MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 2
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2
2. Lý do chọn đề tài 3
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
III. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 4
1. Mục tiêu nghiên cứu 4
2. Giả thuyết nghiên cứu 5
3. Phương pháp luận 6
4. Phương pháp cụ thể 6
V. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 7
PHẦN II: 8
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 8
I. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 8
II. SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH THU NHẬP 9
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP 11
1. Nghề nghiệp và việc làm ảnh hưởng đến thu nhập 11
2. Vấn đề giới và thu nhập trong gia đình 14
3. Trình độ học vấn và ảnh hưởng đến mức thu nhập 15
4. Tuổi và nhân tố khác ảnh hưởng đến mức thu nhập 17
PHẦN II: 19
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 19
I. KẾT LUẬN 19
II. KHUYẾN NGHỊ 20
1. Về phía nhà nước 20
2. Về phía chính quyền địa phương. 20
3. Về phía bản thân các hộ gia đình. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2555 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của các yếu tố cá nhân đến mức thu nhập của hộ gia đình nông thôn (Qua khảo sát địa bàn xã Đội Bình, Yên Sơn, Tuyên Quang), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ảnh hưởng của các yếu tố cá nhân đến mức thu nhập của hộ gia đình nông thôn (Qua khảo sát địa bàn xã Đội Bình - Yên Sơn - Tuyên Quang)
LỜI NÓI ĐẦU
Thu nhập của người dân ở mọi nơi đều là vân đề thu hút sự quan tâm của những người nghiên cứu, cho dù đó là quốc gia giàu mạnh hay nghèo đói cho đến những địa phương nhỏ. Bởi vì, nó chính là chỉ báo quan trọng có ý nghĩa kinh tế để đánh giá mức sống, sự phát triển của mỗi khu vực địa lý cũng như khía cạnh nào đó là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội khác.
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp có đến 76% số dân sống ở khu vực nông thôn, do đó vấn đề thu nhập của các hộ gia đình nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết.
Do hạn chế về năng lực và thời gian báo cáo chỉ tiếp cận được một số nhân tố cá nhân ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia đình tại địa bàn thực tập.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tầy giáo hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành báo cáo này.
PHẦN I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Thu nhập thấp bao giờ là một nghĩa đơn thuần là cái nghèo khó nhưng nó luôn là chỉ báo quan trọng nhất khi đánh giá về sự nghèo đói. Khái niệm về tình trạng giàu nghèo dự trên thu nhập, mức sống đang ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang phát triển, số dân nông thôn chiếm khoảng 76% dân số cả nước, do đó quan điểm về CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ của nhà nước cũng là CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
Mặc dù được đánh giá là một nước nông nghiệp nghèo đang phát triển với thu nhập bình quân đầu người rất thấp, xấp xỉ 350 USD/người/năm. Tuy nhiên trên thực tế con số đó vẫn là quá xa vời đối với phân nửa bộ phận dân cư Việt Nam. Theo điều tra về giầu nghèo tại Việt Nam (Tổng cục Thống Kê 200) thì có đến 45% số hộ gia đình nông thôn chỉ thu nhập với khoảng 90 nghìn đồng mỗi người/tháng. Trong số 45% này khoảng một nửa chỉ thu nhâp từ 70 nghìn – 80 nghìn đồng và được xếp vào những người cực nghèo.
Như vậy có một sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các hộ gia đình nông thông và thành thị, thậm chí ngay trong số các hộ gia đình nông thôn với nhau có khoảng cách thu nhập chênh lệch đáng kể.
Mô tả và nghiên cứu về mức thu nhập như là một khía cạnh thu nhập về tình trạng nghèo đói ở Việt Nam đã và đang được nhiều tổ chức chính phủ và tư nhân quan. Đã có những tài liệu về điều tra mức sống UNDP và SIDA Thuỷ Điển tài trợ điều tra của Tổng cục Thống kê, báo cáo của Ngân hàng thế giới và nhiều ban nghiên cứu thực địa và kinh nghiệm liên quan của chính phủ, các tổ chức Liên Hợp Quốc và các nhà tài trợ khác....
Muốn tăng tỷ trọng GDP của cả nước và dần dần giảm bớt tình trạng nghèo đói cần phải có một sự quan tâm thích đáng đến vấn đề thu nhập, đặc biệt là đối với người nông dân. “không phải tất cả đói nghèo đều do mất mùa hay đau ốm gây lên. Đói nghèo còn có thể xuất hiện do thiếu lương thực và thu nhập ngay ở năm bình ổn” (Liên Hợp Quốc – Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam).
Những năm qua để đạt được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” Đảng và nhà nước đã có rât nhiều chính sách hỗi trợ cho nông thôn: Đầu tư vốn, khuyến nông...v.v... Tuy nhiên sự khởi sắc diễn ra không đáng kể, thậm chí có nhiều nghiên cứu đã kết luận: Trên thực tế mức sống của một số nhóm dân cư có thể đã có mức thu nhập dưới mức nghèo đói bình thường.
Do đó vấn đề thu nhập của hộ gia đình nông thôn đã và đang thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và các nhà quảnl ý và hoạch định chính sánh.
