Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 không chỉ mang tính chất khu vực mà còn có tính toàn cầu. Chính vì vậy việc nghiên cứu về cuộc khủng hoảng này là hết sức quan trọng nhằm tránh sự lặp lại một cách đáng tiếc. Đề án trên nghiên cứu, phân tích cuộc khủng hoảng đã giải quyết được hai vấn đề lớn là:
Một là, phân tích được đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Hai là, phân tích được tác động của nó tới đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á tới FDI ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Một trong những sự kiện lớn nhất xảy ra trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á năm 1997. Cuộc khủng hoảng này đã gây ra những tác hại nghiêm trọng tới nền kinh tế chính trị của hàng loạt các nước trong khu vực, nó cũng làm đảo lộn đời sống xã hội của hàng trăm triệu người dân, hậu quả của cuộc khủng hoảng này được so sánh với những cuộc chiến tàn khốc cho dù không có cảnh đổ nát nào.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ bắt đầu ở Thái Lan, sau đó lan sang các nước Đông Nam á khác, khu vực Đông Bắc á và cuối cùng ảnh hưởng đến hầu hết các khu vực trên thế giới. Cuộc khủng hoảng khởi đầu từ lĩnh vực tài chính tiền tệ, tiếp theo là toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng sâu sắc tới các lĩnh vực chính trị xã hội mà hậu quả của nó cho tới nay người ta vẫn nhận thấy rõ ràng.
Tuy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã đi qua và nền kinh tế của các nước đang phục hồi nhanh chóng hơn sự mong đợi của các chuyên gia kinh tế cũng như của mọi người, nhờ sự nỗ lực của chính phủ các nước trong khu vực cũng như các tổ chức quốc tế nhưng việc xem xét lại cuộc khủng hoảng này một cách tỷ mỷ và khách quan có thể giúp cho các nhà quản lý nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là đối với các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hàng đầu thế giới như các nước Đông Nam á.Từ đó thấy được tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam , đặc biệt đến FDI vào Việt Nam .
Từ những điều đã nêu, dựa vào những tài liệu, em đã tổng hợp và phân tích về cuộc khủng hoảng thành đề án cho môn học nhằm giúp cho mọi người có các nhìn chính xác và sâu sắc hơn về cuộc khủng hoảng vốn không xa lạ gì với người dân Châu á. Do còn thiếu nhiều tài liệu nghiên cứu cũng như khả năng tổng hợp, phân tích còn hạn hẹp nên đề án không thể tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự hướng dẫn, gợi ý từ các thầy cô.
Hà Nội, 12/2001
phần I
tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á và tính chất của nó
1- Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á
Ngày 2/ 7 / 1997 cơ quan tiền tệ Thái Lan ra công bố rằng không còn khả năng giữ giá đồng Bạt theo đồng đô la Mỹ nữa. Thông báo này cũng có nghĩa là chính phủ Thái Lan chủ trương phá giá đồng Bạt sau 13 năm gìn giữ và ổn định giá và ngày 2/7 được coi là phần mở đầu cho cuộc khủng hoảng mới tại châu á- khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Ngay trong ngày 2/7 đồng Bạt lập tức bị giảm giá 16% và trong suốt khoảng thời gian tiếp theo vẫn bị giảm giá liên tục, sau 1 tháng đồng Bạt đã mất giá hơn 30% so với ngày 2/7 và chỉ số thị trường chứng khoán Băng Cốc cũng mất giá trị tương đương như vậy.
Thực ra thì việc Thái Lan phá giá đồng bản tệ không phải là việc bất ngờ, nó là hệ quả tất yếu cuẩ việc thâm hụt ngoại tệ. Ngay từ giữa năm 1996 thì tỉ giá đồng Bạt so với đồng đô la Mỹ là tăng lên không ngừng và các ngân hàng trung ương trong khu vực đã dùng mọi nỗ lực giữ giá đồng Bạt nhằm tránh một cuộc khủng hoảnghàng loạt nhưng với một khoản thâm hụt ngoại tệ lên tới 15 tỉ USD thì sự kiện 2/7 là điều tất yếu phải xảy ra.
Ngay sau khi Thái Lan ra tuyên bố phá giá đồng Bạt thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lây lan sang các nước khác trong khu vực, đồng tiền của các nước mất giá một cách trầm trọng. Sau 1 tháng đồng Pêsô của Phi lip pin và đồng Rin Gít của Malaixia mát giá khoảng 20% đặc biệt là tại Inđônêxia đòng Rupia mất giá tới 40% trong vòng 1 tháng. Ngay cả Singapo là nước có nền kinh tế khá vững mạnh trong khu vực thì đồng đô la Singapo cũng bị giảm giá tới 6% giá trị so với đồng tiền ban đầu. Đồng tiền một số nước khác cũng bị ảnh hưởng nhưng không nghiêm trọng như Việt Nam, Mianma và đồng thời với việc các đồng tiền mất giá thì các dòng vốn đầu tư của nước ngoài ở các nước này chảy ra khỏi các nền kinh tế như xe xuống dốc không phanh.
Hàn quốc một quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc á và có nền kinh tế đứng thứ 11 trên thế giới. Cuộc khủng hoảng này làm cho nhiều tập đoàn then chốt của Hàn quốc bị phá sản như tập đoàn thép Hanbô phá sản với khoản nợ 6tỉ USD, thị trường cổ phiếu và đồng Won bị mất giá mạnh …nền kinh tế Hàn Quốc lâm vào tình trạng suy thoái nặng nề, kết thúc thời kỳ hơn 30 năm phát triển kỳ diệu của nền kinh tế sông Hàn.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ '' gõ cửa " nền kinh tế Hàn Quốc cũng có nghĩa là phạm vi lan truyền và ảnh hưởng của nó không còn nằm trong khuôn khổ các nước Đông Nam á mà đã lan sang các nước Đông Bắc á cũng như toàn châu á và thế giới. Nhật Bản nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới cũng gặp nhiều khó khăn trong hệ thống tài chính tiền tệ, đồng Yên mất giá so với đong đô la Mỹ đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống nhân dân. Tốc độ tăng trưởng của châu á chỉ đạt 1,9% năm 98 thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 7% của những năm đó.
Cuộc khủng hoảng không còn riêng trong lĩnh vực kinh tế mà đã lan sang các lĩnh vực chính trị, xã hội khác. Inđônêxia những cuộc biểu tình do sinh viên dẫn đầu đã buộc tổng thống Suhactô phải từ chức và tháng 5/98 làn sóng li khai bùng lên mạnh mẽ, điển hình là đảo Đông Ti Mo của Inđonêxia, một số đảo của Philipin cũng diễn ra tình trạng tương tự, đi theo cuộc khủng hoảng là các tệ nạn xã hội vốn đã không ít ở các nước đang phát triển như Đông Nam á nạn cướp dật, mại dâm trộm cắp… tăng lên nhanh chóng, số người tự tử không phải là ít. Tóm lại, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á là một ttrong những sự kiện gây ra hậu quả tai hại nhất trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX. Theo ước tính thì thiệt hại do cuộc khủng hoảng là hơn 400 tỉ USD cho các nước.
