Phân tích luận điểm: " Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người ". Liên hệ vận dụng thực tế ở Việt Nam
Chúng ta đều biết: Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Ngay từ năm
1947, khi viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, với bút danh X.Y.Z, Bác đã dành hẳn một chương (chương
VI) để nói về “Chống thói ba hoa”; trong đó Bác căn dặn: “Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai
cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình.Bao giờ cũng phải tự hỏi “ Ta viết cho ai xem, nói cho ai nghe”
Năm 1953, Bác dạy các nhà báo và những người làm công tác tuyên truyền về “Cách viết”. Bác nhắc nhở những người cầm bút: “Phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng” và “Chớ ham dùng chữ”. Cho nên, chỉ cần chú ý một chút thôi, thì thấy ngay, không bao giờ Bác Hồ lại nói (và viết): “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người
Nếu viết: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” mới chỉ là hai trạng ngữ, chứ chưa có chủ ngữ và vị ngữ (hai thành phần chính của câu tiếng Việt). Đây là hai bộ phận trạng ngữ chỉ điều kiện (hay nguyên nhân), không phải là một câu, cho nên ý nghĩa chưa rõ ràng, chưa xác định.
Viết như thế có thể hiểu theo hai cách như sau:
1- “Vì lợi ích mười năm của việc trồng cây, thì chúng ta phải ra sức trồng cây gây rừng, vì lợi ích trăm năm của việc trồng người, thì chúng ta phải chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo”.
24 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 7109 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề bài: Phân tích luận điểm: " Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người", để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Phân tích luận điểm: " Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người ". Liên hệ vận dụng thực tế ở Việt Nam
Bài làm
Chúng ta đều biết: Bác Hồ luôn luôn quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Ngay từ năm
1947, khi viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, với bút danh X.Y.Z, Bác đã dành hẳn một chương (chương
VI) để nói về “Chống thói ba hoa”; trong đó Bác căn dặn: “Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai
cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của mình.Bao giờ cũng phải tự hỏi “ Ta viết cho ai xem, nói cho ai nghe”
Năm 1953, Bác dạy các nhà báo và những người làm công tác tuyên truyền về “Cách viết”. Bác nhắc nhở những người cầm bút: “Phải học cách nói, tiếng nói của quần chúng” và “Chớ ham dùng chữ”. Cho nên, chỉ cần chú ý một chút thôi, thì thấy ngay, không bao giờ Bác Hồ lại nói (và viết): “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người
Nếu viết: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” mới chỉ là hai trạng ngữ, chứ chưa có chủ ngữ và vị ngữ (hai thành phần chính của câu tiếng Việt). Đây là hai bộ phận trạng ngữ chỉ điều kiện (hay nguyên nhân), không phải là một câu, cho nên ý nghĩa chưa rõ ràng, chưa xác định. Viết như thế có thể hiểu theo hai cách như sau:
1- “Vì lợi ích mười năm của việc trồng cây, thì chúng ta phải ra sức trồng cây gây rừng, vì lợi ích trăm năm của việc trồng người, thì chúng ta phải chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo”.
2- “Vì lợi ích mười năm thì chúng ta phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì chúng ta phải trồng người”. Viết như vậy, mới tạo thành hai câu hoàn chỉnh, mỗi câu đều có trạng ngữ, chủ ngữ và vị ngữ. Song, Bác Hồ không viết (và nói) như vậy. Bác liên tưởng lợi ích của việc trồng cây với lợi ích của việc “trồng người” và nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Đây là một câu ghép, gồm hai vế (cách nhau bằng một dấu phảy), mỗi vế đều có trạng ngữ, chủ ngữ ẩn (chúng ta) và vị ngữ: “trồng cây”, “trồng người”. Câu văn tiếng Việt có thể ẩn chủ ngữ, nhưng nhất định phải có vị ngữ. Nếu viết đầy đủ, câu nói có kết cấu: “Vì lợi ích mười năm thì chúng ta phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì chúng ta phải trồng người”.
Nhưng, để làm cho câu văn gọn, không bị trùng lặp chủ ngữ, làm cho nội dung rõ ràng mà lại nhấn mạnh được ý nghĩa của câu nói, Bác đã bỏ chủ ngữ (chúng ta), tức là dùng hình thức chủ ngữ ẩn, nhưng Bác vẫn giữ thành phần vị ngữ “trồng cây”, “trồng người” và thêm hai chữ “thì phải” đứng trước vị ngữ.
Cho nên, cần phải chuẩn xác khi trích dẫn câu nói của Bác: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”!
