Tự do hoá thương mại và tự do hoá đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau. Thông thường, việc tự do hoá di chuyển về hàng hoá giữa các nước diễn ra trước rồi đến việc tự do hoá sự di chuyển của các nhân tố sản xuất như vốn lao động, công nghệ. Quá trình này cũng đang được định hình dần trong ASEAN. Việt Nam, với tư cách là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang chuẩn bị tham gia vào Khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Mục tiêu cuối cùng của quá trình này là tạo ra cho Việt Nam các ngành công nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các nươc ASEAN khác. điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tự do hoá thương mại với chính sách tự do hoá đầu tư.
87 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài AIA - Khu vực đầu tư ASEAN - cơ hội cho các quốc gia Đông Nam Á phát triển hoạt động đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên thế giới với tổng mức GDP toàn Khu vực là 737 tỷ USD trong đó mức thu nhập bình quân đầu người phân bổ khá đa dạng giữa các nước thành viên, từ những nước có mức thu nhập tương đối cao như Singapore (22026 USD), Brunây (15376 USD), Malaysia (3680 USD) đến những nước có mức thu nhập trung bình và tương đối thấp như Việt Nam, Lào, Campuchia (Việt Nam là 376 USD). Điều này hứa hẹn một thị trường có dung lượng lớn và cơ cấu tương đối đa dạng và đầy tiềm năng cho các thương nhân nước ngoài vào đầu tư và khai thác tại thị trường các nước Đông Nam á.
Hơn nữa cơ cấu dân số của hầu hết các nước ASEAN là cơ cấu dân số trẻ với trên 50% số dân trong độ tuổi lao động. Con số này cho thấy khu vực có một lực lượng lao động hùng hậu đủ đáp ứng yêu cầu của các nhà sản xuất đầu tư vào các ngành đòi hỏi nhiều lao động. Thêm vào đó, người lao động Đông Nam á mang trong mình truyền thống của một nền văn minh lúa nước với đặc tính cần cù, thông minh, sáng tạo và đó cũng là lý do tại sao chất lượng lao động ở các quốc gia này luôn được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao và không phải ngẫu nhiên mà các công ty hàng đầu của Mỹ, Nhật Bản và EU quyết định chuyển toàn bộ hệ thống lắp ráp ô tô, sản xuất máy vi tính, các con chip điện tử cũng như các ngành dịch vụ phục vụ cho lĩnh vực tin học sang các nước Singapore, Malaysia, Philippines, Thái Lan...
2. Tài nguyên thiên nhiên
Trải dài trên diện tích hơn 4,5 triệu km2 và nằm trọn trong khu vực Đông Nam á, các quốc gia ASEAN đã được thế giới từ lâu biết đến như là một trong những kho nguyên liệu và hương liệu thô lớn nhất. Trong những nguyên liệu ấy phải kể đến dầu mỏ vốn là sản phẩm luôn đứng trong danh sách 10 sản phẩm được xuất khẩu và đầu tư hàng đầu của Khu vực, đặc biệt là đối với Indonesia, Việt Nam; phải kể đến diện tích rừng phong phú của Lào tạo nên nhiều loại gỗ quý cũng như những sản phẩm từ gỗ đa dạng.
Đặc điểm địa hình bao gồm nhiều đảo và bán đảo được biển bao bọc cùng với vị trí cửa ngõ giao dịch và thông thương với nhiều nước và khu vực kinh tế năng động của thế giới như Trung Quốc, Nhật Bản , khu vực Đông Bắc á đã tạo nên một lợi thế tự nhiên cho một số nước ASEAN trong đó phải nhắc đến Singapore với hệ thống cảng biển hàng đầu thế giới đem lại một nguồn thu nhập không nhỏ cho quốc đảo này.
Có thể nói thiên nhiên đã khá ưu đãi Khu vực Đông Nam á khi đem lại cho các quốc gia này những lợi thế về nguồn nguyên liệu, về vị trí địa lý làm nên một ASEAN hấp dẫn trong con mắt các nhà đầu tư.
3. Lợi thế do sự khác biệt về trình độ phát triển
Giữa các quốc gia ASEAN có sự chênh lệch tương đối về trình độ phát triển kinh tế, trong khi nhóm các quốc gia sáng lập (bao gồm Brunây, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) có trình độ phát triển tương đối cao với mức thu nhập bình quân đầu người đạt trên 1000 USD thì nhóm các quốc gia thành viên mới (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar) lại có trình độ phát triển chậm hơn. Sự chênh lệch này, chính bản thân nó lại tạo nên một lợi thế bất ngờ cho sự vận động dòng vốn FDI trong khu vực.
Thứ nhất, các nhà đầu tư thuộc nhóm nước ASEAN 6 có thể dễ dàng tìm thấy lợi ích đầu tư ngay trong nội bộ các nước thành viên mới. Đó là lợi ích của các quốc gia có dung lượng thị trường lớn (Việt Nam có số dân trên 78 triệu người), có nguồn tài nguyên phong phú, dồi dào, chi phí lao động rẻ, môi trường đầu tư thông thoáng đặc biệt khuyến khích các nước thành viên trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á và trên hết là bởi vì các quốc gia này có những đặc điểm tương đồng và gần gũi nhau. Hơn nữa, mở rộng đầu tư vào nhóm 4 nước thành viên mới, các nước như Brunây, Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore và Thái Lan cùng một lúc đã đạt được 3 mục tiêu: (i) Tìm được địa điểm đầu tư có hiệu quả tạo ra dòng lợi nhuận cho đồng vốn bỏ ra đầu tư; (ii) Thiết lập được mạng lưới cơ sở để từng bước chuyển giao công nghệ; (iii) Tạo dựng được mối liên kết chặt chẽ trong Khu vực, xây dựng hình ảnh một Đông Nam á thống nhất và hợp tác trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, khác biệt về trình độ phát triển giữa các quốc gia sẽ là yếu tố được các nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi đưa ra quyết định đầu tư sản xuất các sản phẩm đòi hỏi sự liên kết của nhiều công đoạn với những trình độ kỹ thuật khác nhau, từ giai đoạn chế biến thô với yếu tố nguyên liệu và chi phí lao động rẻ được đánh giá cao đến giai đoạn chế biến tinh với yếu tố trình độ tay nghề người lao động, trình độ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng được cân nhắc. Thêm vào đó, đầu tư vào cùng một khu vực có trình độ phát triển đa dạng sẽ đem lại sự tự tin cho nhà sản xuất khi sản phẩm ra đời không những đáp ứng được yêu cầu về mặt chất lượng mà cả về mặt giá thành sản xuất.
Trình độ phát triển kinh tế khác nhau giữa các quốc gia thành viên ASEAN, do vậy có thể nói là một lợi thế chứ không phải là một hạn chế trong quá trình thu hút và mở rộng đầu tư trực tiếp của khu vực.
4. Hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư thông thoáng và cởi mở
Từ trước đến nay, các nước ASEAN vẫn được biết đến như là những quốc gia có hệ thống chính sách thông thoáng khuyến khích phát triển hoạt động đầu tư, đặc biệt là sau cơn khủng hoảng tài chính năm 1997, lợi thế đó càng được chính phủ các quốc gia Đông Nam á phát huy hơn nữa nhằm từng bước lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài về một khu vực ASEAN hấp dẫn trong hoạt động thương mại và đầu tư.
Brunây đã cho phép thành lập loại hình công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động trong các ngành công nghệ cao và các ngành hướng ra xuất khẩu. Bên cạnh việc cho phép các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp dưới hình thức 100% vốn nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực chế biến, mới đây Indonesia đã mở rộng hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cho cả lĩnh vực bán buôn và bán lẻ thương mại, Indonesia cũng đã giảm thời gian cấp giấy phép cho dự án đầu tư dưới 100 triệu USD xuống còn 10 ngày. Nước này còn đưa ra một danh sách các ngân hàng cho phép các nhà đầu tư tham gia sở hữu vốn dưới hình thức ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Lào cũng đã miễn thuế nhập khẩu vốn cho các dự án đòi hỏi tăng vốn.
Malaysia đưa ra hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cho các ngành chế biến trong đó nước này sẽ không đưa ra điều kiện xuất khẩu đối với dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng hay đầu tư để đa dạng hoá sản xuất. ở mức độ hạn chế, nhà đầu tư nước ngoài cũng có thể sở hữu đất ở Malaysia. Myanmar đã gia hạn miễn thuế công ty tối thiểu 3 năm cho các dự án trong tất cả các lĩnh vực. Ngoài ra, Myanmar còn gia hạn thời gian miễn thuế ân huệ đối với nguyên liệu thô nhập khẩu cho tất cả các dự án dự án đầu tư trong 3 năm đầu hoạt động. Philipppines đã mở cửa khu vực phân phối và bán lẻ cho các nhà đầu tư nước ngoài và cho phép các công ty nước ngoài có thể vào cạnh tranh với các công ty tư nhân trong nước trong lĩnh vực xây dựng.
Singapore đã giảm đáng kể chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư, ước tính gần 10 tỷ USD, khi gia hạn mức thuế ưu đãi 30% thuế công ty cho các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ. Chính sách này đã khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực chế biến, các ngành dịch vụ kỹ thuật cao và công nghệ, các ngành dịch vụ liên quan đến lĩnh vực máy vi tính. Thái Lan cho phép hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với các dự án chế biến không phân biệt xuất xứ. Thêm vào đó, các dự án nông nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu 80% sẽ được miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ dự án không phân biệt xuất xứ của máy móc đó.
Việt Nam miễn thuế nhập khẩu vốn cho mọi dự án, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô cho sản xuất nhằm khuyến khích đầu tư, đồng thời miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu hoạt động cho các dự án ở vùng sâu vùng xa. Thời gian cấp giấy phép của một số loại hình dự án cũng đã giảm xuống còn 15 ngày kể từ ngày tiếp nhận đơn xin cấp giấy phép. Việc cấp giấy phép cho các dự án dưới 5 triệu USD sẽ do các cơ quan cấp giấy phép cấp tỉnh và thành phố nơi có dự án thực hiện.
Bên cạnh một loạt các chính sách trên, các nước thành viên ASEAN còn nỗ lực hợp tác để từng bước hiện thực hoá một khu vực đầu tư thống nhất ASEAN vào năm 2003. Hợp tác khu vực sẽ tạo nên một nền sản xuất có chi phí sản xuất hợp lý và hiệu quả trong khu vực, tạo điều kiện cho các công ty ASEAN có điều kiện cạnh tranh và cùng phát triển hơn nữa trên cả thị trường thế giới và thị trường khu vực.
5. Sự hội nhập trong khu vực ngày càng sâu rộng
Mục đích ban đầu của việc thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á- ASEAN- là liên kết với nhau cùng phát triển kinh tế và văn hoá, xây dựng Đông nam á trở thành một khu vực hoà bình, ổn định, một cộng đồng phát triển thịnh vượng và cho đến nay tôn chỉ ấy vẫn được các nước duy trì, thể hiện trong mối quan hệ ngày càng gần gũi và mật thiết giữa các nước thành viên trên cả lĩnh vực chính trị, văn hoá, thương mại.
Trong thương mại, ý tưởng thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, AFTA, được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 tại Singapore năm 1992 dần trở thành hiện thực khi các quốc gia thành viên đang nỗ lực thực hiên hiệp định ưu dãi thuế quan có hiệu lực chung- CEPT- linh hồn của AFTA mà nội dung chính là thông qua việc từng bước cắt giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% và đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Cụ thể, 6 nước thành viên cũ đã đưa 85% số dòng thuế xuống mức 0-5% vào năm 2000 và tiến tới đưa 100% số dòng thuế xuống mức 0-5% trong năm 2002. Các nước thành viên mới sẽ tối đa hoá dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003 (đối với Việt Nam) và 2005 (đối với Lào và Myanmar) và tối đa hoá số dòng thuế có thuế suất 0% vào các năm 2006 và 2008 tương ứng.
Trong lĩnh vực hải quan, các quốc gia cùng nhau thống nhất thành lập một mẫu tờ khai hải quan chung cho các sản phẩm có xuất xứ từ các nước thành viên nhằm đơn giản hoá thủ tục hải quan trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia trong khối ASEAN.
Trong lĩnh vực công nghiệp, các quốc gia ASEAN đã ký kết với nhau Hiệp định về hợp tác phát triển công nghiệp, AICO, tại Singapore tháng 4/1996. Theo Hiệp định, một thể chế hợp tác mới với trọng tâm là dành ưu đãi thuế quan thấp bằng mức quy định trong Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT được thiết lập. Nghĩa là, một công ty bất kỳ trong ASEAN muốn liên kết chế tạo sản phẩm công nghiệp với nhau nếu có được đầy đủ điều kiện như quy định thì sẽ được hưởng mức thuế suất thấp 0-5% đối với tất cả các sản phẩm đầu ra hoàn chỉnh và bán hoàn chỉnh.
Trên lĩnh vực đầu tư, năm 1998 các nước thành viên đã cùng nhau đặt bút ký Hiệp định khung về việc thành lập một khu vực đầu tư chung giữa các nước ASEAN với mục đích là thu hút và mở rộng hơn nữa dòng vốn FDI vào Khu vực cũng như trong nội bộ Khu vực. Theo Hiệp định, năm 2010 các quốc gia thành viên sẽ mở cửa tất cả các ngành cho các nhà đầu tư ASEAN và năm 2020 là cho các nhà đầu tư ngoài ASEAN. Tuy nhiên, nhằm thu hút hơn nữa dòng FDI vào ASEAN, Hội nghị lần thứ 14 của Hội đồng AIA ngày 12/09/2001 tại Hà Nội đã quyết định áp dụng tất cả những cơ chế ưu đãi của AIA cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào các lĩnh vực chế biến công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng vào năm 2010 đối với các nước thành viên cũ và 2015 đối với các nước thành viên mới. Điều này cũng có nghĩa là tất cả những loại trừ trong việc tham gia vào các ngành được phép đầu và những giói hạn trong quy chế đãi ngộ quốc dân sẽ được bãi bỏ theo thời hạn này.