II- Tính chất của cuộc khủng hoảng
1. Cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu
Mọi người vẫn lầm tưởng rằng cuộc khủng hoảng năm 97 mang tính chu kỳ nhưng thực sự đây là cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu với sắc thái tiền tệ rõ nét. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ lĩnh vực tài chính tiền tệ và thực tế đã cho thấy là nó đã được khắc phục chủ yếu nhờ những giải pháp nhằm làm lành mạnh hoá và hoàn thiện hệ thống tài chính tiền tệ của mỗi nước mỗi khu vực. Hệ thống tài chính tiền tệ nói riêng cũng như cơ cấu tổ chức kinh tế của các nước châu á nói chung cho tới trước cuộc khủng hoảng được các chuyên gia kinh tế đánh giá là được quản lí tốt, ngân sách về cơ bản là cân đối, lạm phát thấp, tốc độ tăng trưởng cao và đều…Chính những nhận định này đã làm cho các nhà quản lí Châu á chủ quan sơ suất và khi sự việc xảy ra thì họ mới nhận thấy là thiếu sót.
2. Cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế sâu sắc
Có thể nói cùng với việc tự do hoá thương mại ngày càng phát triển, việc toàn cầu hoá nền kinh tế là tất yếu thì cuộc khủng hoảng của châu á vừa qua cũng mang tính chất quốc tế sâu sắc cả về những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng lẫn những nỗ lực để vượt qua cuộc khủng hoảng.
Tính chất quốc tế của cuộc khủng hoảng còn thể hiện ở những thông điệp cảnh báo chung mà nó đưa ra cho các nước đang phát triển về chính sách tài chính tiền tệ trong qúa trình công nghiệp hoá và phát triển đất nước.
3. Cuộc khủng hoảng diễn ra theo tính chất làn sóng
Cũng bởi tính chất quốc tế của cuộc khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng diễn ra theo kiểu làn sóng, tiếp diễn không ngừng, lan toả đuổi bắt nhau và sau đó ảnh hưởng định chế lẫn nhau. Những làn sóng của cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ những chấn động tại những nước trung tâm nhạy cảm sau đó lan sang các vùng khác. Bùng nổ từ '' cú sốc tỉ giá " ngày 2/7/97 tại Thái Lan , qua Philipin, Malaixia rồi Inđônêxia … sang Hàn Quốc và Nhật Bản, lan sáng cả khu vực Châu Mỹ và một phần châu âu. Các trung tâm chuyển dịch một cách khó dự đoán và phát triển những mầm mống lây nhiễm rộng và sâu hơn, đe doạ kéo theo những tổn thất lớn và đòi hỏi những phối hợp quốc tế mạnh mẽ, rộng lớn hơn, đồng bộ hơn và dĩ nhiên là với chi phí lớn và khắc phục hậu quả lâu so với các cuộc khủng hoảng thông thường khác. Điều này cho thấy sự gia tăng ngày càng cao về mức độ tương tác lẫn nhau cũng như ý nghĩa của các sự kiện, các vấn đề kinh tế của mỗi nước tuỳ thuộc vào vị thế của chúng trong bối cảnh nền kinh tế đang vận động theo hướng tự do hoá và toàn cầu hoá.
Phần II
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
và một số giải pháp
I. nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Cho đến tháng 12/1998 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á đã lan tràn với qui mô ngày càng rộng lớn, mức động ngày càng phức tạp. Bối cảnh kinh tế mỗi nước bị khủng hoảng khác nhau, diễn biến khác nhau, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng có nhiều điểm khác nhau giữa các nước. Trong phần trên khi trình bày về bối cảnh kinh tế mỗi nước trước cuộc khủng hoảng đã phần nào đề cập đến các nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ. Trong phần này chúng ta sẽ phân tích từng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng từ bên trong nền kinh tế, sự tác động qua lại giữa các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng từ bên trong nền kinh tế, sự tác động qua lại giữa các nhân nhân bên trong với nhau cũng như mối quan hệ của chúng với các yếu tố bên ngoài. Qua đó chúng ta sẽ tìm ra cơ chế dẫn tới sự phá giá của mỗi nước và cơ chế lan truyền khủng hoảng giữa các nước.
A- Các nguyên nhân bên trong nền kinh tế.
Các nguyên nhân bên trong nền kinh tế rất đa dạng, phức tạp và khó phân tích riêng biệt để xe mxét, giữa chúng có mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Có nguyên nhân làm tiền đề cho một nguyên nhân khác phát huy tác động và ngược lại.
1. Chính sách tài chính tiền tệ không hợp lý, hệ thống ngân hàng yếu kém.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ có nguyên nhân sâu xa nhất của nó nằm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Trong lĩnh vực này, Chính phủ các nước đã thi hành 2 năm chính sách tài chính - tiền tệ không hợp lý là chính sách quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá hối đoái cố định thông qua một trung gian tài chính - hệ thống ngân hàng yếu kém.
1.1. Chính sách tỷ giá hối đoái cố định.
Chính sách tỷ giá hối đoái cố định đã giúp cho nền kinh tế các nước ổn định, góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thế nhưng lịch sử kinh tế thế giới đã cho thấy rằng chính sách đó cũng có những điểm yếu của nó.
Nếu như tỷ giá cố định gắn với đồng USD đã giúp xuất khẩu của Thái Lan tăng trưởng trong năm 1994 - 1995, khi USD giảm giá thì việc đồng USD tăng giá so với một số đồng tiền mạnh như JPY (Nhật), Mác (Đức) sẽ gây tác động ngược lại. Tỷ giá hối đoái cố định cùng với sự gia tăng lạm phát đồng nghĩa với việc đồng tiền lên giá thực tế . Điều này dẫn tới việc khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu của các quốc gia này (điển hình là Thái Lan). Bên cạnh đó Thái Lan cũng như một số quốc gia khác chỉ tập trung vào xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực như hàng điện tử, thủ công. Khi nhu cầu hàng điện tư (bán dẫn) giảm cộng với sự suy giảm nói chung về nhu cầu trên thị trường quốc tế (do kinh tế một số nước công nghiệp tăng trưởng chậm lại) và sự cạnh tranh xuất khẩu trong một số mặt hàng tăng lên thì cũng là khi xuất khẩu của Thái Lan tất yếu giảm đi. Hơn nữa xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng làm tăng hụt cán cân tài khoản vãng lai.
1.2. Chính sách quản lý ngoại hối.
ở các nước bị khủng hoảng, trong một thời gian dài bên cạnh chính sách tỷ giá hối đoái cố định, Chính phủ thực hiện chính sách ngoại hối tự do
Trong khi đó thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối ít được kiểm soát và phát triển không đồng bộ. Chính sách này cho phép tự do chuyển đổi đồng bản tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Như vậy vốn quốc tế được tự do lưu chuyển ra vào các quốc gia này.
Dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của chính sách tiền tệ không còn tác dụng, đặc biết khi luồng ngoại tệ được tự do lưu chuyển. Thật vậy như ở Thái Lan khi vốn nước ngoài đổ vào nhiều (do đầu tư được khuyến khích quá mức) sẽ làm tăng cung ngoại tệ, đồng nội tệ bị sức ép lên gia và chế độ tỷ giá hối đoái cố định có nguy cơ bị phá võ. Để giữ tỷ giá hối đoái ở mức cũ, Chính phủ buộc phải áp dụng chính sách tiền tệ thả lỏng (tăng cung đồng nội tệ). Điều này làm thổi phồng một cách giả tạo nhu cầu trong nước, thúc đẩy tiền lương tăng lên, khuyến khích đầu tư trong nước quá mức cần thiết dẫn tới tình trạng dư thừa công sức ở nhiều lĩnh vực,đầu tư thiếu hiệu quả (đầu tư vào bất động sản lớn, khu vực sản xuất hàng điện tử tiêu dùng, hoá dầu ở Thái Lan dư thừa).
