Một số đề xuất, kiến nghị
Để bảo đảm vai trò tối thượng của
Hiến pháp trong đời sống xã hội Việt Nam,
chúng tôi cho rằng:
Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ bản
chất của Hiến pháp là bản khế ước của nhân
dân tạo lập nên cộng đồng chính trị của
mình, cùng nhau trao quyền lực cho Nhà
nước. Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng một
quy trình lập hiến thích hợp mà trong đó có
phúc quyết toàn dân;
Thứ hai, cần xây dựng một cơ chế
kiểm hiến có hiệu quả để đảm bảo sự tuân
thủ đầy đủ Hiến pháp, bảo đảm hiệu lực tối
cao của Hiến pháp;
Thứ tư, cần nghiên cứu sửa đổi Hiến
pháp, bổ sung việc ban hành một đạo luật
đặc biệt về tổ chức thi hành Hiến pháp, có
tính đến việc thiết lập một tổ chức thường
trực có thời hạn, có quyền hạn và trách
nhiệm tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp;
Thứ năm, cần luật hóa trách nhiệm
giải trình trong quản trị quốc gia
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Để hiến pháp giữ vai trò tối thượng trong đời sống xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Nói tới Hiến pháp là nói tới một tập hợp các nguyên tắc và quy tắc
cao nhất trong sinh hoạt chính trị, pháp lý của một cộng đồng chính
trị. Để Hiến pháp luôn giữ vai trò tối thượng trong đời sống xã hội,
cần thiết phải nghiên cứu hai mảng vấn đề lớn về Hiến pháp, đó
là: (i) sự tự xác định của Hiến pháp; và (ii) vấn đề thi hành Hiến
pháp đó.
Ngô Huy Cương*
* PGS.TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract
The Constitution is known as a set of the highest principles and rules
in the political and legal life of a community in the political aspect.
It is is necessary to study two broad areas of the Constitution: (i)
the self-determination of the Constitution; and (ii) the enforcement
of the Constitution so that the Constitution is to provide ultimate
authority in social activities.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tính tối thượng của Hiến
pháp, thi hành Hiến pháp, bảo hiến
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/09/2018
Biên tập : 20/09/2018
Duyệt bài : 27/09/2018
Article Infomation:
Keywords: ultimate authority
of Constitution; enforcement of
Constitution; Constitution Reviews
Article History:
Received : 12 Sep. 2018
Edited : 20 Sep. 2018
Approved : 27 Sep. 2018
ĐỂ HIẾN PHÁP GIỮ VAI TRÒ TỐI THƯỢNG
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự tự xác định của Hiến pháp
Hiến pháp không thể có vai trò tối
thượng khi bản thân nó không tự xác định
rõ ràng vai trò như vậy trong sinh hoạt chính
trị, pháp lý của đất nước. Mặc dù về mặt lý
thuyết, Hiến pháp bao gồm các nguyên tắc
và quy tắc cao nhất trong sinh hoạt chính trị,
pháp lý của một cộng đồng chính trị, nhưng
trong ý tưởng xây dựng nó, cũng như từ việc
lựa chọn mô hình xây dựng cho tới việc thiết
kế các nguyên tắc, quy tắc cụ thể trong đó có
thể có sự xê dịch xa rời khỏi lý thuyết.
Hiến pháp của các nước trên thế giới
có thể được phân chia thành các loại như
sau:
(1) Hiến pháp như một cơ cấu mềm
của chính quyền mà tại đó các chi tiết tiến
triển thông qua tập quán và sự tu sửa tiếp sau
(Hiến pháp Hoa Kỳ là một điển hình);
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 18(370) T9/2018
(2) Hiến pháp như một bộ luật nhà
nước mà tại đó quyền lực của các định chế
chính trị và mối quan hệ giữa các định chế
này với nhau được quy định với những chi
tiết được cân nhắc khá kỹ lưỡng (Hiến pháp
của các nước Tây Âu như Pháp, Đức là
điển hình);
(3) Hiến pháp như bản tuyên ngôn
cách mạng mà tại đó công bố chương trình
biến đổi xã hội sâu rộng (Hiến pháp các
nước XHCN là điển hình);
(4) Hiến pháp như những ý tưởng
cách mạng mà tại đó hình ảnh mong ước về
thế giới được tô điểm hơn là hiện thực (Hiến
pháp của nhiều nước trong thế giới thứ ba là
điển hình);
(5) Hiến pháp như nguồn gốc cổ của
quyền lực (Hiến pháp Anh và Hiến pháp
Israel là điển hình1.
