Đề án Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ ­ cơ hội và thách thức

Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế tới nay,Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được đề ra trong các văn kiện của Đảng. Mục tiêu của Đảng , Chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế trong đó đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu và ngành thuỷ sản được quan tâm với thị trường tiềm năng là Hoa Kỳ.Bởi, Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới về cả kinh tế, khoa học- công nghệ, quân sự. Hoa Kỳ có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới, đến các tổ chức kinh tế như: AFTA, APEC, WTO. Quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những lúc thăng trầm trong quá khứ. Bởi vậy, việc Việt Nam tham gia quan hệ thương mại cấp song phương với Hoa Kỳ cũng như việc Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ chính thức được ký kết sẽ là tiền đề quan trọng trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao ở các lĩnh vực khác nhau giữa hai chính phủ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đặc biệt, ngành thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã có quan hệ buôn bán tại thị trường Hoa Kỳ từ trước nên rất được chú trọng và phát triển mạnh trong những năm gần đây Vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với Hoa Kỳ, ngành thủy sản xuất khẩu Việt Nam không những có thể tiếp cận nhanh chóng một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn, đa dạng và có trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến, mà còn giúp thủy sản Việt Nam tiếp cận được với thị trường khu vực và thế giới, tiếp cận với các tổ chức thương mại và các tổ chức tài chính thế giới, từ đó đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản cùng các ngành dịch vụ phụ trợ khác, ổn định nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trước những ưu đãi và cơ hội đó, ngành thủy sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao số lượng và chất lượng các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Điều đó cần một chính sách đồng bộ từ nuôi trồng, sản xuất thủy sản đến đầu mối bao tiêu sản phẩm; hướng tới một mục tiêu :”Hàng Việt Nam chất lượng cao” Qua đó, Việt Nam muốn khẳng định là một bạn hàng quan trọng của Hoa Kỳ nhằm nâng cao được uy tín và hình ảnh của thủy sản Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ nói riêng cũng như thị trường thủy sản thế giới nói chung.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ ­ cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là 1,74 %/năm. Nước ta có 29 tỉnh tiếp xúc trực tiếp với biển. Dân cư vung này chiếm 51% dân số toàn quốc, trong đó số người trực tiếp sống bằng nghề cá chiếm 1,4 % dân số toàn quốc. Dân cư Việt Nam nói chung là trẻ. Đó là một lợi thế bởi tuổi trẻ luôn năng động, dễ thích nghi. Đặc biệt, với cư dân vùng biển, do tỷ lệ sinh đẻ cao ,đời sống thấp kém, tuổi thọ không cao nên tỷ trọng sức trẻ của nguồn lao động trong ngành thủy sản ngày một lớn. Tuy nhiên, hiện nay lợi thế này chưa phát huy tốt vì trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn của lực lượng lao động này còn thấp. Số hộ, số nhân khẩu và lao động thủy sản vẫn tăng đều qua các năm, được thể hiện qua bảng sau. Bảng 3: Số hộ, nhân khẩu, lao động ngành thủy sản qua các năm Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Số hộ T.Sản ( hộ ) 267,9 282,1 293,5 301,9 339,7 273,6 392,3 412,5 441,5 Nhân khẩu (ngàn người) 1300 1464 1528 1558 1706 1875 1965 2074 2195 Lao động (ngàn người) 462.9 509.8 558.4 602.4 659.2 719.4 791.3 874.3 938.7 Nguồn: Niên giám thống kê 2004 và số liệu thu thập được từ báo cáo ngành thủy sản Việt Nam . Như vậy, với trạng thái dân số như trên,Việt Nam có khả năng cung cấp lao động dồi dào cho mọi ngành sản xuất của nền kinh tế quốc dân, trong đó có thủy sản (nhất là dân số sống ở vùng ven biển), để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm do ngành thủy sản tạo ra .Hơn nữa, đây cũng chính là tiền đề để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. 3.3 Lợi thế để phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam 3.3.1 Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu và nguồn lợi thuỷ sản ở nước ta do chưa khai thác với cường độ cao và năng lực tái tạo cao của sinh thái nhiệt đới cho nên tiềm năng về nguồn lợi thuỷ sản của ta còn lớn. Theo Bộ Thuỷ Sản trong 10 năm tới sản lượng khai thác hải sản hàng năm (bao gồm cả nuôi trồng) của Việt Nam sẽ đạt khoảng từ 2 đến 2,5 triệu tấn, mang lại 2,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Riêng nghề cá ven bờ vẫn giữ vai trò chính với sản lượng khai thác hàng năm ước đạt 800.000 tấn. Lợi thế về tiền lương Trong 15 năm tới tiền lương của Việt Nam vẫn còn thấp so với khu vực và thế giới. Đây là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Lợi thế từ sự hỗ trợ và ủng hộ của Đảng và Nhà Nước Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển ngành thuỷ sản, coi ngành thuỷ sản là mũi nhọn, coi công nghiệp hoa, hiện đại hoá nông thôn là bước đi ban đầu quan trọng nhất, coi chuyển một bộ phận diện tích đất đai đang canh tác nông nghiệp và muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng đi chủ yếu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn (nghị định 09 NQ-CP ngày 15-06-2000 ) và có những chương trình, chính sách hỗ trợ rất lớn cho công việc chuyển đổi và phát triển ngành thuỷ sản trên toàn quốc. Ngành thuỷ sản đã có một thời khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế mới (khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã tạo được một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả mọi lĩnh vực từ khai thác chế biến, nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiễn cũng đã tăng đáng kể. Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới. 3.3.4 Lợi thế từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam 3.3. 