đạo và hướng dẫn các doanh nghiệp XKLĐ thực hiện tốt công tác tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng. Đồng thời, phối hợp với các cơ quan đại diện Việt Nam, các Ban quản lý lao động, các doanh nghiệp và các cơ quan liên quan để giải quyết các vụ việc, tranh chấp phát sinh đối với lao động như đình công, thiếu việc làm, điều kiện sinh hoạt không đảm bảo, lao động bị tai nạn… Với mô hình liên kết trong XKLĐ các tỉnh, thành phố cũng đã ban hành nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động tham gia XKLĐ (hỗ trợ đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng, cho vay vốn…) phối hợp với các doanh nghiệp trong chuẩn bị nguồn và đào tạo lao động. Thứ tám, Công tác thông tin tuyên truyền hoạt động XKLĐ đã góp phần tích cực để các cấp, các ngành và người dân nhận thức đúng về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về XKLĐ và chuyên gia. Việc Nhà nước cùng các doanh nghiệp cung cấp sách, báo, thông tin, đĩa nhạc cho người lao động và chương trình phát thanh tiếng Việt ở một số thị trường trọng điểm làm cho đời sống văn hoá, tinh thần của người Việt Nam làm việc ở nước ngoài càng tăng thêm phong phú. 2. Những tồn tại 2.1. Tồn tại 2.1.1. Kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, số lao động đưa đi mặc dù có tăng qua các thời kỳ nhưng còn thấp, chủ yếu tập trung ở các nước châu Á: Số lao động xuất khẩu hàng năm bình quân chỉ chiếm 0.09% lực lượng lao động, trong khi ở Philippin là 22.3% XKLĐ của Việt Nam chủ yếu chỉ quanh quẩn với 4 thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản, trong khi tỷ lệ lao động sang các thị trường mới chưa chiếm tới 5%, các thị trường có nhiều tiềm năng lớn như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ chưa tiếp cận được hoặc mới ký được các hợp đồng nhỏ lẻ. Từ chỗ chỉ có 15 nước vào năm 1995 với 10.050 người đến nay lao động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại. 2.1.2. Chất lượng lao động đưa đi xuất khẩu còn thấp so với yêu cầu của thị trường Cơ cấu lao động xuất khẩu chủ yếu vẫn là lao động giản đơn hoặc có tay nghề thấp, ngoại ngữ kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lại phải cạnh tranh với một số nước có nguồn lao động tương tự trong khu vực như Indonexia, Thái Lan, Phippin…nên tiền lương và thu nhập thấp. Một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu nhưng ta chưa có đủ điều kiện đáp ứng. Giai đoạn 1998-2005, cả nước đưa được 360.959 lao động đi xuất khẩu, trong đó có 61.300 người có nghề chuyên môn, chiếm 27.5%. Điều đáng nói nếu như năm 1998 tuy số lao động đưa đi là 12240 , trong đó lao động có nghề chiếm 39.3%, trong khi 2003 tỷ lệ này giảm xuống còn 16,17% ,riêng những năm gần đây 2004, 2005 và 2006 là 20% Tác phong công nghiệp, ý thức, kỷ luật lao động của ngựời lao động đưa đi còn kém, tỷ lệ vi phạm hợp đồng và luật pháp nước sở tại cao, tuy vậy lại chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết nên ở một số thị trường truyền thống tỷ lệ bỏ trốn cao như Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan khoảng 10-15% làm ảnh hưởng đến uy tín lao động Việt Nam nói chung. Điếu này càng làm giảm khả năng cạnh tranh của lao động nước ta trên trường quốc tế. Nguyên nhân của vấn đề này là do: 2.2.3. Năng lực XKLĐ của các doanh nghiệp còn thấp Trong tổng số 145 doanh nghiệp, chỉ có 15 doanh nghiệp đưa được trên 1000 lao động mỗi năm. Nhiều doanh nghiệp chưa có đội ngũ cán bộ chuyên môn, hoạt động thiếu chuyên nghiệp, thiếu hiệu quả. Tổ chức tuyển chọn và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài còn thiếu công khai, minh bạch, thủ tục hành chính còn rừơm rà, phức tạp, gay phiền hà và tốn kém thời gian, tiền bạc của người lao động. 2.2.4. Việc quản lý, phối hợp giữa các ngành, chức năng và địa phương trong tuyển dụng lao động tuy đã có nề nếp, nhưng các hoạt động tiêu cực như lừa đảo, người lao động vãn còn tồn tại, gây thiệt hại và làm giảm lòng tin người lao động. 2.2.5. Công tác quản lý ở nước ngoài còn nhiều bất cập, yếu kém Các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quàn lý, chỉ đạo các doanh nghiệp trực thuộc làm XKLĐ, còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Công tác quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động ở nước ngoài của các doanh nghiệp còn yếu. Việc tổ chức quản lý trong nước còn lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp thanh, kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan chức năng; chưa kịp thời rút ra những kinh nghiệm và những hạn chế của chính sách và pháp luật về XKLĐ để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. 