Có lẽ các Hiến pháp theo loại thứ nhất
và thứ hai được xây dựng để thi hành trong
thực tiễn. Hiến pháp theo loại thứ năm đã
được thi hành trong thực tiễn lịch sử và được
kế tục ở hiện tại và tương lai. Còn các Hiến
pháp theo loại thứ ba và thứ tư rất giàu chất
thơ, mang đầy tính dự báo hay mong ước về
một xã hội trong tương lai, do đó khó có thể
đưa vào thực tiễn một cách phù hợp.
Thông thường Hiến pháp có chức
năng phân bổ trách nhiệm pháp lý, xác
định các giới hạn của chính quyền và thiết
1 Rod Hague, Martin Harrop and Shaun Breslin (1993), Political Science – A Comparative Introduction, St. Martin’s
Press, New York, p. 262.
2 Ronald I. Cheffins, Patricia A. Johnson, The Revised Canadian Constitution – Politics as Law, McGraw-Hill Ryerson
Limited, Toronto, Montreal, New York, Auckland, Bogota, Cairo, Guatemala, Hamburg, Lisbon, London, Madrid,
Mexico, New Delhi, Panama, Paris, San Juan, Sao Paulo, Singapore, Sydney, Tokio, 1986, p. 3.
3 David Beatty, Constitutional Law in Theory and Practice, University of Toronto Press, Toronto, Buffalo, London, 1995, p. 3.
4 Ronald I. Cheffins, Patricia A. Johnson, The Revised Canadian Constitution – Politics as Law, McGraw-Hill Ryerson
Limited, Toronto, Montreal, New York, Auckland, Bogota, Cairo, Guatemala, Hamburg, Lisbon, London, Madrid,
Mexico, New Delhi, Panama, Paris, San Juan, Sao Paulo, Singapore, Sydney, Tokio, 1986, p. 3.
5 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp của nước tư bản, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001,
tr. 12 có nói tới thuật ngữ Hiến pháp xã hội.
lập các quy trình mà chính quyền nhất thiết
phải theo trước khi có thể được thực hiện
các chức năng của mình2. Nói cách khác,
các Hiến pháp được hiểu một cách phổ biến
là tất cả chúng nói về chính quyền, những
định chế nào bao gồm trong đó, các định
chế đó được tổ chức như thế nào, và quyền
lực gì chúng sử dụng3. Do đó, Hiến pháp có
ba nhiệm vụ chủ yếu: thứ nhất, quy định về
việc tạo lập các tổ chức nền tảng và các định
chế công quyền; thứ hai, xác định quyền
lực được nắm giữ bởi mỗi định chế công
và, trong một vài lĩnh vực, xác định các mối
quan hệ giữa các định chế công với nhau;
thứ ba, quy định quy trình mà luật được làm
ra, và đồng thời quy định các giới hạn đối
với các quyền lực được thực thi bởi nhân
viên của các định chế công4. Tuy nhiên, Hiến
pháp của các nước XHCN thường được xem
là Hiến pháp xã hội mà tại đó các vấn đề
tương lai của một nền kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường được quy định. Các bản Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp
năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của Việt
Nam thuộc phân loại thứ ba, rất gần gũi với
một bản tuyên ngôn cách mạng mà ở Việt
Nam có nhiều người gọi là “Hiến pháp xã
hội”5. Hiến pháp xã hội có những nguyên
tắc, quy tắc rất khó có thể thực hiện tại nhiều
thời điểm cụ thể, mang bóng dáng của những
định hướng thực hiện trong những thời điểm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 18(370) T9/2018
hội đủ các điều kiện nhất định. Chẳng hạn
khoản 1 Điều 58 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân
dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có
chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền
núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn”.
Việc tự gây khó khăn cho thi hành của
Hiến pháp trong thực tiễn ắt hẳn dẫn tới việc
thực tiễn sẽ phải tìm một lối đi riêng của nó.