Vậy khi thực hiện cùng một lúc chính sách tỷ giá hối đoái cố định, chính sách quản lý ngoại hối tự do (tự do lưu chuyển vốn quốc tế) và chính sách tiền tệ độc lập đã là một tác nhân tổng hợp khiến nền kinh tế phát triển quá nóng bỏng và rơi vào tình trạng mất cân đối bên trong cũng như bên ngoài.
1.3. Hệ thống ngân hàng yếu kém.
Thực tế cho thấy nếu chỉ quan tâm đến tăng trưởng nhanh mà không chủ ý hoàn thiện hệ thống ngân hàng thì dẫn tới việc thâm hụt ngân sách Nhà nước, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng. Hệ thống ngân hàng rất nhạy cảm và chứa nhiều rủi ro, chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng gây nên xáo động lớn trong quá trình điều tiết nền kinh tế.
Bối cảnh của các nước trong khu vực khủng hoảng cho thấy việc đầu tư thiếu hiệu quả, tiêu dùng quá mức (do vay mượn dễ dàng) là do những kẽ hở trong những nguyên tắc hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nếu những chính sách sai lệch kết hợp với hệ thống ngân hàng yếu kém thì hậu quả sẽ càng nghiêm trọng hơn.
Kẽ hở của hệ thống ngân hàng là điều kiện thuận lợi cho những hoạt động đầucơ tiền tệ kiếm lời. Hơn nữa sự quản lý lỏng lẻo của Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng đã tạo điều kiện cho họ đua nhau kinh doanh ngoại hối kiếm lời. Ví dụ như ở Thái Lan, các ngân hàng đã đổ xô đi mua JPY sau đó bán ra để mua USD khi JPY lên giá so với USD. Tình trạng thất thoát vốn ngày càng trở nên nghiêm trọng của các quốc gia này do hoạt động đầu tư và đầu cơ sai lầm. Để duy trì tốc độ tăng trưởng trong điều kiện tỷ giá cố định các ngân hàng đã phải đi vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ sau đó cho vay dài hạn trong nước bằng nội tệ. Như vậy nợ nước ngoài của các nước này vượt xa dự trữ ngoại tệ trong nước. Nợ nước ngoài cao càng nguy hiểm hơn khi các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường khi nhận thấy các nguy cơ đó. Khi nợ ngoại tệ ngắn hạn đến ngày phải trả mà các khoản cho vay dài hạn chưa thu hồi được sẽ đẩy các ngân hàng đến bờ vực phá sản. Khi hệ thống ngân hàng vốn được coi là mạch máu của nền kinh tế bị đổ vỡ tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả không lường trước được đối với nền kinh tế.
Như vậy các nguyên nhân đầu tiên thuộc nhóm các nguyên nhân bên trong nền kinh tế là các nguyên nhân của hệ thống tài chính ngân hàng. Nó là sự kết hợp của 2 chính sách: chính sách tỷ giá hối đoái cố định và chính sách quản lý ngoại hối tự do với một hệ thống ngân hàng yếu kém. Ba nguyên nhân cơ bản này lại càng phát huy khi kết hợp với những sai sót trong xuất khẩu (xuất khẩu chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực) và việc áp dụng chính sách tiền tệ thả lỏng kết hợp cùng với hai nguyên nhân bên ngoài là nguyên nhân về sự suy giảm, thay đổi nhu cầu và tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế cũng như nguyên nhân thuộc về đầu tư quốc tế. Các nguyên nhân này lại làm nẩy sinh hai nguyên nhân phụ mới là: Nợ ngắn hạn nước ngoài cao và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn. Tất cả những nguyên nhân này sẽ được phân tích kỹ hơn ở phần sau.
2. Nền kinh tế phát triển không cân đối.
Sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế các nước ở đây không phải mất cân đối về cơ cấu kinh tế mà là mất cân đối bên trong và mất cân đối bên ngoài. Trong một nền kinh tế mở cân đối bên trong và cân đối bên ngoài là những điều kiện tiên quyết của sự cân bằng tổng thể và phát triển ổn định của nền kinh tế.
Cân đối bên trong là đòi hỏi công ăn việc làm đầy đủ, giá cả ổn định. Phương trình điều kiện cân đối bên trong là:
Y = C + I + G + CA
Trong đó: Y là mức sản lượng tiềm năng
C là mức tiêu dùng
I là đầu tư
G là chi tiêu của Chính phủ
CA thặng dư tài khoản vãng lai
Phương trình cho thấy những công cụ của chính sách tài chính tác động đến tổng cầu và do đó tác động đến sản lượng trong ngắn hạn. Sự mở rộng về tài chính (tăng G hoặc giảm thuế) sẽ kích thích tổng cầu làm tăng sản lượng. Tương tự sự phá giá đồng tiền nội tệ (tỷ giá tăng lên) sẽ làm cho cầu hàng hoá dịch vụ trong nước ẻ hơn so với hàng hoá dịch vụ nước ngoài đồng thời cũng làm tăng cầu về sản lượng. Vậy có thể duy trì cân đối bên trong thông qua những thay đổi về chính sách tài khoá và tỷ giá hối đoái một cách thích hợp.
Cân đối bên ngoài là mức thặng dư hay thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức tối ưu. Tức là thặng dư không quá nhiều mà nước đó không còn nợ được vì thâm hụt không quá cao mà nước đó không có khả năng trả nợ. Các chuyên gia IMF cho rằng mức thâm hụt tài khoản vãng lãi ở dưới 5% GDP là mức có thể kiểm soats và thậm chí là dáu hiệu đáng mức vì nó tạo điều kiện cho đầu tư và thu hút vốn từ bên ngoài. Các nước trong khu vực có tỷ lệ thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức báo động (Thái Lan: 7,6%; Malaysia 8,0% năm 1996).
Thâm hụt tài khoản vãng lai cao ở một số nước là do kim ngạch xuất khẩu giảm. Chính sách tỷ giá hối đoái cố định kết hợp với chính sách xuất khẩu không đồng đều sẽ làm xuất khẩu giảm khi USD tăng giá, nhu cầu trên thị trường thế giới chuyển hướng và suy giảm cạnh tranh xuất khẩu ngày càng găy gắt.
Do thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng nghiêm trọng đã buộc các nước trong khu vực phảivay nóng các khoản vay ngắn hạn của nước ngoài để bù đắp cho các khoản chi tiêu quá mức. Nói cách khác, tốc độ tăng trưởng nóng của khu vực trong những năm qua dựa một phần chủ yếu vào vốn vay nước ngoài.
B- Các nguyên nhân bên ngoài nền kinh tế.
1. Thương mại toàn cầu giảm sút, cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Phân tích các nguyên nhân bên trong đã đề cập tới vấn đề này. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu (hay tăng trưởng dựa vào xuất khẩu) của các nước trong khu vực khiến họ rất phụ thuộc vào thị trường thương mại quốc tế. Các nước này lại tập trung sản xuất để xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực (điện tử, dệt, sợi…) mà họ có lợi thế. Trong khi đó nhu cầu thị trường quốc tế về các mặt hàng đó suy thoái mạnh. Hơn nữa các nước này gặp phải các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu một số mặt hàng mà lợi thế so sánh trước đây thuộc về họ (Trung Quốc, Mỹ La tinh, ấn Độ…). Xuất khẩu tất yếu sẽ suy giảm, tài khoản vãng lai bị thâm hụt.