4.1 Phát triển nuôi giống thuỷ sản tự nhiên Nhìn chung có thể phát triền thuỷ sản khắp các nơi trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có những tiềm năng đặc thù và sản vật đặc sắc riêng.Tự nhiên đã ưu đãi cho Việt Nam 4 khu vực môi trường ( hay còn gọi là vùng di trú của các loài thủy sinh vật ), đó là môi trường nước mặn xa bờ, môi trường nước mặn gần bờ, môi trường nước lợ và môi trường nước ngọt. Với lợi thế có tính cốt lõi này, thủy sản Việt Nam có thế mạnh rất lớn trong việc phát triển và nuôi trồng các giống thủy sản tự nhiên như : Môi trường nước mặn xa bờ có các loài cá có giá trị kinh tế như: cá thu ngừ, họ cá chuồn, cá chào mào, cá đèn lồng, cá mú làn, ... Môi trường nước mặn gần bờ bao gồm các nguồn lợi hải sản ước tính:75 loài tôm, 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc, 653 loài tảo biển, 90 loài rong kinh tế, 293 loài san hô và 2100 loài cá (trong đố có 130 loài có giá trị kinh tế). Môi trường nước lợ có thể phát triển thủy sản tự nhiên ở vùng rừng ngập mặn.Vì rừng ngập mặn là một bộ phận quan trọng của vùng sinh thái nước lợ, là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng của giống tôm he cũng như các loài động vật thủy sinh.Các đối tượng nuôi tự nhiên ở vùng nước lợ chủ yếu là tôm, vẹm, sò, cua, rong câu, cá rô phi...Tôm là loài thủy sản được quan tâm nhất, đặc biệt là tôm sú, kế đến là tôm he, tôm bạc và tôm nương. Diện tích nuôi tôm năm1998 đạt 255.000 ha, chiếm 39% tiềm năng nuôi trồng thủy sản vùng triều. Môi trường nước ngọt bao gồm rất nhiều loài thủy sản tự nhiên như ở miền Bắc, đối tượng nuôi là cá mè, trôi, trắm cỏ, chép, rô phi thuần, rô phi đơn tính, chép lai 3 màu, cá trê...có năng suất bình quân 1,5-1,8 tấn/ha. Ngoài cá, phong trào nuôi ba ba, lươn, ếch, cá sấu, tôm càng xanh cũng phát triển tốt. Còn ở miền Nam, đối tượng nuôi chủ yếu là cá mè vinh, rô phi, sặc rằn, mùi, lóc và tôm càng xanh, cho năng suất bình quân 300- 350 kg/ha hoặc 300- 400 kg/ha. 3.3.4.2 Tiềm năng phát triển giống thuỷ sản công nghiệp Việt Nam chưa phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp.Chẳng hạn, nghề nuôi cá lồng bè trên sông ,hồ chứa là dạng nuôi công nghiệp trên tất cả loại mặt nước lớn như sông, hồ. ở phía Bắc và miền Trung chủ yếu nuôi cá trắm cỏ, có quy mô lồng nuôi khoảng 12- 24 m3, năng suất 450- 600 kg/lồng. ở phía Nam nuôi cá ba sa, lóc, bống tượng là chính, quy mô lồng nuôi 100- 150 m3 bè, năng suất bình quân 15- 20 tấn/bè. Hiện nay, toàn quốc có khoảng 16.000 lồng nuôi cá, trong đó có 12.000 lồng nuôi cá sông đã sử dụng 98.980 ha hồ nuôi. 3.3.5 Lợi thế của người đi sau Việt Nam có thể học được những bài học kinh nghiệm của các nước đi trướng như việc Thái Lan tập trung nuôi tôm sú (trên 85% sản lượng) do đó giá trị bình quân tôm xuất khẩu của Thái Lan cao hơn 2 lần Việt Nam. Hơn nữa, Thái Lan, NA-UY, Đan Mạch... không chỉ áp dụng HACCP mà còn áp dụng ISO để tạo lợi thế cạnh tranh. Như vậy, Việt Nam sẽ nhanh chóng tiếp cận được với các phương pháp nuôi trồng, sản xuất thủy sản tiên tiến trên thế giới. Điều này là rất quan trọng để tạo động lực giúp Việt Nam chủ động và linh hoạt hơn trong viêc sản xuất, nuôi trồng các giống thủy sản, cải tiến quy trình canh tác theo hướng hiệu quả và năng suất hơn. II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ 1.Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, những lô hàng thuỷ sản Việt Nam đầu tiên đã có mặt trên thị trường Hoa Kỳ.Từ đó trở đi cho đến tháng 7-2000, mặc dù chưa ký được Hiệp định thương mại Việt-Mỹ nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột biến vào những năm 2000 và 2001, Hoa Kỳ đã vượt Nhật Bản và trở thành nước nhập khẩu hàng thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. Trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, tôm và cá vẫn là mặt hàng chủ lực, trong đó những mặt hàng xuất khẩu lớn trong năm 2001 là: tôm các loại 33200 tấn, cá tra và cá basa 7800 tấn, cá ngừ các loại 1200 tấn. Mặt hàng tôm của Việt Nam đang xuất khẩu vào Hoa Kỳ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao.Tôm của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ có ưu thế so với một số nước khác về kích cỡ sản phẩm có uy tín về chất lượng đối với người tiêu dùng. Cá tra và cá basa của Việt Nam đã dành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng nhập khẩu loại cá này vào Hoa Kỳ. Giới tiêu dùng Hoa Kỳ đã quen dùng cá basa của Việt Nam. Đây là một lợi thế lớn để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào Hoa Kỳ. Các sản phẩm khác như cá ngừ, cá philê đông, cua tươi, cá biển đông, cá nước ngọt đông, cua đông lạnh cũng chiếm được thị phần không nhỏ trên thị trường Hoa Kỳ - cơ cấu giá trị xuất khẩu bốn loại thuỷ sản trên của Việt Nam vào Hoa Kỳ tương ứng như: tôm 79,8%; cá tra, cá basa 4,5%; cá ngừ 4,1%; và các sản phẩm khác là 11,6%. Theo thống kê của Hoa Kỳ, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại sản phẩm khác nhau. Bảng 4: Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ Đơn vị tính: triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng Tốc độ tăng từng năm Tỷ lệ (%) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 5,780 19,498 33,988 39,830 80,200 129,500 298,220 523,600 631,200 693,341 _ 13,71 14,49 5,85 40,37 49,30 168,72 225,58 107,60 62,141 _ 237,2 74,3 17,2 101,3 61,5 130,2 75,6 20,5 31,7 Nguồn: Bộ Thuỷ sản-2004 Theo đánh giá của người tiêu dùng Hoa Kỳ các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên thường bán được với giá cao hơn. Năm 2000 mặc dù Việt Nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao với 224 triệu USD, trong khi đó ấn Độ xuất 26.000 tấn mà chỉ thu được 223 triệu USD tính ra một kg tôm của Việt Nam bán được 14,935 USD, của Mehicô là 13,961 USD, của Thái Lan là 11,895 USD, và của ấn Độ là 8,076 USD. 2. Những cơ hội của Việt Nam đối với xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Hoa Kỳ 2.1 Cơ hội cho xuất khẩu vào Hoa Kỳ - Thị trường thủy sản tiềm năng Hiện nay, với dân số khoảng hơn 270 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội lên tới 10.000 tỷ USD/năm, trong đó 80% được dành cho tiêu dùng. Hoa Kỳ là một nước có nền kinh tế mạnh nhất và là thị trường có sức mua lớn nhất, hàng năm Hoa Kỳ tiêu thụ hàng triệu tấn thuỷ sản các loại. Bảng 5: Kinh tế Hoa Kỳ qua các năm Tăng trưởng GDP (%) Tăng giá tiêu dùng (%) 2001 2002 2003 2001 2002 2003 0.3 2.2 2.6 2.8 1.5 2.3 Nguồn : Bộ Thương Mạ-2004 Theo số liệu của viện nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (National Fishery Index) mức tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02 kg. Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 trên thế giới sau Nhật Bản với giá trị nhập khẩu trên 8 tỷ USD/năm. