Đề cương ôn tập : 145 câu hỏi đáp lịch sử văn minh thế giớiĐề cương ôn tập : LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Cơ sở hình thành và thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập?
Câu 2: Quá trình hình thành đạo Hồi , Ảnh hưởng của Việt Nam?
Câu 3: Những thành tựu cơ bản của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại ?
Câu 4: Sự hình thành và phát triển của đạo Phật thời cổ trung đại, phân tích ảnh hưởng tích cực của Đạo phật đối với xã hội Việt Nam hiện nay ?
Câu 5: Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc thời cổ trung đại?
Câu 6: Những thành tựu của văn minh TQ thời cổ trung đại và chứng minh ảnh hưởng của những thành tựu đó đối với sự phát triển văn minh thế giới?
Câu 7: Bốn phát minh lớn về KHKT của Trung Quốc thời cổ trung đại và ý nghĩa của nó ?
Câu 8: Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm chính của tư tưởng này. Nêu ảnh hưởng của nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay ?
Câu 9: Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực Đông nam Á và những thành tựu cơ bản của nền văn minh đó, Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực?
Câu 10: Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã và những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại ?
Câu 11: Sự ra đời và phát triển của đạo Ky tô thời cổ trung đại ở châu Âu ?
Câu 12: Hoàn cảnh ra đời nền Văn Hóa Tây Âu ? Những thành tựu nổi bật của nền văn minh Tây Âu thời phục hưng ? Nội dung tư tưởng Văn Hóa Tây Âu ?
270 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 17247 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương ôn tập: 145 câu hỏi đáp lịch sử văn minh thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa quyết định. Vị trí đặc biệt của Hiến pháp trong hệ thống văn bản pháp luật Nhà nước, trong đời sống Nhà nước và Xã hội qui định Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, là đạo luật gốc và có hiệu lực pháp lý cao nhất.
* Hiến pháp tư sản ra đời trong hoàn cảnh cụ thể nhưng về cơ bản đều có những đặc điểm chung như sau:
- Thể hiện quyền thống trị của giai cấp tư sản nhưng được che dấu dưới khái niệm “Chủ quyền thuộc về nhân dân”.
- Ghi nhận quyền chiếm hữu TBCN đối với TLSX và hệ thống kinh tế tư bản.
- Ghi nhận sự biến dạng khác nhau về nguyên tắc phân lập các quyền và thiết chế cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước tương ứng để bảo đảm vai trò cầm quyền của giai cấp tư sản.
- nhận định 2 hình thức chính thể (Quân chủ lập hiến và cộng hòa) và 2 hình thức tổ chức (đơn nhất hoặc liên bang).
Hiến pháp và pháp luật tư sản ghi nhận và bảo vệ sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp tư sản. Để thực hiện được điều này với những qui định của mình, pháp luật tư sản hạn chế sự tham gia của quần chúng lao động vào đời sống chính trị như: Hình thức bầu cử đại diện, hình thức bầu theo qui chế tài sản, tuyên bố quyền phổ thông đầu phiếu nhưng lại đề ra vô số tiêu chuẩn về: tài sản, trình độ văn hóa, thời gian cư trú … biểu hiện của quyền tự do, dân chủ tư sản mang tính hình thức, nhà nước và pháp luật tư sản tuyên bố mà không có những điều kiện tiền đề bảo đảm thực hiện thậm chí quyền bình đẳng mang tính hình thức thuần túy cũng không được thực hiện (phụ nữ ở Mỹ trước năm 1991 không có quyền bỏ phiếu).
Hiến pháp và pháp luật tư sản ghi nhận và bảo vệ sở hữu tư nhân – cơ sở kinh tế của XH bóc lột và bảo vệ chế độ người bóc lột người và lao động làm thuê. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là chế độ cơ bản của pháp luật và tư sản và cũng được thay đổi trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của XH tư sản tùy thuộc vào bản chất của nhà nước tư sản. Do đó, thực chất pháp luật tư sản là công cụ chủ yếu bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân TBCN (giai đoạn đầu CNTB độc quyền – nhà nước).
Câu 134 : Xã hội phương đông bao gồm tầng lớp nào? Đông đảo nhất là tầng lớp nào? Có nhiều của cải và quyền thế là tầng lớp nào?
- Xã hội phương Đông bao gồm ba tầng lớp.
- Đông đảo nhất, có vai trò to lớn trong sản xuất là nông dân
- Có nhiều của cải và quyền thế, có người hầu hạ, phục dịch là nhà vua và quý tộc
- Đứng đầu tầng lớp này là vua
- Thân phận thấp kém nhất là nô lệ
Câu 135 : Sơ đồ nhà nước chuyên chế cổ đại phương Đông?
VUA
NÔNG DÂN
NÔ LỆ
QUÝ TỘC (QUAN LẠI)
Câu 136: Xã hội cổ đại Phương Đông bao gồm những tầng lớp nào?
* Nông dân : Là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, họ phải nộp tô thuế, lao dịch không công cho Quý tộc
* Quý tộc : Vua, quan lại, sống sung sướng, đầy quyền lực
* Nô lệ : Phục dịch cho quan lại, quý tộc ( thân phận thấp kém nhất trong xã hội)
Câu 137 : Các quốc gia cổ đại phương Đông được hình thành ở đâu và từ bao giờ?
- Hình thành lưu vực các con sông lớn như: Sông Nin, sông Ti-gơ-rơ và Ơ-phơ-rát, sông Trường Giang và sông Hoàng Hà, sông Ấn và sông Hằng
-Từ cuối thiên niên kỉ thứ IV đầu thiên niên kỉ thứ III TCN các quốc gia cổ đại ra đời ở : Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ
Vì sao xã hội nguyên thủy tan rã?
- Do sự xuất hiện của kim loại và việc sử dụng kim loại làm công cụ lao động ->Diện tích, năng suất lao động tăng -> của cải dư thừa-> xã hội xuất hiện giàu, nghèo -> xã hội Nguyên thuỷ tan rã.
Câu 138 : Cuộc sống của Người tinh khôn khác với Người tối cổ như thế nào?
Đặc điểm
Người tối cổ
Người tinh khôn
Tổ chức
Xã hội
Sống theo bầy vài chục người
- Người tinh khôn sống gồm vài chục gia đình có mối quan hệ gần gũi -> Thị tộc ( làm chung, ăn chung, ở chung…)
Đời sống
-Săn bắt, hái lượm, sống trong hang, mái đá, biết dùng lửa, chế tác công cụ…
- Người tinh khôn biết trồng trọt và chăn nuôi, làm đồ gốm, đồ trang sức…
Câu 139 : Cơ sở hình thành văn minh Phương Đông?
1. Điều kiện tự nhiên:
- Các nền văn minh phương đông cổ đại đều hình thành từ các lưu vực của các con sông lớn gọi là văn minh sông nước.
+ Ai cập – Sông Nil : 6700 km dài nhất thế giới, chảy từ nam sang bắc đổ ra biển địa trung hải
+ Lưỡng Hà – Sông Tigric
Sông Euphrates (Thiên niên kỷ III TCN)
+ Ấn Độ - Sông Ấn (Indus) : Văn hóa Harappa hay còn gọi là văn minh sông Ấn
Sông Hằng (Gange): Văn minh sông hằng (Thiên nhiên kỷ II TCN)
+ Trung hoa – Sông Hoàng : Nơi đầu tiên của văn minh trung hoa
Sông Trường Giang (Dương Tử)
® Các con sông có vai trò hết sức quan trọng đối với các nền văn minh cổ đại, nó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, phong tục, tập quán, thiết chế nhà nước, Do các con sông lớn được tôn trọng, các thần sông luôn được tôn sùng.
Đem lại sự màu mỡ cho đất đai
Là nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu
Tạo ra đường giao thông thuận lợi
Cung cấp một lượng thủy sản phong phú, dồi dào
- Hình thành các đồng bằng phù sa châu thổ, canh tác sớm và nông nghiệp xuất hiện sớm và trở thành ngành kinh tế chủ đạo ® hình thành nông nghiệp ® hình thành văn minh nông nghiệp.
Hầu hết các nền văn minh phương đông cổ đại đều tồn tại một cách biệt lập khép kín, ít có sự giao lưu bên ngoài.