2. Đầu cơ
Một tác nhân vô cùng quan trọng từ bên ngoài là đầu cơ. Có thể coi hoạt động đầucơ là một mồi lửa đổ vào một vết dầu loang. Khi nhìn thấy nguy cơ khủng hoảng, những dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng - tài chính ở khu vực, nhiều nhà đầu cơ ở nước ngoài đã tăng cường hoạt động đầu cơ tiền tệ. Trong số 8.300 quĩ tín dụng tư nhân ở Mỹ (với tổng số tài khoản vào khoảng 100 tỷ USD) đã có nhiều quĩ được sử dụng để phục vụ các hoạt động đầu cơ ở khu vực. Các nhà đầucơ thực hiện chu trình đầucơ bằng cách vay đồng tiền nội địa và bán chúng trên thị trường tiền tệ nhằm kiếm lời ở vòng quay sau của đồng tiền. Để giữ cho tỷ giá hối đoái ổn định, các ngân hàng trung ương buộc phải mua đồng nội trệ và cung cấp các tài sản ngoại tệ mà nhà đầu cơ muốn mua. Đồng tiền được chuyển đổi tự do, mức độ liên kết cao giữa các thị trường tài chính tiền tệ trên thế giới cũng như tốc độ và khối lượng buôn bán ngoại tệ khổng lồ trên các thị trường đã làm cho dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng trung ương nhanh chóng cạn kiệt và cuối cùng họ buộc phải phá giá (hoặc thả nổi đồng tiền).
3. Hiệu ứng lan truyền.
Thật dễ dàng giải thích về sự khủng hoảng của các nước khi các nguyên nhân bên trong đã chín muồi và 2 nguyên nhân bên ngoài nêu trên tác động mạnh mẽ. Thế nhưng với những nước mà không có các nguyên nhân trên hoặc có nhưng yếu thì sự khủng hoảng được giải thích như thế nào?
Điều đó được giải thích bằng hiệu ứng lan truyền. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Nền kinh tế các nước trong khu vực nằm vào xu thế mở cửa, phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài thì khủng hoảng tại một nước hay một khu vực sẽ có ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như đến từng nền kinh tế riêng biệt. Mức độ ảnh hưởng đối với mỗi nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào mối quan hệ thương mại, đầu tư và tiền tệ đối với khu vực xảy ra và khủng hoảng.
Khi đồng tiền của một nước bị phá giá thì hàng hoá của nước đó sẽ được tăng tính cạnh tranh, xuất khẩu thuận lợi song nhập khẩu lại gặp khó khăn. các quốc gia lân cận có quan hệ thương mại với nước đó gặp khó khăn do hàng hoá mất tính cạnh tranh tương đối , xuất khẩu khó khăn và thị trường nội địa bị hàng ngoại tràn vào. Nhưng ở Nhật bản, 40% kim ngạch xuất khẩu sang các nước châu á nên sẽ chịu những tổn thất nặng nề do đồng tiền các nước này mất giá. Để bù đắp lại những thiệt hại này các nước đó buộc phải phá gía hoặc thả nỗi đồng tiền nội địa.
Hơn nữa toàn cầu hoá về kinh tế dẫn tới nhất thể hoá thị trường tài chính - tiền tệ thế giới. Sự phá giá và khủng hoảng của đồng BAHT kéo theo sự khủng hoảng sâu sắc của hệ thống tài chính và kinh tế Thái lan khiến các nhà đầu tư và kinh doanh mất lòng tin vào đồng tiền và nền kinh tế khác trong khu vực. Họ sẽ vội vàng rút vốn của họ ra khỏi các thị trường này và khủng hoảng sẽ xẩy ra.
Cơ chế làm rung động thị trường chứng khoán trên toàn thế giới là một nguyên nhân lan truyền cuối cùng kéo theo hàng loạt cac kinh tế vững mạnh khác cũng bị tác động bởi cuộc khủng hoảng. Do các Công ty xuyên quốc gia có quan hệ chặt chẽ với nhau trên thị trường Quốc tế nên khi một Công ty ở một nước có dấu hiệu làm ăn thua lỗ thì gía cổ phiếu của các Công ty có liên quan ở các nước khác cũng bị tụt đi một các nhanh chóng. Ngoài ra để có tiền cho hoạt động đầu cơ tại các thị trường đã lâm vào khủng hoảng các nhà đầu cơ buộc phải bán chứng khoán của họ. Trong khi thị trường chứng khoán ở nước họ cũng bị tụt giá thì họ phải bán chứng khoán ở thị trường nước ngoài. Như vậy hiệu ứng lan truyền đã xảy ra thông qua thị trường chứng khoán.
II- Các giải pháp
1. ở cấp độ quốc tế
17,2 tỉ USD , 43 tỉ USD và 57 tỉ USD là các khoản cho vay trong " chương trình cứu trợ khẩn cấp chọn gói " của IMF dành cho 3 nước Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc. Có thể nói sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp và to lớn của cộng đồng quốc tế thông qua vai trò tổ chức điều phối và giám sát của IMF là vô cùng quan trọng, có hiệu lực tức thì và mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng tuy rằng mà các điều kiện mà IMF đặt ra cho các nước này cực kỳ ngặt ngèo. Chương trình của IMF áp đặt đã dẫn tới tình trạng trì trệ kinh tế, nhiều công ty bị xô đến tình trạng phá sản… bất ổn chính trị ở Indonesia khi ông Shuarto phải từ chức.
Sự hỗ trợ quốc tế còn được thể hiện ở những thoả thuận của các con nợ và nhà cho vay trong việc hoãn nợ, đảo nợ, bảo đảm nợ nhằm cải thiện tình trạng nợ nần của các nước đang đắm chìm trong khủng hoảng. Sự hỗ trợ quốc tế còn là lời kêu gọi các thị trường rộng lớn như Mỹ, EU… mở rộng cửa hơn nữa cho hàng xuất khẩu của các nước khu vực khủng hoảng nhầm làm tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất - nhập khẩu và thu nhập ngoại hối của họ.
2. ở cấp độ khu vực
" Tự cứu mình trước khi trời cứu " là phương châm xử thế của các nước trong khu vực. Ngay từ những tháng đầu xảy ra cuộc khủng hoảng, các nước đã đề xuất những ý tưỏng phối hợp các cố gắng với nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp vượt qua khủng hoảng. Đã xuất hiện nhiều ý tưởng nhằm thành lập những thể chế tài chính tiền tệ cho khu vực như : Quỹ tiền tệ châu á quy mô 100 tỉ USD, ngân hàng thanh toán bù trừ đa biên ASEAN " hay thoả thuận giữa các bộ ttrưởng tài chính ASEAN về khuyến khích sử dụng đồng bản tệ ttrong thanh toán các giao dịch thương mại nội bộ ASEAN trên cơ sở thoả thuận song phương và vẫn lấy đồng USD để tham khảo tỉ giá chuyển đổi giữa các đồng tiền với nhau. Đặc biệt, Trung Quốc cam kết không phá giá đồng Nhân dân tệ , bởi nếu đồng Nhân dân tệ bị phá giá thì một làn sóng phá giá tiếp theo trong khu vực là không thể tránh khỏi. Ông Chu Dung Cơ thủ tướng Trung Quốc nhiều lần khẳng định bằng mọi cách sẽ giữ giá đồng Nhân dân tệ, một cách để giúp các nước bị khủng hoảng.