Một khi thực tiễn phần nào đó có một lối đi
riêng thì chắc hẳn tính tối thượng của Hiến
pháp không thể không bị ảnh hưởng. Do đó
việc lựa chọn loại Hiến pháp để xây dựng là
một yếu tố quan trọng trong sự tự xác định
tính tối thượng của Hiến pháp.
Khi nói tới Hiến pháp là nói tới mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Trong
khi Nhà nước có chủ quyền và áp đặt sự cai
trị của mình lên toàn bộ dân chúng trong
một cộng đồng chính trị nhất định, thì Hiến
pháp mang bản chất giới hạn quyền lực của
chính quyền (Nhà nước). Do vậy, nói tới
tính tối thượng của Hiến pháp là nói tới sự
lệ thuộc của chính quyền vào Hiến pháp hay
nói tới mối quan hệ giữa Hiến pháp và chính
quyền theo một nghĩa nào đó. Tuy nhiên,
sự lệ thuộc của chính quyền vào Hiến pháp
chưa đủ để Hiến pháp giữ vai trò tối thượng
bởi nó có thể không bao quát được toàn bộ
xã hội mà chỉ có thể chi phối khu vực công.
Nếu quyền lực công không tác động được
6 Joseph L. Klesner, Comparative Politics - An Introduction, McGraw- Hill Education, USA, 2014, p. 65.
7 Rod Hague, Martin Harrop, Shaun Breslin, Political Science - A Comparative Introduction, St. Martin’s Press, New
York, 1992, pp. 16 - 17.
8 Nguyên văn: “authority is power ckoaked in legitimacy or rightfulness”. Andrew Heywood, Key Concepts in Politics,
St. Martin’s Press LLC, New York, USA, 2000, p. 15.
9 Joseph L. Klesner, Comparative Politics – An Introduction, McGraw- Hill Education, USA, 2014, p. 47.
10 Andrew Heywood, Key Concepts in Politics, St. Martin’s Press LLC, New York, USA, 2000, p. 29.
tới xã hội như mong muốn hay theo định
hướng có sẵn thì ắt hẳn chính quyền phải
tìm con đường riêng để thi hành quyền lực
của nó. Hệ quả không thể khác hơn là vai trò
của Hiến pháp bị sụt giảm.
Các nhà chính trị học và các luật gia
đều quan niệm tính chính đáng hay tính hợp
pháp (legitimacy) là yếu tố trung tâm của
mối quan hệ giữa chính quyền và dân chúng6.
Sức mạnh cưỡng chế (coercive power) được
xem là một hình thức cai trị kém hiệu quả
hơn so với quyền uy (authority). Và quyền
uy chỉ tồn tại khi người bị trị ý thức được
quyền ra mệnh lệnh của người cai trị, chấp
nhận quyền này cùng với nghĩa vụ tuân thủ
mệnh lệnh đó7. Rõ ràng quyền uy trong
trường hợp này chỉ có được khi sự cai trị là
hợp pháp hay chính đáng. Vì vậy, quyền uy
được quan niệm là quyền lực được bao trùm
bởi tính chính đáng hay tính hợp pháp8. Cho
tới nay người ta khẳng định quản trị được
xây dựng trên tính hợp pháp hay tính chính
đáng có thể ổn định và bền vững hơn được
xây dựng trên sự ép buộc đơn thuần9.
Legistimacy (tính chính đáng hay tính
hợp pháp) là một thuật ngữ chính trị học
có nguồn gốc Latin (legitimare) với nghĩa
là tuyên bố tính hợp pháp và nay có nghĩa
tổng quát là tính hợp pháp10. Max Weber
cho rằng, tính chính đáng hay tính hợp pháp
ngụ ý về việc Nhà nước có quyền sử dụng
bạo lực hoặc ủy quyền cho người khác sử
dụng nó, và tính chính đáng hay tính hợp
pháp chính trị có được từ lòng tin của những
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 18(370) T9/2018
người bị cai trị11. Ông đã căn cứ vào nguồn
gốc của tính hợp pháp và tính chính đáng để
chia quyền uy thành ba loại: (1) quyền uy
truyền thống (traditional authority) có nguồn
gốc từ lịch sử và tập quán; (2) quyền uy có
uy tín (charismatic authority) có nguồn gốc
từ quyền lực nhân cách; và (3) quyền uy do
lẽ phải hợp pháp (legal - rational authority)
có nguồn gốc từ một khuôn khổ các quy
tắc pháp lý trang trọng12. Từ đó có thể thấy,
quyền uy tại các nước có nền cộng hòa có
được từ Hiến pháp - một khuôn khổ các
nguyên tắc và các quy tắc được tạo lập ra
một cách trang trọng.