Khu vực ASEAN với những lợi thế về con người, về thiên nhiên, về trình độ phát triển đa dạng, về hệ thống chính sách cởi mở, thông thoáng và tiến trình hội nhập khu vực chặt chẽ sâu rộng cùng với khả năng hiện thực hoá một khu vực đầu tư ASEAN chắc chắn sẽ đem lại một cái nhìn mới cho các nhà đầu tư nước ngoài về một ASEAN- giàu tiềm năng, phát triển, hội nhập, môi trường đầu tư thông thoáng- và điều này hoàn toàn có thể mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia Đông Nam á trong việc thu hút và mở rộng hoạt động đầu tư.
II. Cơ hội thu hút và phát triển hoạt động đầu tư trực tiếp cho các nước ASEAN khi tham gia AIA
Như đã nói ở trên, ASEAN có trong mình những lợi thế do điều kiện tự nhiên mang lại cũng như có những lợi thế chủ quan do chính con người Đông Nam á tạo nên. Những lợi thế ấy cùng với sự ra đời của một Khu vực đầu tư ASEAN chắc chắn sẽ tạo nên vô vàn cơ hội thu hút và phát triển hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á. Với phạm vi có hạn của đề tài, dưới đây em xin trình bày một số cơ hội cơ bản cho các quốc gia ASEAN trong lĩnh vực đầu tư khi tham gia vào AIA.
1. Cơ hội thu hút đầu tư vào khu vực ASEAN
Mức độ thu hút đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải kể đến hai yếu tố căn bản, đó là tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư đó. Với Hiệp định AIA, các quốc gia ASEAN sẽ có điều kiện để đạt được cả hai chỉ tiêu này.
1.1 Cơ hội tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
Như chúng ta đã từng đề cập đến trong Chương II, môi trường đầu tư là sự tổng hoà của nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc kinh doanh của các nhà đầu tư và bao gồm các nhóm yếu tố chủ yếu là: tình hình chính trị; chính sách đối với FDI; vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên; dân số và trình độ phát triển của nền kinh tế.
Xét một cách tổng thể, các nước ASEAN đã phần nào đáp ứng được các yêu cầu căn bản của một môi trường ổn định. Ngoại trừ những diễn biến mới đây ở Indonesia, đa phần tình hình an ninh chính trị ở các quốc gia Đông Nam á tương đối tốt, không có những biểu hiện xung đột nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc hay tôn giáo xảy ra; đồng thời các nhóm điều kiện về chính sách đối với FDI; vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên; dân số và trình độ phát triển của nền kinh tế không những được đáp ứng đầy đủ mà còn được coi là một trong những lợi thế của nhóm các quốc gia này.
Thêm vào đó, với sự ra đời của AIA, các quốc gia ASEAN hiện nay sẽ được biết đến như là một khu vực thống nhất với một hệ thống các cơ chế chung, một mạng lưới cung cấp các thông tin chính xác và minh bạch về đầu tư chung cho các nhà đầu tư tạo nên một thị trường đầu tư chung cho toàn khu vực chứ không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia đơn lẻ như trước đây, và theo như cách nói của ông Rodolfor C. Severino, Tổng thư ký ASEAN tại Hội thảo xúc tiến đầu tư ASEAN tại Tokyo ngày 25/10/2000 thì “ AIA sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận các nước ASEAN dưới góc độ cơ hội đầu tư ở bình diện khu vực”.
1.2. Cơ hội cho các quốc gia ASEAN khôi phục và lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư
Một sự thực đáng buồn cho bức tranh đầu tư ở khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 đó là lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài đối với khu vực đã giảm sút nghiêm trọng. Từ vị trí là điểm đến của dòng FDI thế giới, khu vực dần nhường chỗ cho các quốc gia và khu vực khác như Trung Quốc, các nước Đông Âu và Mỹ Latinh. Thêm vào đó, một số nhà đầu tư đã lập tức rút vốn khỏi các dự án đầu tư trong khu vực còn một số khác thì còn nghi ngại, dè dặt, đứng ngoài quan sát các động thái kinh tế và chính trị trong khu vực trước khi quyết định sẽ bỏ vốn ra kinh doanh tại Đông Nam á.
Lấy trường hợp Idonesia làm ví dụ, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính cùng với những thay đổi trong hệ thống chính trị, số lượng dự án đầu tư nước ngoài vào quốc gia đông đân nhất và rộng lớn nhất Đông Nam á này đã giảm đáng kể, giảm gần 50% so với thời kỳ tiền khủng hoảng. Ngoài ra, các nhà đầu tư lại liên tục rút vốn ra khỏi các dự án đã đăng ký và được cấp giấy phép trước đó.
Khu vực đầu tư ASEAN sẽ là cơ hội cho các nước thành viên chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng như Indonesia từng bước lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. AIA khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận các quốc gia Đông Nam á như là một thị trường đầu tư chung và do đó có thể áp dụng các chiến lược đầu tư cũng như mạng lưới sản xuất mang quy mô toàn Khu vực Đông Nam á. Theo Hiệp định, các nước ASEAN cam kết dành cho các nhà đầu tư hiện tại và tương lai được hưởng những lợi ích như sau:
Lợi ích tiếp cận nhiều hơn với các ngành và các lĩnh vực kinh tế theo quy định về mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư, trước hết là các nhà đầu tư ASEAN và sau đó là các nhà đầu tư bên ngoài Hiệp hội.
Lợi ích được hưởng chế độ đối xử quốc gia, theo đó các quốc gia ASEAN cam kết cho các nhà đầu tư ASEAN cũng như các nhà đầu tư nước ngoài hưởng những ưu đãi giống như những ưu đãi mà các quốc gia này đã đang và sẽ cho các nhà đầu tư nước mình hưởng.
Lợi ích có được nhiều hơn nữa những thông tin minh bạch, chính xác và kịp thời về cơ hội kinh doanh và sản xuất ở Đông Nam á.
Lợi ích tham gia vào một cơ chế đầu tư tự do và thông thoáng hàng đầu thế giới.
Lợi ích chi phí giao dịch rẻ cho các hoạt động sản xuất và kinh doanh trên quy mô toàn khu vực.
Trước những lợi ích to lớn mà AIA mang lại, các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực ASEAN chắc chắn sẽ không ngần ngại và lưỡng lự trước quyết định đầu tư vào Khu vực đầu tư đầy hấp dẫn này
2. Cơ hội đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đầu tư giữa các nước trong khối ASEAN
Như đã đề cập ở các Chương trước, đầu tư trong nội bộ các nước thành viên ASEAN chiếm 17% tổng lượng vốn FDI trong Khu vực, một con số còn khá khiêm tốn so với tiềm lực của các quốc gia Đông Nam á cũng như so với khối lượng đầu tư nội bộ của các khối liên kết kinh tế khác. Chính vì vậy, sự ra đời của một khu vực đầu tư chung cho các nước thành viên sẽ mở ra cơ hội để các quốc gia này thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trong nội bộ khối.