3. ở cấp độ quốc gia
Do " uống thuốc " của IMF và những thúc bách chính bản thân mình, các nước bị khủng hoảng đã có những cố gắng đáng kinh ngạc, các nỗ lực để làm tăng năng lực tài chính - ngân hàng và ổn định hoá, lành mạnh hoá khu vực này nhằm tạo điều kiện tiên quyết cho ổn định hoá, phục hồi và tăng trưởng kinh tế tiếp theo.
Thái Lan đóng cửa hơn 50 công ty tài chính " có vấn đề " về khả năng thanh toán, Indonesia và Hàn Quốc cũng đóng cửa nhiều cửa hàng ốm yếu trong nước. Thái Lan còn cho phép chứng khoán hoá các ngân hàng nhằm
cải thiện khả năng tiền mặt của ngân hàng và làm tăng lưu chuyển vốn xã hội. Thị trường tài chính của các nước khủng hoảng Cũng được mở rộng cửa hơn do đầu tư nước ngoài, các nước Thái Lan, Indonesia, Philipin và Hàn Quốc đều xoá bỏ giới hạn cổ phần dười 50% của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, nhiều khoản chi ngân sách chính phủ cũng bị cắt giảm, nhất là ngân sách quân sự. Thái Lan giảm 20% ngân sách quân sự năm 98 so với năm 97. Nhật Bản cắt giảm chi phí quân sự năm 98 tới 7,6 tỉ USD.
Tất cả các giải pháp để vượt qua cuộc khủng hoảng đã có những kết quả rất tốt, cuộc khủng hoảng đã bị đẩy lùi vào quá khứ, năm 1999 là năm mà các nước có sự phục hồi đầy ấn tượng mà nhiều chuyên gia kinh tế cũng phải kinh ngạc. Bảng thống kê sau cho ta thấy những nỗ lực của các nước đã có kết quả tốt như thế nào, con tàu kinh tế châu á đã vượt qua cơn bão lớn và lại tiếp tục cuộc hành trình của nó.
Bảng 3 Tỷ giá hối đoái và chỉ số chứng khoán trên các thị trường tài chính tiền tệ châu á năm 1999
Tỉ giá hối đoái
( Tương đương 1 USD)
Chỉ số của các
thị trưòng chứng khoán
Ngày
14-12 1999
% thay đổi so với một năm trước đó
Ngày
14-12 1999
% thay đổi so với ngày 31-12-1998
( tính bằng USD )
Trung Quốc
8,28
0
1512,2
+ 24
Hồng Công
7,77
- 0,23
16282,7
+ 61,5
Indonesia
7205
+ 7,5
648,4
+ 79,7
Malaisia
3,8
+ 0
769,9
+ 34,1
Philipin
40,7
- 1,5
2011,3
- 2,3
Singapo
1,68
- 1,7
2369,3
+ 67,1
Hàn Quốc
1134
+ 6,6
1002,6
+ 89,1
Đài loan
31,6
+ 2,1
7850,1
+ 24,7
Thái Lan
38,6
- 3,7
438,2
+ 15,9
Nhật Bản
104
+ 11
18165,6
+ 42,8
Tốc tăng trưởng
Tỷ lệ lạm phát
1998
1999
1998
1999
Trung Quốc
7,8
7,5
-1,1
-1,2
Hồng Công
- 5,1
2,0
0,9
-3,9
Indonesia
- 13,2
0,1
73,1
18,7
Malaisia
- 7,5
4,5
9,1
3,5
Philipin
- 0,5
3,1
10,8
6,9
Singapo
0,3
5,7
- 0,4
1,3
Hàn Quốc
- 5,8
9,1
5,3
2,6
Đài loan
4,7
5,4
2,4
1,1
Thái Lan
-10
3,7
9,7
-0,1
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát ở Đông á năm 1999
Phần III
ảnh hưởng của khủng hoảng
tài chính tiền tệ tới FDI ở Việt Nam
I- ảnh hưởng của khủng hoảng tới việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vài Việt Nam sau khi lên đến đỉnh cao là năm 1996 (với 408 dự án được cấp giấy phép và tổng số vốn đăng ký là 8.528 triệu USD) giảm đi rất nhiều và giảm rõ rệt nhất vào năm 1998, đến nay tuy có nhiều dự án được đầu tư hơn song sau cuộc khủng hoảng tài chính Việt Nam vẫn là chưa đạt được số vốn đầu tư như yêu cầu.
Sự giảm sút đó có nguyên nhân từ phía chủ quan và khách quan. Chủ quan là do sự điều chính chính sách đầu tư nước ngoài trực tiếp từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu, tăng tỷ lệ góp vốn bên phía Việt Nam, phân bố lại cơ cấu thu hút các dự án đầu tư tại thị trường Việt Nam có tính hấp dẫn lớn đã trở nên bão hoà. Ngoài 2 nguyên nhân nổi bật trên chúng ta có thể nhận thấy còn nhiều nguyên nhân khác đã tồn tại từ trước đó. Về mặt khách quan sự giảm sút luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp trên thế giới trong những năm trở lại đây ngày càng gay gắt: đầu tư nước ngoài trực tiếp vào các nước đang phát triển có chiều hướng chuyểntừ khu vực Đông Nam á sang khu vực khác như Trung Quốc, Mỹ la tinh, Đông Âu…
Vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới đầu tư nước ngoài trực tiếp và Việt Nam bao gồm nhiều tác động có quan hệ qua lại với nhau, việc chia nhỏ các vấn đề để phân tích là không cần thiết và rất dễ gây trùng lặp nên đề án chỉ phân tích 3 tác động chủ yếu sau:
- Tác động đến môi trường đầu tư tại Việt Nam
- Tác động tới khả năng đầu tư của đối tác đầu tư nước ngoài.
- Tác động tới sản phẩm đầu ra của đầu tư nước ngoài trực tiếp.
1. Tác động tới môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Việt Nam là một nước thuộc khu vực xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và chịu nhiều ảnh hưởng cuả xu hướng chung trong khu vực. Thế nhưng trong cuộc khủng hoảng này, Việt Nam lại là nước ít chịu ảnh nưởng bởi các tác động đến nền kinh tế do: đồng tiền Việt Nam chưa được chuyển đổi (không có khả năng thanh toán bù trừ) trong khu vực; vốn nước ngoài vào Việt Nam không tăng giảm một cách đột ngột vì cho đến thời điểm này Việt Nam chưa có thị trường chứng khoáng. Chính vì lẽ đó ta có thể nhìn tác động của cuộc khủng hoảng tới môi trường đầu tư tại Việt Nam với hai cách khác nhau.