Vì vậy quan niệm về Hiến pháp và
quy trình xây dựng Hiến pháp là hai yếu tố
quan trọng trong các yếu tố cần có để cấp
tính hợp pháp hay tính chính đáng cho chính
quyền. Trước hết, Hiến pháp phải được xem
là một văn bản thống nhất ý chí của toàn
dân trao quyền lực cho chính quyền, ban
tính hợp pháp hay tính chính đáng cho chính
quyền. Từ đó, quyền lập hiến phải là quyền
của nhân dân và phải được thể hiện qua quy
trình lập hiến.
Bàn về cách viết một bản Hiến pháp,
David Beatty cho rằng: “nếu một Hiến pháp
được thiết kế theo cách rất cụ thể, dành ít chỗ
cho việc giải thích - nếu nó được viết theo
kiểu quy chế của một thành phố hoặc một
đạo luật về thuế thu nhập - thì nó không thể
cung cấp cho Nhà nước sự ổn định và tính
chính đáng về đạo đức mà nó cần tới”13. Chỉ
dẫn này cho thấy, Hiến pháp cần phải được
thi hành và cách thức thi hành như thế nào.
Bởi Hiến pháp là đạo luật gốc, phải tồn tại
11 Xem Joseph L. Klesner, Comparative Politics – An Introduction, McGraw- Hill Education, USA, 2014, p. 46 - 47.
12 Xem Andrew Heywood, Key Concepts in Politics, St. Martin’s Press LLC, New York, USA, 2000, p. 29.
13 David Beatty, Constitutional Law in Theory and Practice, University of Toronto Press, Toronto, Buffalo, London, 1995, p. 8.
14 Xem Rod Hague, Martin Harrop, Shaun Breslin, Political Science – A Comparative Introduction, St. Martin’s Press,
New York, 1992, p. 282.
lâu dài hơn các đạo luật khác trong khi đời
sống xã hội luôn luôn biến động, cho nên để
thi hành, Hiến pháp phải dành nhiều chỗ cho
sự giải thích và phải được giải thích phù hợp
với hoàn cảnh của xã hội đương thời nhằm
bảo đảm cho tính chính đáng và sự ổn định
của chính quyền. Vì thế Hughes (Chánh án
Tòa án Tối cao của Hoa Kỳ) đã lưu ý rằng:
“Chúng ta sống dưới Hiến pháp. Nhưng
Hiến pháp là những gì mà các thẩm phán
nói về nó”14. Qua đó có thể thấy, cơ chế kiểm
hiến có một ý nghĩa quan trọng không chỉ
thể hiện Hiến pháp là một đạo luật, mà còn
bảo đảm cho sự thi hành và tính tối thượng
của Hiến pháp. Khi Hiến pháp không được
kiểm soát việc thi hành hoặc không được thi
hành thì xem như Hiến pháp đó không có
vai trò tối thượng trong đời sống xã hội.
Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam
chưa tạo lập ra một cơ chế bảo hiến có hiệu
quả thực. Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Mọi hành vi vi phạm Hiến
pháp đều bị xử lý” và giao trách nhiệm bảo vệ
Hiến pháp như sau: “Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ
quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân
dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”
(khoản 2 Điều 119).
Thế nhưng trên thực tế, cho tới nay
chúng ta vẫn chưa xây dựng được cơ chế
bảo vệ Hiến pháp một cách hữu hiệu. Đây
là một vấn đề cần sớm được nghiên cứu, bổ
sung hoàn thiện trong thời gian tới.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 18(370) T9/2018
2. Vấn đề thi hành Hiến pháp
Hiến pháp dù tự xác định vai trò tối
thượng của mình nhưng chỉ trở nên tối
thượng thật sự khi được thi hành đúng và
đầy đủ, có nghĩa là sự tự xác định của Hiến
pháp là điều kiện cần, và vấn đề thi hành
Hiến pháp đó là điều kiện đủ.