+ Ai cập : Bắc – Địa trung hải
Tây – Sa mạc
Đông – Biển Hồng Hải
+ Ấn Độ : Bắc – Dãy Himalaya
Tây – Thar
Biển Ai Cập
Nam - Ấn độ dương
Đông Nam – Vịnh Bengal
® Từ đó dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau
* Tích cực:
Chế độ chính trị ổn định
Tạo ra tính cố kết trong cộng đồng
Làm cho các quốc gia giữ được sắc thái riêng
* Tiêu cực :
Chế độ chuyên chế tồn tại lâu dài kiềm hãm sự phát triển của xã hội
Tạo ra tính thụ động khép kín, sợ đi đến các vùng đất mới.
Tôn giáo phát triển
Giao lưu kinh tế mang tính thụ động
- Ít tài nguyên khoáng sản
+ Ai cập : Đồng, đá, đất sét
+ Lưỡng Hà, Ấn độ, Trung hoa : Fe, Au, Cu, Bd, đất sét ® Văn minh đồ đồng
- Khí hậu:
+ Nhiệt đới sa mạc : Ai cập, Lưỡng Hà
+ Gió mùa : Tây nam, Đông bắc
2. Cư dân :
+ Ai cập :
- 6000 năm TCN khối cư dân bản địa ở Ai cập gọi là người Neroid
- 4000 năm TCN nhánh người Semite từ khu vực phía đông địa trung hải đã di cư đến Ai cập và định cư ở đồng bằng sông Nil. Trong quá trình cộng sự, hai khối cư dân này đã đồng hóa nhau và đều coi mình là con cháu của thần sông Nil (Osiris)
- Egypt là chủ người của văn minh Ai cập.
+ Lưỡng Hà:
- Là nơi quần cư của nhiều dân tộc khác nhau và hầu như không có dân tộc nào là chủ nhân chính của nền văn minh này mà lần lượt thay phiên nhau cai quản, đầu tiên là người Sumer, Akkad, Ela người Ba Tư, Atsyry, Babilon …
+ Ấn Độ: Có hai khối dân cư chính
- Người Dravida: Được xem là người bản địa, họ là chủ nhân của nền văn minh sông Ấn (Nền Văn hóa Arapa)
- Người Aryan (Người Ấn trắng) gốc ở vùng thảo nguyên trung á sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Giữa TK II TCN họ di cư đến ấn độ với tài cưỡi ngựa, bắn cung và hình thể to lớn họ đã chinh phục được người Dravida, đuổi bộ phận này sang phía tây nam Ấn còn bộ phận còn lại biến thành lệ. Sau đó thiết lập nền văn minh sông hằng. Hợp thức hóa việc cai trị người Dravida bằng chế độ Varina.
+ Trung hoa:
- Khối dân cư ở sông hồng hà phát triển nhanh hơn so với những khu vực lân cận (Địch nhung, Manidi ® Khuyển, sâu bọ).
- Ở Sông hoàng Hà hình thành 2 khối cư dân
Thượng: Quần dài, giày vải, đuôi sam
Hạ: Quần váy ngắn, chân đất, bím tóc. Người Hạ cho quân đánh người thượng và ra đời khối cư dân hoa hạ. Hợp với các khối lân cận và trở thành Nam Trường Giang đến Bách Việt song đến nhà Tầng rồi đến nhà Hán.
3. Kinh tế:
- Nhìn chung các nền kinh tế văn minh phương đông cổ đại mang tính tự nhiên, tự cung, tự cấp, tập trung trên 3 lĩnh vực chủ yếu.
+ Nông nghiệp: Là nền kinh tế chủ yếu nhưng trong trồng trọt và chăn nuôi chưa tách thành 2 ngành riêng biệt trong đó trồng trọt là chính và chăn nuôi là phụ.
+ Trồng trọt:
- Đất canh tác chủ yếu là đất phù sa do bộ máy công xã quản lý, đất đai chia cho các thành viên trong công xã, đất đai chia manh múng nhỏ lẻ, canh tác vi mô cá thể, hộ gia đình không dẫn đến những vùng chuyên canh, các sản phẩm canh tác chủ yếu như lúa mì, lúa nước, rau, cây ăn trái, bông, chè, dâu, cọ, chà là, ngô khoai, …
- Sản lượng không cao do chỉ canh tác được một năm một vụ chủ yếu phục vụ nhu cầu nội bộ nhưng không thành hàng hóa như ở phương tây.
+ Chăn nuôi:
- Ở phương đông cổ đại được tiến hành theo mô hình cá thể có chuồng trại, chủ yếu sử dụng sức kéo và phục vụ cho nhu cầu nội bộ, phục vụ cho các dịp lễ tết. Các sản phẩm chăn nuôi chính như: Trâu, bò, lạc đà, dê, gà, vịt, lợn … Làm cho các sản phẩm chăn nuôi trở nên quý hiếm đắt đỏ đều này làm cho dân cư phương đông ít ăn thịt nên nó trở thành không hàng hóa.
Thủ công nghiệp: Phát triển mang tính cục bộ quy mô nhỏ trong mỗi công xã đều có các xưởng thủ công, lò gạch, mộc, rèn … Phục vụ nhu cầu trong công xã, các ngành nghề chính bao gồm: Rèn, đúc đồng, mộc, gốm, ngỏi mỹ nghệ (Trang sức), dệt, chế tạo vũ khí, công cụ lao động. Khách hàng chủ yếu là quen nên sản phẩm
Thương nghiệp: Kém phát triển do nền sx kém phát triển, mạng lưới giao thông lạc hậu, nó hầu như chưa có sự xuất hiện của đồng tiền với tư cách là vật trung gian để định giá trị hàng hóa biểu hiện: Phương đông xuất hiện chợ phiên (chủ yếu trao đổi hàng hóa). Việc giao lưu trao đổi bên ngoài mang tính thụ động ® Thương nghiệp kém phát triển kích thích sự phát triển của sản xuất ® Kinh tế phương đông cổ đại là nền kinh tế chưa phát triển, sự phân công lao động chưa hợp lý, lực lượng sản xuất chính làm ra của cải vật chất là người tự do : nông dân công xã và thợ thủ công.
4. Tổ chức nhà nước và kết cấu giai cấp:
+ Tổ chức nhà nước:
- Các nhà nước phương đông cổ đại mang tính chất chuyên chế trong đó quyền lực của số đông được tập trung trong tay cá nhân là vua chuyên chế biểu hiện:
Vua nắm quyền tối cao
Sở hữu toàn bộ đất đai
Tính chất thể tục (Cha truyền con nối)
Bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu
Ví dụ:
Đơn vị - Mẫu dây
Chục - Đoạn
Ngàn - Cây Pagrus
- Người Ai cập viết số theo nguyên tắc cộng họ viết hàng đơn vị trước hoặc sau.
- Trong số học người Ai cập đã thành thạo các tính cộng, trừ những phép chia và nhân được hiểu là cộng trừ liên tiếp. Học biết đến nguyên tắc nhân đôi và chia đôi một số căn cứ vào khả năng chia đôi và căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số.
Đại số: Trong Ai cập cổ đại phát triển từ thời tân vương quốc, trong lĩnh vực này người Ai cập cổ đại biết giải toán phương trình bậc 1 một ẩn. (X + ax = b, X + ax + cx = b)
- Ngoài ra họ biết cấp số cộng và bước đầu tìm hiểu cấp số nhân
Hình học : Người Ai cập cổ đại tính diện tích của 1 số hình phẳng (Diện tích hình tam giác cân, hình chữ nhật, hình vuông, hình than, hình than cân, thể tích lăng trụ, hình lập phương, hình tháp, hình chóp cụt, chu vi của đường tròn với Pi = 3.16
Thiên văn học : Là một trong những lĩnh vực phát triển sớm của người Ai cập cổ đại các nhà nước Ai cập được hình thành 1 bộ phận rất đông trên quan sát bầu trời và theo dõi sự lên xuống của mặt nước sông Nil cả ngày lẫn đêm thông qua những dụng cụ rất thô sơ, đơn giản.