2. Lý do chọn đề tài
Đội Bình là một xã thuần nông đặc trưng với phương trâm “Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu”, xã có diện tích đất 1180 ha, số dân 6720 người, xã có 5 dân tộc anh em, trong đó người kinh chiếm 40%. Theo số liệu cho thấy hiện trạng nhà ở là nhà mái là và mái ngói chiếm tới 89%. Khi đi sâu vào tìm hiểu thực tế mức thu nhập của người dân ở đây mức thu nhập của người dân ở đây rất thấp, phần lớn các hộ gia đình có thu nhập ở mức 5 triệu đồng – 20 triệu đồng/năm (78,6%). Mỗi hộ bình quân 4,5 người. Thậm chí cá biệt có tới 6% số hộ gia đình có mức thu nhập dưới 3 triệu đồng/năm và 10% từ 3 – 5 triệu đồng/năm.
Nguồn thu nhập chính ở đây là nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, ngoài ra còn có thu nhập từ một số nguồn thu khác đóng góp không nhỏ cho đời sống người dân như từ dịch vụ, buôn bán, lương hưu, và các nghề rèn, mộc, xây... tuy có nhiều nguồn thu từ các công việc trên nhưng mức thu nhập và đời sống của người dân ở đây vẫn rất thấp, mức trênh lệch về thu nhập giữa hộ giàu và hộ nghèo là rất lơn. Các hộ sản xuất nông nghiệp có mức thu nhập thấp hơn với các nhóm hộ sản xuất phi nông nghiệp, và mức trênh lệch thu nhập giữa các hộ làm nông nghiệp với nhau cũng có mức thu nhập trênh lệch khá rõ, đặc biệt là vùng núi cao, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc ít người đời sống còn rất thấp. Điều đó cho thấy cá yếu tố cá nhân có mức ảnh hưởng rất lớn đến mức thu nhập của các hộ gia đình.
Do vậy tôi chọn đề tài “ảnh hưởng cảu các yếu tố cá nhân đến mức thu nhập của hộ gia đình nông thôn làm đề tài nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu.
Ảnh hưởng của yếu tố cá nhân đến mức thu nhập của hộ gia đình nông thôn.
* Khách thể nghiên cứu.
Những người nông dân xã Đội Bình - Yên Sơn - Tuyên Quang.
* Phạm vi nghiên cứu:
Xung quanh vấn đề thu nhập của cá gia đình ở địa bàn xã Đội Bình - Yên Sơn - Tuyên Quang.
Thời gian thực hiện nghiên cứu từ ngày 1/11/2005 đến ngày 1/12/2005.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Mục tiêu nghiên cứu
Trong khuôn khổ báo cáo thực tập, đề tài hướng đến mục tiêu sau:
- Mô tả về thực trạng thu nhập rất thấp đồng thời có sự phân hoá rõ rệt giữa các mức thu nhập của các hộ gia đình xã Đội Bình.
- Chỉ ra một số nhân tố được xem là có ảnh hưởng đến thu nhập như: nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác… Phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó so với mức thu nhập của các hộ gia đình nông thôn.
- Đưa ra một số ý kiến, giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao mức thu nhập và giảm bớt sự phân hoá giữa các hộ gia đình nông thôn.
2. Giả thuyết nghiên cứu
- Có sự khác biệt về mức thu nhập giữa các hộ gia đình, sự khác biệt đó cũng được thể hiện như tháp phân tầng về thu nhập vùng trung du Miền núi. Trong đó có một tỷ lệ những hộ rất giàu và rất nghèo tương đối xấp xỉ nhau. Mức chênh lệch về thu nhập giữa hai loại hộ này rất lớn, làm nên sự phân hoá giàu nghèo giữa các hộ gia đình.
- Mức thu nhập của các hộ gia đình ở đây chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau:
* Nghề nghiệp và việc làm: Những hộ gia đình có nhiều nghề phụ, nhiều nguồn thu nhập có thu nhập cao hơn những hộ gia đình có nguồn thu từ làm ruộng và chăn nuôi.
* Giới tính: Mức thu nhập ở đây được đo bằng đơn vị hộ Gia đình. Do đó việc phân biệt Nam – Nữ rất khó định vị, tuy nhiên thực tế Nữ giới chỉ có nguồn thu nhập từ làm ruộng và chăn nuôi. Bởi vậy có đóng góp rất thấp thu nhập gia đình so với Nam giơi. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo lương thực đủ ăn.
* Học vấn: Do mặt bằng dân trí ở đây nhìn chung là thấp và ngang nhau, do đó mức chênh lệnh không cao, nhưng một quy luật chung những người có trình độ học vấn cao thì mức thu nhập cũng cao hơn những người ít học, nhận thức kém.
* Tuổi tác: Tuổi tác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thu nhập. Thanh niên tuổi từ 18 đến 25 có đóng góp nhiều. Tuy nhiên họ không phải là những người giàu có. Ngược lại những người ở độ tuổi ≥ 50 lại có mức thu nhập cao nhất.
- Ngoài ra một số nhân tố khác nhu ruộng đất, vốn kỹ thuật… cũng góp phần là những nguyên nhân ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia đình xã Đội Bình mà trong khuôn khổ hạn hẹp báo cáo chỉ đề cập một cách sơ lược.
3. Phương pháp luận
Do đặc thù của đề tài nghiên cứu báo cáo dựa trên cơ sở của việc phân tích cấu trúc và sử dụng các quy luật của xã hội học kinh tế để phân tích và nghiên cứu.
Lý thuyết Cấu trúc coi đối tượng như một hệ thống có cấu trúc, đề tài dựa vào đó lấy hộ gia đình và cá nhân thành viên là chủ thể thu nhập, từ đó xét rộng ra cơ cấu các mối liên hệ vững chắc các thành tố trong hệ thống xã hội: Nghề nghiệp, học vấn, giới tính, tuổi tác… Đây là những yếu tố của cấu trúc tăng thu nhập của các hộ gia đình cũng như quy định mức thu nhập của các chủ thể. Từ cơ cấu đó chỉ ra được các nguyên nhân của mức thu nhập cao hay thấp. Các yếu tố, nguyên nhân này được xem như những biến số độc lập.