Tham gia vào AIA, các thương gia ASEAN có cơ hội được hưởng nhiều lợi ích cả về mặt chính sách cũng như về mặt kinh tế của Hiệp định như:
Cơ hội tham gia vào một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN với mục đích cơ bản là tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN.
Cơ hội hưởng các chế độ ưu đãi đặc biệt và trong thời hạn sớm hơn nhiều so với các nhà đầu tư không phải là thành viên của Hiệp hội, đó là các quy định về chế độ đối xử quốc gia; chế độ tối huệ quốc trong đó mỗi quốc gia thành viên cam kết sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư và đầu tư của các quốc gia thành viên khác những sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ quốc gia nào. Như vậy theo quy định này, đầu tư nội bộ giữa các nước thành viên sẽ ngày càng được khuyến khích hơn và cơ chế phân bổ đầu tư cũng sẽ linh hoạt hơn chứ không chỉ dừng lại ở hình thức một nước dồn đầu tư vào một hoặc hai nước có quan hệ gần gũi cũng như lợi ích kinh tế gắn bó hơn từ trước.
Cơ hội cho tất cả các nước thành viên tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh vực và ngành nghề của nhau vào năm 2010 theo quy định trong Hiệp định AIA mở ra triển vọng phát triển các ngành kinh tế vốn trước đây chỉ dành cho các nhà đầu tư trong nước cũng như thuộc các lĩnh vực mà chính phủ các nước hạn chế đầu tư, từ đó tạo ra khả năng tăng số lượng cũng như chất lượng đầu tư giữa các quốc gia trong nội bộ khối.
Cơ hội được hưởng những lợi ích từ quy định cho phép lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ giữa các quốc gia thành viên, Đó là lợi ích về đơn giản hoá các thủ tục mang tính hành chính như thủ tục về cấp giấy phép đầu tư, phê duyệt dự án đầu tư cũng như những lợi ích giảm thiểu các chi phí giao dịch kinh doanh. Thêm vào đó nhu cầu về chuyển giao và đổi mới công nghệ cho nhau của các nước thành viên là rất lớn, do vậy quy định này chắc chắn sẽ khuyến khích các quốc gia thành viên cũ mạnh dạn đưa các công nghệ tiên tiến nhất, hiện đại nhất vào nền sản xuất nước mình và đưa dần các công nghệ hiện tại của mình sang các nước thành viên mới kém phát triển hơn và vì thế, mang lại lợi ích về mặt công nghệ cho cả hai nhóm quốc gia trong Hiệp hội.
Có thể nói Hiệp định AIA không chỉ mang lại cho các quốc gia thành viên những cơ hội để hợp tác chặt chẽ với nhau hơn vì một Khu vực ASEAN hoà bình, ổn định và thịnh vượng mà còn kiến tạo ra vô vàn cơ hội phát triển kinh tế mà một phần trong đó có hoạt động thu hút và phát triển đầu tư nhằm tạo nên một thị trường đầu tư năng động và hấp dẫn vào bậc nhất thế giới trong con mắt các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực.
iii. một số gợi ý cho việt nam
AIA thực sự là một “ sân chơi” tạo ra rất nhiều cơ hội cho các nước ASEAN , và Việt Nam với tư cách là một thành viên thuộc nhóm các nước thành viên mới của Hiệp hội, vậy làm thế nào để Việt Nam tham gia có hiệu quả, phần dưới đây em xin trình bày một số gợi ý để Việt Nam tham gia có hiệu quả và khai thác những lợi ích to lớn của AIA.
1. Lợi thế và hạn chế của Việt Nam so với các nước ASEAN
Tham gia vào AIA, Việt Nam có được 2 lợi thế cơ bản so với các nước ASEAN khác, đó là lợi thế về tình hình chính trị ổn định lợi thế của người đi sau. Tuy nhiên, Việt Nam cũng không tránh khỏi những hạn chế như: hệ thống pháp luật liên quan đến FDI còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn rắc rối; chất lượng lao động chưa thức sự cao và cơ sở hạ tầng còn tương đối lạc hậu so với khu vực.
1.1. Lợi thế của Việt Nam
Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội
Có thể nói, sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội là những yếu tố của môi trường vĩ mô được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi quyết định đầu tư vào một nước. Sự ổn định về chính trị và xã hội sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển và ngược lại, sự phát triển kinh tế cũng làm cho bộ mặt xã hội thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều này càng thể hiện rõ nét. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không mạo hiểm đầu tư vào một nước có sự bất ổn về chính trị và xã hội vì khi đó mức độ rủi ro đầu tư sẽ rất cao.
Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam ta đã có những bước tiến đáng kể về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Ngoài sự ổn định về mặt chính trị, xã hội, sự ổn định và phát triển kinh tế cũng là một kết quả không thể phủ nhận được. Liên tục trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt mức cao, lạm phát nằm trong tầm kiểm soát cùng với một số chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý đã làm các nhà đầu tư nước ngoài có lòng tin và giúp họ yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Sự ổn định về chính trị kinh tế, xã hội và kinh tế của Việt Nam- một nước thành viên ASEAN đã góp phần vào sự ổn định chung của toàn khối. Đây chính là “điều kiện cần” để giúp Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung trong việc thực hiện một mục tiêu quan trọng của AIA là thúc đẩy ASEAN thành một khu vực đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút FDI từ cả các nguồn trong và ngoài ASEAN nhất là trong bối cảnh mà những ưu tiên ổn định được đặt lên hàng đầu như hiện nay.
Lợi thế của người đi sau
Ngoài những lợi thế chung như các nước ASEAN khác như tài nguyên con người, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống chính sách ưu đãi… Việt Nam còn có thêm một lợi thế, đó là lợi thế của người đi sau.Nghĩa là, như đã trình bày trong chương trước, trong ASEAN có hai nhóm nước khác nhau về trình độ phát triển. Nhóm I bao gồm các nước Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia là những nước đã bước sang giai đoạn thứ hai của quá trình Công nghiệp hoá nên đã có trình độ phát triển tương đối cao. Nhóm II là những nước đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá mà Việt Nam là một đại diện tiêu biểu. Tuy là nước phát triển chậm hơn so với các nước ở nhóm I, nhưng giữa các nước này và Việt Nam vẫn có thể diễn ra một quá trình bổ sung cơ cấu, trong đó các nước phát triển hơn sẽ chuyển những ngành có công nghệ không cao và sử dụng nhiều lao động sang nước ta thông qua hình thức FDI để tiến nhanh vào các ngành hiện đại. Còn những nước kém phát triển hơn như nước ta không những tranh thủ được nguồn lao động dồi dào, nguồn công nghệ thích hợp mà còn tiếp thu được những kinh nghiệm quý báu của những nước đi trước để tránh những sai lầm có thể mắc phải, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước đó. Trước bối cảnh trên thì Hiệp định AIA sẽ là một tác nhân quan trọng giúp Việt Nam khai thác triệt để lợi thế của mình trong việc thực hiện nguyên tắc dành chế độ dối xử quốc gia và mở cửa thu hút FDI vào các ngành có công nghệ không cao và sử dụng nhiều lao động để tận dụng “ lợi thế của người đi sau” trong vòng chuyển dịch cơ cấu của các nước ASEAN.