2.2.5. Vai trò của XKLĐ đối vói xoá đói giảm nghèo còn mờ nhạt. Những người lao động nghèo, lao động vùng sâu, vùng xa ít được tiếp cận với các chính sách về XKLĐ như chính sách đào tạo, giáo dục định hướng, chính sách hỗ trợ vốn để đi XKLĐ. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài là người dân tộc thiểu số còn ít hoặc không đáng kể. XKLĐ chỉ phát triển mạnh và có hiệu quả rõ rệt tài các tỉnh đổng bắng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, các tỉnh Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long và thất nghiệp cao như Quảng Nam, Bình Định, Bến Tre nhưng số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài không đáng kể. 2.2. Nguyên nhân tồn tại và hạn chế 2.2.1. Nhận thức về công tác XKLĐ còn nhiều hạn chế và quan điểm thiếu đồng nhất. Công tác XKLĐ của ta mới nhằm mục tiêu giải quyết việc làm mới chỉ chạy theo số lượng lao động đưa đi, không quan tâm đến chất lượng lao động xuất khẩu, việc tuyển chọn và đào tạo giáo dục định hướng và ngoài ngữ làm qua loa đã gây hậu quả to lớn. Nhận thức của ngựời lao động chưa đúng. Một bộ phận người lao động quan niệm coi XKLĐ là dễ kiếm tiền nên khi không đạt được mong muốn thì tỏ ta vô kỷ luật, bỏ hợp đồng đi làm việc nơi khác. Các lao động, tổ chức XKLĐ thì coi đây là phương tiện để kiếm tiền thật nhanh bằng mọi giá. Hậu quả của những tư tưởng này là tệ nạn lừa đảo người lao động đi làm việc ở các nước có thu nhập cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… Các doanh nghiệp hoạt động XKLĐ chỉ nhằm mục tiêu lợi nhuận của bản thân, các chi phí XKLĐ như phí môi giới, phí đi lại và các chi phí khác có liên quan khác trút hết lên đầu người lao động. 2.2.2. Quản lý nhà nước về XKLĐ còn hạn chế XKLĐ là một lĩnh vực kinh tế đối với ngoại đặc thù, ta chưa có nhiều kinh nghiệm, phải cạnh tranh với nhiều nước trong khu vực vốn có kinh nghiệm và có các thị trường tiếp nhận lao động truyền thống, xu hướng và chính sách tiếp nhận lao động của các nước có sự thay đổi nhanh chóng trong khi chính sách của Nhà nước và hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp XKLĐ chưa theo kịp. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp không thống nhất dẫn đến chậm trễ trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quan hệ lao động và dân sự ở nước ngoài. 2.2.3. Đầu tư các nguồn lực cho XKLĐ chưa tương xứng với yêu cầu Chính sách và cơ chế đầu tư các nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính cho nghiên cứu và khai thác thị trường, cho đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ quản trị XKLĐ, cho đào tạo lao động xuất khẩu chưa tương xứng với mục tiêu, nhiệm vụ XKLĐ. 2.2.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách, pháp luật về XKLĐ chưa thực hiện sâu rộng và hiệu quả Công tác thông tin, tuyên truyền còn ít tập trung vào việc xây dựng nhận thức xã hội, ý thức chuẩn bị các điều kiện cần và đủ của người lao động để tham gia XKLĐ, có trường hợp đưa tin chưa chính xác, thiếu khách quan, một chiều dẫn đến tình trạng người lao động không có thông tin đầy đủ, đáng tin cậy nên nhiều người không tránh khỏi bị lừa. 2.2.4. Doanh nghiệp XKLĐ nhiều nhưng không mạnh, thiếu sự đồng thuận và cạnh tranh không lành mạnh để giành giật đối tác nước ngoài cũng như nguồn lao động trong nước Để giành giật đối tác nước ngoài, doanh nghiệp XKLĐ hạ thấp tiền lương, phúc lợi và các điều kiện khác của người lao động khi ký kết hợp đồng với phía nước ngoài; để giành giật nguồn lao động trong nước, các doanh nghiệp tìm mọi cách quảng cáo không đúng sự thật và hối lộ chính quyền cơ sở để tạo các vùng độc quyền tuyển lao động gây thiệt hại cho người lao động 2.2.5. Vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng còn hạn chế, sức cạnh mạnh của các tổ chức quần chúng chưa được phát huy đúng mức Ở nhiều địa phương, nhất là ở cơ cở, cấp uỷ đảng và các đoàn thể chưa thấy hết hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ là “ích nước lợi nhà” nên chưa tham gia vào việc tuyên truyền, vận động, tổ chức người lao động và gia đình họ thực hiện chính sách, pháp luật vể XKLĐ. Và do đó, XKLĐ chưa trở thành mốt chương