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thuỷ sản hàng năm Hoa Kỳ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thuỷ sản. Năm 2000, Hoa Kỳ nhập khẩu thuỷ sản từ 130 nước trên thế giới với khối lượng 1.6 triệu tấn, giá trị đạt gần10 tỷ USD/năm. Đến năm 2002- 2003, nhập khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ vẫn đạt khoảng trên 10 tỷ USD, chiếm 15-16 % trong tổng giá trị nhập khẩu toàn thế giới. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ Châu Âu, các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ la tinh, Châu á và người từ các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đưa vào nước Mỹ các phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin riêng của họ. Điều này tạo nên một môi trường văn hóa phong phú và đa dạng, một quốc gia đa sắc tộc. Đặc điểm này đã đem lại cho Mỹ tính đa dạng trong tiêu dùng rất cao. Với những mức thu nhập khác nhau, người tiêu dùng Mỹ có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đắt tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là số lượng Việt kiều tại Hoa Kỳ là rất đông, đây có thể sẽ là một gợi ý rất quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Hơn nữa, để bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, Hoa Kỳ chủ trương tăng nhập khẩu giảm xuất khẩu và xu hướng này vẫn tiếp tục kéo dài trong những năm tới đây.Theo số liệu của Tổ chức Nông lương thế giới, 76% hàng thủy sản tiêu hụ tại Hoa Kỳ là hàng nhập khẩu, chủ yếu do ngành đánh bắt trong nước đang phải đối mặt với sự cắt giảm sản lượng nặng nề và khó khăn trong tăng trưởng đối với nuôi trồng thủy sản trong nước, khiến ngành công nghiệp thủy sản Hoa Kỳ phải mong đợi nguyên liệu cung cấp từ bên ngoài. Chính vì lẽ đó, Hoa Kỳ là một thị trường thuỷ sản rất hấp dẫn đối với các nước xuất khẩu thủy sản, đặc biệt là nước đang phát triển như Việt Nam. 2.2 Những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ Cơ cấu mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ rất đa dạng nên tạo ra không ít các cơ hội cho DNVN chế biến và xuất khẩu hàng thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ , bao gồm những mặt hàng chủ yếu sau: 2.2.1 Tôm Mặt hàng được dân chúng Hoa Kỳ ưa thích nhất và tiêu thụ với khối lượng rất lớn, từ năm 1998 đến năm 2003 Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng hơn 3,1 tỷ USD/ năm, 50% ( khoảng hơn 166.000 tấn) khối lượng tôm được nhập từ châu á. 2.2.2 Cá nước ngọt, phi lê tươi và đông lạnh Hoa Kỳ có nhu cầu lớn về cá da trơn nước ngọt thịt trắng như cá Ba-sa ( Pangaus- hypopthalmus), cá tra (Pangasius bocourti) tương tự với loài cá nheo Hoa Kỳ ( Ictalurus punctatus) thường được gọi là catfish. Cá ba-sa và cá tra xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu từ các nước Guyana, Braxin, Canada, Thái Lan, Việt Nam , trong đó nhập từ Việt Nam chiếm tới 80%. 2.2.3Tôm hùm sống, tươi và ướp lạnh Hoa Kỳ là thị trường tiêu dùng tôm hùm lớn nhất thế giới. Người dân Hoa Kỳ thường ưa chuộng tôm hùm sống hoặc ướp đá; nhu cầu về mặt hàng này luôn ở mức cao. 2.2.4Cá ngừ nguyên con ướp đông lạnh Từ năm 1990 Hoa Kỳ phải nhập khẩu cá ngừ. Năm 1995, Hoa Kỳ nhập khẩu 130.000 tấn cá ngừ nguyên liệu trị giá 460 triệu USD để cứu hàng loạt nhà máy đóng hộp cá ngừ khỏi nguy cơ phá sản. 2.2.5Cá ngừ đóng hộp: Mặc dù là nước có công nghệ đóng hộp cá ngừ mạnh nhát thế giới, nhưng năm 1996 Hoa Kỳ phải nhập khẩu 110.000 tấn cá ngừ đóng hộp trị giá hơn 230 triệu USD. 2.2.6Cá hồi nguyên con ướp đông lạnh Hoa Kỳ đứng thứ hai thế giới về khai thác cá hồi, nhưng người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi nhân tạo ở NaUy, Canada và Chilê nên Hoa Kỳ mỗi năm nhập khẩu tới gần 60.000 tấn cá hồi trị giá 280 triệu USD. 2.2.7Điệp tươi và ướp lạnh Hoa Kỳ là nước tiêu thụ điệp lớn thứ 3 thế giới,chỉ sau Trung Quốc và Nhật Bản.Sản lượng nhập khẩu trung bình đạt hơn 26.000 tấn, trị giá 216 triệu USD. 2.3. Thuận lợi về mặt thuế quan khi nhập khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ Khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực, thuế nhập khẩu đối với hàng thủy sản Việt Nam giảm, các doanh nghiệp Việt Nam có thể đa dạng hoá các mặt hàng, đồng thời thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng chế biến cao cấp có giá trị cao hiện nay chủ yếu Việt Nam xuất khẩu thủy sản dưới dạng thô vào thị trường Hoa Kỳ, và chỉ có như vậy Việt Nam mới tăng nhanh được kim ngạch xuất khẩu và giành được chủ động trong kinh doanh và khẳng định được vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quan trọng này. Bảng 6: Biểu thuế nhập khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ . Mã số hàng thủy sản Mặt hàng Thuế nằm trong diện hưởng quy chế NTR(%) Thuế không nằm trong diện hưởng quy chế NTR(%) 0301 Các loại cá sống 0 0 0302 Các bộ phận còn lại của cá sau khi cắt lọc phi lê, kể cả gan cá tươi hoặc ướp lạnh 0 2,2 cent/kg đến 4,4 cent/kg tuỳ loại 0304 Phi lê cá, thịt cá đã lọc xương tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh 0 Một số loại 0%, một số loại 5,5 cent/kg 0305 Cá khô, ướp muối hoặc xông khói 4-7 25-30 0306.13 Tôm các loại 0 0 0306.14/24 Thịt cua đông lạnh hoặc không đông lạnh 7,5 7,5 0307 Các loại nghêu, sò 0 0 0307.06 ốc 5 5 1601-1604 Các thực phẩm chế biến từ cá, thịt 0,9 –6 cent/kg hoặc 2,1%- 15% 6,6 cent/kg đến 22 cent/kg hoặc 20- 30% 1605.10.20 Thịt cua 0 22,5 1605.20.05 Tôm chế biến chín 5 20 1605.30.05 Tôm hùm chế biến chín 10 20 1605.90 Các loại nhuyễn thể khác( sò,ốc..) 0 20 Nguồn: Hải quan Hoa Kỳ truy cập trên trang Web:www.customs.ustreas.gov Nhận xét: -Những mặt hàng không có sự tăng đột biến như phi lê cá, tôm đông lạnh.. vì thuế nhập khẩu mặt hàng này trước và sau Hiệp định đều bằng 0%. -Những mặt hàng tăng mạnh gồm các loại thủy sản chế biến vì thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ giảm khá mạnh. 2.4 Những cơ hội khác đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam Thứ nhất, khi hiệp định thực thi có hiệu lực, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường-Hoa Kỳ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà xuất khẩu.Trước thời điểm Hiệp định thương mại chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt Nam và hàng hoá Việt Nam xâm nhập thị trường Hoa Kỳ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt là hàng hoá Việt Nam phải chịu mức thuế rất cao. Khi Hiệp định có hiệu lực, các trở ngại trên bị dỡ bỏ các doanh nghiệp Việt Nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ bởi lẽ Việt Nam có được đối xử Tối huệ quốc (được hưởng điều kiện thương mại bình thường) từ phía Hoa Kỳ trong đó quan trọng là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể. Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Hoa Kỳ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo, Thái Lan sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam vì hàng hóa sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bản thân các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng sẽ vào Việt Nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá rồi xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ và các nước khác. Thứ ba, tạo điều kiện tiền đề cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt Nam tham gia vào ASEAN, APEC và đặc biệt là hiệp định thương mại có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế . Thứ tư, thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước đặc biệt là đổi mới cơ chế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt Nam theo lộ trình của Hiệp định đã ký sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như các nguyên tắc, quy định của Hoa Kỳ. Trên đây là những mặt thuận lợi cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam, bởi vậy các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam phải tích cực nắm bắt các cơ hội của mình để đạt các chỉ tiêu đề ra. 3. Thách thức 3.1Khó khăn của Việt Nam sau khi Hiệp định có hiệu lực Bên cạnh những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt-Mỹ mở ra, nó còn đặt ra cho Việt Nam những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất, việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt Nam, vì Hoa Kỳ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển nhưng Việt Nam chưa được hưởng chế độ này. Thứ hai, tiêu chuẩn chất lượng các mặt hàng Việt Nam xuất vào các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ, đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam không những thế hàng hoá Việt Nam sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Indonesia và Canada, trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam về cả ba phương diện chất lượng, giá cả và mẫu mã hầu như còn rất yếu. Thứ ba, khi thực hiện NTR (quan hệ thương mại bình thường), các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt Nam, được hưởng các ưu đãi về nhập khẩu những nguyên liệu để sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khi đó các doanh nghiệp Mỹ và hàng hoá do Mỹ sản xuất ra sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt Nam và hàng hoá do Việt Nam sản xuất ra bởi Mỹ có vốn lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến... Thứ tư, để doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam vào được thị trường Hoa Kỳ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam phải làm quen với các tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Hoa Kỳ phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Hoa Kỳ. Đây là một quốc gia có hệ thống pháp luật, chích sách thương mại khá rắc rối và phức tạp . 3.2 Khó khăn đầu tiên của Việt Nam sau khi Hiệp định có hiệu lực Đó chính là một khó khăn lớn đầu tiên của các doanh nghiệp Việt Nam trong một năm đầu thực hiện HĐTM (Hiệp định thương mại).Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được những kết quả tích cực trong những năm đầu thực hiện HĐTM Việt- Mỹ , nhưng khó khăn và mâu thuẫn đã xuất hiện, trong đó không thể không nói tới “cuộc chiến” cá tra- cá basa trong năm qua. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, ở Việt Nam và Hoa Kỳ, đều có loại cá thuộc họ da trơn được gọi chung bàng tiếng anh là catfish. Việt Nam, nhất là đồng bằng sông Mê-Kông có điều kiện rất thuận lợi để nuôi và xuất khẩu loại cá này. Việt Nam đã xuất khẩu sang Hoa Kỳ, nhưng đến một thời gian, những người nuôi cá của Hoa Kỳ (thông qua hiệp hội CFA) nói rằng, họ bị ngư dân Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh, như dùng tên sản phẩm cá không đúng, như bán phá giá...để ngư dân Hoa Kỳ lâm vào cảnh đói nghèo, và họ làm đơn kiện Việt Nam .Nhưng xem xét cụ thể thì không phải như vậy, vì đến khi có vấn đề năm 2001, ở Hoa Kỳ cá basa của Việt Nam chỉ chiếm 5,59% tổng giá trị (Hoa Kỳ bán được 385 triệu USD, Việt Nam bán được 21.509.704 USD) và 5,4% trọng lượng (lượng cá tiêu thụ ở Hoa Kỳ khoảng 295-297 triệu pound, lượng cá nhập từ Việt Nam là 16 triệu pound, 1pound = 0,454 kg) và cá basa cũng chưa cung cấp được cho tất cả các bang của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ đã dùng chiêu bài chiến thuật, tố cáo Việt Nam bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ để áp dụng Luật Chống Phá Giá và Luật Thuế chống trợ giá nhằm “bù đắp thiệt hại từ việc trao đổi thương mại không công bằng và do cá từ Việt Nam không đủ tiêu chuẩn HACCP”. Liền ngay đó, phía Việt Nam đã lên tiếng cho rằng cá Việt Nam đảm bảo chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm theo đúng tiêu chuẩn của Hoa Kỳ,các cơ quan của Chính phủ Hoa Kỳ phụ trách vấn đề này cũng đã nhận định như vậy. Mặt khác, nguy hiểm phức tạp hơn, đó là việc viện dẫn một điều luật về một nền kinh tế phi thị trường. Mục đích của họ là : phải kết luận nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế phi thị trường, để làm điều kiện tiên quyết cho vụ kiện. Bởi khi là một nền kinh tế phi thị trường thì các chi phí sản xuất kinh doanh xuất khẩu sẽ được tính toán hoàn toàn không đúng với tình hình thực tế. Nhưng thực tế Việt Nam trong nuôi và sản xuất xuất khẩu cá của ngư dân đồng bằng sông Mê-Kông không được sự hỗ trợ của Nhà nước (vì đây là ngành sản xuất có hiệu quả cao và Nhà nước không có lý do gì để can thiệp, hỗ trợ) Thực ra, trong thực tiễn thế giới ngày nay, khó có thể tìm ra một nền kinh tế thị trường thuần tuý, hay một nền kinh tế XHCN thuần tuý, hoặc một nền kinh tế phi thị trường thuần tuý.Tất cả đều trong quá trình biến đổi không ngừng. Nền kinh tế Việt Nam, nền kinh tế Hoa Kỳ hay nhiều nền kinh tế khác đều là những nền kinh tế thị trường hỗn hợp không thuần khiết, bằng cách này hay cách khác đều chịu sự điều tiết của nhà nước. Vậy thì, việc kết luận Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường hay Hoa Kỳ có nền kinh tế thị trường chỉ là vấn đề lý luận, học thuật. Lấy một vấn đề lý luận, học thuật chưa có hay không thể có kết luận rõ ràng để làm chuẩn cho việc xác định chi phí kinh tế cụ thể là việc làm vô lý và không nên có. Còn vấn đề thực tiễn và lô-gic của CFA (Hiệp hội các chủ trại nuôi cá catfish ở Hoa Kỳ- tổ chức đứng đầu cuộc chiến chống cá tra- cá basa của Việt Nam) phải là: Việt Nam là có nền kinh tế phi thị trường , và dù chi phí sản xuất xuất khẩu cá của Việt Nam được tính theo bất cứ kiểu nào mà thấp hơn giá bán của nó ở Hoa Kỳ là không được mà tính theo kiểu nào cũng phải có kết quả cao hơn để kết luận Việt Nam có bán phá giá. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng phía các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam không chủ trương đối đầu với phía Hoa Kỳ và mong muốn có những giải pháp thoả đáng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh lành mạnh, cùng có lợi trên thị trường Hoa Kỳ. Phía Việt Nam đã hợp tác có thiện chí với các tổ chức hữu quan của Hoa Kỳ, Bộ Thương mại Hoa Kỳ... để xem xét các vấn đề “bán phá giá”, “tình trạng khẩn cấp”, “nền kinh tế phi thị trường” đã được nêu lên không đúng đắn.Và VASEP tuyên bố sẽ quyết tâm theo đuổi vụ kiện đến cùng, đó là điều tra tại Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, nếu như Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra kết luận cuối cùng thiếu khách quan. Quan điểm của VASEP được ủng hộ là rõ ràng và dứt khoát.Phía Việt Nam coi trường hợp “cuộc chiến” đầu tiên này là bài học kinh nghiệm không chỉ cho phía các nhà nuôi và sản xuất xuất khẩu cá basa Việt Nam , mà còn là bài học cho các nhà xuất khẩu khác của Việt Nam khi hướng vào thị trường Hoa Kỳ... III. Khó khăn, Hạn chế trong xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc đặc biệt là năm 2001. Tuy nhiên thị trường tiềm năng này cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Thứ nhất, các mặt hàng thuỷ sản của ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao trong khi với hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu Hoa Kỳ có nhu cầu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá philê, các loại thủy sản đóng hộp). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Hoa Kỳ (chiếm 90% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Hoa Kỳ thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam không đáng kể (chỉ có 5%). Hoa Kỳ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản (thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá), ngọc trai, cá cảnh (giá trị nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng Việt Nam chỉ mới chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói là chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ. Thứ hai, tuy hàng hoá Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường, nhưng hàng thuỷ sản Việt Nam vẫn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức đối với nhiều địch thủ trên thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay ,có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Hoa Kỳ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Hoa Kỳ như Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản) Trung Quốc (tôm đông, cá rô phi), Canada (tôm hùm, cua), Indonesia (cua, cá ngừ, cá rô phi), Philippin (hộp cá ngừ, cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển) nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam còn rất yếu, theo Phòng Thông tin và Công nghiệp Việt Nam thi trong hai ngành mà Việt Nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ là dệt may và thủy sản thì tỷ lệ doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ là thấp: chỉ có khoảng 50 trong tổng 3000 thành viên của hiệp hội dệt may và 60 -70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực cạnh tranh này. Không những thế các sản phẩm về cá của thủy sản Việt Nam lại gặp phải sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp Hoa Kỳ, đặc biệt đó là các loại cá nheo hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt xuất khẩu của Việt Nam. Hơn nữa, thị trường Hoa Kỳ quá xa Việt Nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên trở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh từ Hoa Kỳ sang Việt Nam tăng lên, không những thế thời gian vận chuyển đã làm cho hàng tươi sống giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng lên, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ so với các nước Châu Mỹ La Tinh. Điều đó đã làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam bị giảm sút nhiều và không đạt được hiệu quả như mong muốn vì giá thấp. Thứ ba, thị trường Hoa Kỳ đòi hỏi sản phẩm nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đã đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ khắt khe hơn so với nhiều thị trường khác, từ sau 18-12-1997 Hoa Kỳ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản- HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points- Phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn) HACCP là một hệ thống quản lý chất lượng mang tính phòng ngừa (Preventive) nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm (food safety) và chất lượng thực phẩm (food quality) thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. - Hệ thống HACCP nhấn mạnh vai trò của nhà sản xuất: +Thường xuyên ngăn ngừa và xử lý kịp thời những mối nguy đáng kể xâm nhập vào sản phẩm từ khâu nguyên liệu tới sản phẩm cuối cùng. +Phải kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất để đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh ... Theo thống kê của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam có khoảng hơn 120 doanh nghiệp có hàng xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường Hoa Kỳ, trong số đó có trên 105 doanh nghiệp đã đạt được tiêu chuẩn và áp dụng tiêu chuẩn HACCP.