1.2. Hạn chế của Việt Nam
Tuy Việt Nam có nhiều điểm mạnh và lợi thế không thể phủ nhận trong việc thu hút FDI và tham gia vào khu vực đầu tư ASEAN, nhưng những mặt hạn chế của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam không những làm giảm khả năng cạnh tranh của Việt Nam với các nước tron khu vực và thế giới trong việc thu hút FDI mà còn làm giảm hiệu quả tham gia vào khu vực đầu tư ASEAN của Vịêt Nam. Những hạn chế lớn nhất của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam bao gồm:
1.2.1. Hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động FDI còn nhiều bất cập và chưa hoàn chỉnh
Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được đánh giá là một trong những Bộ luật “ thông thoáng” và “ hấp dẫn” các nhà đầu tư nước ngoài. nhưng còn nhiều quy định trong Bộ luật chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế, với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và “ mở” ra bên ngoài, cụ thể là những vấn đề sau:
Về điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên: Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty trách nhiệm hữu hạn, chứ không phải là công ty cổ phần. Do đó, việc thiếu tự do trong chuyển nhượng vốn góp trong các công ty liên doanh có thể gây ảnh hưởng xấu tới tâm ly của các nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư. Việc cần phải có sự cho phép của cơ quan cấp giấy phép đầu tư để bán toàn bộ hay một phần vốn góp của mình đã hạn chế khả năng vay vốn và như vậy, cũng đã làm giảm khả năng đầu tư.
Vấn đề chuyển lỗ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, chỉ có các doanh nghiệp liên doanh mới được chuyển lỗ của bất kỳ năm tính thuế sang năm có lãi tiếp theo, thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm. Nhưng cũng theo Luật này, thì doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều là pháp nhân Việt Nam, việc quy định chuyển lỗ như trên đã gây nên sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài.
Về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh: Điều 14 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Hội đồng quản trị cần phải có sự nhất trí của toàn thể thành viên Hội đồng mới có thể thông qua những vấn đề liên quan đến ngân sách, vay nợ, thay đổi điều lệ, duyệt quyết toán tài chính hàng năm, quyết toán công trình và quyết định bổ nhiệm lãnh đạo.
Về nguyên tắc chuyển đổi ngoại tệ: Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VND ra ngoại tệ khi được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Không phải bất kỳ trường hợp nào Ngân hàng Nhà nước cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng mới được chuyển đổi ngoại tệ. Tình trạng này đã gây ra khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo cho việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Thủ tục hành chính còn rắc rối
Có nhà đầu tư đã ví von rằng, chính sách của Việt Nam “ trên mở, dưới thắt”, nghĩa là quan điểm, chủ trương của Chính phủ thì rất thông thoáng, nhưng khi đi vào thực tiễn công việc, nhất là đối với thủ tục cấp giấy phép đầu tư, thì ở ngành này, địa phương nọ lại gặp nhiều khó khăn và rất mất thời gian. Việc chậm trễ trên đã làm quá trình triển khai dự án bị chậm lại vì các dự án này chỉ có thể triển khai sau khi có Giấy phép đầu tư. Thậm chí có trường hợp sau khi “ chạy” được Giấy phép đầu tư và các thủ tục khác thì chủ đầu tư không còn ý chí để triển khai dự án nữa. Kết quả là mặc dù đã được cấp giấy phép nhưng chủ đầu tư có thể không muốn thực hiện dự án nữa hoặc là thời điểm, thời cơ đầu tư đã qua.
1.2.3. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI
Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng 1,5 triệu lao động mỗi năm cho các doanh nghiệp FDI và cho các doanh nghiệp khác, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ khá nhiều yếu kém so với các nước ASEAN, cụ thể là:
Thứ nhất, rất hiếm lực lượng công nhân lành nghề do cơ cấu đào tạo của ta chưa hợp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, cứ 1 sinh viên đại học tốt nghiệp ra trường thì chỉ có 0,4 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 3 công nhân đã qua trường dạy nghề, trong khi đó, tỷ lệ hợp lý phải là 1:4:10. Do đó, việc tuyển một công nhân có tay nghề cao ngay tại địa bàn Hà nội khó khăn hơn nhiều so với việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Đã có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5.
Thứ hai, hệ thống các trường đại học của ta chưa đảm bảo chất lượng về đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là chuyên ngành tài chính- kế toán. Vì thế, lại có một nghịch lý nữa là các doanh nghiệp FDI buộc phải tuyển sinh viên tốt nghiệp khối đại học ngoại ngữ rồi sau đó cho đi đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính- kế toán.
Thứ ba, hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều được tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đài tạo. Chính vì vậy, chi phí cho dạy nghề rất tốn kém. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng vì kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động thấp.
1.2.4. Cơ sở hạ tầng còn lạc hậu so vói các nước trong khu vực
Cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông , thông tin liên lạc, nhà cửa, điện nước...) của Việt Nam còn yếu kém, giá dịch vụ lại quá cao so với nhiều nước trong khu vực đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc cạnh tranh với các nước để thu hút FDI cả trong và ngoài khu vực. Thật vậy, hầu hết các trục đường giao thông chính, các phố lớn, sân bay, bến cảng...của Việt Nam đều được xây dựng từ thời Pháp thuộc nên đã xuống cấp đòi hỏi phải được cải tạo, nâng cấp đồng bộ. Nhưng trong điều kiện hiện nay thì việc cải tạo, nâng cấp đồng bộ hệ thống này là chưa thể thực hiện được trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, hệ thống cung cấp điện, nước của Việt Nam cũng đã xuống cấp nghiêm trọng gây nhiều thất thoát, chất lượng dịch vụ cũng vì thế không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người tiêu dùng. Vì thế, mặc dù giá các dịch vụ điện, nước của Vịêt Nam thuộc loại cao trong khu vực nhưng cũng không đủ bù đắp chi phí cho những ngành này. Cuối cùng, giá thuê đất của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh giảm hơn nhiều so với trước nhưng vẫn thuộc loại cao và bị nhiều nhà đầu tư nước ngoài phàn nàn.
Nhiều nước đang phát triển như chúng ta đã từng có những hạn chế tương tự về môi trường đầu tư, nhưng họ đã có nhiều nỗ lực tháo gỡ và đã đật rất nhiều thành công trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu chúng ta không tự mình phát huy nội lực, chuẩn bị tốt những tiền đề cho môi trường đầu tư thì dù có các hiệp định đầu tư khu vực hay quốc tế đi nữa, các nhà đầu tư cũng sẽ không mặn mà gì với thị trường Việt Nam.