trình kinh tế - xã hội của địa phương, một phong trào quần chúng rộng rãi có khả năng phát huy mọi nguồn lực cho XKLĐ. Chương III: ph­¬ng h­íng biÖn ph¸p ®Ó thóc ®Èy XKLĐ cã hiÖu qu¶ nh»m t¹o viÖc lµm trong qu¸ tr×nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ I. chñ tr­¬ng Qua tình hình XKLĐ và chuyên gia trong thời gian qua cho thấy kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, còn những tồn tại và khuyết điểm. Do chưa nhận thức thống nhất về tầm quan trọng của xuất khẩu lao động và chuyên gia trong các mục tiêu và biện pháp giải quyết việc làm nên các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương còn thiếu sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Thứ nhất: Cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước. Thứ hai: Xuất khẩu lao động và chuyên gia phải được mở rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về số lượng, trình độ và ngành nghề. Xuất khẩu lao động và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu và nâng cao trình độ quản lý của các đơn vị xuất khẩu lao động; mặt khác phải chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ta và nước mà người lao động sống và làm việc. Thứ ba: Phát triển và khuyến khích đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật, làm rõ quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động về thực hiện hợp đồng, tôn trọng phong tục tập quán, văn hoá, hoà nhập thị trường lao động quốc tế. II. môc tiªu Quá trình hội nhập mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện đa dạng hoá thị trường, loại hình lao động, phương thức XKLĐ và quan hệ với các doanh nghiệp đối tác. Đồng thời thị trường lao động trên thế giới và khu vực vẫn có khả năng thu hút lao động với số lượng lớn, đối với cả lao động có trình độ cao, có chuyên môn tay nghề và lao động bán lành nghề trong các ngành nông nghiệp và dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, y tế… Với những lợi thế trên, Bộ LĐTB-XH đặt ra mục tiêu đến năm 2010, hàng năm đưa 100.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên đối với thanh niên có nghề, lao động ở vùng chuyển đổi, mục đích sử dụng đất, bộ đội xuất ngũ, vùng dư thừa lao động…Phấn đấu luôn có khoảng 400.000- 500.000 lao động và chuyên gia làm việc thường xuyên ở nước ngoài. Đồng thời phải có chiến lược nâng cao chất lượng lao động đưa đi, cụ thể: mục tiêu phải xây dựng được khoảng 120 trường cao đẳng nghề; 300 trường trung cấp nghề; trong đó tập trung xây dựng 3 trường đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Các con số này đến năm 2020 sẽ là 300 trường cao đẳng nghề, trong đó có 30 trường đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới nhằm nâng tỷ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hàng năm, trong đó lao động có trình độ từ trung cấp nghề trở lên chiếm 40%. Đến năm 2015, chủ yếu XKLĐ có nghề, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. III. ®Þnh h­íng Thứ nhất, về thị trường: Ổn định và mở rộng thị trường truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Malysia. Phát triển thị trường khu vực vùng vịnh, gồm các Tiểu Vương quốc Ả - rập thống nhất, Cata, Ả - rập Xê - út. Xúc tiến đưa lao động sang các thị trường mới như Úc, Canađa và Hoa Kỳ… Thứ hai, về ngành nghề: Đa dạng hoá ngành nghề nhất là các ngành nghề mà Việt Nam có ưu thế như may mặc, điện tử,xây dựng…phấn đấu đạt tỷ lệ lao động có tay nghề từ 55% đến 60% vào năm 2010. Thứ ba, Phát triển các hình thức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: doanh nghệp đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp cung ứng lao động, người lao động tự tìm, ký kết hợp đồng lao động làm việc ở nước ngoài. Thứ tư, xây dựng một số doanh nghiệp mạnh về XKLĐ và một số doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện XKLĐ. IV. gi¶I ph¸p Để thực được mục tiêu và định hướng về công tác XKLĐ đã đề ram, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau: 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về XKLĐ Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về XKLĐ và chuyên gia, bổ sung và sửa đổi những cơ chế, chính sách còn thiếu hoặc không phù hợp, như Chính sách đầu tư mở thị trường; Chính sách hỗ trợ đào tạo và tín dụng cho người lao động đi xuất khẩu: Chính sách tín dụng cho người đi làm việc ở nước ngoài, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách khuyến khích