4. Phương pháp cụ thể
Là một báo cáo thực tập nhằm vận dụng thực tế các phương pháp nghiên cứu xã hội học thực nghiệm, đồng thời do đặc thù của địa bàn nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp chọn mẫu: Xã Đội Bình có 5 thôn với 14 xóm chọn ngẫu nhiên lấy 4 xóm là các xóm 1, 7, 9, 13. Phương pháp này sử dụng để thu thập thông tin.
- Phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi là kết quả của sự tập chung kiến thức nhằm định lượng các thông tin cần thiết.
- Phương pháp phỏng vấn sâu do cá nhân thực hiện nhằm khai thác thông tin sâu định tính giúp cho báo cáo có tính thuyết phục và có chiều sâu.
- Phương pháp phân tích tài liệu được sử dụng trong việc định hướng đề tài nghiên cứu các số liệu về thông tin thu thập được sử lý và phân tích giải quyết các vấn đề được nêu ra trong giả thuyết.
IV. Khung lý thuyết.
Điều kiện kinh tế xã hội
Giới
Khác
Tuổi
Học vấn
Nghề nghiệp và việc làm
MỨC THU NHẬP
V. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Thu nhập
Khái niệm thu nhập được từ điển tiếng việt định nghĩa như sau:
- Thu nhập là việc nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó, hay là các khoản thu nhập được trong một khoảng thời gian nhất định thường tính theo tháng, năm… (trang 925 – Từ điển Tiếng Việt năm 1994).
Từ định nghĩa trên cho ta thấy khi nói đến thu nhập thường người ta nói đến hai khía cạnh:
Phương thức thu nhập: Thu nhập bằng gì, tiền hay sản phẩm…
Mức thu nhập: Cao hay thấp, so sánh chung trong xã hội hoặc cụ thể trên mỗi địa bàn.
2. Mức thu nhập
Mức là cái xác định về mặt nhiều ít, làm căn cứ để nhằm đạt tới trong hoạt động, để làm chuẩn đánh giá, so sánh ( Từ điển Tiếng Việt 1994 – Trang 163).
Vậy có thể hiểu mức thu nhập là các khoản thu nhập được định mức quy đổi ra tiền tệ hoặc sản phẩm nhằm so sánh lẫn nhau, mức thu nhập thường được đánh giá là cao hoặc thấp.
3. Cơ cấu thu nhập
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của chỉnh thể
Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ chức thành phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đinh, các nhóm xã hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yếu tố xã hôi như nghề nghiệp giới tính, tuổi tác, học vấn…
PHẦN II:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Huyện Yên Sơn là một huyện miền núi của Tỉnh Tuyên Quang thuộc khu vực trung du miền núi phía Bắc. Có vị trí cách Thủ đô Hà Nội 160 km về phía Bắc, và cách trung tâm Thị xã Tuyên Quang 30 km về phía Tây Bắc. Đất đai của Huyện Yên Sơn khá màu mỡ, có diện tích đất canh tác khá đa dạng, Huyện Yên Sơn có diện tích đất tự nhiên là 1.209,96 km2, với tổng số dân là 173.474 mật độ dân số trung bình là 143 người/km2. Có 35 xã, 1 thị trấn.
Xã Đội Bình – Yên Sơn – Tuyên Quang là một xã có diện tích khá rộng so với các xã khác với diện tích là 1180 ha, với dân số 6720 người, bao gồm 5 thôn. Cơ sở vật chất hạ tầng của xã yếu kém, hệ thống cơ sở điện đường trường trạm còn thiếu thốn, khó khăn do vậy khả năng phát triển kinh tế thông thương với bên ngoài là rất hạn chế.
Về phát triển kinh tế, công nghiệp hầu như không có, hiện tại ở đây chỉ có nông nghiệp là ngành trọng yếu cơ bản nhất của xã.
Từ năm 2000 trở về trước xã Đội Bình là một xã thiếu lương thực trầm trọng. Từ năm 2000 đến nay nhờ có chính sách kinh tế phát triển hợp lý của tỉnh xã Đội Bình dần dần đã tự túc sản xuất được lương thực. Sản lượng lương thực của xã đạt trung bình 40 tạ/ha, bình quân lương thực tính theo đầu người khoảng 420 kg/người/năm.
Tỷ lệ dân số ở đây tăng khá nhanh, tỷ lệ gia tăng tự nhiên là 14,77 ‰, Tỷ lệ sinh là 20,8 ‰, mỗi năm có khoảng 80 - 100 đứa trẻ ra đời, theo thống kê của xã cũng có chừng ấy số người đến tuổi lao động tham gia vào đội quân thất nghiệp. Toàn xã có hơn 500 người đi làm xa ngoài huyện.
Ngoài nông nghiệp truyền thống bao gồm trồng trọt và chăn nuôi manh mún còn một số ngành nghề khác như các ngành nghề khai thác..., đóng gạnh thủ công...
Về giáo dục xã có hệ thống trường lớp yếu kém, tình trạng học sinh bỏ học nhiều và thiếu giáo viên dạy học đang là vấn đề bức xúc của toàn xã.
Vấn đề dân tộc toàn xã có đến 60% là người dân tộc và đặc biệt mức sống và dân trí của người dân tộc là rất thấp do đó có ảnh hưởng rất nhiều đến việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Gây ra nhiều vấn đề khó khăn khó giải quyết. Trình độ nhận thức yếu kém ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên địa bàn nói riêng.
II. SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH THU NHẬP
Đội Bình thực tế là một xã nghèo, thậm chí rất nghèo, cơ cấu về mức thu nhập sau khi điều tra cho thấy mức tổng thu của các hộ gia đình tính theo đơn vị năm như sau:
<3 triệu đồng/năm: 6%
3 – 5 triệu đồng/năm: 9,9%
5 – 10 triệu đồng/năm: 47,4%
10 – 20 triệu đồng/năm: 31,2%
> 20 triệu đồng/năm: 5,5%
Căn cứ vào cơ cấu này ta có thể phân chia một cách tương đối các loại hộ giàu, trung bình, nghèo và cự nghèo.
So sánh với mô hình một xã Trung Du Miền Núi khác được xem là xã tương đối nghèo có theo số liêu báo cáo năm 2000 của cục thống kê tỉnh Tuyên Quang.
Thu nhập của nông dân xã Đội Bình chủ yếu là bằng sản phẩm lúa, gạo, hoa màu, chăn nuôi. Như vậy mức thu nhập được đo bằng sản lượng so với giá cả thị trường. Tất cả các phương thức thu nhập trên khi điều tra chúng tôi đã quy đổi ra thành tiền theo giá hiện hành năm 2000.
Mức tổn thu mô tả cơ cấu trên được tính theo đơn vị hộ gia đình. Hộ gia đình ở đây có số nhân khẩu khá đông do sinh con nhiều và một số lớn là gia đình mở rộng. Bình quân mỗi hộ gia đình có khoảng 4,5 người. Điều đó lại càng khẳng định rõ mức thu nhập quá thấp nếu tính theo đầu người. Có 6% thu nhập dưới 60.000 VNĐ/tháng/người và 10% thu nhập khoảng từ 60.000 – 100.000 VNĐ/tháng/người.
Tuy nhiên, cơ cấu thu nhập đó mang tính đại diện cho toàn xã hội nếu so sánh tương quan trong phạm vi địa bàn. Số hộ giàu và nghèo ở hai ngưỡng trên và dưới có tỷ lệ tương đối ngang bằng nhau và chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng số mẫu điều tra. Những hộ có mức thu nhập trung bình từ 5 triệu đồng đến 20 triệu đồng/năm chiếm tỷ lệ cao 78,6%. Tất nhiên cái nghèo ở nước ta không bao giờ được coi chỉ đơn thuần là vấn đề thu nhập vật chất. Thế nhưng đánh giá theo số liệu của Tổng cục Thống kê tỉnh (200) thì người nghèo (theo chuẩn mới) là người có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng dưới 180 nghìn trở xuống là nghèo. Vậy thì mức thu nhập dưới 3 triệu đồng/năm của một hộ gia đình đông người có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng 6% số hộ này thuộc diện rất nghèo. Bên cạnh đó 5,5% số hộ khác có mức thu nhập trên 20 triệu đồng/năm (bình quân trên 400 nghìn đồng/tháng/người).
Như vậy mức chênh lệch lên tới 7 lần. Sự phân hoá giàu nghèo đứng ở góc độ nào đó thì nó vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả trong quá trình phát triển xã hội.
Nguyên nhân của sự phân hoá mức thu nhập giữa các hộ gia đình nông thôn thì có rất nhiều, đó là sự khác biệt thiếu hụt về phương tiện sản xuất, vốn, nhân lực, trình độ kỹ thuật… Tuy nhiên, do hạn chế về năng lực và thời gian, trong khuôn khổ bản báo cáo này tôi chỉ đề cập đến một số nhân tố có sự tác động ảnh hưởng rõ nhất đến mức thu nhập của người nông dân.
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP
1. Nghề nghiệp và việc làm ảnh hưởng đến thu nhập
Một đặc trưng nổi bật của xã Đội Bình là thuần nông hoàn toàn, hầu như không có hộ làm nghề phi nông nghiệp. Do đó đây là loại làng xã sản xuất nông nghiệp là chính, tuy có chuyển đổi sang cá dạng khá song nhóm hộ thuần nông vẫn còn rât lớn, trong khi đó các nhóm hộ phi nông nghiệp và nhóm kết hợp còn rất ít và năng lực yếu kém, ở đây thậm chí chưa có nhóm hộ phi nông nghiệp. Do vị trí địa lý của xã nằm cách xa trung tâm và xa trục giao thông chính, nên Đội Bình rất thiếu sự giao thông buôn bán với nền kinh tế thị trường.
Trong xã xuất hiện cac hộ buôn bán dịch vụ nhưng hầu hết khả năng kinh doanh không có dấu hiệu khả quan, vì lượng hàng tiêu thụ ít ỏi. Đa số người dân vẫn chỉ tập trung lo làm ruộng vườn kết hợp với chăn nuôi gia súc gia cầm.
Mặc dù với thực trạng tu nhập rất thấp như trên đã mô tả nhưng phần lớn nông dân vẫn chưa ý thức vươn lên để làm giàu. Sự nghèo đói và không có tri thức đã làm hạn chế nhu cầu của họ và họ tạm bằng lòng với cuộc sống hiện có.
Căn cứ vào chỉ báo về xu hướng chuyển dịch và đặc điểm sản xuất kinh doanh của các hộ có thể chia ra làm 3 loại hộ như sau:
- Nhóm hộ thuần nông gồm: những hộ có thu nhập chủ yếu và cơ bản từ trồng trọt và chăn nuôi. Đây là những hộ có thời gian nông nhàn nhiều nhất, họ chỉ tập trung lo chăm bón ruộng lúa, hoa màu và chăn nuôi.