2. Một số giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào AIA
Như đã phân tích, AIA mang lại cơ hội đầu tư rất lớn cho các nước ASEAN, và Việt Nam với tư cách là một nước thành viên thuộc nhóm các nước thành viên kém phát triển hơn, do đó, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục các hạn chế về mặt pháp luật điều chỉnh FDI, về chất lượng lao động, về chất lượng cơ sở hạ tầng...để khai thác triệt để và có hiệu quả hơn những cơ hội đầu tư do AIA mang lại. Sau đây là một số giải pháp cơ bản cho tình trạng trên:
2.1. Chuẩn hoá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI
Trước hết đối với hệ thống luật pháp đối với đầu tư nước ngoài, chúng ta nên có những biện pháp để chuẩn hoá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI, trong đó cần đặc biệt chú ý những điểm sau:
Cho phép các nhà đầu tư thành lập các doanh nghiệp đa mục đích hoặc đa dự án để tránh gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ buộc phải thành lập một thực thể pháp lý đối với mỗi dự án, vì vậy chi phí xin cấp giấy phép đầu tư và chi phí thành lập tăng lên rất nhiều cũng như làm chậm trễ các dự án đầu tư và gây khó khăn trong việc kết chuyển các khoản lỗ và lãi phát sinh từ các hoạt động khác nhau của các công ty.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc chuyển nhượng vốn của một bên tham gia liên doanh khi có sự đồng ý của tất cả các bên tham gia liên doanh. Chúng ta có thể cho phép thực hiện việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài mà không cần phải có giấy phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và sau một thời gian nhất định nếu không có ý kiến phản đối gì của Cơ quan này thì coi như việc chuyển nhượng đã được chấp thuận; hoặc quy định việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài cho các nhà đầu tư nước ngoài khác chỉ cần đăng ký với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nếu các đối tác nước ngoài đó nắm giữ một số phần trăm nhất định trong vốn của công ty liên doanh.
Nới lỏng những quy định về nguyên tắc nhất trí trong các công ty liên doanh thông qua việc: (i) Thay thế nguyên tắc nhất trí bằng nguyên tắc đa số tuyệt đối (2/3), nghĩa là đối với một số vấn đề của công ty như ngân sách, kế hoạch sản xuất, vay mượn, thay đổi Điều lệ công ty... có thể không cần toàn thể số thành viên Hội đồng quản trị nhất trí mà chỉ cần đa số thành viên thông qua; (ii) Giảm bớt các trường hợp bắt buộc phải có sự biểu quyết nhất trí vì trong nhiều trường hợp như việc bổ nhiệm các giám đốc điều hành là không cần thiết do theo Luật đầu tư nước ngoài hiện nay thì Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ nhất phải là người có quốc tịch Việt Nam.
Về mặt thủ tục cấp giấy phép đầu tư, chúng ta nên đơn giản hoá thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư theo hình thức liên doanh thông qua việc từng bước loại bỏ những giấy tờ mang tính trùng lặp tương đối với nhau trong bộ Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư (chẳng hạn, Hợp đồng liên doanh và Điều lệ doanh nghiệp có rất nhiều nội dung giống nhau như tên và địa chỉ các bên liên doanh, mục tiêu và phạm vi kinh doanh, các loại vốn, tỷ lệ, phương thức và tiến độ góp vốn).
Về vấn đề quản lý ngoại hối, ta nên cấp giấy phép mua ngoại tệ cho các công ty nước ngoài khi các công ty này thường xuyên dùng ngoại tệ vào việc mua nguyên vật liệu hoặc chuyển ngoại tệ cho các nhà đầu tư nhằm tránh tình trạng gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài do quy định chỉ cấp giấy phép đổi VND ra ngoại tệ trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Về vấn đề giá cho thuê đất, chúng ta nên xây dựng cơ chế cho thuê đất thu tiền một lần cũng như xem xét và đánh giá lại khung giá tiền thuê đất áp dụng đối với từng địa phương và từng ngành nghề khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo không cao hơn các nước trong khu vực.
Về vấn đề huy động vốn, ngoài việc tích cực khuyến khích sự phát triển của thị trường chứng khoán hiện nay để giúp các công ty liên doanh có thể huy động vốn thông qua việc bán cổ phần của mình trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét để bảo lãnh cho những khoản vay minh bạch của các công ty liên doanh trong trường hợp các công ty này có nhu cầu đi vay.
Củng cố và hoàn thiện hệ thống Tài chính- Ngân hàng thông qua việc từng bước cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng buộc các ngân hàng phải minh bạch mọi khoản vay khó đòi; kiên quyết loại bỏ các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tránh các tác động dây chuyền ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư; hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và thanh tra trong hệ thống Tài chính- Ngân hàng; hoàn thiện các quy định về vay nợ nước ngoài theo hướng vừa bảo đảm uy tín tín dụng của Việt Nam trên các thị trường tài chính quốc tế vừa quy định rõ ràng trách nhiệm trả nợ của các ngân hàng và các doanh nghiệp vay nợ.
Hài hoà và thống nhất hệ thống pháp luật điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước nhằm xoá bỏ tâm lý nghi ngại của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra đầu tư ở Việt Nam. Đồng thời thiết lập các chuẩn mực đối xử đảm bảo các nhà đầu tư vào làm ăn ở Việt Nam có lợi ích kinh tế lâu dài và trên mức trung bình của khu vực.
2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
Như trên đã nói, nguồn cung cấp lao động dồi dào là lợi thế của Việt Nam nói riêng và của các nước đang phát triển nói chung trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nó chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các dòng đầu tư trong những năm gần đây liên tục chảy vào Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh hoà nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế, không nói gì đến toàn thế giới, chỉ trong khu vực của chúng ta cũng đã có nhiều quốc gia khác như Lào, Philippines, Indonesia, Thái Lan... cũng có được những lợi thế này. Các nước này cũng như Việt Nam đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài để thoát khỏi “vòng luẩn quẩn” của các nước đang phát triển nắm bắt lấy những cơ hội để vươn lên. Mặt khác, nguồn đầu tư nước ngoài lại không phải là vô hạn, cứ mở cửa ra là tự động chảy vào. Vì thế, để tăng cường thu hút FDI và tham gia có hiệu quả vào AIA, chúng ta cần nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam hơn nữa không chỉ nhờ vào các quy định pháp lý ưu đãi đầu tư mà còn chính là tạo một thị trường cung cấp lao động dồi dào về số lượng và chuyên sâu về chất lượng.
Với lợi thế hơn 78 triệu dân trong đó trên 95% số người biết chữ, chúng ta cần đẩy mạnh ưu điểm này bằng các chương trình hành động cụ thể.
2.2.1. Đào tạo thêm nhiều cán bộ quản lý dự án bằng nhiều con đường khác nhau như:
Mở rộng quy mô đào tạo cán bộ quản lý dự án tại các trường đại học thuộc khối các trường kinh tế song song với việc đưa các mô hình dự án đầu tư vào học tập và giảng dạy tại trường nhằm nâng cao kiến thức thực tế cho sinh viên. Mặt khác, cần nâng cao và bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ và sinh viên trong các trường đại học thuộc khối kinh tế.
