MỤC LỤC
Mục lục
Mở đầu
Chương 1: Khái quát về Phật giáo và quá trình phát triển Phật giáo ở Việt Nam
1. Nguồn gốc ra đời
2. lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo
Chương 2: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa - Xã hội và con người Việt Nam nói chung
và Trà Vinh nói riêng
1. Phật giáo với đời sống văn hóa - Xã hội
2. Phật giáo với đời sống văn hóa - xã hội
3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa
4. Ảnh hưởng đối với văn hóa lễ hội
5. Ảnh hưởng đối với phong tục tập quán
6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng
Kết luận.
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ lâu và thực sự tư tưởng Phật giáo đã trở thành một góc trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Từ đó có thể nói rằng, bên cạnh hình ảnh "cây đa, bến nước, sân đình" thì hình ảnh mái chùa cũng là biểu tượng thân thương, thấm sâu vào tiềm thức và trở thành một trong những giá trị văn hóa của con người Việt Nam. Đó là nét chung nhất cho sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, mà chủ yếu là dân tộc Kinh.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác- Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vủ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của Xã hội củ vẩn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà phật đã ít nhiều đã in sâu vào tư tưởng của 1 số bộ phận dân cư Việt nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó 1 cách hợp lý để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ củng như sau này.Vì vậy việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế củng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rỏ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách để hướng đạo cho họ 1 nhân cách đúng đắn. Theo đạo để làm điều thiện, tránh điều ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên mê tín di doan, cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, niềm tin của quần chúng nhân dân.
Do vậy, chúng ta có thể khẳng định bằng hình ảnh rằng, văn hóa là cái hồn của dân tộc, mất văn hóa là mất dân tộc. Từ đó, chúng ta giữ được nền văn hóa truyền thống của dân tộc là chúng ta giữ được đất nước. Mặt khác, khi đề cập đến đời sống văn hóa của dân tộc thì không thể bỏ qua một bộ phận cấu thành nó, đó là đạo đức Phật giáo. Từ những ý nghĩa cao cả và thiêng liêng ấy nên khi xây dựng một nền văn hóa hiện đại, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đòi hỏi chúng ta cũng cần phải nghiên cứu những giá trị đạo đức Phật giáo và tác động biện chứng của nó với nền văn hóa, đạo đức của dân tộc.
Trong lịch sử loài người đã có những thời kỳ tôn giáo đóng vai trò quan trọng, thậm chí có khi chỉ đạo cả những thể chế chính trị Xã hội và hiện nay ảnh hưởng của nó vẫn sâu đậm trong tư tưởng của nhân dân, nhất là niềm tin của họ. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh niềm tin thì tôn giáo là một hiện trạng đáng chú ý, nhất là hiện tượng tôn giáo đang chấn hưng, đi đôi với việc xuất hiện nhiều " Tôn giáo mới " trong nước và trên thế giới.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến nền văn hóa - Xã hội và con người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như những ảnh hưởng của Phật giáo đối đời sống Xã hội trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngoài số lượng kinh, luật, luận của Phật giáo được tích lũy cả hơn 2500 năm và còn có những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài vào những năm của thế kỷ XX và hiện nay. Những công trình này sẽ được liệt kê cụ thể trong phần danh mục tài liệu tham khảo, ở đây chỉ xin điểm qua một số tài liệu đáng lưu ý:
Cuốn "Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay" do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Phần viết về Phật giáo, các tác giả đã tập trung vào các khái niệm từ, bi, hỉ, xả cùng các giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư tưởng của con người Việt Nam. Cuốn "Đạo đức học Phật giáo" do Hòa thượng Tiến sĩ Thích Minh Châu giới thiệu và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995 là những bài tham luận của nhiều tác giả. Nội dung cuốn sách này, các tác giả đã nêu những cơ sở và nhiều phạm trù đạo đức Phật giáo, phân tích để cắt nghĩa rõ thêm nội dung của chúng như giới, hạnh, nguyện, thiện, ác v.v . Cuốn "Việt Nam văn minh sử lược khảo" của Giáo sư Lê Văn Siêu, Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu Sài Gòn 1972. Nội dung cuốn sách khi bàn về lịch sử văn minh Việt Nam, tác giả đã chứng minh những đặc điểm của Phật giáo để tạo cho tôn giáo này xâm nhập một cách dễ dàng vào Việt Nam. Cuốn "Có một nền đạo lý Việt Nam" của Giáo sư Nguyễn Phan Quang, Nxb TP. Hồ Chí Minh 1996. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho người đọc thấy sự hòa nhập của đạo đức Phật giáo trong đạo lý dân gian Việt Nam. Cuốn "Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam", tập 1 của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. Phần khai thác ở nội dung cuốn sách là tác giả đã khái quát những nét cơ bản về quá trình du nhập cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam v.v . Ngoài những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên đề thì đạo đức Phật giáo còn được bàn xen kẽ, rải rác trong các tác phẩm văn học, mỹ học, sử học và tôn giáo học v.v .