Ví dụ : Dây rọi, tấm ván
- Quan sát người Ai cập đã vẽ được các hành tinh, các thiên thể họ biết tính bản đồ 12 cung hoàn đạo, biết đến các hành tinh trong thái dương hệ, biết vẽ được chùm sao bắc đẩu. Đặc biệt là người Ai cập cổ đại phát hiện ra đồng hồ chỉ thời gian đầu tiên trong lịch sử (Nhật Khuê)
Nhật khuê (đồng hồ mặt trời) → Hạn chế : ban đêm, trời mưa không đo được thời gian .
- Từ Nhật khuê người Ai cập sáng tạo ra vật tính thế giới mới là đồng hồ nước
Lịch pháp: là một trong những hệ thống lịch sử trong lịch sử nhân loại được hình thành do từ kết quả của tính quan sát thiên văn và sự lên xuống mặt nước sông Nil. Qua quan sát các nhà Ai cập cổ đại nhận thấy rằng vào buổi sáng sớm , mùa hè, sao thiên long Sirirus xuất hiện ở đường chân trời đây là dấu hiệu cho biết mực nước sông Nil dân cao nhất trong năm, lấy chu kì khoảng 365 ngày, các nhà Ai cập cổ đại lấy chu kì là một năm. Dựa vào 12 cung chia làm 12 tháng. 30 ngày 1 tháng dư năm ngày là ngày tết, 5 ngày này không thuộc tháng nào hết. Một năm 3 mùa: Mùa nước lên; mùa ngũ cốc; mùa thu hoạch.
Y học: Thành tựu lớn nhất là kỹ thuật xác ướp
- Xuất phát từ quan niệm tín ngưỡng tôn giáo của dân cư Ai cập cổ đại. Con người khi sống 2 phần : Xác và hồn
- Khi con người sống 2 yếu tố này kết hợp . Khi chết hồn lìa khỏi xác, hồn không mất đi nó chỉ biến mất khi xác không còn. Nếu giữ được xác sẽ giữ được hồn. Một ngày nào đó hồn nhập vào xác và họ sống lại.
- Tìm thấy rất sẵn 1 nguyên tố, chất ướp xác là Notron khô
- Thông qua ướp xác người Ai cập hiểu biết sâu sắc các bộ phận trên cơ thể người. Từ đó biết nghiên cứu và cách chữa trị một số bệnh liên quan: Bệnh đường ruột, tim mạch, mũi, tai, mắt, gãy xương, nhi khoa, phụ khoa, thuốc chế tạo từ thảo mộc, bùn khoáng.
Vua nắm giữ vương quyền lẫn thần quyền
Tồn tại những bộ luật bất thành văn.
- Chức năng của các nhà nước phương đông CĐ:
Thu thuế, cai trị dân chúng, quản lý đất nước
Thực hiện các công trình công cộng
Mở rộng bờ cõi chống ngoại xâm
- Sơ đồ bộ máy nhà nước:
Tăng lữ
Vua
Bộ máy quản lí TW
Quân đội, nhà tù
Bộ máy quản lí địa phương
Tô thuế
Nguyên nhân:
- Nó xuất phát từ điều kiện tự nhiên: Song với những yếu tố thầm lặng đã ràng buộc khối cư dân sống phụ thuộc vào nó, cùng nhau chung sống và chia sẻ à Hình thành tâm lý cộng đồng, khi bị chinh phục sẽ làm nô dịch số đông.
- Hệ thống các đồng bằng phù sa, nơi quần cư đông dân cư sống ở đó, ngành kinh tế chính là nông nghiệp trồng trọt đôi công tác trị thủy à nhiều người à thủ lĩnh à Vua chuyên chế.
- Xuất phát từ thái độ khiếp sợ, thuần phục tự nhiên dẫn đến việc thần thánh hóa tự nhiên, gắn với tự nhiên những quyền năng vô hạn, con người không thể chống đỡ được, tác động mạnh khi cá nhân lợi dụng yếu tố thần thánh hóa thì sẽ trở thành kẻ cai trị hợp pháp à Vua chuyên chế tận dụng triệt để yếu tố này.
- Công cụ, vũ khí thô sơ do vậy khả năng chống lại bạo lực bên ngoài không cao. Lao động buổi đầu các nhà nước phương đông ra đời khi kẻ mạnh chinh phục cái yếu, người chiến thắng trở thành cai trị.
+ Kết cấu giai cấp:
- Về cơ sở XH phương đông CĐ được chia thành 2 giai cấp chính:
Giai cấp thống trị: Bao gồm vua à tăng lữ à quan lại. Nguồn gốc quan lại là những người có công với vua; thế tục (cha truyền con nối); những người thuộc dòng dõi vua; thi cử.
- Về nghĩa vụ: thay mặt vua quản lý đất nước.
- Về quyền lợi:
* Về bổng: Đất phong, giữ được một phần thuế, thưởng.
* Về lộc: Tham nhũng, hối lộ, biếu tặng.
Quý tộc: Sở hữu nhiều đất đai, TLSX dựa vào sự bóc lột của nông dân và công dân.
Giai cấp bị trị: Nông dân công xã chiếm số lượng đông đảo nhất là lực lượng lao động SX chính làm ra của cải vật chất cho XH, lĩnh canh ruộng đất của công xã, cuối mùa được tô, ngoài ra họ chịu nhiều nghĩa vụ khác nói chung là lao dịch.
- Thợ thủ công số lượng không nhiều, chủ, yếu là nông dân, dần dần hình thành nên 2 dạng:
* Thợ thủ công tự do dựa vào sức của mình và có nghĩa vụ nộp thuế
* Thợ thủ công nhà nước do nhà nước đào tạo nuôi ăn, trả công
- Thương nhân: Số lượng ít, hình thành cuối TK cổ đại
- Nô lệ: Chiếm số lượng ít, xuất phát từ các chiến tù (vì nợ, nô lệ kế tục mẹ à con) à Họ không có tài sản, không có gia đình, không được thừa nhận về thân phận, không có người thân, công việc chủ yếu của họ phục dịch cho gia đình chủ nô, tham gia SX không nhiều, do vậy chế độ XH thời kỳ này là chế độ CHNL gia trưởng hoặc là không điển hình.
Câu 140 : Chữ viết và khoa học tự nhiên của Ai Cập?
1. Chữ viết:
- Xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người và thậm chí xuất hiện sớm hơn sự ra đời của nhà nước Ai Cập đầu TK 4 TCN và theo quan điểm của nhà sử học Nga thì Ai Cập xuất hiện
Do nhu cầu sùng bái cá nhân lưu giữ các chiến công thủ lĩnh.
Do sự ghi chép tôn giáo.
- Nhân loại trải qua 3 giai đoạn chữ viết:
Tượng hình
Ghi ý / chỉ ý
Chỉ âm / ghi âm
- Chữ viết đầu tiên của Ai Cập CĐ là chữ viết tượng hình.
- Tượng hình là chữ viết khi cần biểu thị của vật thì vẽ lại hình thù của vật đó.
VD: để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu (vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau)
- Những chữ tượng hình có nhiều hình chế, khái niệm mang tính trừu tượng, phức tạp dần dần trở thành chữ chỉ ý, kết hợp 2 hay nhiều hình vẽ khác trên cơ sở giảm bớt những chi tiết thừa để diễn đạt một khái niệm mới trọn vẹn hơn hoặc mượn một đặc điểm riêng của một vật nào đó để diễn theo một ý nghĩa khác.
- Cũng còn nhiều hạn chế, không diễn tả hết mọi ý tưởng của con người do vậy trên hệ thống chữ viết của người Ai Cập cổ đại xuất hiện những ký hiệu chỉ âm nhưng thực tế lịch sử không cho nó phát triển một cách hoàn thiện (hiện thấy những ký hiệu ghi lại lời nói)
- Nhìn chung chữ viết Ai Cập cổ đại là chữ viết khó đọc, khó nhớ, khó viết. Do vậy chỉ có tầng lớp tăng lữ và thư lại cùng với con cháu của họ mới được học và sử dụng ngôn ngữ này.
- Ban đầu chữ viết nhằm mục đích ghi lại những bài tế gọi là thánh thơ về sau từ giai đoạn tân thư quốc được sử dụng rộng rãi trong triều đình.