Gửi các sinh viên chuyên ngành thực tập dài hạn trong các dự án cụ thể trong quá trình học tập và trước khi tốt nghiệp.
Trang bị kiến thức cho các cán bộ quản lý dự án hiện thời băng việc đào tạo lại tại các trường đại học trong nước cũng như nước ngoài.
Khuyến khích tranh thủ học tập kinh nghiệm quản lý dự án của các cán bộ Việt Nam đang làm việc tại các dự án đầu tư nước ngoài hiện thời.
Cần yêu cầu phía đối tác đầu tư nước ngoài phải có chương trình đào tạo cho cán bộ quản lý Việt Nam trong các dự án liên doanh liên kết.
2.2.2. Ra sức đào tạo công nhân, thợ lành nghề tạo một nguồn cung lao động có chiều sâu:
Tổ chức tốt hệ thống các trường dạy nghề phân bố đều khắp các vùng trên toàn quốc góp phần nâng cao số lượng cũng như chất lượng công nhân kỹ thuật cũng như thợ lành nghề làm việc trong các dự án FDI, cân bằng lại tỷ lệ bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo của Việt Nam. Điều này đồng thời giúp chúng ta có được hai mục tiêu chủ yếu là cải thiện môi trường đầu tư và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài dần dần vào đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, tỷ suất sinh lời lớn.
Tổ chức thực hiện tốt luật lao động trong các dự án đầu tư nước ngoài, vừa đảm bảo nguồn thu nhập cho công nhân Việt Nam, vừa tạo được một thị trường cung ứng lao động với giá rẻ, ổn định.
2.3. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
Như đã trình bày ở phần trên, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật thấp kém của chúng ta là một khó khăn cản trở lớn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như giữ các nhà đầu tư nước ngoài ở lại Việt Nam. Nếu như chúng ta không nỗ lực ngay từ bây giờ để tranh thủ mọi nguồn vốn có thể để tự xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thì chúng ta sẽ mất đi nhiều cơ hội đáng tiếc.
Tuy nhiên việc xây dựng một cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hoàn thiện trên toàn quốc ngay trong vài năm tới là một điều không tưởng. Để thu hút các nhà đầu, chúng ta cần phải chú trọng phát triển từng phần, theo trọng điểm và theo cơ cấu tối ưu nhất.
Một trong những giải pháp khả rhi là chúng ta dựa vào chính nguồn vốn FDI liên doanh liên kết với những tập đoàn lớn trên thế giới để xây dựng những khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất với điều kiện ưu đãi như giảm thuế, giảm giá đất...
Việc cải thiện các tuyến giao thông trọng yếu như đường 1, đường 5 là một trong những bước đi đúng đắn của chúng ta trong việc dự án hoá các công trình hạ tầng vật chất công cộng. Nếu như những tuyến đường quan trọng khác cũng được chúng ta lập dự án khả thi một cách thận trọng và kêu gọi đầu tư nước ngoài thì việc cải tạo, sửa chữa sẽ có thể được tiến hành trong nay mai.
Tuy nhiên ngay trước mắt, chúng ta cần xem xét đến mặt bằng giá cả cung ứng các dịch vụ hạ tầng cơ sở như giá điện, giá nước, giá cước viễn thông liên lạc trong tương quan với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ như giá cước viễn thông quốc tế của của chúng ta luôn cao hơn từ 2 đến 2,5 lần so với các nước trong khu vực và cao hơn từ 4 đến 5 lần so với các nước phát triển trên thế giới. Hơn nữa đường truyền của chúng ta là đường truyền Analog tốc độ chỉ bằng một nửa đường truyền kỹ thuật số của các nước khác, vì vậy giá viễn thông tính trên đơn vị thông tin truyền đi của chúng ta cao hơn gấp 8 đến 10 lần so với thế giới. Các công ty nước ngoài có nhu cầu viễn thông rất lớn, nếu chúng ta không kịp thời hạ giá thành thì sẽ mất dần đi rất nhiều nhà đầu tư.
Một giải pháp cho vấn đề này là chúng ta nên tạo ra cạnh tranh có sự quản lý trong các ngành cung ứng này chứ không để tình trạng độc quyền như hiện nay. Chúng ta có thể dùng các công cụ thuế, pháp luật để quản lý các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trong lĩnh vực này để vừa đảm bảo được tính cân bằng của thị trường, đảm bảo được hạ giá thành sản phẩm, vừa có thể mở rộng quy mô đầu tư cho các ngành này vì trên lý thuyết, độc quyền sẽ không hướng sản lượng của ngành kinh tế đến sản lượng tối ưu mà hướng tới sản lượng nhỏ hơn sao cho lợi nhuận độc quyền cao nhất.
2.4. Bảo hộ có điều kiện các ngành sản xuất trong nước trong tiến trình tham gia AIA
Một trong những yêu cầu cơ bản của AIA đối với các nước thành viên là tiến hành mở cửa tất cả các ngành nghề và lĩnh vực và cho các nhà đầu tư ASEAN và cho các nhà đầu tư nước ngoài hưỏng chế độ đối xử quốc gia lần lượt vào năm 2010 và 2020. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay nếu mở cửa tất cả các ngành sản xuất cho các nhà đầu tư sẽ dẫn đến nguy cơ đầu tư tràn lan và đi chệch định hướng phát triển đầu tư của Nhà nước ta. Chính vì vậy mà một giải pháp đã được chúng ta đưa ra và đã được thực hiện, đó là xây dựng Danh mục nhạy cảm (Danh mục này bao gồm các biện pháp hoặc lĩnh vực chưa thể dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa ngay và chưa thể xác định trước thời hạn loại bỏ)và Danh mục loại trừ tạm thời (Danh mục này bao gồm các ngành tạm thời chưa phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài cho đến năm 2013). Để tránh đi ngược lại mục tiêu tự do hoá đầu tư của AIA và tránh tình trạng bảo hộ tràn lan làm mất đi yếu tố thúc đẩy cạnh tranh và đầu tư, các danh mục này đã được xây dựng trên 2 nguyên tắc cơ bản:
Bảo hộ cho một số ngành, lĩnh vực hẹp mà chúng ta có khả năng tự lực phát triển thông qua việc từng bước đưa các ngành, các lĩnh vực này vào Danh mục loại từ tạm thời.
Việc bảo hộ phải được quy định cụ thể trong từng trường hợp, từng thời gian cụ thể, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ ngành, lĩnh vực nào (trừ các lĩnh vực có liên quan đến quốc phòng và an ninh).
Nói tóm lại, chúng ta có thể tiến hành bảo hộ một số ngành sản xuất của chúng ta bằng việc đưa các ngành đó vào Danh mục loại trừ tạm thời hoặc Danh mục nhạy cảm để tránh phải dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các ngành và lĩnh vực được đưa vào các danh mục này không có nghĩa là những ngành được bảo hộ vĩnh viễn mà chỉ là những ngành hiện nay chưa thể mở cửa ngay để cho phép cạnh tranh bình đẳng nhưng sẽ được xem xét để đưa vào danh mục các ngành cho phép dành đối xử quốc gia trong thời gian tới.