Với cách nhìn "đánh đồng" có nghĩa là coi môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ bị kém hấp dẫn đi vì các chủ đầu tư xem Việt Nam như một địa chỉ đầu tư giống các nước khác trong khu vực. Thật vậy khu vực Đông Nam á trong vòng một thập kỷ qua nổi lên thành một nơi thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp có tính hấp dẫn cao do kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài; các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu tương đối giống nhau. Hơn nữa các quốc gia trong khu vực đều có lợi thế trong thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp như thị trường tiêu thụ lớn, giá nhân công rẻ, nguyên vật liệu phong phú. Việc thực hiện khu vực mậu dịch tự do AFTA, tiến tới thực hiện khu vực đầu tư AIA dần biến khu vực Đông Nam á như một thể thống nhất tương đối về thương mại và đầu tư. Đặc biệt quan hệ thương mại của Việt Nam đối với ASEAN chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, các nước ASEAN chiếm khoảng 25% tổng lượng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, điều này là lý do khiến các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng nhiềudo cuộc khủng hoảng gây ra. Như vậy với cách nhìn thứ nhất này, môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn với con mắt của một số nhà đầu tư ngắn hạn.
Với cách nhìn "phân biệt" các nhà đầu tư nhận định Việt Nam như là một ốc đảo bình yên tương đối hơn so với các nước đang bị cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ phá hoại. Để có thể chiếm lĩnh thị trường khu vực các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Việt Nam rồi bán hàng của mình tại các nước ASEAN thông qua cơ chế tự do thương mại của AFTA (co CPT qui định). Như vậy với cách nhìn thứ hai môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn tương đối so với một số nước trong khu vực với con mắt của các nhà đầu tư có ý định sản xuất hàng tiêu thụ tại thị trường khu vực.
2. Tác động tới khả năng đầu tư đối tác đầu tư nước ngoài.
Đối với các nhà đầu tư yếu tố quyết định nhất đối với họ là khả năng tài chính để đầu tư. Nếu môi trường đầu tư có hấp dẫn, điều kiện kinh doanh có nhiều thuận lợi nhưng họ không có vốn thì ý đồ đầu tư cũng không thực hiện được. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm giảm khả năng đầu tư của các nhà đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là đối với các Công ty ở khu vực Châu á (chiếm 70% lượng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam).
Các Công ty đa quốc gia khi đầu tư họ lấy vốn chủ yếu từ công ty mẹ của họ và vay từ các ngân hàng, các tổ chức Quốc tế trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đầu tư chủ yếu là từ nguồn vốn vay ngân hàng. Trong điều kiện khủng hoảng các điều kiện vay vốn khác đều gặp khó khăn.
Các ngân hàng ở Hàn Quốc, Thái Lan, Inodonexia, Philipines, Malaysia đều gặp khó khăn, số nợ tăng cao dẫn đến khủng hoảng nợ và bị phá sản hàng loạt. Một số ngân hàng hay công ty tàichính ở các nước như Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản tuy không đến mức bị phá sản nhưng cũng bị thiếu vốn cho vay. Như vậy khả nanưg vay vốn của các nhà đầu tư bị giảm. Mặt khác sau cuộc khủng hoảng các ngân hàng đã mất đi phần nào lòng tin vào các nhà đầu tư, với cách nghĩ rằng việc vay vốn không đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm độ rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng.
Trong khi đó cuộc khủng hoảng đã làm lãi suất cho vay tăng cao ở các nước. Dù có được ngân hàng chấp nhận cho vay thì các nhà đầu tư cũng phải tính toán kỹ hơn giữa chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu về do ảnh hưởng của việc tăng lãi suất khi vay vốn.
Các dự án đầu tư tại Việt Nam ngoài nguồn vốn vay ngân hàng thì vốn của các công ty chiếm khoảng 40%, còn lại là vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế khác. Thế nhưng với tình hình lúc bấy giờ ngay cả nguồn vốn của công ty cũng gặp trở ngại . Chính phủ các quốc gia bị khủng hoảng yêu cầu các tập đoàn lớn của họ tập trung nguồn lực để cứu nguy cho nền kinh tế đất nước, điều này sẽ làm giảm các nhà đầu tư của các nhà tư bản lớn vào Việt Nam. Bên cạnh những điều kiện ngặt nghèo của IMF đưa ra về việc chuyển vốn ra nước ngoài đã gây khó khăn cho việc giúp đỡ các tập đoàn lớn đối với các công ty con.
Đến đây ta có thể thấy rằng mọi nguồn lực cấu thành khả năng đầu tư của các công ty trong khu vực hầu như giảm sút do ảnh hưonửg của cuộc khủng hoảng. Điều này đồng nghĩa với khoảng 70% luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam bị giảm. Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực, với sự cố gắng vực dậy nền kinh tế đất nước, với chính sách mở cửa, đặc biệt là mối quan hệ ngoại giao với Mỹ ngày càng có xu hướng tốt đẹp hơn, tạo thuận lợi cho các tập đoàn kinh doanh lớn của Mỹ và EU đầu tư vào Việt Nam.
3. Tác động tới sản phẩm đầu ra của đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam.
Một nguyên nhân quan trọng tạo ra quá trình chuyển dịch các yếu tố sản xuất dưới hình thức đầu tư chính là thị trường tiêu thụ hàng hoá, là khả năng tiêu thụ các sản phẩm đầu ra của qui trình đầu tư. Chia theo hình thức tiêu thụ thì có 2 loại sản phẩm đầu ra của đầu tư nước ngoài trực tiếp.
- Sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu
- Sản phẩm xuất khẩu.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đã tác động lớn tới 2 loại sản phẩm này vì nó tác động trực tiếp tới lĩnh vực thương mại và lĩnh vực tài chính - ngân hàng Việt Nam.
Khi phân tích tác động của cuộc khủng hoảng đến sản phẩm đầu ra của đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam ta phân tích cả những tác động đến giá thành sản xuất của sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm đó. Tức là nghiên cứu cả tác động tới yếu tố đầuvào khi nghiên cứu về các yếu tố đầu ra.
Những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất có thể là từ nhập khẩu hoặc mua ngay tại thị trường Việt Nam. Đầu vào trong nước chủ yếu là lao động, nguyên vật liệu hay chi phí thuê đất (đói với các dự án 100% vốn nước ngoài). Nói chung giá của những mặt hàng này tương đối ổn định. Nếu các nhà đầu tư đem tiền vốn bằng USD vào Việt Nam thì không mất chi phí đổi tiền thì lợi nhuận của họ sẽ tương đối cao thì chi phí nội địa rẻ tương đối. Thế nhưng đối với các nhà đầu tư khu vực đại diện cho 70% vốn đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam thì chi phí đầu vào nội điạ lại tăng tương đối do đồng tiền của họ mất giá nhiều hơn đồng tiền Việt Nam.
Đầu vào nhập khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, đó là công nghệ, dây chuyền sản xuất, linh kiện, một số mặt hàng bán bán thành phẩm nhập về để gia công, bí quyết kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hoá. Cuộc khủng hoảng đã tác động tới giácả và khối lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam.
Trong những năm gần đây Việt Nam nhập khẩu khoảng 60 - 65% giá trị là từ các nước trong khu vực. Do đồng tiền bị phá giá tại các nước trong khu vực đã khiến các công ty ở khu vực gia tăng bán hàng ở nước ta, giá hàng nhập khẩu rẻ đi rất nhiều, chi phí nhập lại giảm. Nhìn chung nếu dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam nếu sử dụng các yếu tố đầuvào là nhập ngoại sẽ được khuyến khích dưới tác động của cuộc khủng hoảng trong ngắn hạn. Tuy nhiên để đánh giá các nhà đầu tư có lợi hay không ta phải phân tích tác động của cuộc khủng hoảng tới yêú tố đầu ra đặt trong sự kết hợp với kết quả tác động tới giá thành đầu vào đã biết.