Sinh ra trong một gia đình và vùng quê giàu truyền thống cách mạng, trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đau khổ lầm than dưới nhiều tầng áp bức, chính điều đó đã nung đúc trong tâm hồn Bác một tinh thần yêu nước ngay từ thuở nhỏ, sự ý thức về món nợ nước thù nhà. Bác nhớ lại: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp: Tự do – bình đẳng – bác ái… Và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những từ ấy” “…nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ, sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Và thế là vào ngày 5/6/1911, chàng thanh niên 21 tuổi đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Với tên gọi Nguyễn Văn Ba, Người làm phụ bếp cho tàu Amiral Latouche Tréville xuất phát từ bến cảng Nhà Rồng để được đi sang nhiều nước học hỏi tinh hoa và tiến bộ của các nước phương Tây. Sau cùng Người quay trở lại Pháp hoạt động cách mạng và nhận rõ đâu là bạn, đâu là thù: “Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo… Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”. Người trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp và gia nhập Quốc tế thứ ba… Người đã nhận xét: “Dù màu da có khác nhau thì trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột; và cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Năm 1920, Bác đã rất xúc động khi đọc được trên báo L’Humanité toàn văn bài “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin”, bởi lẽ vấn đề mà Lênin nêu ra rất thực tế và Bác nhận thấy đó chính là con đường tất yếu cần thiết cho dân tộc Việt Nam. Bác kể lại “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như nói trước quần chúng đồng bào: Hỡi đồng bào bị đày đọa, đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Và thế là từ đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam , đưa đất nước đi theo con đường CNXH giống như nước Nga Xô Viết lúc bấy giờ. Bác ra đi với đôi bàn tay trắng nhưng Bác mang về cho đất nước những đường lối chiến lược đúng đắn giúp ích cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chính Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam .HỒ CHÍ MINH người lầ vị cha già cuả dân tộc việt nam, người là tấm dương sang cho chunds ta học tập và noi gương.
Câu nói: “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Đó là hai câu mở đầu bài nói của Bác Hồ tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc ngày 13-9-1958, đăng trên báo Nhân Dân số 1645, ngày 14-9-1958. Điều Bác nghĩ suy, trăn trở nhiều nhất là việc “trồng người”. Bác nói với anh chị em giáo viên: “Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ.
Tất cả các giáo viên chớ nên cho học thế này đã là đủ, mà phải tiếp tục học tập thêm để tiến bộ mãi”
10 năm sau, tháng 10-1968, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, bắt đầu năm học mới, Bác Hồ lại nhắc nhở: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật”…
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó.
“Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”
Chúng ta vui mừng nhìn lại chặng đường đã qua, nhất là từ khi nước nhà thống nhất, ngành giáo dục đã trưởng thành, nhiều thế hệ thanh thiếu nhi đã lớn lên cùng đất nước, có cống hiến xứng đáng trong sự nghiệp thống nhất vẹn toàn đất nước, xây dựng và đổi mới đất nước.
Chúng ta cũng nghiêm khắc nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ những khuyết tật không nhỏ đang tồn tại trong xã hội, trong nhà trường làm ảnh hưởng xấu tới sự nghiệp giáo dục toàn diện thế hệ trẻ để từ đó tìm biện pháp sửa chữa, tiến bộ.
Cuối năm 1959, nhân có phong trào thi đua mừng xuân, mừng Đảng 30 tuổi, Bác Hồ đã dựa vào lệ ưa thích trồng cây của nhân dân để hướng dẫn một cách thi đua thiết thực, có hiệu quả kinh tế. Người kêu gọi: “Muốn làm nhà cửa tốt, phải ra sức trồng cây” và Người phát động “Tết trồng cây”.