2.5. Phối hợp tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư
Tự do hoá thương mại và tự do hoá đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau. Thông thường, việc tự do hoá di chuyển về hàng hoá giữa các nước diễn ra trước rồi đến việc tự do hoá sự di chuyển của các nhân tố sản xuất như vốn lao động, công nghệ... Quá trình này cũng đang được định hình dần trong ASEAN. Việt Nam, với tư cách là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang chuẩn bị tham gia vào Khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Mục tiêu cuối cùng của quá trình này là tạo ra cho Việt Nam các ngành công nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các nươc ASEAN khác. điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tự do hoá thương mại với chính sách tự do hoá đầu tư.
Việc tự do hoá thương mại bao gồm việc cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan phải được thực hiện sao cho không thủ tiêu các nhân tố thúc đẩy đầu tư. Bởi trên thực tế, không ít các nhà đầu tư đã than phiền về việc cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá trong khi không có biện pháp để hỗ trợ sản xuất trong nước khiến cho hàng nhập khẩu lấn át hàng hoá sản xuất trong nước, và kết quả là thủ tiêu đầu tư.
Trên cơ sở định hướng đầu tư vào các ngành và lĩnh vực ưu tiên, cần phải có chính sách thương mại phù hợp để tạo điều kiện thúc đẩy các ngành đó phát triển trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Theo em, với các ngành công nghiệp mới, đòi hỏi công nghệ cao, Việt Nam nên có chính sách bảo hộ và ưu đãi về mặt thương mại để các ngành này có thể phát triển được. Dĩ nhiên, việc bảo hộ và dành ưu dãi nói trên phải được tính trong khuôn khổ AFTA. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường ngăn chặn tình trạng nhập lậu hàng hoá từ bên ngoài bỏi vì hàng nhập lậu với giá rẻ có thể bóp chết các ngành sản xuất trong nước và làm xấu đi môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Để tham gia có hiệu quả vào chương trình hợp tác này của khu vực, Việt Nam cần phải phối hợp đồng bộ các giải pháp trên để tận dụng triệt để lợi thế và giảm thiểu những hạn chế của mình nhằm đón nhận được cơ hội lớn lao mà Hiệp định này mang lại.
Kết luận
Kể từ khi ra đời vào tháng 8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á- gọi tắt là ASEAN đã có nhiều sáng kiến hợp tác xây dựng và phát triển trên cả lĩnh vực chính trị, văn hoá và kinh tế vì một Khu vực ASEAN hoà bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Trong số những sáng kiến đó phải kể đến ý tưởng về việc thành lập một Khu vực tự do đầu tư ASEAN và được hiện thực hoá tại Hội nghị lần thứ 30 các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tại Manila, Philippines ngày 7/10/1998 khi Bộ trưởng Kinh tế các quốc gia thành viên cùng đặt bút ký vào bản Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN- AIA .
Phải nói rằng, Hiệp định AIA ra đời trong bối cảnh hoạt động đầu tư thế giới và Khu vực đang có những dấu hiệu suy giảm. Suy giảm trong đầu tư trực tiếp tại Khu vực không chỉ xảy ra ở luồng vốn FDI đến từ những quốc gia chủ đầu tư quen thuộc của Khu vực như Nhật Bản, Mỹ, EU, các nước ANIEs mà còn ngay cả ở dòng vốn FDI bên trong Khu vực dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế, AIA với mục tiêu thành lập một thị trường đầu tư cho toàn Khu vực chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cũng như nhiều cơ hội cho các quốc gia thành viên. Trước hết, đó là những cơ hội để thu hút hơn nữa luồng vốn FDI đến từ các quốc gia bên ngoài Khu vực thông qua việc từng bước lấy lại sức hấp dẫn vốn có của môi trường đầu tư ở các nước thành viên Đông Nam á và lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài; và sau đó là thúc đẩy và mở rộng hơn nữa những hoạt động đầu tư trực tiếp vốn đã được chú trọng từ trước giữa các nước thành viên với nhau.
Tuy cơ hội cho hoạt động đầu tư tại các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á là khá nhiều những thách thức đặt ra cho các quốc gia này cũng không ít. Đó là thách thức tự hoàn thiện mình cả về mặt môi trường chính trị, môi trường kinh doanh, hệ thống chính sách, cơ sở hạ tầng cũng như hoàn thiện các cơ chế hợp tác Khu vực trên các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, hải quan và các lĩnh vực liên quan đến các hoạt động kinh tế khác.
Sự xuất hiện của một Khu vực đầu tư ASEAN trong lòng các quốc gia Đông Nam á đang khao khát phát triển và mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp, có thể nói là phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới cũng như xu thế hội nhập chung trong tiến trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Hơn thế nữa, AIA sẽ là một thứ “ vũ khí ” có sức nặng tương đối cho các quốc gia ASEAN trong cuộc cạnh tranh giành vị trí số một trong số các khu vực đầu tư năng động nhất thế giới.
Tài liệu tham khảo
ASEAN Investment Report 1999, 2000 Edition, ASEAN Secretariat.
Statistic of Foreign Direct Investment in ASEAN 1999, 2000 Edition, Secretariat.
World Investment Report 2002, UNTAD- United Nations Conference on Trade and Development.
Staement on Bold Measures 6th Summit, Hanoi, Vietnam, 16th December 1998.
Join Press Statement Fourth Meeting of the ASEAN Investment Area Ministerial Council 14th September 2001, Hanoi, Vietnam.
The Second Volume of AFTA Reader.
Jeffery Heinrich And Denise Eby Konan, “Prospect for FDI in AFTA”, ASEAN Economic Bulletin Vol.18. No.2, August 2001.
ASEAN Investment Area: An Update, www. Aseansec.org.
Hiệp định khung Khu vực Đầu tư ASEAN.
10.”Các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài của Philippines”, Thông tin Kinh tế- Xã hội, Số 2 (02), Thông tấn xã Việt Nam.
11.” Triển vọng kinh tế Châu á trong năm 2002”, Thông tin Kin tế- Xã hội, Số 2 (37), Thông tấn xã Việt Nam.
12. “Vài nét về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Malaysia”, Thông tin Kinh tế- Xã hội, Số 6 (06), Thông tấn xã Việt Nam.
13. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 12/11/1996.
14. Giáo trình Đầu tư nước ngoài năm 1997- Chủ biên: TS. Vũ Chí Lộc - Đại học Ngoại Thương.
15. Thạc sí Phạm Thị Thanh Bình, Viện Kinh tế Thế giới, “Đầu tư ASEAN vào Việt Nam thập kỷ 90”, Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương.
16. Vũ Lê Thái Hoàng,” Trung Quốc giành thị phần FDI ở Châu á- Cuộc chiến không cân sức với các nước ASEAN”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, trang 14, số 34, thứ Hai ngày 19/03/2001.
17. Tổng hợp các tài liệu về các lĩnh vực hợp tác của ASEAN, Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa luan tot nghiep.doc