chuyển tiền và hàng hoá về nước, chính sách tiếp nhận trở lại sau khi hoàn thành nhiệm vụ… Triển khai có hiệu quả việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động theo Quyết định số 163/2004/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ. Quốc hội đã thông qua Luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Theo đó, hoạt động XKLĐ và chuyên gia sẽ có 3 mô hình phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp củacác nước nhận lao động. Sau khi Luật được ban hành, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan phải nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện để đưa Luật vào cuộc sống và tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. 2. Tìm hiểu thị trưòng mở rộng thị trường Chủ động đặt vấn đề thiết lập mối quan hệ tiếp nhận lao động Việt Nam đối với những nước có chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài theo kênh chính thức có sự quản lý và điều phối của Nhà nước. 3. N©ng cao chÊt l­îng lao ®éng xuÊt khÈu Các doanh nghiệp cần có các biện pháp tích cực để gia tăng số lượng và năng cao chất lượng lao động xuất khẩu nhămg đáp ứng tốt nhu cầu thị trường lao động nước ngoài nhất là ngoại ngữ, luật pháp, tác phong công nghiệp để lao động của ta có khả năng thích ứng được trên thị trường lao động quốc tế. Trước mắt, các doanh nghiệp một mặt vẫn phải tập trung vào việc xuất khẩu lao động phổ thông cho các thị trường Đài Loan, Malaysia… nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước. Mặt khác, phải tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, tiến tới phấn đấu để có đủ khả năng và điều kiện xuất khẩu lao động có kỹ thuật. Biện pháp cụ thể cho vấn đề trên là: * Hoàn thiện quy trình tuyển chọn, đào tạo lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài: Đổi mới công tác tuyển chọn lao động bằng phương thức gắn kết trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp xã phường và các cơ sở sản xuất, đào tạo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động của chính quyền địa phương các cấp, nhân dân và người lao động trực tiếp được cung cấp các thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, các quy định pháp luật của Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động; về thị trường, nhà máy, công xưởng nơi người lao động sẽ đến làm việc. Chính quyền địa phương giám sát việc tuyển lao động, giới thiệu cho các doanh nghiệp XKLĐ những người lao động có nhân thân rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, xuất thân từ những gia đình chấp hành tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chính quyền địa phương cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ người lao động trong vay vốn và tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm các thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài. * Các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng công tác đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, bổ sung thêm các nội dung giáo dục định hưóng thiết thực, bằng các dẫn chứng thực tế giáo dục làm cho người lao động hiểu rõ tác hại của việc bỏ trốn, kiên quyết dừng và không tuyển chọn lao động ở những địa phương có tỷ lệ bỏ trốn cao. Cần ưu tiên tuyển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao tham gia xuất khẩu lao động, trước hết từ các trường đào tạo nghề có chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu lao động. 4. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động. Đội ngũ này cần phải được chuyên môn hoá, được đào tạo một cách cơ bản về nghiệp vụ XKLĐ, phải có những kiến thức, kỹ năng và hiểu biết tốt về Luật lao động, Luật hình sự, Luật dân sự… và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xuất khẩu lao động và chuyên gia như chỉ thị 41/CT-TW ngày 22/09/1998 của Bộ Chính trị về XKLĐ và chuyên gia; Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999, nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ; các Thông tư, văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện… 5. Doanh nghiệp cần đầu tư vôn, cơ sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu lao động, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp làm dịch vụ XKLĐ. Cần đầu tư cơ sở vật chất, nguồn vốn xây dựng cơ sở đào tạo, bổ sung đội ngũ giáo viên có trình độ cao, giáo dục định hướng cho người lao động đề một mặt chủ động được nguồn lao động, mặt khác năng cao chất lượng đào tạo trên cơ sở hoàn thiện chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. 