Trong số này có cả những hộ thuần nông nhưng lại có xu hướng mở rộng sản xuất chăn nuôi, không ít trong số họ biết vận dụng đúng và linh hoạt các biện pháp kỹ thuật, có sự đầu tư đúng đắn về vốn cho nên thu nhập khá cao nhờ năng suất và sản lượng cao. Nhóm hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu, lên tới 71% số người được hỏi.
- Nhóm hộ kết hợp gồm những hộ có mức thu nhậ khá dàn trải từ nghề chính và phụ. ở đây họ coi nông nghiệp là hàng đầu, bên cạnh đó còn xoay xở, kiếm thêm nguồn thu nhập từ các loại hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp như sử chữa máy móc, thợ hàn, thợ xẻ, buôn bán nhỏ, chạy chợ, hàng xáo…, ngoài ra một số cán bộ xã được hưởng lương nhà Nước… Đặc điểm của nhóm hộ này là có ý thức và mong muốn có sự cải thiện về mức thu nhập. Tuy nhiên do năng lực hạn chế nên mức thu nhập của họ tăng lên không đáng. Loại hộ này chiếm tỷ lệ 8% số người được hỏi.
- Nhóm hộ vẫn duy trì làm ruộng, ý thức của họ là trong nhà có đủ thóc vẫn yên tâm hơn. Tuy nhiên nhiều khi trong công việc đống áng họ lại thuê mướn người còn bản thân họ lại tập trung vào kiếm thêm thu nhập từ các nghành nghề khác. Đây là hộ kinh doanh buôn bán. Số hộ này chiếm tỷ lệ 21% số người được hỏi. Đây là số hộ có thu nhập cao nhât trong cả 3 loại hộ kể trên. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu phân tích tạm gọi đây là loại hộ phi nông nghiệp.
Tổng thu
Loại hộ
<3 triệu
đ/năm
3 – 5 triệu
đ/năm
5 – 10 triệu
đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20 triệu
đ/năm
Tổng
Thuần nông
3,6
6,7
49,2
34,8
5,7
100
Kết hợp
0,0
16,7
50,0
33,3
0,0
100
Phi nông
0,0
7,4
29,5
59,0
4,1
100
Bảng 1: Tương quan giữa nghề nghiệp với mức thu nhập (%).
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy ở hai nhóm hộ phi nông nghiệp và kết hợp không có gia đình nào thu nhập ở dưới mức thu nhập 3 triệu đồng/năm. Điều đó có nghĩa là nếu có thêm nghề phụ thì sẽ giảm đi số người nghèo đói.
Nhóm hộ phi nông nghiệp là nhóm có thu nhập cao nhất, 59% trong số này có thu nhập từ 10 – 20 triệu đồng/năm và 41% thu nhập trên 20 triệu đồng/năm. Như vậy giảm bớt việc làm nông nghiệp để tăng các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và buôn bán dịch vụ không những loại bỏ được khả năng nghèo đói mà còn cho nhiều cơ hội để nâng cao thu nhập.
Nhóm hộ thuần nông có mặt ở hầu hết các mức thu nhập, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở mức 5 triệu đến 10 triệu đồng/năm. Có tỷ lệ nhỏ 5,7% có mức thu nhập cao > 20 triệu đồng/năm do biết ứng dụng kỹ thuật tốt trong lao động sản xuất, sáng tạo trên đặc thù vùng đất. Số hộ này chủ yếu biết vận dụng chăn nuôi, họ nuôi gia súc gia cầm lấy thịt, trứng, sữa.
Nhóm hộ kết hợp tuy không có thu nhập cao nhưng phần lớn nhóm này thuộc loại trung bình khá với mức thu từ 5 triệu đến 20 triệu đồng/năm. Đây là những hộ có thu nhập thêm từ các nghề phụ khác như thợ rèn, thợ xây, công nhân bốc vác, đóng gạch…Tuy nhiên số nghề phụ ở đây còn rất ít và khó khăn trong vấn đề tìm việc và tiêu thụ. Vốn để sản xuất cũng là một thực trạng bức xúc bó buộc mọi suy nghĩ và tính năng động của người dân. Họ cho rằng ngại làm và cái chính là không có vốn, sản phẩm mình tự làm ra không bán được. Nhiều hộ gia đình không thể làm thêm nghề phụ do sức khoẻ yếu và thiếu nhân lực.
Một thực tế ở đây cho thấy, rất nhiều người đã đi nơi khác để kiếm việc làm chiếm khoảng 60 – 70% là thanh niên.
Những phân tích trên cho thấy rõ ràng có nhiều nghề phụ, nhiều nguồn thu nhập thì sẽ cho thu nhập cao hơn là làm nông nghiệp. Đặc biệt là: nếu chỉ trông vào trồng trọt thì thu nhập hầu như đều không đủ ăn. Những người chỉ tập trung làm nông nghiệp thì thời gian nhàn rỗi của họ sẽ rất nhiều trong khi có thêm nghề phụ thì toàn bộ thời gian rỗi ấy đầu tư vào sản xuất đem lại nguồn thu nhập cho gia đình. Mặt khác công việc trồng trọt đem lại hiệu quả kinh tế rất thấp chưa kể đến điều kiện thời tiết và đất đai ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng của sản phẩm.