Bác Hồ cho rằng trồng cây là “việc… tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều”. Người ước tính “Mỗi tết trồng được độ 15 triệu cây”, “trong mười năm nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hoà hơn, cây gỗ đầy đủ hơn”
Người luôn biểu dương những địa phương, đơn vị, cá nhân trồng cây tốt. Người cũng nhắc nhở những địa phương, những hợp tác xã chưa quan tâm đến việc tổ chức “Tết trồng cây”. Người đặc biệt lưu ý “phải liên hệ chặt chẽ “Tết trồng cây” với kế hoạch trông cây gây rừng của Nhà nước. Nhưng không nên lẫn lộn số cây “tết” với số cây của kế hoạch và phải “xem trọng chất lượng, nghĩa là “trồng cây nào, chắc cây ấy”
Sau đó, Người còn “Thêm vài ý kiến về Tết trồng cây: “Có nơi nhầm cho rằng Tết trồng cây chỉ một đợt và một năm thôi; chứ không hiểu rằng Tết trồng cây cũng là một kế hoạch kinh tế lâu dài và liên tục”. “Tết trồng cây là một việc quan trọng… xây dựng nông thôn mới…
Nói chuyện với đồng bào thôn Lạc Trung (Vĩnh Phú) Bác Hồ lại nhấn mạnh: “Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải hăng hái trồng cây. Mọi người cố gắng trồng nhiều cây thì trong sáu, bảy năm nữa, cả làng sẽ có đủ cây để làm nhà mới…”. Nhưng “cần phải có kế hoạch trồng cây và chăm sóc cây ở đường cái. Cần giáo dục các em thiếu nhi có ý thức bảo vệ cây, chớ để trâu bò phá hoại cây”. Nhiều lần Người đánh giá: “Sở dĩ Tết trồng cây đã trở nên một phong trào quần chúng mạnh mẽ, là vì mọi người đều thấy lợi ích thiết thực và lâu dài của nó”. Bác cũng nhắc lại kinh nghiệm trồng cây tốt của thôn Lạc Trung (Vĩnh Phú): “Cử những cụ già hăng hái lập thành những tổ chuyên trách trồng cây, các xã viên đều tuỳ khả năng mà giúp sức, các em nhi đồng thì có những đội bảo vệ cây cối, Tết trồng cây cũng như mọi việc khác, các cấp uỷ đảng phải lãnh đạo cụ thể và chặt chẽ thì sẽ thành công” Bác nhắc nhở đồng bào, con cháu:
“Mùa xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân…”
“Tết trồng cây là ngày mở đầu cho việc trồng cây suốt cả năm đã trở thành một tục lệ tốt đẹp của nhân dân ta” . Bác Hồ đã nêu gương “Anh hùng trồng cây Nguyễn Văn Tần, cán bộ miền Nam tập kết ở Vĩnh Phú, cụ Nguyễn Văn Quắc, 74 tuổi, ba năm liền chiến sĩ thi đua về trồng cây ở Ninh Bình, ông Hoàng Đồng Hán ở Quảng Ninh, cụ Sùng Chín Tín ở Hà Giang, cụ Nông Quảng Liên ở Lạng Sơn…”. Người nhắc nhở: “Kinh nghiệm cho thấy rằng mọi người đều nên tham gia trồng cây, nhưng lực lượng các cụ phụ lão có tổ chức là quan trọng và các cháu thiếu nhi là lực lượng góp phần đắc lực”. Ngày 16-2-1969 (mùng Một Tết Kỷ Dậu) Bác Hồ đã trồng cây trên đồi cây xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (cũ). Cây đa Bác trồng năm xưa hiện đang toả bóng xanh tươi, râm mát cả một vùng. Nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm quan đã chụp ảnh lưu niệm dưới gốc cây đa này để tưởng nhớ Bác Hồ-người Việt Nam tiêu biểu quan tâm bảo vệ môi trường sống của đất nước và nhân dân. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn cho biết: Tháng 7-1969, nằm trên giường bệnh, Bác còn nhắc nhở Đảng bộ Nghệ An cần “có kế hoạch trồng cây bảo vệ rừng”.
Hai điều Bác Hồ tâm huyết cũng chính là những điều tâm huyết của mỗi người Việt Nam yêu nước và có trách nhiệm. Học và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả việc trồng Người và trồng cây.
Quan điểm của bác về von người rằng: con người là môt chỉnh thể
Hồ chí minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,cà các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái chân-thiện-mỹ, mặc dù có thế này thế khác
Hồ chí minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó đa dạng trong quan hệ xã hội, đa dạng trong tính cách, khát vọng , phẩm chất., khả năng cũng như năm ngón tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn tay; mấy nhiêu triệu người dân việt nam, lạc hồng đa đạng trong hoàn cảnh xuất than, đieuf kiện sống cà làm việc…
Hồ chí minh xem con người trong siwj thống nhất của hau mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,… bao gồm kả tính người- mặt xã hội và tính bản năng-mặt sinh học của con người. theo hồ chí minh, con người có tốt, có xấu, nhưng dù là xấu hay tốt, văn minh hay dã man đều có tình
Hồ chí minh cũng dung kháo niệm “con người” theo nghĩa rộng trông một số trường hợp nhưng đặt trong một bối vảnh lịch sử cụ thể và duy tư chung, còn phần lớn, người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giói tính, theo lứa tuổi , theo nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc. đó là con người hoeenj thực, củ thể, khách quan.