3.1. Tác động tới đầu tư nước ngoài trực tiếp vào sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu.
Các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu có nghĩa là sản xuất ra hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Đối với nước ta trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới kinh tế cũng là thực hiện công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu. Vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp là một nguồn vốn quan trọng thực hiện mục tiêu này. Do đó trong những năm đầu các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu sản xuất sản phẩm tiêu thụ dùng trong nước rồi sau đó mới chuyển sang xuất khẩu. Tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ trong nước của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp năm 1995 là 69%, năm 1996 là 56%. Đối với phía chủ đầu tư nước ngoài thì đầu tư là một hình thức chiếm lĩnh thị trường thay thế cho thương mại. Khi thay thế thương mại bằng đầu tư trực tiếp chủ đầu tư không những tránh được các hàng rào thương mại khi đưa hàng vào Việt Nam mà còn tận dụng một số lợi thế so sánh về giá nhân công, nguyên liệu đểgiảm chi phí sản xuất. Ngoài ra đầu tư cũng tích cực tạo ra nhu cầu mới cho thị trường nội địa thông qua việc tạo ra các sản phẩm mới, góp phần tăng thu nhập để kích cầu tiêu dùng trong nước.
Sức mua của một thị trường với gần 80 triệu dân là không đổi khi thu nhập không tăng. Thế nhưng cuộc khủng hoảng đã làm hàng nhập khẩu nói chung và Việt Nam tăng lên mà giá lại giảm đi. Nhập khẩu tăng sẽ chèn ép thị trường đầu ra của sản xuất trong nước trong đó có sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp
Như vậy dưới tác động của cuộc khủng hoảng nhìn chung luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất hàng thày thế hàng nhập khẩu sẽ giảm. Tuy nhiên, luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu từ bên ngoài khu vực sẽ được khuyến khích do cả chi phí nội địa và chi phí nhập khẩu đều rẻ, đầu ra được đánh giá thuận lợi hơn so với thương mại. Điều này được chứng minh bởi sự lên ngôi của các nhà đầu tư ngoài khu vực như Pháp, Mỹ trong danh sách các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Trong quí I năm 1998 (thời điểm cuộc khủng hoảng xảy ra), Pháp có 3 dự án đầu tư vào nước ta với tổng số vốn đăng ký 75,97 triệu USD; Mỹ có thêm 3 dự án với tổng sốn vốn đăng ký là 46,48 triệu USD.
3.2. Tác động tới đầu tư nước ngoài trực tiếp vào sản xuất hàng xuất khẩu.
Cuộc khủng hoảng đã tác động chủ yếu lên lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam và gián tiếp tác động tới đầu tư nước ngoài trực tiếp vào sản xuất hàng xuất khẩu.
Một là, tác động của cuộc khủng hoảng làm giảm lượng hàng xuất khẩu sang các nước trong khu vực.
Hai là, tác động của cuộc khủng hoảng làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam so với hàng của các nước trong khu vực khi xuất ra thị trường ngoài khu vực. Khi đồng tiền các nước bị phá giá mạnh thì tính cạnh tranh hàng xuất khẩu của họ tăng cao.
Ba là, tác động của các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào xuất khẩu tại chỗ như khách sạn, văn phòng giảm mạnh.
Như vậy với bất cứ một hình thái xuất khẩu nào sang khu vực nào đi nữa thì việc giảm khả năng xuất khẩu sẽ làm suy giảm khả năng thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp vào sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới cho dù nguyên liệu đầu vào là nhập khẩu hay nội địa.
Tuy nhiên do nền kinh tế Việt Nam tương đối ổn định hơn so với các nước trong khu vực và do lợi ích mà AFTA tạo ra nên trong trung hạn và dài hạn các nước bên ngoài ASEAN định xâm chiếm thị trường ASEAN qu con đường đầu tư vaò Việt Nam rồi bán hàng qua các nước ASEAN khác.
Tóm lại cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra ở khu vực Châu á vừa qua đã làmcho khả năng thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam giảm do môi trường đầu tư giảm tính hấp dẫn, nhà đầu tư giảm khả năng về vốn, sản phẩm đầu ra khó tiêu thụ.
Thực tế cho thấy:
- Số dự án tiếp nhận 6 tháng cuối năm là 1997 là 134 dự án, giảm 20,24% so với 6 tháng đầu năm. Tổng dự án năm 1997 là 302, giảm 10% so với năm 1996. Trong quí I năm 1998 số dự án tiếp nhận là 45 (giảm 47% ó với quí 1 năm 1996).
- Số dự án cấp mới 6 tháng cuối năm 1997 là 161 giảm 8% so với 6 tháng đầu năm.
- Số dự án cấp mới quí I năm 1998 là 56, giảm 6% cùng kỳ năm trước.
- Số dự án bổ sung 6 tháng cuối năm 1997 là 46, giảm 52,58% so với 6 tháng đầu năm.
- Quí I năm 1998 có 12 dự án xin bổ sung vốn với số vốn tăng thêm là 20 triệu USD, lượng dự án bổ sung vốn chỉ bằng 50% và vốn tăng thêm chỉ bằng 26% so với cùng kỳ năm 1997.
II- ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới việc triển khai các dự án sau cấp phép và hoạt động của các dự án đang kinh doanh.
1. Tác động tới việc triển khai các dự án sau cấp phép.
Cũng giống như việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài sau cấp phép gặp phải những khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực gây ra, mà trước hết là vấn đề môi trường đầu tư.
Mặt khác do khả năng tài chính của công ty nước ngoài giảm nên tiến độ triển khai dự án mới cũng bị chậm lại thậm chí nhiều dự án xin rút.
Bên cạnh đó do nhận thấy khả năng xuất khẩu từ Việt Nam giảm, sức mua cảu thị trường Việt Nam có chiều hướng thu hẹp cộng với tình hình làm ăn thua lỗ và kinh doanh khó khăn của cacs doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài ngần ngại.
Việc dừng và giảm tiến độ triển khai các dự án đầu tư nước ngoài thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản: do vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài; thị trường bị thu hẹp nên khó huy động vốn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Nhiều dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp trong lĩnh vực chế biến nông sản, sản xuất vải sợi may mặc, giầy dép, sắt thép xây dựng, linh kiện điện tử cũng xin dừng hoặc giảm tiến độ triển khai do khó khăn về vayvốn hoặc do đối tác nước ngoài bị phá sản bởi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở nước họ. Các dự án thuộc lĩnh vực này cũng gặp khó khăn cả về thị trường trong và ngoài nước. Thị trường xuất khẩu cạnh tranh găy gắt, giá xuất khẩu trong quí I năm 1998 giảm mạnh: giá cao su giảmg 42%, lạc nhân giảm 30%, hạt điều giảm 6%, các sản phẩm dệt may, da, điện tử dân dụng giảm từ 10-20%. Thị trường trong nước bị thu hẹp do hàng nhập khẩu cùng loại tràn vào với khối lượng lớn giá lại rẻ.
Như vậy cuộc khủng hoảng tài chính khu vực gây ra không ít những khó khăn trong việc triển khai và thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam nhất là đối với những dự án mới được cấp phép, nhiều dự án đã phải dừng lại hoặc chậm tiến độ.