So sánh về quan niệm nhận thức giữa hộ giàu làm dịch vụ buôn bán với hộ nghèo cũng cho thấy sự khác biệt. Trong khi những hộ nghèo thuần nông an phận với công việc của mình thì những người tham gia vào việc buôn bán có quan niệm không chịu cảnh mãi với cuộc sống nghèo khổ, họ luôn tìm kiếm cách thức để bươn trải làm giàu.
Với điều kiện lao động và việc hỗi trợ vốn, người dân còn muốn có những chính sách xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, đó cũng là những vấn đề đáng lưu tâm trong việc tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập.
Xã hội Việt Nam trong lịch sử vốn là một xã hội trong nông với nguyên tắc “dĩ nông vi bản”. Ngày nay, đường lối đổi mới của nước Đảng và Nhà nước là công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn nông nghiệp. Điều đó chứng tỏ vẫn lấy nông nghiệp làm hàng đầu. Xu thế chuyển đổi cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp theo định hướng kinh tế thị trường và xu thế phi nông hoá là tất yếu và cần thiết nếu muốn nâng cao mức thu nhập của người nông dân.
2. Vấn đề giới và thu nhập trong gia đình
Sự bất bình đẳng về giới vốn ăn sâu vào nếp sống, vào suy nghĩ, vào mọi ngõ ngách ở mọi miền trên đất nước ta. Từ xưa vốn đã quan niệm truyền thống nhất Nam khinh Nữ. Truyền thống ấy là nguồn gốc tạo nên sự bất bình đẳng.
Đội Bình là một xã thuần nông mà công việc làm nông nghiệp vốn dĩ là rất đỗi nặng nhọc. Mọi khâu từ làm ruộng, bỏ phân, cấy, cày, gặt hái… đều là công việc đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và sức lực. Chị em phụ nữ phải làm phần lớn tất cả những công việc trên. Điều kiện như vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của người phụ nữ. Mặt khác đặc điểm xã này là một xã nghèo, do đó hầu hết sản xuất ở đây là lao động thủ công chiếm tới 70%.
Hàng năm có rất nhiều lao động rời xã đi nơi khác làm ăn. Số lao động ấy đa phần là Nam giới. Mọi công việc nhà nông còn lại là do phụ nữ đảm nhiệm gánh vác. Tuy có nhiều người không đi làm thuê mà làm thuê tại nhà cũng không chịu tham gia vào công việc đồng áng, chăn nuôi…
Kết quả điều tra cho thấy chỉ co 17% cho rằng sự vắng mặt của người chồng ảnh hưởng đến lao động gia đình điều đó cũng cho thấy phần lớn số người có chồng đi làm ăn xa đã quen với công việc và biết cách khắc phục nó.
Mặc dù sức lao động bỏ ra rât nhiều tuy nhiên thu nhập từ công việc của người phụ nữ không cao luôn ở mức ngang bằng hoặc thấp hơn đàn ông.
Tổng thu
Giới
<3 triệu
đ/năm
3 – 5 triệu
đ/năm
5 – 10 triệu
đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20 triệu
đ/năm
Tổng
Nam
4,0
10,0
46,7
30,7
8,7
100
Nữ
7,4
9,8
47,9
31,6
3,3
100
Bảng 2: Tương quan giới với mức thu nhập (%).
Bẳng số liệu trên cho thấy tỉ lệ tương quan giữa hai ngưỡng thu nhập. ậ ngưỡng đáy với mức thu nhập trên 3 triệu đồng/năm, tỷ lệ nữ chiếm 7,4% trong khi nam giới chiếm 4,0%. Ngược lại ở ngưỡng đỉnh với mức thu nhập trên 20 triệu đồng/năm, nữ chiếm 3,3% trong khi nam giới chiếm 8,7%. Điều này đồng nghĩa với việc tỷ lệ nữ nghèo hơn Nam. Tuy nhiên số tổng thu này được tính theo cả hộ gia đình do đó mức chênh lệch không đáng kể. Nhưng dù sao lao động nông nghiệp vẫn cho thu nhập rất thấp, trong khi họ còn phải đảm đương toàn bộ công việc nội trợ trong gia đình. Sự bất bình đẳng này cần phải được khắc phục, mặc dù đây không phải là điều đơn giản có thể giải quyết một sớm một chiều.
3. Trình độ học vấn và ảnh hưởng đến mức thu nhập
Ở Đội Bình trình độ học vấn nói chung rất thấp do ngẫu nhiên trong chọn mẫu trong tổng số 265 bẳng hỏi không có người mù chữ, tuy vậy hầu hêt ở đây chỉ học hết cấp 2. Tỷ lệ này chiếm 54,5%, hết cấp I chiếm 34%. Tỷ lệ cấp III chỉ có 8,5% (trong khi điều tra tất cả những ai đang học dở cấp nào được tính cấp ấy do đó phần lớn những người học cấp II nhưng mới học đến lớp 6), tỷ lệ học đến cao đẳng Đại Học rất thấp chỉ chiếm 2,7% hầu hết số này là giáo viện. Thực trạng này cho thấy mọi người ở đây chỉ thực hiện theo chủ trương chính sách của nhà nước về phổ cập giáo dục tiểu học và trung học. Vì nhiều lý do trong đó căn bản nhất vẫn là do mức thu nhập quá thấp việc học lên cao là một gánh nặng của gia đình.