(Số liệu 2003-Bộ Thương Mại) Như vậy, hàng nhập vào Hoa Kỳ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã áp dụng HACCP. Bên cạnh đó, DNVN còn phải chịu sự kiểm soát của tiến trình cho phép nhập khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Cục thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (gọi tăt là FDA) chấp nhận từng doanh nghiệp: - Doanh nghiệp tự mình hoặc thông qua nhà nhập khẩu đệ trình chương trình kiểm soát an toàn trong chế biến thủy sản (HACCP) bao gồm cả nội dung kiểm soát các mối nguy trong thủy sản nuôi trồng cho Cục thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). - FDA xem xét kế hoạch HACCP, khi cần thanh tra đến kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì cho phép doanh nghiệp đó doanh nghiệp nhập khẩu thủy sản vào Hoa Kỳ. - FDA kiểm tra từng lô hàng nhập khẩu. Nếu phát hiện không đảm bảo an toàn hoặc có các vi phạm về ghi nhãn, về tạp chất, lô hàng sẽ bị FDA từ chối nhập khẩu hoặc yêu cầu hủy bỏ tại chỗ, đồng thời tên doanh nghiệp sẽ bị đưa lên mạng Internet theo chế độ cảnh báo nhanh (Detention). Năm lô hàng tiếp theo của doanh nghiệp này sẽ tiếp tục bị tự động giữ ở cảng nhập để kiểm tra theo chế độ tự động “A” (Automatic Detention). Chỉ sau khi năm lô hàng đó đều đảm bảo an toàn và doanh nghiệp có đơn đề nghị, FDA mới bỏ tên doanh nghiệp đó ra khỏi mạng cảnh báo của FDA. Giai đoạn 2: Công nhận ở cấp quốc gia, thông qua ký kết văn bản ghi nhớ (viết tắt tiếng Anh là MOU) giữa FDA và cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát an toàn thủy sản ở nước xuất khẩu . Nếu nước xuất khẩu đã ký được văn bản ghi nhớ với Hoa Kỳ, thì cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu tự chỉ định các doanh nghiệp được đưa thủy sản vào Hoa Kỳ mà không cần xuất trình HACCP. Cho đến tháng 7 năm 2000, FDA của Hoa Kỳ mới được ký văn bản ghi nhớ (MOU) riêng cho mặt hàng nhuyễn thể hai mảnh vỏ với Hàn Quốc, Canada, và vài nước Nam Mỹ. Thứ tư, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam về thị trường Hoa Kỳ, về luật lệ làm ăn của Hoa Kỳ còn quá ít. Hệ thống luật của Hoa Kỳ khá phức tạp, chặt chẽ và mới lạ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Với 50 tiểu bang riêng biệt với hai hệ thống pháp luật cùng song song tồn tại: luật liên bang và luật của từng bang sẽ tạo ra nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, nếu không nghiên cứu tìm hiểu rõ thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải gánh chịu những thua thiệt nặng nề trong kinh doanh. Có thể đơn cử một số luật sau: luật chống độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh sẽ phạt tiền đền 1 triệu USD hoặc tù 3 năm đối với tư nhân. Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm, theo đó người tiêu dùng bị thiệt hại có thể kiện nhà sản xuất về mức bồi thường thiệt hại quy định gấp nhiều lần thiệt hại thực tế. Các doanh nghiệp Việt Nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ sản, yếu về công tác Marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay chỉ có một số doanh nghiệp là tham gia hội chợ thuỷ sản Boston tại Hoa Kỳ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam có văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ. Trong khi đó các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Hoa Kỳ đều đã thiết lập các văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường Hoa Kỳ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, mặc dù đã có những cố gắng và đạt kết quả tương đối tốt hiện nay ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn còn vấn đề cần giải quyết như khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống thủy sản chất lượng cao, đặc biệt nguồn nhân lực của Việt Nam tay nghề chưa cao và thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến vẫn còn 2/3 số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm. Công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu do đó không đảm bảo được chất lượng phục vụ cho xuất khẩu.Như vậy cần phải có công nghệ tiên tiến có lượng vốn lớn. Giải quyết vấn đề vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia đặc biệt là những nước nghèo và những nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Chương III Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ I.Dự báo khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời gian tới 1.Nhận định chung Theo dự báo của Bộ Thương Mại, Việt Nam có khả năng cung cấp thủy sản cho thị trường thế giới với trị giá khoảng 3 tỷ USD vào năm 2005 và khoảng 5 tỷ USD vào năm 2010. Theo kế hoạch năm 2003,Việt Nam đã đạt khoảng 2,3 tỷ USD. Với thị trường Hoa Kỳ trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là việc đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn hàng thuỷ sản theo điều kiện HACCP. Được biết trong số 320 cơ sở chế biến thuỷ sản quy mô công nghiệp chỉ có 124 cơ sở (chiếm 38,75%) đạt an toàn thực phẩm, 68 cơ sở (chiếm 21,25%) được phép xuất khẩu sang Hoa Kỳ, 128 cơ sở (chiếm 40%) áp dụng trương trình HACCP. Mặt khác ở nhiều cơ sở việc áp dụng HACCP vẫn mang tính hình thức, chính vì vậy vẫn tiếp tục tái diễn tình trạng hàng bị thị trường Hoa Kỳ trả về và bị cảnh báo do nhiễm khuẩn, ghi sai nhãn, chứa kháng sinh bị cấm. Ba tháng đầu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 434,5 triệu USD đạt gần 19% kế hoạch. Khó khăn hiện nay mà ngành thuỷ sản gặp phải là sức mua của thị trường Hoa Kỳ giảm do lo ngại vụ kiện tôm, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã mua một lượng khá lớn vào những tháng cuối năm 2003. 2.Chỉ tiêu xuất khẩu thủy sản Việt Nam đến năm 2010 Những chỉ tiêu định hướng của ngành thuỷ sản đến năm 2010 được hoạch định như sau: -Không tăng sản lượng khai thác trong các thời kỳ 2003- 2010, giữ mức dao động xung quanh 1.400.000 tấn/ năm (ở đây chỉ tính riêng cho cá mực). -Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10%-15%. -Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10%-15%/ năm , trong giai đoạn 2000-2005 tăng khoảng 12%-15%, giai đoạn 2005-2010 tăng khoảng 10%-12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0-3,5 tỷ USD( năm 2005) và 4,5-5 tỷ USD năm 2010. Bảng 7: Chỉ tiêu xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2010. (ĐVT: Tấn) Năm Chỉ tiêu 2003 2005 2010 I.Tổng sản lượng (tấn) Trong đó: 1. Sản lượng nuôi ( tấn): - Thuỷ sản nước ngọt - Tôm - Cá biển - Nhuyễn thể - Thuỷ sản khác 2. Sản lượng khai thác( tấn): - Khai thác gần bờ. - Khai thác xa bờ. Bao gồm: - Sản lượng cá. - Sản lượng mực. - Sản lượng tôm II. Kim ngạch xuất khẩu (nghìn USD) 2.490.000 1.090.000 568.720 213.270 53.057 175.355 79.598 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 2.300 2.550.000 1.150.000 600.000 225.000 56.000 185.000 84.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 3.000 3.400.