6. Triển khai có hiệu quả mô hình liên kết về XKLĐ nhằm giảm phiền hà và tốn kém cho người lao động. Thông qua mô hình liên kếtT, doanh nghiệp đến với người lao động có sự giám sát hỗ trợ của chính quyền địa phương. Các doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để tuyển lao động; doanh nghiệp công khai minh bạch với chính quyền địa phương và người lao động về các điều kiện của hợp đồng, đặc biệt là các khoản đóng góp của người lao động, qua đó giúp cho người lao động giảm được các chi phí không cần thiết, tạo điều kiện làm các thủ tục hành chính và vay vốn trang trải cho những chi phí ban đầu tại các Ngân hàng địa phương. 7. Nâng cao hơn nữa hiệu quả dịch vụ XKLĐ Trước hết là phải rút ngắn thời gian từ khi người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài đến khi họ được xuất cảnh, đặc biệt là giảm thiểu thời gian làm thủ tục và thời gian chờ đợi của người lao động. Đây là một trong các giải pháp góp phần giảm chi phí phát sinh ban đầu của người lao động nhằm thu hút đông đảo người lao động đi XKLĐ. 8. Tăng cương và nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động trong thời gian lao động làm việc ở nước ngoài Với mỗi thị trường, cần có các giải pháp thích hợp nhằm giảm thiểu các rủi ro có xảy ra do việc quản lý lao động gây nên. Cần xử lý kiên quyết những trường hợp lao động vi phạm hợp đồng, yêu cầu phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp theo các điều khoản của hợp đồng đã ký. Đồng thời, Nhà nước phải mạng tay xử lý nghiêm những doanh nghiệp để xảy ra những tiêu cực trong XKLĐ. 9. Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ và chuyên gia Trong trường hợp cần thiết có thể hỗ trợ về vốn, cơ sở vật chất cho các doanh nghiệp XKLĐ; Tăng cường công tác thông tin, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp XKLĐ và chuyên gia; Ngăn chặn và xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong xuất khẩu lao động; Xử lý nghiêm khắc những người đi XKLĐ tuỳ tiện phá bỏ hợp đồng, làm ăn phi pháp. KẾT LUẬN Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế, đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài là một tất yếu khách quan và đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nước. Đối với nước ta, XKLĐ cũng xuất phát từ nhu cầu nội tại và xu hướng chung nhằm góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho CNH -HĐH, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới. Qua nghiên cứu đề tài này cho thấy XKLĐ trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, phần nào đã đạt được mục tiêu để ra của XKLĐ là giải quyết vi?c làm, tăng thu nhập cho người lao động . Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định về công tác quản của nhà nước, đặc biệt là hạn chế về chất lượng nguồn lao động đưa đi làm việc. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra những phương hướng và giải pháp nhất định để giải quyết vấn đề này. Mặc dù đã có những cố gắng thu thập số liệu, điều tra, phân tích và đánh giá vấn đề XKLĐ đối với nước ta, nhằm thấy được tầm quan trọng của XKLĐ – một hướng giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang hội nhập ngày càng sâu rộng, để từ đó có phương hướng và giải pháp thúc đẩy XKLĐ có hiệu quả hơn. Tuy nhiên do khả năng có hạn của mình, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn để giúp tôi hoàn thiện đề án này. Em xin chân thành cảm ơn! Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 1.GS.TS. Đỗ Đức Bình & PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, giáo trình Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2005 2. GS.TS. Phạm Đức Thành & PGS.TS.. Mai Quốc Chánh, Giáo trình Kinh tế lao động , Nhà xuất bản t ống kê Hà Nội 1998. 3. GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản lao động- xã hội Hà Nội - 2005 4. Tạp chí việc làm 2000 - 2005 5.. Báo cáo tình hình XKLĐ qua các năm 2000 - 2005 6. Kết quả điều tra lao động việc làm ờ Việt Nam của Bộ lao động - thương binh và xã hội 2005 7. Tạp chí lao động và xã hội số 294, 314, 315, 316, 330, 445, 555. 8. Bản tin thị trường lao động 2006 – 2007 – 11 – 23. 9. Tạp chí lao động và công đoàn số 383. 10. w.w.w.tạp chí cộng sản. org.vn 11.w.w.w.Nlđ.com.vn 12.w.w.w.Molisa.com.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0149.doc