Thông thường sau khi Hiến pháp được
thông qua, cộng đồng chính trị phải tổ chức
thi hành Hiến pháp đó. Việc tổ chức thi hành
này phải được xét tới ít nhất mấy vấn đề sau:
(1) căn cứ triển khai việc thi hành; (2) cơ chế
thi hành; (3) những biện pháp chủ yếu bảo
đảm thi hành; và (4) chế tài liên quan tới các
vi phạm trong việc tổ chức thi hành.
Cùng ngày thông qua Hiến pháp năm
2013, ngày 28/11/2013, Quốc hội Việt Nam
đã ra Nghị quyết số 64/2013/QH 13 quy
định một số điểm thi hành Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nội dung Nghị
quyết này còn có một số bất cập sau:
Thứ nhất, Nghị quyết chưa đề cập đầy
đủ các vấn đề cần thiết trong việc tổ chức
triển khai thi hành Hiến pháp mặc dù thời
gian soạn thảo và thông qua Hiến pháp
khá dài;
Thứ hai, Nghị quyết không quy định
cơ quan đầu mối tổ chức triển khai thi hành
Hiến pháp tập trung mà dàn đều cho các cơ
quan trong tổ chức triển khai thi hành Hiến
pháp (Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán
nhà nước và các cơ quan hữu quan khác),
trong khi các cơ quan này đều là các cơ quan
phải thi hành Hiến pháp;
Thứ ba, Nghị quyết không đề cập tới
Quốc hội, trong khi Quốc hội là một định
chế chính trị quan trọng phải thi hành Hiến
pháp trong toàn bộ các hoạt động của mình;
Thứ tư, Nghị quyết không đưa ra được
bất kỳ biện pháp chủ yếu nào bảo đảm thi
hành Hiến pháp và bất kỳ chế tài nào liên
quan tới vi phạm việc tổ chức triển khai thi
hành Hiến pháp.
Có thể nói rằng, Nghị quyết số
64/2013/QH 2013 quy định về cơ chế tự tổ
chức thi hành Hiến pháp tại mỗi thiết chế
nhà nước mà chưa làm rõ mối quan hệ giữa
chúng.
Kinh nghiệm của các nước trên thế
giới cho thấy, khi thông qua Hiến pháp mới,
các nước thường ban hành kèm theo một
đạo luật Hiến pháp (có hiệu lực tương tự
Hiến pháp) để tổ chức triển khai thi hành
Hiến pháp đó. Năm 2006 Cộng hòa Serbia
đã ban hành một đạo luật mang tên “Luật
Hiến pháp về việc thi hành Hiến pháp của
Cộng hòa Serbia” (The Constitutional Law
on Implementation of the Constitution of the
Republic of Serbia). Điều 1 Luật này quy
định: “Hiến pháp Cộng hòa Serbia (sau đây
gọi là Hiến pháp) được áp dụng kể từ ngày
được công bố bởi Quốc hội, trừ khi được
quy định khác trong Luật này đối với việc
áp dụng các quy định cụ thể trong đó”. Điều
luật này cho thấy: (1) Hiến pháp không phải
là văn bản duy nhất có hiệu lực pháp lý cao
nhất; (2) các điều khoản của Hiến pháp được
áp dụng trực tiếp trong đời sống xã hội; (3)
hiệu lực về thời gian của Hiến pháp được
quy định rõ ràng và có những ngoại lệ cũng
được xác định cụ thể; và (4) vai trò quan
trọng của đạo luật Hiến pháp là tổ chức
triển khai thi hành Hiến pháp. Vai trò của
đạo luật Hiến pháp này còn được thể hiện
trong quy định của Điều 2 Luật này như
sau: “Các cơ quan, tổ chức và thực thể cộng
hòa phải tiếp tục công việc của mình cho tới
khi được thành lập hoặc được bầu phù hợp
với Hiến pháp hoặc được quy định khác bởi
Luật này”.