- Chữ Ai Cập cổ đại có 1000 kí hiệu khác nhau, có 22 kí hiệu chỉ âm, viết dựa trên những nguyên liệu chính: giấy Papyrus, khắc trên đá, trên gỗ, trên đồng, vải, da thú…Mực viết được làm từ hồ bóng. Chữ viết Ai Cập cổ đại ra đời và phát triển khoảng 3000 năm, khoảng TK 4 TCN. Ai Cập trở thành một bộ phận của đế quốc Hi Lạp, dưới thời Alecxandne Le Greand, lúc đó những người Hy lạp đã mang hệ thống chữ cái của mình truyền truyền vào Ai Cập đã tiếp thu hệ thống chữ cái này và sử dụng nó để lưu lại tiếng nói của mình.
- Ra đời loại chữ Copte lúc đầu sử dụng song song với chữ tượng hình nhưng khi các tăng lữ thư lại chết đi không ai dùng được chữ tượng hình Ai Cập, lúc này gọi là từ ngữ.
2. Khoa học tự nhiên:
- Là một trong những lĩnh vực thành công của nền văn minh Ai Cập CĐ được hình thành sớm, xuất phát từ nhu cầu tinh tế cuộc sống đó là hàng năm người Ai Cập thường phải đo đạc, chia lại ruộng đất và việc đo đạc này đã nảy sinh tư duy về toán học. Do nhu cầu xây dựng nhà cửa, đền, miếu đặc biệt là xây dựng các kim tự tháp và xuất phát từ việc ghi nợ thuế, tô thuế…à tập trung 4 lĩnh vực:
* Toán học:
+ Số học: trước thiên niên kỷ III TCN người Ai Cập đã có quan niệm trừu tượng về các con số và cuối thiên niên kỷ III TCN đã hình thành lên phép tính đếm (theo cơ số 10). Tuy nhiên người Ai Cập chưa tìm theo số 0. Do đó cách biểu thị các con số.
*Thiên văn học:
Ngay từ rất sớm, người Ai Cập đã quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, phát hiện và vẽ được bản đồ một số thiên thể, xác định được 12 cung hoàng đạo (vương triều 14 – Trung vương quốc), biết các hành tinh trong Thái dương hệ, vẽ được chòm sao Bắc cực. Đặc biệt họ đã phát minh ra cái nhật khuê để đo thời gian ban ngày và sau đó là đồng hồ nước.
* Lịch pháp:
Năm của người Ai Cập có 365 ngày (thời gian giữa 2 lần sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân trời vào sáng sớm - thời điểm nước sông Nil lên cao). Người Ai Cập chia 1 năm làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, 5 ngày cuối năm là ngày tết. Tuy nhiên so với lịch mặt trời lịch của người Ai Cập còn thiếu khoảng ¼ ngày và vì họ chưa biết đặt ra năm nhuận. Họ cũng chia 1 năm làm 3 mùa: mùa Nước lên (sau tết), mủa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch.
* Y học:
Thành tựu lớn nhất của y học Ai Cập cổ đại là thuật ướp xác, xuất phát từ tôn giáo, tín ngưỡng và điều kiện tự nhiên. Thông qua việc ướp xác, họ đã tiếp cận với phẫu thuật nên có kiến thức về giải phẫu học từ rất sớm, biết đến nguyên nhân bệnh tật của con người do sự hoạt động không bình thường của mạch máu. Họ cũng đã biết sự liên quan giữa tim và mạch máu, khi óc bị tổn hại thì cơ thể sẽ bị bệnh. Từ đó đã hình thành nên một số chuyên khoa như hô hấp, ngoài da, đường ruột… Các thầy thuốc cũng biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.
Câu 141 : Nguyên nhân và bối cảnh ra đời của đạo Phật? Quá trình truyền bá đạo Phật ở Ấn Độ?
Nguyên nhân và bối cảnh ra đời của đạo Phật:
Xã hội:
Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, ở Ấn Độ từ những công xã cổ xưa đã hình thành hàng loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu quốc). Các vương quốc thường có điều kiện tự nhiên khác nhau (do vùng đất đai rộng lớn). Kinh tế, xã hội, chính trị cũng phát triển không đều nhau. Do vậy, các vương quốc này luôn tồn tại những mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau. Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên và đến thế kỷ V TCN, chỉ còn lại 4 quốc gia: Kashi, Koshala, Magadha, Virigis.
- Các cuộc chiến tranh đã lôi kéo người dân phải tham chiến, tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
- Mâu thuẫn giữa đẳng cấp Brahma với Ksatria: sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ.
+ Brahman: thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác (của cải không người thừa kế sẽ thuộc về Brahman - Bà la môn)
+ Ksatria: vua quan, quý tộc - bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp Brahman và bị Brahman chi phối.
+ Vaisya: cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa, thất thu (chiến tranh) nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
+ Soudra: có thêm một số vaisya bị phá sản trở thành nô lệ, số khác thì phải đi ăn xin. Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lý chán nản, tuyệt vọng trông chờ một con đưỡng giải thoát khỏi thực tại khổ đau.
Chế độ đẳng cấp trở thành sự bức xúc lớn trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
Kinh tế:
- Công cụ kim loại đồng thau và sau đó là đồ sắt đã làm thay đổi bản chất của sản xuất. Vua Magadha quan tâm phát triển nông nghiệp. Song song đó, nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng làm xuất hiện tầng lớp thương nhân. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp Soudra. Nhưng họ là tầng lớp có tiềm lực kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp.
Tôn giáo:
Sau một thời gian hình thành và phát triển đã được củng cố: giáo lý và luật lệ rất chặt chẽ, nghi thức cúng bái rất phức tạp, chế độ đẳng cấp càng trở nên vững chắc.
Cuộc sống cực khổ càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna), không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những điều thuyết giảng của tăng lữ Bàlamôn không còn đủ sức thuyết phục, an ủi và xoa dịu cuộc sống của dân chúng. Những lễ nghi phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lý ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giào này.
Trong bối cảnh đó, vào thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại (khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỷ - Jain), nhưng có một điểm chung là: trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo Bàlamôn.
- Vai trò của Phật thích ca (giảng thêm).
Học thuyết của Đạo Phật:
- Dưới góc độ triết học, giáo lý đạo Phật mang tính chất nhị nguyên luận (vừa có tính duy tâm, vừa có tính duy vật).
+ Duy tâm: kế thừa một số tư tưởng của đạo Bàlamôn về thuyết luân hồi - nhân quả - khái niệm Niết bàn - nghiệp báo...
+ Duy vật: Đức Phật không tôn thờ thần và không tự coi mình là thần, thừa nhận sự biến đổi, phủ nhận sự tồn tại bất diệt và vĩnh viễn của tất cả sự vật. Vật chất và tinh thần đều biến hóa, có sinh có diệt (vô thường: chuyển biến, thay đổi, không có gì là bất biến diễn ra trong từng đơn vị - sátna vô thường; vô ngã: không thể có cái ta tồn tại vĩnh viễn).
- Hòn đá tảng căn bản trong tư tưởng của Phật là thuyết Tứ diệu đế (bốn chân lý kỳ diệu), bao gồm:
+ Khổ đế: đời là bể khổ, bất trắc, không toại nguyện trong cuộc sống (sinh, lão, bệnh, tử).
+ Tập đế: chân lý về nguyên nhân nỗi khổ, do người ràng buộc nhiều ham muốn.
+ Diệt đế: chân lý chấm dứt nỗi khổ, diệt ham muốn.
+ Đạo đế: con đường diệt khổ dẫn đến giác ngộ, giải thoát tiến đến Niết bàn. Đạo đế gồm tám con đường diệt khổ, gọi là Bát chánh đạo:
1. Chánh Kiến: tín ngưỡng đúng đắn.
2. Chánh Tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
3. Chánh Ngữ: nói năng đúng đắn.
4. Chánh Nghiệp: hành động đúng đắn.
5. Chánh Mệnh: sống đúng đắn.
6. Chánh Tịnh tiến: mơ tưởng ước mơ đúng đắn.
7. Chánh Niệm: tưởng nhớ đúng đắn.
8. Chánh Định: tập trung tư tưởng, ngẫm nghĩ đúng đắn.
Phật khuyên con người không sát sinh: cấm giết người, còn động vật không khắt khe. Việc ăn chay do vua Lương Vũ Đế ( Trung Quốc - VI SCN) đặt ra (giảng thêm).