Để sinh tồn trong xã hội, con người phải lao động sản xuất. trong quá trình lao động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau….,xác lập các mối qian hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội. trong quan niệm của hồ chí minh. Con người là sự tổng hợp của các môi quan hệ trong xã hội từ hẹp tới rộng, chủ yếu bao gồn các các quan hệ an hem; họ hang, bầu bạn; loài người.
Quan điểm của hồ chí minh về vai trò trồng người.. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quết đinh thành công của sụ nghiepj cách mạng. theo hồ chí minh,” trong bầu trời không có gì bằng nhân dân , trong thế giới kgoong có gì bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” vì vậy, “ vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” người cho rằng “việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vâej chất và tinh thần. hồ chí minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ long trung tganhf và tin tưởng vào đường lối cách mạng, vào đảng không sợ gian khổ, tù đầy, hy sinh đến việc dân nhường cơm,xẻ áo chở che, bảo vệ nuôi nấng bộ đội cà cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sang tạo trong công việc, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt là long sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con dường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “ Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nôi”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm,dân ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bĩaam lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, người ra đi với ý chí “ quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của người cũng như của đảng và chính phủ là” làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”
ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thận phân của người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải không phải sự cảm thông kiểu tôn giáo, ngược lại người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phõng của chính bảm thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu trang giành lại độc lập tự do, hạnh phúc cho con người.. Người xác định người là mục tiêu củ thể trong từng giai đoạn cách mạng. khi đất nước còn nô lệ lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sauk hi chính quyền đã quay về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, cguwax bệnh lại được ưu tiên hơn, boyir vì, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, độc lập cũng chănng có ý nghĩa gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến di trúc người viết “đâu tiên là công việc với con người”
con người là mục tiêu của cách mạng , nên mọi chủ trương, đường lối chính sách của đảng, của chính phủ đeuf vì lợi ích chính đáng của con người. có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, gai cấp tầng lớp và nhân dân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì cho dân, dù nhỏ mấy ta cũng phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân dù nhỏ tới mấy ta cũng hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có nghười xã hội chỉu nghĩa”, “có dân thì có tất cả……”
Niềm tin vào sức mạnh của nhân dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với đảng và chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có dân thì chính phủ không có đủ lực lượng: nếu không có chính phủ thì nhân dân không có ai hướng dẫn. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân làm chủ. Dân như nước bộ đội như cá. Lực kượng bao nhiêu nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc cà xây dựng chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hang chục triệu quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Người nói dân tộc ta là một dân tộc anh hùng
Trong khi giữ vưng niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: ca nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân; khổng hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm- bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn tới kết quả là hỏng việc.
Con người là động lực của cách mạng nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song tước hết là ơ giai cấp công nhânvaf nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công-nông-trí làm nền tảng. Từ thănngs lợi của cách mạng tháng mười nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp ở trung tâm thời đai mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào ồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc nới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, vane hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử văn hóa hang ngàn năm của dân tiicj việt nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người lf động lực chỉ có thể thực hiện khi hoạt động có tổ chức, lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Giữa con người- mục tiêu và con người- động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người- mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người động lực tốt bây nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người – động lực sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các sản phẩm động lực con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hang trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ rụt rè không dám nói, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo
Quan điểm của Hồ Chí Minh về trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài cách mạng
Trên cơ sỏ khặng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đên sự nghiêp giáo dục, đào tạo rèn kuyện con người. Người
Trong đó, tư tưởng của người về sự nghiệp giáo dục như sau:
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên", có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực tiễn giáo dục có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Đúng như Nghị quyết UNESCO đánh giá: "Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Có thể nói, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật, Lão và Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục.
Về vai trò và mục đích của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên".
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Từ thực trạng nền giáo dục dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần và lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp là làm cho "ngu dân dễ trị". Bằng ngòi bút với lời lẽ sắc bén, Người đã chỉ rõ bộ mặt thực của cái gọi là "khai hoá văn minh" của thực dân Pháp: những người đến trường được "đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp", những người không đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện. Do vậy, theo Người, để khẳng định chính mình, mỗi người phải thẳng thắn đấu tranh với cái lỗi thời, lạc hậu và các tệ nạn xã hội. Người viết: "Phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Thật vậy, ngay từ những năm đầu bước vào đời, khi tham gia giảng dạy ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, tại đây, bên cạnh việc truyền bá những kiến thức về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc truyền thụ tinh thần, truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc.