Năm 2010, Kenya công bố Hiến
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 18(370) T9/2018
pháp mới, đồng thời ban hành một đạo
luật mang tên “Luật về Ủy hội thi hành
Hiến pháp, 2010” (the Commission for the
Implementation of the Constitution Act,
2010). Thực chất đạo luật này thiết lập cơ
chế thi hành Hiến pháp năm 2010. Điều 4
của Luật này quy định như sau:
“Các chức năng của Ủy hội là:
(a) kiểm tra, tạo điều kiện dễ dàng,
và giám sát sự phát triển của xây dựng luật
và các thủ tục hành chính được yêu cầu thi
hành Hiến pháp;
(b) hợp tác với Tổng trưởng công tố và
Ủy hội cải cách pháp luật Kenya chuẩn bị đệ
trình Nghị viện vấn đề xây dựng luật được
yêu cầu thi hành Hiến pháp;
(c) tiến hành công việc cùng mỗi Ủy
hội hiến pháp để bảo đảm rằng câu chữ và
tinh thần của Hiến pháp được tôn trọng;
(d) báo cáo Ủy ban đặc biệt của Nghị
viện ba tháng một lần về -
(i) tiến trình thi hành Hiến pháp; và
(ii) bất kỳ trở ngại nào đối với việc thi
hành Hiến pháp;
(e) thực hiện các chức năng khác như
vậy được quy định bởi Hiến pháp hoặc bất
kỳ luật thành văn nào”.
Khi một Hiến pháp mới được ban hành
là bắt đầu của một quá trình phi hiến hóa các
định chế chính trị cũ liên quan và các đạo
luật hiện hành để tạo ra các định chế chính
trị mới và làm các đạo luật mới phù hợp với
Hiến pháp mới, hay làm hài hòa hóa một số
đạo luật với Hiến pháp mới. Vì vậy, quá trình
này và sự đòi hỏi việc thi hành Hiến pháp
nghiêm chỉnh, thường xuyên trong tương lai
phải cần tới các biện pháp bảo đảm thi hành
Hiến pháp. Có thể có bốn biện pháp chủ yếu
sau cần lưu ý: (1) biện pháp dân chủ trực
tiếp; (2) biện pháp cấp quyền lực cần thiết
cho cơ quan tổ chức triển khai thi hành Hiến
pháp mới; (3) biện pháp kiểm hiến; và (4)
nâng cao trách nhiệm giải trình.
Thông thường nhân dân (nguồn gốc
của quyền lực) thông qua Hiến pháp trao
quyền lực cho chính quyền, nhưng vẫn
giữ lại quyền quyết trực tiếp một số vấn đề
trọng yếu nhất của cộng đồng thông qua cơ
chế trưng cầu dân ý hay phúc quyết toàn
dân. Hiến pháp năm 2013 cũng có đề cập
tới trưng cầu dân ý tại khoản 15 Điều 70,
khoản 13 Điều 74, khoản 4 Điều 120. Tuy
nhiên, quyền quyết định trực tiếp này hoàn
toàn phụ thuộc vào Quốc hội và việc tổ chức
của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Việc quyết
định trực tiếp này có ý nghĩa vô cùng to lớn
trong việc bảo đảm thi hành Hiến pháp đối
với những vấn đề trọng yếu của đất nước.
Khi có một định chế tổ chức triển khai
thi hành Hiến pháp mới thì việc cấp quyền
lực cho tổ chức đó là một biện pháp bảo đảm
thi hành Hiến pháp không thể thiếu. Điều 5
Luật về Ủy hội thi hành Hiến pháp, 2010
của Kenya quy định như sau:
“(1) Ủy hội phải có tất cả quyền lực
tổng quát cần thiết cho việc thi hành các
chức năng của Ủy hội theo Hiến pháp và đạo
luật này.
(2) Ít nhất năm thành viên của Ủy hội,
bao gồm Chủ tịch, làm việc thường trực toàn
thời gian”.
Việc định ra một tổ chức triển khai thi
hành và có quyền lực thực để thi hành Hiến
pháp mới là rất quan trọng gắn liền với Hiến
pháp. Nghị quyết số 64/2013/QH 2013 giao
việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013
cho từng thiết chế nhà nước mà chính các
thiết chế này đang bị phi hiến hóa và phải
thi hành Hiến pháp khi được tổ chức lại hay
được làm hài hòa hóa lại với Hiến pháp. Ở
đây, câu hỏi về tính hợp lý của Nghị quyết
này chưa có câu trả lời.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 18(370) T9/2018
Biện pháp kiểm hiến thực sự chưa
được chú ý trong Hiến pháp năm 2013 trong
khi đây là một vấn đề trọng yếu của việc thi
hành Hiến pháp. Hầu hết việc kiểm tra thi
hành Hiến pháp năm 2013 được Hiến pháp
giao cho các thiết chế nhà nước phải thi hành
Hiến pháp, tiêu biểu là khoản 10 Điều 70 giao
cho Quốc hội quyền bãi bỏ các văn bản của
các định chế chính trị khác.