- Thuyết Thập nhị nhân duyên (duyên khởi)… Ví dụ cây nảy mầm
Có thể nói, ban đầu những tư tưởng của Phật là một học thuyết khuyên người phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện, tu thân tích đức để được giải thoát chứ không thừa nhận thượng đế và thần thánh. Do vậy, Phật chủ trương không cần cúng lễ, nghi thức và không có tầng lớp tăng lữ, thầy cúng.
Quá trình truyền bá đạo Phật ở Ấn Độ:
- Năm sinh Đức Phật: 624-544 TCN, Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu Phật lịch (2548 = 2004); ý kiến khác 563-483 TCN.
- Đạo Phật ra đời trong thời kỳ hưng thịnh của Bàlamôn. Nhưng với giáo lý từ bi, bác ái chống đạo Bàlamôn hà khắc, nên nhanh chóng chiếm cảm tình của mọi tầng lớp nhân dân.
- Sau khi Phật tịch, các môn đệ tập trung và ghi chép lại lời giảng của Phật theo trí nhớ và cách hiểu của mình. Nhưng cách hiểu và nhớ khác nhau, do vậy Kinh - giáo lý nhà Phật, được chỉnh ly), ghi chép lại qua 4 lần đại hội kết tập, hình thành nên bộ Kinh Tam Tạng.
+ Đại hội I (thế kỷ V TCN) tại Magađa - quốc gia mạnh nhất Ấn Độ lúc đó. Có 500 tăng ni họp trong 7 tháng, soạn ra Luật tạng (Đại Ca diếp hỏi, Upali ttrả lời) và Kinh tạng (do trưởng lão A-nan giải đáp, còn gọi là Kinh Điển ngũ Bộ: Trường Bộ kinh, Trung Bộ kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh và kinh Tiểu Bộ). Luật: cách hành lễ, ăn mặc… Kinh: ghi chép lại lời giảng của Phật. Lúc đầu Kinh và Luật được các tỳ kheo học thuộc lòng, chỉ đến Hội nghị kết tập lần 3 mới được viết trên lá bối đa.
+ Đại hội II (thế kỷ IV TCN, khoảng 100 năm sau lần I): 700 tăng ni, diễn ra trong 8 tháng.
Tại Hội nghị kết tập này có hai ý kiến khác nhau: Một số chủ trương tuân thủ truyền thống của chư tăng, gọi là Thượng tọa bộ (những người hộ trì giáo lý của các Thượng tọa); một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại Luật Tạng, gọi là Đại chúng bộ (những người của đại chúng) nhưng không được Hội đồng kết tập chấp thuận - đây là tiền thân của phái Đại Thừa sau này.
Tại đại hội này đã đưa ra chủ trương xây dựng chùa, thờ cúng Phật, tạc tượng Phật, đặt các lễ.
+ Đại hội III (253 TCN): 1000 tăng ni, diễn ra trong 9 tháng.
Diễn ra dưới sự bảo trợ của Ashoka - vua của Vương quốc Magađa, một trong những vị vua nổi tiếng nhất Ấn Độ cổ đại. Ashoka có công trạng rực rỡ nhưng tàn sát ác liệt nên sau đó bị day dứt, ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng giết chóc. Ông đã sám hối, trở thành tín đồ và dốc lòng thờ Phật sau trận đánh ở Kalinga (260 TCN).
Lúc này khuynh hướng phân liệt nghiêm trọng nên Đại hội chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý, bổ sung và cho ra đời Luận tạng. Như vậy, kể từ Hội nghị này, Phật giáo có đủ Tam Tạng ( 3 cái giỏ hay 3 cái kho, tương truyền nhà sư Huyền Trang thuộc làu 3 bộ kinh này nên được gọi là Tam Tạng). Trong thời trị vì, Ashoka đã tuyên bố đạo Phật là quốc giáo, đánh dấu thời kỳ phát triển cực thịnh của Phật giáo ở Ấn Độ thời cổ đại. Đồng thời, Ashoka tiến hành xây doing nhiều chùa, tháp, thành lập nhiều tăng đoàn và khuyến khích việc truyền bá Đạo Phật đến hiều vùnh trên bán đảo Ấn Độ và một số các quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma, Thái Lan, Indo…).
Thế kỷ IV - III tr. CN là thời kỳ Phật giáo phát triển nhất ở Ấn Độ.
Sau khi Magađa tan rã (322 TCN), đạo Phật suy yếu và dần mất đi vị trí thống trị trong đời sống tâm linh của cư dân.
+ Đại hội IV: 500 tăng ni.
Đến thế kỷ I SCN, người Kusan chiếm Tây Bắc và thành lập nhà nước của mình. Vua Kusan là Kanisha rất tôn sùng Đạo Phật nên ông đã tài trợ Đại hội kết tập lần IV của Phật giáo (khoảng năm 100).
Tại Đại hội này đã thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách (Đại thừa) để phân biệt phái cũ (Tiểu thừa). Song song đó là tiến hành chỉnh lý lại văn bản Tam tạng kinh điển (với 300.000 bài tụng với 9.600.000 từ, trong đó: Kinh sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Kinh, Luật sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Luật, Luận sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Luận) và khắc thành những bảng đồng lưu giữ trong bảo tháp. Phật giáo tiếp tục được truyền sang các quốc gia Trung Á, Trung Quốc...
* Tiểu thừa và Đại thừa: là hai tông phái của Phật giáo, có cách giải thích khác nhau về giáo lý Phật giáo). Tôn chỉ, mục đích giống nhau, nhưng khác phương tiện, con đường tu hành và giải thoát.
- Tiểu thừa: trung thành, coi trọng ý nghĩa ban đầu của Phật giáo, tu theo từng nhóm nhỏ mang tính cá nhân, tự giác.
- Đại thừa: mở rộng giáo lý Phật giáo trong nhiều bộ kinh khác nhau, giải thoát cho nhiều người.
Sau những thế kỷ phát triển thịnh đạt khoảng 1.000 năm, từ VI TCN - V CN, Phật giáo ở Ấn Độ bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái: giáo lý uyên thâm, khó hiểu vượt khỏi tầm hiểu biết của quần chúng. Từ đó Hindu đã lấn át phần nào, do vậy phạm vi ảnh hưởng Phật giáo ngày càng thu hẹp lại trước sự phát triển của Hindu và Hồi giáo.
* Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ:
- Không thống nhất về học thuyết và tổ chức.
- Chỉ phát triển trong thành phố (thành phần ủng hộ đầu tiên là Ksatrya, (thương nhân), những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn.
- Trong 3 thế kỷ, Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội.
- Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật giáo nên dần thu hút dân chúng.
- Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí.
- Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.
Câu 142: Khoa học tự nhiên - Hy Lạp?
4. Khoa học tự nhiên:
4.1. Hy Lạp:
Hy Lạp cổ đại được coi là quê hương của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau thuộc khoa học tự nhiên. Tư duy khoa học của người Hy Lạp cổ đại đã vươn tới trình độ khái quát hóa cao, hình thành những tiền đề, định lý, nguên lý có giá trị. Đây là nơi sản sinh ra những nhà khoa học khổng lồ, kiến thức uyên bác và để lại nhiều thành tựu lớn lao trong kho tàng khoa học của nhân loại, đặc biệt là các lĩnh vực như toán học, vật lý, thiên văn… Một số tên tuổi tiêu biểu:
- Thales (642 – 548 TCN): nhà toán học, triết học, thiên văn học, là người đã đặt nền móng cho khoa học và triết học. Ong sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có ở Milet (Tiểu Á), nhưng có quá trình sống và làm việc khá lâu ở Ai Cập trước khi về quê hương thành lập trường phái khoa học Milet. Ông đã chỉ ra rằng:
+ Mọi đường kính thì chia đôi một đường tròn.
+ Các góc đáy của một tam giác cân thì bằng nhau.
+ Góc nội tiếp trong nửa hình tròn là một góc vuông.
+ Là người đầu tiên đo được chiều cao của Kim tự tháp nhờ ông tìm ra nguyên lý đồng dạng và tỷ lệ thức.