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 4.500 Nguồn : Bộ Thủy sản -2003 Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 1. Giải pháp chung cho xuất khẩu của Việt Nam Đối với các ngành xuất khẩu nói chung của Việt Nam Cần xây dựng được các tập đoàn kinh tế- tài chính hùng hậu mới có thể cạnh tranh trực tiếp với các tập đoàn, các công ty lớn trên thế giới nhằm phân chia và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Phải biết dựa vào các tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới thông qua việc tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để tận dụng kinh nghiệm, uy tín, hệ thống phân phối sản phẩm của nước ngoài nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO vào năm 2005. Thực hiện chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng đầu tư Nhà nước để phát triển các ngành dịch vụ và các ngành sản xuất công nghệ cao theo xu hướng kinh tế dịch vụ và tri thức. Mở rộng các loại hình dịch vụ xuất khẩu như y tế, giáo dục, bảo hiểm, kiểm toán, xây dựng... Phát triển xuất khẩu các loại hình dịch vụ tạm nhập - tái xuất , chuyển khẩu, chuyển tải, quá cảnh... Hỗ trợ tích cực hơn cho các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp phát triển các mặt hàng mới và thị trường xuất khẩu mới. 2. Các giải pháp cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ -Thứ nhất, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và gia tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm. Muốn vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm bắt được các nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần mở rộng các hình thức liên doanh hợp tác với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ như thành công mà Việt Nam đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản trong những năm qua. -Thứ hai, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Trước hết, phải giảm giá thành bằng cách giảm lượng nuôi trồng chết, giảm thất thoát sau thu hoạch, tận dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ để sản xuất các sản phẩm thuỷ sản phi thực phẩm, từng bước xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, phải tìm mọi cách để tiết kiệm chi phí đầu vào như điện, nước, thông tin vận tải...Đồng thời Bộ Thủy sản cần phải chỉ đạo các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải đạt được tiêu chuẩn HACCP, khuyến khích xây dựng tiêu chuẩn ISO9000...Đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào thị trường Hoa Kỳ. -Thứ ba, giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực.Thực tế cho thấy tuy Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng nhưng trình độ tay nghề kỹ năng kỹ sảo chưa cao. Để các doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này thì cần thiết phải thực hiện thật tốt chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: thường xuyên mở các lớp đào tạo ngắn ngày, mở các cuộc thảo luận, hội thảo về các chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Trong khâu tuyển dụng, tuyển chọn phải đảm bảo tuyển được những nhân viên tốt nhất là về kỹ thuật, có tay nghề cao, có tinh thần trách nhiệm cao. Trong chiến lược sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu nó phải được coi là yếu tố đầu tiên quyết định thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệpbasa -Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản. Vai trò của tiếp thị là rất quan trọng nhất là với một thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Hoa Kỳ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiêm cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại diện thương mại của công ty ở thị trường Hoa Kỳ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam, từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới. Mặt khác, các doanh nghiệp thủy sản xuất khẩu Việt Nam phải làm quen, va chạm với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp. Thông qua các vụ kiện trong thời gian vừa qua như hiệp hội cá nheo Hoa Kỳ kiện không cho doanh nghiệp Việt Nam sử dụng tên gọi Catfish đối với cá tra và cá basa xuất khẩu vào Hoa Kỳ và gần đây nhất là vụ kiện Việt Nam bán phá giá cả tôm vào thị trường Hoa Kỳ cho thấy một mặt các doanh nghiệp phải thật am hiểu về luật pháp của thị trường Hoa Kỳ cũng như luật thương mại quốc tế, mặt khác phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được các thông tin trong và ngoài nước, đặc biệt khai thác thông tin từ Việt kiều để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Bên cạnh đó, một sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình là rất quan trọng. -Thứ năm, để khai thác và sử dụng nguồn lợi thủy sản lâu dài tránh tình trạng lãng phí nguồn tài nguyên thủy sản, hơn nữa thủy sản Việt Nam phải luôn chú trọng khâu kiểm tra chất lượng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm mở rộng thị trường thủy sản Việt Nam trên toàn thế giới. Vậy thì, Việt Nam cần thực hiện các giải pháp cụ thể: Quy hoạch, quản lý thông nhất hệ thống chế biến thuỷ sản : giao việc cấp giấy phép đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhà máy chế biến thuỷ sản cho một đầu mối duy nhất là Bộ thuỷ sản, chuyển việc đầu tư cho lĩnh vực kỹ thuật là chính sang đầu tư theo 4 chương trình mục tiêu đã xây dựng trong chiến lược xuất khẩu thuỷ sản . Đánh bắt thuỷ sản: để phát triển lâu dài và ổn định nguồn nguyên liệu đánh bắt, Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào điều tra có hệ thống các nguồn lợi thuỷ sản, xây dựng bản đồ phân bố biến động các đàn cá trên các ngư trùng, phát triển các đội tàu công suất lớn, trang thiết bị và đào tạo kỹ thuật đánh bắt cá đại dương làm cơ sở cho đánh xa bờ, kỹ thuật bảo quản, mở rộng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đánh bắt. Mở rộng thị trường xuất khẩu: Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ về vốn, công nghệ, trong các lĩnh vực khai thác, chế biến thuỷ sản, đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm quản lý và phát triển thị trường. Công tác Marketing quốc tế cho lĩnh vực thuỷ sản luôn cần có sự tham gia tích cực của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ thương mại như tổ chức và tham gia các hội chợ thương mại về thuỷ sản tại Việt Nam hay tại các thị trường tiềm năng (EU, Hoa Kỳ, Nhật bản, Trung Quốc) nhằm giới thiệu các sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Để ổn định và tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới trong đó đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 2001-2010 và chương trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn. III Một số kiến nghị đối với chính phủ *Chính Phủ tạo điều kiện hỗ trợ cho Ngành Thuỷ Sản bằng các biện pháp: Tăng cường phát triển hệ thống các cơ quan hỗ trợ và xúc tiến thương mại Các cơ quan này có trụ sở đặt tại các nước có quan hệ kinh doanh quốc tế với Việt Nam. Nhiệm vụ của các cơ quan này là cung cấp đầy đủ các thông tin về thị trường như tình hình kinh tế, chính trị, hệ thống luật pháp, các yếu tố văn hoá, sự biến động về giá cả, nhu cầu ở nước bạn hàng; khả năng sản xuất và tiềm lực cạnh tranh của các hãng cũng sản xuất các sản phẩm tương tự. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước đề ra các chiến lược kinh doanh phù hợp, hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. 2.Thúc đẩy sự phát triển thương mại Việt- Mỹ qua mạng thông tin toàn cầu INTERNET Hiện nay, chính phủ Hoa Kỳ đang cố gắng thiết lập một môi trường kinh doanh sao cho thương mại điện tử có thể tăng nhanh nhất trên phạm vi toàn cầu.Vì vậy, muốn hợp tác với Hoa Kỳ một cách nhanh chóng và hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sử dụng, khai thác INTERNET và tham gia vào thị trường thương mại điện tử để giao dịch làm ăn với đối tác Hoa Kỳ. Kết luận Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế tới nay,Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được đề ra trong các văn kiện của Đảng. Mục tiêu của Đảng , Chính phủ là mở rộng giao lưu kinh tế với quốc tế trong đó đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu hàng đầu và ngành thuỷ sản được quan tâm với thị trường tiềm năng là Hoa Kỳ.Bởi, Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới về cả kinh tế, khoa học- công nghệ, quân sự. Hoa Kỳ có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới, đến các tổ chức kinh tế như: AFTA, APEC, WTO... Quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những lúc thăng trầm trong quá khứ. Bởi vậy, việc Việt Nam tham gia quan hệ thương mại cấp song phương với Hoa Kỳ cũng như việc Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ chính thức được ký kết sẽ là tiền đề quan trọng trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao ở các lĩnh vực khác nhau giữa hai chính phủ Việt Nam - Hoa Kỳ. Đặc biệt, ngành thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã có quan hệ buôn bán tại thị trường Hoa Kỳ từ trước nên rất được chú trọng và phát triển mạnh trong những năm gần đây Vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với Hoa Kỳ, ngành thủy sản xuất khẩu Việt Nam không những có thể tiếp cận nhanh chóng một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn, đa dạng và có trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến, mà còn giúp thủy sản Việt Nam tiếp cận được với thị trường khu vực và thế giới, tiếp cận với các tổ chức thương mại và các tổ chức tài chính thế giới, từ đó đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản cùng các ngành dịch vụ phụ trợ khác, ổn định nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trước những ưu đãi và cơ hội đó, ngành thủy sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao số lượng và chất lượng các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Điều đó cần một chính sách đồng bộ từ nuôi trồng, sản xuất thủy sản đến đầu mối bao tiêu sản phẩm; hướng tới một mục tiêu :”Hàng Việt Nam chất lượng cao” Qua đó, Việt Nam muốn khẳng định là một bạn hàng quan trọng của Hoa Kỳ nhằm nâng cao được uy tín và hình ảnh của thủy sản Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ nói riêng cũng như thị trường thủy sản thế giới nói chung. danh mục Tài liệu tham khảo Các tác giả: 1. TS.Đỗ Đức Bình,TS.Nguyễn Thường Lạng- Giáo trình Kinh Tế Quốc Tế- NXB Lao Động- Xã Hội-Hà Nội- 2002,ChươngII:tr 58..60, tr160..163 (C.IV). 2. PGS.TS Hoàng Thị Chỉnh (ĐHKTQD)--Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ- Những vấn đề đang được đặt ra và các giải pháp- Tạp chí kinh tế phát triển số 67/2003. 3. PGS.TS Đặng Đình Đào (ĐHKTQD) và MBA. Đinh Văn Thắng (ĐH Công Đoàn)-Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập- Tạp chí kinh tế và phát triển . 4. Thạc sĩ.Nguyễn Thị Thu Hương -Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ-Cơ hội và thách thức.Tạp chí thương mại số 8/1999.tr 5..8 5. TS.Nguyễn Thị Hường- Giáo trình Kinh Doanh Quốc Tế- Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân-NXB Thống Kê-2001. Tác giả Ngô Tất Thắng- Hoạt động thương mại Việt-Mỹ và tác động đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam -Tạp chí thương mại số 02/2002. tr 4,11của 7. Tác giả Hà Xuân Thông,Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản,Viện kinh tế và quy hoạch thuỷ sản Hà Nội 8. Tiến sĩ Lê Thị Anh Vân (ĐHKTQD)- Về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới. - Tạp chí kinh tế và phát triển số 67/2003. 9. Tác giả:Hải Yến-Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu của Việt Nam - Tạp chí thương mại số 7/2003, tr 6..9. Các báo cáo và giáo trình tham khảo: 1.Báo cáo xuất khẩu thuỷ sản năm 2005, Bộ thuỷ sản, Hà Nội 1998. 2.Các báo cáo tổng kết cuối năm của Ngành Thuỷ Sản -2004 3.Định hướng phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2010, Bộ thuỷ sản Hà Nội -2003 4.Giáo trình Quan hệ Kinh tế Quốc Tế-Trường Đại Học Ngoại Thương-2003 5.Giáo trình Địa Lý Kinh Tế -Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân 6.Dự thảo phát triển kinh tế- xã hội Ngành Thuỷ Sản giai đoạn 2000-2010 của Viện Kinh Tế và Quy Hoạch Thuỷ Sản-Bộ Thuỷ Sản-2003 7.Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản Các nguồn thông tin điện tử: 1. Các thông tin điện tử trên mạng Internet của Bộ Thuỷ Sản- 2004 2. Các nguồn thông tin cập nhật trên Website: http:\\vietnamnews.com ( Trang tin tức hàng ngày Việt Nam ) http:\\www.vnexpress.net ( Trang thông tin chung Việt Nam ) http:\\www.vneconomy.vnn.vn ( Trang thông tin về kinh tế Việt Nam ) http:\\ www.dei.gov.vn (Website của Bộ Ngoại Giao Việt Nam) http:\\ www.mot.gov.vn (Website của Bộ Thương Mại Việt Nam ) http:\\ www.customs.ustreas.gov(Trang thông tin thuế quan Hoa Kỳ ) E-mail : ms5317@erols.com Historical Survey of US Trade Relations (Report 2003-2004) World Economic Outlook, IMF.(Magazine 2004) Báo và tạp chí tham khảo 1.Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 102, 26\08\2003, tr 8..10. 2.Tạp chí Thương mại Việt Nam số7, 2002. tr 7,8,12// số 4,2003, tr 11.12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35672.doc
Tài liệu liên quan