2. Tác động tới hoạt động của các dự đầu tư nước ngoài trực tiếp đã đi vào sản xuất kinh doanh.
Cuộc khủng hoảng không chỉ làm ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hay việc triển khai các dự án đã được cấp phép, nó còn gây ảnh hưởng đến những dự án đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ nhất, họ lo ngại về triển vọng kinh tế Việt Nam, về những biến động tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam, họ cho rằng những diễn biết phức tạp của hệ thống tài chính trong khu vực sẽ gây ảnh hưởng không nhỏđêns Việt Nam, mặc dù dự án đang hoạt động song bằng mọi cách họ sẽ ngừng việc cung cấp vốn theo cam kết.
Thứ hai, các dự án sản xuất hàng xuất khẩu phải sản xuất cầm chừng, vì phần lớn hàng hoá sản xuất chủ yếu xuất khẩu sang các nước Như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông. Mà lúc này thị trường các nước đó đang bị thu hẹp lại do tác động của cuộc khủng hoảng. Nếu xuất khẩu sang các thị trường khác không nằm trong khu vực thì khả năng cạnh tranh trên thị trường này không được cao. Các dự án sản xuất hàng thay thế nhập khẩu gặp khó khăn do sức mua của nó trong nước giảm, hàng hoá nhập khẩu cùng loại tràn vào với số lượng lớn và giá rẻ gây sức cạnh tranh và tạo sức ép buộc giảm giá . Khu vực kinh doanh du lịch, khách sạn gặp phải sự cạnh tranh từ các nước láng giềng do họ giảm giá; lượng khách du lịch đến Việt Nam giảm nhanh.
Thứ ba, trong khi sức ép giảm giá xảy ra đối với sản phẩm đầu ra của hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì họ gặp phải khó khăn do chí phí đầu vào tăng.
Thứ tư, do các Công ty mẹ bị phá sản vỡ nợ, hoặc bị ràng buộc các điều kiện để chuyển vốn về các công ty con tại Việt Nam dẫn đến tình trạng không chuyển vốn về Việt Nam được và cuối cùng là các công ty đầu tư nước ngoài gặp khó khăn do nợ ngân hàng quá nhiều.
Với những lý do phân tích nêu trên đã làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam thực sự khó khăn, nhiều chỉ tiêu kinh doanh của khu vực này bị suy giảm. Cuộc khủng hoảng tài chính buộc nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thu hẹp qui mô sản xuất, hoạt động cầm chừng khoảng 50-60% công suất; họ xin giảm tỷ lệ xuất khẩu và tăng tỷ lệ thu nội tệ; trì hoãn kế hoạch bổ sung vốn của các giai đoạn sau. Tình trạng còn tồi tệ hơn khi số doanh nghiệp làm ăn không có lãi tăng lên nhanh chóng (chiếm khoảng 2/3 số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Trong lĩnh vực kinh doanh: thực phẩm, bưu chính viễn thông, xây dựng kinh doanh nhà đất, tỷ lệ số doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ đạt khoảng 38-40%. Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, kinh doanh khách sạn, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp chỉ chiếm có khoảng 20% số doanh nghiệp có vốn dtnước ngoài làm ăn có lãi.
Trước tình hình làm ăn thua lỗ của số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kéo theo thất nghiệp ngày càng gia tăng. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính có khoảng 27 vạn người Việt Nam trực tiếp làm ăn tại đây ( bằng 8,4% số lao động bình quân trong khu vực Nhà nước, chiếm 0,75% tổng số lao động trong số 36 triệu lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân). Theo số liệu thống kê, khi cuộc khủng hoảng diễn ra số lao động phải nghỉ việc chiếm khoảng 8-10% trong tổng số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do các dự án bị giải thể, ngừng xây dựng, giãn tiến độ triển khai hoặc phải thu hẹp qui mô sản xuất, đặc biệt là sô lao động làm việc cho các doanh nghiệp sản xuất dày dép, may mặc, lắp ráp điện tử, lắp ráp ô tô. Cụ thể là ở Liên doanh nhà máy sản xuất ô tô Hoà bình giảm 400 lao động, xí nghiệp sản xuất giầy xuất khẩu Tuekwany ở Đồng Nai giảm 800 lao động.
Tình hình hoạt động đầy khó khăn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực khiến có thêm nhiều dự án bị thu hồi giấy phép trước thời hạn và đẩy con số này lên tới 374 dự án tính đến hết tháng 4/1998 với số vốn đăng ký là 2.869 USD. Những nước bị rút giấy phép nhiều nhất là Hồng Kông, Pháp và Australia.
Kết luận
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997 không chỉ mang tính chất khu vực mà còn có tính toàn cầu. Chính vì vậy việc nghiên cứu về cuộc khủng hoảng này là hết sức quan trọng nhằm tránh sự lặp lại một cách đáng tiếc. Đề án trên nghiên cứu, phân tích cuộc khủng hoảng đã giải quyết được hai vấn đề lớn là:
Một là, phân tích được đâu là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Hai là, phân tích được tác động của nó tới đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Do thời gian không nhiều và tài liệu tham khảo ít nên đề án của em vẫn còn nhiều sai sót và không tránh khỏi những nhận xét phiến diện mang chính chủ quan. Em mong nhận được những chỉ bảo và các gợi ý của các thầy cô giáo đề đề án được hoàn thiện. Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn, đặc biệt là cô giáo Thạc sỹ. Lê Ngọc Liên đã giúp em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
1. Khủng hoảng tài chính tiến tệ ở Châu á - Bộ Thương mại
3. Kinh tế thế giới 1999-2000 - Viện Kinh tế thế giới
4. Tạp chí Tài chính Ngân hàng các số năm 1997, 1998, 1999.
5. Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương, số 7, 8/ 1999
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I- Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á và tính chất của nó 2
I- Tổng quan về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 2
II- Tính chất của cuộc khủng hoảng 3
1. Cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu 3
2. Cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế sâu sắc 4
3. Cuộc khủng hoảng diễn ra theo tính chất làn sóng 4
Phần II- Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và một số giải pháp 5
I- Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng 5
A- Các nguyên nhân bên trong nền kinh tế 5
1. Chính sách tài chính tiền tệ không hợp lý, hệ thống ngân hàng yếu kém 5
2. Nền kinh tế phát triển không cân đối 8
B- Các nguyên nhân bên ngoài nền kinh tế 9
1. Thương mại toàn cầu giảm sút, cạnh tranh ngày càng gay gắt 9
2. Đầu cơ 10
3. Hiệu ứng lan truyền 10
II- Các giải pháp 11
1. ở cấp độ quốc tế 11
2. ở cấp độ khu vực 12
3. ở cấp độ quốc gia 12
Phần III - ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ tới FDI ở Việt Nam 15
I- ảnh hưởng của khủng hoảng tới việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam 15
1. Tác động tới môi trường đầu tư tại Việt Nam 15
2. Tác động tới khả năng đầu tư đối tác đầu tư nước ngoài 17
3. Tác động tới sản phẩm đầu ra của đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam 18
II- ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới việc triển khai các dự án sau cấp phép và hoạt động của các dự án đang kinh doanh 21
1. Tác động tới việc triển khai các dự án sau cấp phép 21
2. Tác động tới hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp đã đi vào sản xuất kinh doanh 22
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35119.doc