+ Dự báo một cách chính xác ngày xảy ra nguyệt thực ở Milê (28 – 05 – 585 TCN).
Nhưng ông sai lầm khi cho rằng trái đất nổi trên nước, vòm trời có hình bán cầu úp trên mặt đất. Với ông, toán học, thiên văn học từ kinh nghiệm đã trở thành khoa học. Ông xứng đáng được người đời sau ghi nhận là “Nhà toán học đầu tiên, nhà thiên văn học đầu tiên”.
- Pythagore (580 – 500 TCN), nhà toán học, lý học, triết học, thiên văn học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, quê ở đảo Xamốt (thuộc biển Egiê), là người đem lại nhiều biến đổi cho nền toán học thế giới. Ông cũng đã đến Ai Cập và ở lại đây trong 12 năm để tiếp cận các tri thức khoa học của phương Đông. Sau đó, ông về sống ở đảo Xixin, thiết lập trường phái khoa học Pythagore. Tại đây, ông cùng các học trò của mình đã tổng kết những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lý và chứng minh chúng bằng suy luận logic chứ không phải bằng trực giác. Đóng góp của ông:
+ Định lý Pythagore “tổng hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác vuông”.
+ Chứng minh: tổng các góc trong một tam giác bằng 180 độ.
+ Đưa ra những định nghĩa về điểm, đường; khái niệm vô cực và về số vô tỷ.
+ Ông cho rằng trái đất hình tròn và chuyển động theo một quỹ đạo nhất định (Sau này Copecnic, nhà bác học ngươi Ba lan đã phát triển thành thuyết "nhật tâm" nổi tiếng).
+ Độ cao âm thanh của một sợi dây căng hai đầu khi cho dao động sẽ phụ thuộc vào chiều dài của sợi dây ấy. Chiều dài sợi dây giảm đi mộ nửa thì âm thanh sẽ tăng lên một quãng 8.
+ Được coi là bậc thầy về những con số. Ông đã đưa ra những nghiên cứu thú vị về các con số như số chẵn thì xấu, không may; số lẻ thường đem lại may mắn; "số anh em", "số bạn bè"… Đặc biệt ông dùng tư duy về các con số nhằm chứng minh một số luận điểm triết học.
- Euclite 330 - 275 TCN: Được xem là một trong những người sáng lập trường toán học thuộc "Đại học" Alecxandri. Ông cũng đã để lại cho hậu thế những công trình nghiên cứu bất hủ, nhưng chúng ta biết về đời tư của ông không nhiều. Những tác phẩm tiêu biểu của ông:
+ Catropque hay hình học những tia phản chiếu.
+ Những dữ kiện.
+ Phép chia các hình.
+ Quang học.
+ Đặc biệt là bộ Elements - Những khái niệm cơ bản: gồm 13 tập, trong đó ông đã sắp xếp một cách hợp lý, hoàn chỉnh, sáng tạo thêm, chứng minh chặt chẽ hơn tất cả 465 mệnh đề không chỉ về hình học mà cả lý thuyết số và đại số sơ cấp trên tinh thần của hình học, trong đó có tiên đề mang tên ông - Tiên đề Euclite. Bộ sách Cơ bản gồm 13 cuốn vẫn được giữ đến ngày nay (phần lớn chương trình hình học ở phổ thông ngày nay sử dụng lại hầu như toàn bộ 6 cuốn trong bộ Cơ bản của ông). Trong lịch sử Toán học, đây là tác phẩm khoa học duy nhất đã tồn tại 2000 năm mà giá trị không hề giảm sút.
- Archimede (285 – 212 TCN): Ông được sinh ra trong một gia đình giàu có ở thành bang Siracure trên đảo Xixin, là người có quan hệ bà con với vua Herion của thành bang này. Ông đã từng lưu học tại trường Alecxandri - Ai Cập. Niềm say mê khoa học cùng với kiến thức uyên bác, ông đã để lại cho nhân loại những tri thức khoa học vô giá về lý luận, thực tiễn trong toán học và cơ học.
Archimede là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng nó vào việc giải phóng sức lao động của con người, như đòn bẩy, ròng rọc... Ông là người phát minh ra nguyên lý đòn bẩy và là tác giả của định luật nổi tiếng mang tên ông về sức đẩy của nước (sức đẩy của nước bằng chính trọng lượng của vật ở trong nước). Ông còn là người chế tạo ra hệ thống máy móc đầu tiên ở Hy Lạp (máy bắn đá, gương hội tụ, chân vịt dùng để hút nước…). Đặc biệt, ông là người đã đưa ra phương pháp tính diện tích hình nón và hình cầu, tính được trị số Pi nằm giữa hai số 3 x 10/71 và 3 x 1/7.
Có thể tóm lược những đóng góp khoa học của Archimede trong một số tác phẩm tiêu biểu sau:
+ Về trạng thái cân bằng: nghiên cứu về trọng tâm, hình bình hành, hình tam giác.
+ Cầu phuơng hình parabol: cho lời giải về cơ học và cả lời giải toán học.
+ Về trạng thái cân bằng (tập 2): nghiên cứu về trọng tâm của đới parabol.
+ Bàn về hình cầu và hình viên trụ (tập 1 & 2).
+ Bàn về cá hình xoắn.
+ Đo đường tròn.
+ Nghiên cứu vế các vật nổi.
+ Arénaire: về hệ đếm các số lớn.
Giảng thêm về các truyền thuyết liên quan đến Archimede trong cuộc chiến của Siracure chống lại La Mã gương hội tụ, máy bắn đá) và việc tìm tỉ lệ vàng trong vương miện nhà vua...
- Aristarque (310 - 230 TCN): Ông là người đã tính toán được thể tích của mặt trời, mặt trăng, trái đất và khoảng cách giữa chúng nhưng cho kết quả chưa chính xác. Ông cũng là người khẳng định trái đất quay xung quanh mặt trời.
- Eurathosthène (284 - 192 TCN): nhà khoa học tài năng ở nhiều lĩnh vực như toán học, thiên văn, vật lý, sử học, ngôn ngữ... Ông từng làm giám đốc thư viện Alecxandri ở Ai Cập nên có điều kiện tiếp cận các tri thức khoa học trước đó. Ông là người đầu tiên tính được độ dài của kinh tuyến trái đất bằng 39.000km (con số tính toán của khoa học ngày nay là 39.700km, giảng về phương pháp tính toán).
* Y học:
Y học Hy Lạp cổ đại đã có những thành tựu rất to lớn về lý luận và thực hành trong việc chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh. Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra những danh y và địa điểm hành nghề của họ được coi là thủy tổ của y khoa phương Tây sau này. Danh y đầu tiên có thể kể đến là Etculatét, người đã đề xuất những phương pháp trị bệnh đơn giản nhưng hiệu nghiệm. Đặc biệt Hypôcrát (460 – 377 tr.CN) được coi là ông tổ của khoa học y dược. Ông được sinh ra trong một gia đình có truyền thống y khoa ở đảo Corse. Chính ông đã gạt bỏ những quan niệm tôn giáo và mê tín thần bí, đề ra những phương pháp trị bệnh hiệu quả bằng khoa học. Quan điểm của ông về đạo đức, trách nhiệm của người thầy thuốc, tác động của môi trường đối với cơ thể, về dịch thể, điều trị bệnh nhi khoa và phụ nữ, bệnh gãy xương… cho đến ngày nay vẫn còn giá trị. Bộ sách giáo khoa mười tập do ông để lại cho hậu thế là kho tàng vô giá về kiến thức y học đã được Littre – nhà ngôn ngữ học người Pháp, dịch xong năm 1861. Để tôn vinh những cống hiến của ông, ở phương Tây, các bác sỹ khi ra trường đều phải đọc “Lời thề Hypôcrát”.
- Ngoài ra, nền y học Hy Lạp cổ đại còn có Hêracơlít – nổi tiếng trong việc phẫu thuật ở Hy Lạp; Hêrôphin – người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của con người. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp khám bệnh thông qua việc bắt mạch bệnh nhân.
Có thể nói, nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra một đội ngũ các nhà bác học kiệt xuất, cống hiến cho nhân loại những tài sản khoa học vô giá mà giá trị của nó vẫn trường tồn trong xã hội hiện đại.