Nhưng mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người, "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người, "có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người".
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn"của sông, do đó, theo Người, "người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Như vậy, đạo đức mà Hồ Chí Minh quan niệm hoàn toàn khác với đạo đức của chế độ thực dân phong kiến "đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời". Đạo đức mà Người hướng tới là đạo đức cách mạng, đạo đức của giai cấp công nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng... chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Còn tài là giỏi về kiến thức chuyên môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh, tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Do đó, theo Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta".
Người có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là có tất cả". Người viết:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".
Là Người luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, Người rất chú trọng việc giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cho dân để dân "làm ăn có ngăn nắp", "bớt mê tín nhảm", "bớt đau ốm", "nâng cao lòng yêu nước" và "để thành người công dân đứng đắn”. Người chỉ rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh".
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường học...
Về phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức. Người chỉ rõ: "Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình.
Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh luôn dùng các khái niệm giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm cho mọi tầng lớp, mọi người ở trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh, viết và nói là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết cách. Viết và nói phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải xuất phát từ người đọc, người nghe.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt".
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc làm... Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy: "Mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội... đều nhằm mục đích "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng", nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này vừa mang tính truyền thống, lại vừa hiện đại, vừa hệ thống, khoa học, lại vừa cụ thể, thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay.
Người dặt đạo đức lên hàng đầu. Người cho rằng: Một người có tài mà không có đức thì không có ý nghĩa gì cả:
Tư tưởng của người về đạo đức như sau:
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người, trong suốt cuộc đời, đã thực hiện một cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, những phẩm chất đạo đức được Người nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, có khi Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những phẩm chất đó thì phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư được Người đề cập nhiều nhất bởi phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, gắn liền giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong đời công cũng như trong đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công tác. Vậy Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích ý nghĩa và mối liên quan của những từ này một cách đơn giản, rõ ràng và rất dễ hiểu.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Cần còn là làm việc một cách thông minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác, con người có đức Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Đúng như câu tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng mòn. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có một người, một địa phương, hoặc một ngành mà lười biếng thì khác nào toàn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, không phô trương hình thức, không xa xỉ, hoang phí. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào cái thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc không lại hoàn không. Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm và không phát triển được. Bác giải thích, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
Liêm nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói: "Người mà không Liêm thì không bằng súc vật"; Mạnh Tử cho rằng: "Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy". Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ Liêm. Chữ Liêm và chữ Kiệm phải đi đôi với nhau như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm thì mới Liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam, không giữ được Liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ Liêm là tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương mình. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn Liêm thật sự thì phải chống tham ô.
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Theo Bác, trên trái đất có hàng muôn triệu người, trong số người đó chỉ có thể chia làm hai hạng là người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm nghìn công việc song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ là việc chính việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc ích nước, lợi nhà. Bác khẳng định: Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính, như một cái cây cần có cành lá, hoa quả mới là một cây hoàn toàn. Con người có Cần, Kiệm, Liêm nhưng cần phải Chính thì mới hoàn chỉnh.
Chí công vô tư nghĩa là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực chất của chí công vô tư ở đây chính là thể hiện mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, thể hiện thái độ, trách nhiệm của mỗi người đối với công việc được giao. Chí công vô tư còn là ham làm những gì có lợi cho dân, cho nước, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Chí công vô tư thì lòng dạ thanh thản, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Đối lập với Chí công vô tư là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra hàng trăm thứ bệnh con, hàng trăm thói hư, tật xấu. Bác coi đó là thứ giặc ở trong lòng, tội cũng nặng như tội việt gian, mật thám vậy. Thực hành Chí công vô tư là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài viết, bài báo để phân tích, giải thích sinh động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, đồng thời chỉ ra quan hệ giữa chúng với nhau. Cần, Kiệm, Liêm, Chính sẽ dẫn đến Chí công vô tư; ngược lại, đã Chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm, Liêm, Chính và có được nhiều tính tốt khác. Tư tưởng của Người về Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác coi đó không phải chỉ là phẩm chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả dân tộc. Do vậy, Người yêu cầu mỗi người dân Việt Nam đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất trên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người vẫn còn căn dặn: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gần tám thập kỷ qua có vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Đạo đức thể hiện sâu sắc ở một người cán bộ cách mạng, người cán bộ phải làm gương cho những người khác:
Tư tưởng của người về đạo đức cách mạng đó là:
hủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau
Hai là, yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời"
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BT320.DOC