Tổng thu
Loại hộ
<3 triệu
đ/năm
3 – 5 triệu
đ/năm
5 – 10 triệu
đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20 triệu
đ/năm
Tổng
Cấp I
7,3
12,1
49,2
28,2
3,2
100,0
Cấp II
5,0
8,0
47,2
33,2
6,5
99,9
Cấp III
3,2
12,9
45,2
32,3
6,5
100,1
≥ CĐ - ĐH
20,0
0,0
40,0
30,0
10,0
100,0
Bảng 3: Tương quan học vấn với mức thu nhập.
Một thực trạng nữa là trình độ giáo viên ở đây rất yếu kém, cá biệt có trường hợp theo phản ánh của người dân giáo viên mới học xong lớp 7 đứng dậy học sinh lớp 8.
Do cuộc sống thiếu thốn bám vào cây lúa để có lương thực cho nên việc giáo viên không có trình độ sâu rộng về chuyên môn là điều dễ hiểu.
Do mặt bằng trình độ học vấn tương đối ngang nhau do đó dễ nhận thấy tỷ lệ tương quan giữa học vấn với các mức thu nhập chênh nhau rất thấp và chủ yếu là rơi vào nhóm có mức thu nhập từ 5 đến 10 triệu đồng/năm. tuy nhiên ở đây có những nhận xét về sự khác nhau mà đặc trưng ở hai mức thu nhập thấp nhât 20 triệu đồng/năm.
Điều gây bất ngờ cho người nghiên cứu là ở mức thu thấp nhất có 20% số người có trình độ Cao Đẳng và Đại Học. Lý giải điều này là bởi vì tỷ lệ tổng số người đạt trình độ này chỉ chiếm 2,7% tổng số người được hỏi. Do đó 20% của 2,7% sẽ rất thấp, con số này thuộc về những người già, ốm đau bệnh tật...
Ngoại trừ trường hợp nêu trên các con số còn lại phản ánh một cách khá chính xác sự ảnh hưởng của trình độ học vấn lên mức thu nhập của hộ gia đình nông thông. trình độ học vấn cao cho thu nhập cao và ngược lại trình độ học vấn thấp cho thu nhập thấp. ở mức thu thấp nhất dưới 3 triệu đồng/năm, người có trình độ cấp 1 chiếm 7,3%, cấp II chiếm 5% và câp III chỉ có 3,2% trong khi đó ở mức thu cao nhất trên 20 triệu đồng/năm thì ngược lại người có trình độ cấp I chỉ chiếm 3,2% trong khi cấp II và cấp III chiếm 6,5%, còn Cao Đẳng và Đại Học lên đên 10%.
Nói tóm lại với trình độ dân trí thấp như vậy ảnh hưởng đến sự cơ động, phát triển xã hội, người dân thiếu đi tính linh hoạt, năng động, năng lực tiếp cận thị trường kém, lấy sự an toàn về mặt lương thực làm mục đích. Những năm gần đây Đảng và Nhà Nước đã đầu tư khá nhiều cho ngành giáo dục, tuy nhiên vấn đề thụ hưởng nền giáo dục ở nông thôn vẫn là vấn đề cấp bách và khó giải quyết, đặc biệt là đối với những vùng có thu nhập thấp như địa bàn xã Đội Bình.
4. Tuổi và nhân tố khác ảnh hưởng đến mức thu nhập
Bên cạnh các nhân tố nghề nghiệp học vấn, giới tính thì độ tuổi của người nông dân khác nhau cũng cho thây thu nhập khác nhau.
Xã Đội Bình hàng năm có gần 100 người bước vào độ tuổi lao động, phần lớn đi làm ăn xa nhà chủ yếu là nam giới. Nữ giới thì ở nhà lấy chồng sớm và làm ruộng, mặc dù tuổi trẻ và sức khoẻ nhưng không hẳn họ là những người có thu nhập cao hơn những người lớn tuổi.
Tổng thu
Loại hộ
<3 triệu
đ/năm
3 – 5 triệu
đ/năm
5 – 10 triệu
đ/năm
10 - 20
triệu
đ/năm
>20 triệu
đ/năm
Tổng
18 – 25
5,4
10,8
54,1
29,7
0,0
100,0
26 – 35
3,9
6,9
49,0
35,3
4,9
100,0
36 – 49
6,7
8,4
48,3
30,9
5,6
99,9
≥ 50
8,3
20,8
35,4
25,0
10,4
100,0
Bảng 4: Tương quan số tuổi với mức thu nhập (%).
Bảng 4 cho thấy không có hộ giàu ở lứa tuổi từ 18 đến 25. Chủ yếu lứa tuổi này có mức thu nhập trung bình từ 5 đến 10 triệu đồng/năm. Do sự thiếu kinh nghiệm thiếu tích luỹ tâm lý (được đồng nào sài đồng ấy) do đó không có thu nhập cao đó là chưa kể đến đây là lứa tuổi dễ bị các tệ nạn xã hội xâm nhập.
Ở các lứa tuổi lớn hơn đặc biệ khi về già do kinh nghiệm được tích luỹ trong một thời gian dài nên họ thường có thu nhập cao hơn. Hầu hết trong số họ làm việc tại nhà hoặc làm thợ, tỷ lệ mức thu > 20 triệu đồng cao nhất ở người trên 50 tuổi chiếm 10,4%.
Ngoài ra mức thu nhập còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như vốn đất đai, kỹ thuật...
Đất đai ở Đội Bình là đất kém màu mỡ do đó có phần nào ảnh hưởng không tố đến sản lượng cây trồng dẫn đến năng suất thấp.