Câu 143 : Lịch sử về giấy?
1. Lịch sử về Giấy
Ngày nay giấy đối với ta quá bình thường. Ta vò nó trong tay rồi ném đi không chút thương tiếc bởi ta có biết đâu sau ba ngàn năm từ ngày có những nét những hình đầu tiên được viết nơi hang động, đất sét... cho tới cách đây hai ngàn năm mới chế biến được giấy thô sơ và qua biết bao quá trình, mới trở thành hoàn hảo như ngày hôm nay.
2. Phát minh giấy viết:
Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng carbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Ts'ai Lun, nhưng người ta vẫn cho Ts'ai Lun là người phát minh ra giấy thực thụ như ngày nay.
1) Ts'ai Lun :
Năm 105, dưới triều Hán, thời hoàng đế Ho Ti bên Trung quốc, Ts'ai Lun đem mấy mẫu giấy dâng vua, được vua hài lòng và phong tước quý tộc và cho ông làm quan trong triều đình. Ông là hoạn quan vì phải giữ tài sản và tiền bạc nhiều trong triều đình. Nhờ chế được giấy, ông trở thành giàu có. Tuy nhiên sau đó ông bị triều đình âm mưu gây rắc rối nên sa sút và bị vua ghét bỏ. Ông tắm rửa sạch sẽ, mặc áo quần thât đẹp, uống thuốc độc rồi lên giường nằm.
Ts'ai Lun chế tạo giấy:
Ts'ai Lun lấy bên trong vỏ thân cây dâu tằm và xơ cây tre đem trộn với nước rồi giã nát với dụng cụ bằng gỗ, xong ông đổ hỗn hợp lên tấm vải căng phẳng và trải mỏng rồi để ráo nước. Khi đã khô, Ts'ai Lun khám phá ra rằng có thể viết lên dễ dàng mà lại nhẹ nhàng. Cách chế tạo giấy này đầu tiên được dùng bên Trung quốc rồi qua Korea, Samarkand, Baghdad và Damascus.
Cho dù Ts'ai Lun phát minh ra giấy sớm, nhưnh phải hàng ngàn năm sau người ta mới sản xuất giấy cho khắp Âu Á.
2) Các nước và sự phát minh giấy:
Khoảng năm 400 người Ấn độ đã biết làm giấy
Sau khoảng 500 năm sau, dân Abbasid Caliphate bắt đầu dùng giấy.
Người theo đạo Islam dùng giấy rất sớm, từ Ấn độ tới Tây Ban Nha, trong lúc người theo đạo Thiên chúa vẫn còn dùng giấy da
Ảnh hưởng của Arabe tiếp tục trải ra từ Phi Châu tới Méditerranée: Khoảng năm 650 người Árập xâm nhập Sicile, rồi tràn qua Maroc . Hai thành phố này sau đó biến thành hai trung tâm văn hóa của Árập truyền bá truyền thống và tín ngưỡng của mình. Trong những thế kỷ tiếp theo, lãnh thổ Árập lớn dần, thêm các nước tân tiến như Algérie, Tunisie và Lybie cùng với những lãnh thổ to lớn của Espagne, Portugal và Italie.
Năm 751, dân Arập sống trong thành phố Samarkan, trong Kasakhstan -khoảng 800 km từ biên giới Trung quốc- bị quân đội Trung quốc tấn công. Cuộc tấn công bị quân đội Arập không những đẩy lùi mà họ còn bị đuổi theo. Quân Árập bắt tù binh Trung quốc biết kỹ thuật làm giấy. Để đổi lấy tự do , người Trung quốc đã truyền lại nghề làm giấy. Người Á rập biết làm giấy từ đó và cách làm giấy được lan tràn nhanh chóng trong dân Arập.
Vào thế kỷ thứ X, người Árập dùng bông vải để chế giấy để có loại giấy mỏng tốt.
Khoảng năm 1100, Ý và Espagne đuổi dân Arập đi nhưng ngành sản xuất giấy được giữ vững. Tại Ý, tài liệu cổ xưa nhất được viết trên giấy xưa nhất đã được dâng lên vua Roger của Sicile, ghi năm 1102.
Đầu những năm 1200 Thiên chúa giáo thống chế người Tây Ban Nha theo đạo Islam, nhờ vậy mà họ học cách làm giấy nơi người đạo Islam. Năm 1250 người Ý bắt đầu học cách làm giấy và bán khắp Âu châu.
Năm 1338 các giáo sĩ Pháp bắt đầu chế giấy lấy. Năm 1411 tức là sau 15 thế kỷ từ khi Ts'ai Lun phát minh ra giấy, người Đức mới bắt đầu sản xuất giấy và nhất là từ năm 1450 ngành báo chí và máy in ra đời do Johannes Gutenberg thì vélin và parchemin bị quên hoàn toàn. Rẻ tiền hơn, đồng dạng, giấy trở nên cần thiết cho sự sản xuất lớn mà giấy da thú không thể có đủ điều kiện
3) So sánh hai phát minh của Ts'ai Lun và Gutenberg
Bên Trung quốc, trước Ts'ai Lun, hầu hết sásh vở đều viết bằng tre nên rất nặng và cồng kềnh. Vài quyển sách được viết trên lụa nhưng quá đắt. Bên phương Tây, trước khi giấy ra đời, người ta dùng sách viết trên giấy da làm bằng da cừu hay da bò con. Sau đó loại giấy papyrus được người Hy Lạp, La Mã và Ai cập ưa chuộng. Tuy nhiên giấy da hay giấy papyrus đều quá đắt. Sách vở hay những tài liệu khác viết bằng giấy ngày nay được chế tạo quá rẻ và nhiều cũng là nhờ sự hiện hữu của giấy. Thực ra, nếu như không có ngành in ấn thì giấy không đến nỗi quá quan trọng như ngày hôm nay. Vậy thì Ts'ai Lun và Gutenberg, ai quan trọng hơn ai? Tuy nhiên nếu xét ra cho cùng ta thấy Ts'ai Lun quan trọng hơn Gutenberg bởi vì ngoài việc dùng để viết, giấy còn dùng cho nhiều thứ khác. Ngoài ra nếu chưa có giấy, chưa chắc Gutenberg lại có ý nghĩ làm máy in. Còn như nếu chỉ một trong hai phát minh đó xảy ra, thì chắc mà người ta sẽ dùng bảng kẽm làm sẵn (block printing, đã được dùng trước phát minh của Gutenberg) để in sách trên giấy hơn là dùng bảng in chữ di động để in trên giấy da.
4) So sánh văn minh Trung quốc và Tây Âu
Hai phát minh của Ts'ai Lun và Gutenberg đúng là hai trong mười phát minh lớn nhất của lịch sử. Để nói lên sự quan trọng của giấy và ngành in, ta cần nói đến sự phát triển về văn hóa của Trung quốc và các nước phương Tây. Thế kỷ thứ hai văn minh Trung quốc tiến triển thua các nước phương Tây. Trong một ngàn năm kế tiếp kỹ thuật của Trung quốc vượt qua các nước Tây Âu và trong một khoảng 7-8 thế kỷ, văn minh Trung hoa được xem như tiêu chuẩn đối với các nước tân tiến trên thế giới. Bởi vì chắc chắn là các cuộn papyrus hơn hẳn là sách làm bằng thanh tre hay gỗ. Chính sự việc này đã chướng ngại cho sự phát triển nền văn minh Trung quốc trước khi có sự phát minh ra giấy. Thử tưởng tượng một học sinh Trung quốc thi thi phải mang lỉnh kỉnh cả một "núi" sách bằng tre. Và chính quyền muốn hoàn thành công việc hành chánh cũng không phải dễ. Bởi vậy mà sau khi phát minh ra giấy, văn minh Trung quốc tiến bộ nhanh chóng, chỉ trong năm thế kỷ đã vượt qua các nước Tây Âu . Lẽ đương nhiên sự chia rẽ các nước Tây âu cũng là nguyên do sự thua sút Trung quốc. Chính Marco Polo cũng đã xác nhận rằng ngay cả ở thế kỷ thứ 13, Trung quốc phồn thịnh hơn Âu châu nhiều. Nhưng tại sao sau đó lại thua Âu châu? Có nhiều giải nghĩa phức tạp về văn hóa nhưng có lẽ nguyên do dễ hiểu là từ thế kỷ 15, Âu Châu có thiên tài Gutenberg đã phát triển kỹ thuật in hàng loạt lớn . Từ đó văn hóa châu Âu phát triển nhanh chóng. Vì Trung quốc không có Gutenberg, vẫn còn dùng lối in bảng kẽm block printing nên văn hóa Trung quốc phát triển chậm dần.