Hiện nay, trong quản trị quốc gia,
người ta chú ý tới trách nhiệm giải trình.
Trách nhiệm giải trình được hiểu là những
thủ tục yêu cầu những người có trách nhiệm
và những người tìm kiếm sự ảnh hưởng tới
họ phải tuân theo những quy tắc được thiết
lập xác định những quy trình và những kết
quả có thể chấp nhận được, và thể hiện rằng
họ đã tuân theo những thủ tục đó15. Thực tế
trách nhiệm giải trình đã được thực hành ở
nhiều nước trên thế giới và đã phát huy tác
dụng tốt. Có một nhận xét rằng: trách nhiệm
giải trình là trung tâm của lý thuyết và thực
tiễn của cả dân chủ và quản trị tốt hơn (better
governance) mà đã thúc đẩy một cách rõ ràng
sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm hòa
bình, ổn định lâu dài cũng như nền dân chủ ở
châu Phi16. Trách nhiệm giải trình làm giảm
tới mức có thể sự lạm dụng quyền lực chính
trị, đồng thời giúp việc trao quyền lực cho
chính quyền phục vụ mục đích mà đòi hỏi
một cách chính đáng hay hợp pháp chính
quyền được bầu bằng con đường dân chủ
phải theo đuổi17. Hiện nay, trách nhiệm giải
trình có được nhắc đến tại Việt Nam trong các
vấn đề liên quan tới quản lý nhà nước. Tuy
nhiên, nó chưa được xem là một biện pháp
15 Michael Johnston, Good Governance: Rule of Law, Transparency, and Accountability, Colgate University, [
pan1.un.org/intradoc/groups/public/documents/un/unpan010193.pdf], p. 2.
16 Peter Burnell, The Relationship of Accountable Governance and Constitutional Implementation, with Reference to
Africa, University of Warwick, England, [], p. 1.
17 Economic Commission for Africa, African Governance Report 2005 (Addis Ababa: ECA).
bảo đảm thi hành Hiến pháp.
Nghị quyết số 64/2013/QH 2013
không bao hàm quy định về chế tài đối với
các vi phạm trong tổ chức triển khai thi hành
Hiến pháp. Những vi phạm này có nhiều loại
khác nhau như: thi hành không đúng, không
đầy đủ những yêu cầu của Hiến pháp; không
thi hành; chậm thi hành... Thực tế vi phạm
ở dạng không hành động là khá nhiều. Vấn
đề được đặt ra là cơ chế nào và chế tài nào
sẽ được áp dụng trong những trường hợp vi
phạm như vậy.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Để bảo đảm vai trò tối thượng của
Hiến pháp trong đời sống xã hội Việt Nam,
chúng tôi cho rằng:
Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ bản
chất của Hiến pháp là bản khế ước của nhân
dân tạo lập nên cộng đồng chính trị của
mình, cùng nhau trao quyền lực cho Nhà
nước. Do vậy, cần nghiên cứu xây dựng một
quy trình lập hiến thích hợp mà trong đó có
phúc quyết toàn dân;
Thứ hai, cần xây dựng một cơ chế
kiểm hiến có hiệu quả để đảm bảo sự tuân
thủ đầy đủ Hiến pháp, bảo đảm hiệu lực tối
cao của Hiến pháp;
Thứ tư, cần nghiên cứu sửa đổi Hiến
pháp, bổ sung việc ban hành một đạo luật
đặc biệt về tổ chức thi hành Hiến pháp, có
tính đến việc thiết lập một tổ chức thường
trực có thời hạn, có quyền hạn và trách
nhiệm tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp;
Thứ năm, cần luật hóa trách nhiệm
giải trình trong quản trị quốc gia■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 18(370) T9/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_hien_phap_giu_vai_tro_toi_thuong_trong_doi_song_xa_hoi.pdf