Vốn kinh doanh của các hộ gia đình rất nhỏ, 53,2% số người được hỏi cho rằng họ không có đủ vốn, tuy nhiên việc vay vốn từ tín dụng ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Theo đánh giá của người dân như thời gian vay quá ngắn (16,7%) thủ tuc rườm rà (39,7%) và phải thế chấp mới được vay, 34,4% vốn là nguồn lực đầu tiên và quan trọng trong việc kinh doanh và sản suất. Tình trạng thiếu vốn dẫn đến “cái khó bó cái khôn”
Về kỹ thuật ở đây người dân chủ yếu dùng công cụ bằng cay cuốc, lao động chân tay thủ công là chủ yếu (68,5%), về chuyên môn kỹ thuật 28,2% thiếu công cụ sản suất, và 27,1% thiếu nhân lực lao động. Những tình trạng như trên kìm hãm những khả năng sản suất va năng lực tiếp cận thị trường của người nông dân 52,3% mong muốn được hỗi trợ về vốn và 33,2% muốn có công cụ sản suất là máy móc...
Như vậy trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình nông thôn có rất nhiều nhân tố tác động muốn nâng cao mức thu nhập của họ, cần có chính sách đúng đắn, thích hợp với mỗi nhân tố đó. Trên đây là phác hoạ một số nhân tố cụ thể mang tính đặc trưng đối với địa bàn xã Đội Bình huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang.
PHẦN II:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Qua 265 mẫu nghiên cứu các hộ gia đình ở xã Đội Bình huyện Yên Sơn – Tuyên Quang cho thấy đây là một xã cực nghèo, tuy rằng có tháp phân tầng, thu nhập tương đồng với tình hình chung của vùng trung du miền núi nên mức thu nhập thấp, nằm trong số những xã nghèo của cả vùng. Cái nghèo ở đây được xác định bởi các nguyên nhân:
- Cơ cấu nghề nghiệp quá nằng về nông nghiệp, chủ yếu là làm ruộng ít có nghề phụ, ít mở rộng kinh tế buôn bán, phần lớn thu nhập nhờ vào làm ruộng và chăn nuôi. những hộ gia đình có làm thêm nghề phụ thì manh mún, lẻ tẻ, kém linh hoạt, tính năng động thấp và năng lực tiếp cận thị trường kém. Tuy nhiên nguồn thu nhập của họ vẫn cho thấy sự khác biệt đối lập với những hộ gia đình thuần nông.
- Có sự phân công giới trong lao động. Đa số nam giới bỏ đi làm ăn xa, mọi công việc gia đình và sản xuất đều do người phụ nữ đảm nhiệm, ảnh hưởng nhiều đến hệ quả và năng suất lao động thấp.
- Trình độ học vấn nhìn chung là thấp, mức thụ hưởng văn hoá kém, không biết ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đã thành quy luật, trình độ học vấn thấp dẫn đến nghèo đói. Bức tranh thu nhập ở đây mô tả khá rõ “vòng luẩn quẩn” về nghèo đói và học vấn này.
- Cơ cấu lao động trẻ, tuy nhiên thiếu kinh nghiệm sống và kinh nghiệm sản xuất, thiếu việc làm dẫn đến tình trạng thừa lao động và nhiều tệ nạn xâm nhập khiến cho mức chi tiêu lớn hơn trong khi thu nhập ít.
- Các chính sách về vốn, ruộng đất canh tác, khuyến nông... được vận dụng một cách máy móc kém hiệu quả.
II. KHUYẾN NGHỊ
1. Về phía nhà nước
Cần có sự đầu tư nhiều hơn nữa về vốn song song với việc cần có chính sách tuyên truyền giáo dục người nông dân biết cách sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó phải giảm bớt thủ tục phiền hà trong khi vay vốn, giảm lãi suất, tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận với việc vay vốn nhà nước.
2. Về phía chính quyền địa phương.
- Cần có sự năng động, linh hoạt và mềm dẻo trong việc vận dụng các chính sách của nhà nước đối với người nông dân. Tăng cường hoạt động trao đổi phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý sản xuất giữa các hộ gia đình với nhau.
- Tạo ra các nghề phụ đồng thời với việc tìm nơi tiêu thụ sản phẩm do nông dân làm ra nhằm thu hút lực lượng lao động hàng năm vẫn bỏ đi khắp nơi trở về làm việc ngay trên địa phương.
- Cần chú ý đến chất lượng dạy học của giáo viên và có chính sách khuyến khích người dân đi học nhằm nâng cao dân trí.
3. Về phía bản thân các hộ gia đình.
Các hộ gia đình cần có sự chủ động trong việc tìm kiếm các việc làm thêm cũng như ý thức được sự cần thiết của các việc làm đó với mức thu nhập của gia đình.
Cần phải biết tổ chức lao động gia đình hợp lý theo năng lực của mỗi người, các thành viên cần biết hỗ trợ nhau trong công việc từ đó nâng cao hiệu suất lao động.
Các bậc cha mẹ cần có ý thức cao về sự quyết tâm trong việc học hành của con cái, quan tâm nhiều hơn đến việc hướng nghiệp một cách thiết thực và đúng đắn cho thế hệ trẻ.
Ngoài ra cần có cái nhìn cởi mở đối với việc kinh tế buôn bán, linh hoạt và năng động hơn trong việc tiếp cận thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang 2000 – 2002.
NXB Thống Kê 2003
2. Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam,
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 2000
3. Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay
NXB Chính trị Quốc Gia. 1997
4. Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002
NXB Tổng cục Thống Kê 2004
5. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Tuyên Quang 1996 - 2010
6. Tạp chí XHH số 3/2001 và số 5/2002
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH (31).doc