Tới những năm 1800, giấy thủ công là hỗn hợp của cây chanvre (cây sợi), bông gòn, cây lin (vải gai) và nhiều loai cây khác. Lúc bấy giờ, Louis Robert, một người làm công cho hãng giấy vùng Essonne, miền Nam Paris, đã sáng chế ra một nhà máy giấy có thể sản xuấy giấy hàng loạt. Nhờ đó giấy trở nên rẻ và giấy dư được tích trữ thành cuộn. Với phát minh này, người ta cần đến bột cây có thớ dài hơn
Năm mươi năm sau, thớ cây được dùng thường xuyên để chế tạo giấy.
Ngành in lúc bấy giờ bắt đầu phát triển: sach và các tài liệu quan trọng được sản xuát nhanh chóng. Nhờ phương pháp in ấn hàng loạt này đã dẫn tới nhu cầu lớn về giấy.
Câu 144 : Ấn Độ: Tôn giáo (Phật giáo)?
- Có nhiều tôn giáo nhưng có 2 tôn giáo lớn:
1. Ấn Độ giáo: (Hindu)
- Balamon: Hình thành đầu niên kỷ I TCN. Đây là một tôn giáo không có người sáng lập, hình thành trên cơ sở tổng hợp của nhiều tín ngưỡng tôn giáo trước đó kinh chính là kinh Veda, những nghi lễ phức tạp dẫn đến sự ra đời tầng lớp thầy cúng. Trong gia đinh này tầng lớp tăng lữ lãng đoạn, thao túng bộ máy nhà nước về kinh tế XH, chính trị, văn hóa, tư tưởng, phong tục tập quán. Vai trò Balamon chi phối toàn bộ cuộc sống thừa nhận và tuyên truyền linh hồn bất tử tồn tại dưới dạng khác. Tuyên truyền thuyết luân hồi, luật nhân quả. Nghi lễ phức tạp, tốt kém , phát triển cực thịnh trước khi phật giáo hình thành và khi phật giáo xuất hiện thì balamon suy yếu. Những TK đầu TCN thì Balamon thay đổi cải cách phù hợp với tình hình thực tế. Thế kỷ V, VI SCN gọi là Ấn độ giáo, có những thay đổi.
Tăng lữ đưa sử thi vào kinh chính thức
Kế thừa một số yếu tố VH phật giáo
Học thuyết định mệnh
Đơn giản lễ nghi và nghĩa vụ tôn giáo
Tầng lớp Balamon tuyên bố học chỉ là tăng lữ thuần túy
Biểu tượng bò cái
2. Phật giáo:
- Tiền đề ra đời: Phật sinh 624-544 TCN
+ Chính trị - XH : Ra đời khoảng giữa niên kỷ thứ I TCN , người sáng lập là thái tử Tích Ca Đạt Ma (Phật thích ca). Đây là giai đoạn dọc 2 bờ sông Hằng, hình thành nhiều tiểu thuyết có điều kiện trình độ phát triển khác nhau, xuất hiện nhiều mâu thuẫn được giải quyết bằng chiến tranh. Chiến tranh lôi kéo người dân tham chiến làm cho họ thoát ly SX dẫn đến đời sống càng cực khổ hơn hết. Không lối thoát trông vào lối thoát khác đó là tư tưởng đức phật.
+ Xã hội: Mâu thuẫn giữa đảng cấp , chính là mâu thuẫn giai cấp bị trị (nông dân, nô lệ) và giai cấp thống trị củng cố mâu thuẫn đó là tăng lữ Balamon đối lập Katrya
+ Kinh tế: Xuất hiện những công cụ bằng sắt làm thay đổi bản chất nền sản xuất, ra đời tầng lớp thị dân.
+ Tôn giáo: Phát triển cực thịnh của Balamon với những giáo lý uyên thâm, khó hiểu. Chế độ đẳng cấp được củng cố làm cho người dân mệt mỏi, sự bốc lột của tăng lữ làm người dân oán ghét những kẻ bốc lột, chế độ đẳng cấp không còn tin tuyệt đối Balamon. Trong bối cảnh đó, ở Ấn độ xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng, tôn giáo mới với những chủ trương sống xa lánh thực tế.
Câu 145 : Chữ viết văn minh Trung hoa?
- Trước đây theo truyền thống cho rằng chữ viết trung hoa được xuất hiện dưới dạng chữ viết văn thùng (kết thùng). Sau đó, người này tạo ra chữ viết trung hoa là ông quan Thương Hiệt, trên thực tế chữ viết Trung hoa xuất hiện dưới thời nhà thương cuối TK 17 đầu TK 18.
+ Giáp cốt văn: Được hình thành do cư dân nhà thương thích xem bói . Xuất hiện 1 tầng lớp thầy bói, thầy bói lấy mai rùa để xem bói và tìm thấy trên 161 ngàn mai rùa và xương thú. Khoảng 500 ký hiệu khác và giải mã được 1700 chữ. Phương thức cấu tạo thì chữ giáp cốt là những ký tự rời rạc thường thể hiện nghĩa đơn và chưa có sự thống nhất về cách viết. Bản chất giáp cốt văn là chữ tượng hình.
+ Chung đỉnh văn: Xuất hiện dưới thời nhà Chu chiếm được nhiều đất đai, phân chia đất đai cho các nước chư hầu. sự kiện này được khắc ghi trên kim đinh đồng được gọi là kim văn, thanh văn về bản chất vẫn là chữ tượng hình, số chữ nhiều hơn và thống nhất.
+ Thời xuân thu chiến quốc: (770-221 BC), thời đông chu, thời này chữ viết không ngừng phát triển với số lượng ngày càng nhiều. Tuy nhiên giữa các nước chư hầu nhà Chu sử dụng chữ viết khác nhau. Do đó, ngay sau khi thống nhất Trung hoa thì Tần Thủy Hoàng đã giao cho Lý Tư phụ trách việc cải tiến, sửa đổi chữ viết và thống nhất Trung hoa. Tất cả các chữ viết đều được giới hạn trong một hình vuông (chữ tiểu triện)
- Sau khi nhà Tầng diệt vong và xuất hiện chữ mới “Lệ Thư”
+ Lệ thư: Khá thông dụng thời nhà Hán thực chất nó là giai đoạn trung gian trong tiểu triện và khải thư (chữ Hán) lúc đầu bảo lưu một số xét tiểu triện nhưng về sau 2 nét “Mác” và “ Nét lượng sóng”
+ Khải thư: Nhà Hán lên ngôi từ bỏ pháp gia và độc tôn nho học, khuyến khích các nhà nho cải cách chữ viết ngay ngắn,vững chắc, nét bút phẳng là chữ chuẩn quốc gia.
+ Thảo thư: xuất phát từ nhu cầu viết nhanh (viết láu). Đây là loại khó nhận ra mặt chữ.
+ Cuồng thư: Viết chữ theo phong cách riêng của người viết không theo nguyên tắc nào.
+ Hành thư: giữa chữ khải và chữ thảo nhanh đẹp.
+ Giản thể >< phồn thể
® Chữ viết trung hoa là một trong số ít chữ viết tồn tại liên tục từ cổ đại cho đến ngày nay, trãi qua hơn 3000 năm tồn tại và phát triển, chữ viết trung hoa chủ yếu thay đổi về số lượng và cách viết, về bản chất thì không thay đổi
® Một đặc điểm lớn cửa chữ viết trung hoa. Trong quá trình tồn tại đó chữ viết trung hoa đã có tầm ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác trong khu vực. trong đó có Việt Nam, nhưng dù sớm hay muộn thì các quốc gia này cũng tìm cách khỏi sự nô lệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- IN CAU HOI ON LICH SU VAN MINH THE GIOI.doc