3. Mục đích, nhiệm vụ của chuyên đề
Mục đích của chuyên đề là từ góc độ triết học thâm nhập vào cơ sở và hệ thống đạo đức Phật giáo để tìm ra sự ảnh hưởng của nó trong đời sống đạo đức của Xã hội Việt Nam truyền thống và hiện nay. Qua đó, tìm ra đặc điểm của sự ảnh hưởng đạo đức Phật giáo ở Việt Nam
Theo mục đích trên thì nhiệm vụ trọng tâm của chuyên đề là tiếp cận cơ sở, đặc điểm, những phạm trù cơ bản, những mô hình, giá trị phổ quát của hệ thống đạo đức Phật giáo. Tiếp cận truyền thống, tín ngưỡng, triết lý, tâm lý, đạo đức cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Qua đó, góp phần lý giải cho việc du nhập Phật giáo vào Việt Nam, đồng thời sự dung hợp và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của Xã hội Việt Nam từ truyền thống đến hiện nay. Từ cơ sở đó, góp phần đưa ra những giải pháp định hướng cho việc ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong Xã hội Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Cơ sở lý luận chủ yếu của chuyên đề là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo. Về phương pháp nghiên cứu, trước hết phải có thái độ khách quan vì nó là tiêu chuẩn số một để có quan điểm nhận xét, đánh giá đối tượng nghiên cứu được rõ ràng, chính xác hơn. Một số phương pháp phổ biến được áp dụng cho đề tài là: lịch sử và lôgic; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp thống kê v.v .
5. Những đóng góp của chuyên đề
Thông qua việc giải quyết nhiệm vụ để đạt mục đích như trên và khái quát nội dung nghiên cứu để xây dựng chúng theo hệ thống riêng của mình. Từ đó, lý giải về sự ràng buộc lẫn nhau giữa các phạm trù giáo lý với các phạm trù đạo đức Phật giáo.
6. Ý nghĩa của chuyên đề
Chuyên đề làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống Xã hội nước ta và đồng bào dân tộc khmer khu vực đồng bằng sông Cửu Long Và tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
7. Giới hạn đề tài
Phạm vi của chuyên đề là từ góc độ triết học Mác - Lênin để nghiên cứu một hệ thống đạo đức của một tôn giáo cụ thể, du nhập và ảnh hưởng đến một nền đạo đức của một dân tộc cụ thể. Từ đó, tuy nội dung chuyên đề có sử dụng các tư liệu, luận cứ, luận chứng cho việc chuyển tải ý tưởng hoặc so sánh để làm nổi bật những vấn đề nghiên cứu, nhưng trọng tâm của đề tài là tuân thủ theo tên gọi của nó.
8. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của chuyên đề gồm 2 chương, 8 tiết.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống xã hội ở nước ta và đồng bào dân tộc Khmer, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngữ Bonddha. Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu tín ngưỡng phật và tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt có những nét giống và khác phật. Bụt giống phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với những người bị áp bức bóc lột. Nhưng bụt khác Phật ở chỗ bất kỳ người nghèo nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có cái oai lực, uy quyền hơn cả trời. Đối với những người bị áp bức trời ở quá xa, kêu trời khó thấu, còn các thần linh gần nhưng lại yếu đuối, bất lực trước những việc quá sức của mình quả là gần gũi, công bằng vì phật không hề chia cấp bậc. Có lẽ ngày xưa chưa có một người dân bình thường nào nghĩ đến khái niệm bình đẳng. Nhưng đối với phật họ cũng có thể có mặc cảm sâu xa rằng phật có cái nhìn ngang bằng với tất cả chúng sinh. Với phật, không ai tiểu nhân, không ai quân tử. Cũng không có quân, không có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp. Với phật, còn cả một niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp đó phật kêu gọi sự tự giác, giác ngộ không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà còn phải cứu nhân độ thế . Chắc chắn trong tư duy của người dân bình thường, chưa ai băn khoăn tìm hiểu thế nào là bản ngã là chân theo nghĩa sâu xa của phật học. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân đạo lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề khác mà chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này. Nhưng ở đây thì rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô tấm trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng vẫn được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất cũng có quan niệm nhận thức như vậy, mà chăc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền. Mặc dù bát chánh đạo không có gì là thần bí, nhưng dễ đã có mấy ông sư nhớ đủ tám đường mà phật tổ đã đề ra.Vấn đề là ở cái tinh thần quàn xuyến rút từ bát chánh đạo.Tinh thần ấy là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong mỏi một sự đền bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất nhiên sẽ đến . Tuy nhiên, không phải phật giáo đi được vào quần chúng,có một sự gắn bó sâu sa nhất định, mà không một sự thẩm định, chọn lựa nào có lựa chọn để chối bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với phật giáo sự lựa chọn này bao hàm cả ý nghĩa phê phán. Ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra được nhiều khuyết điểm của nho, phật, lão ở góc độ chính trị hay tư tưởng triết học. Dân gian xưa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tư duy, với các sinh hoạt của họ tức là họ đã lộ cái ý đồng hay không đồng. Có thể nói rằng văn hoá Việt Nam hoá phật hơn là hoá phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đạo thừa thì vẫn nhất phải nhập với tín ngưỡng bản địa. Để biến man nương thành phật mẫu, ỷ lan thành quan âm mà không cần phải tạo ra xung quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, phật giáo từ ấn độ được truyền vào Việt Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái ảnh hưởng của tổng thể văn hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. Mặc dù chúng ta còn ít nghiên cứu và hiểu biết về văn hoá việt- ấn nhưng chắc chắn ảnh hưởng của văn hoá ấn độ lên Việt Nam diễn ra trên nhiều lĩnh vực : Nông nghiệp, ydược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ.
Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu một liều lượng quan trọng văn hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo, vào suốt thời bắc thuộc và chống bắc thuộc, khi ảnh hưởng văn minh trung hoa tràn lan đất nước Việt Nam và mang khuynh hướng đồng hoà rõ rệt.
Về khách quan, ảnh hưởng của văn hoá ấn độ là một đối trọng của văn hoá trung hoa trên đất việt. Nó có tác dụng trung hoà ảnh hưởng quá mạnh mẽ của văn hoá trung hoa; Nó góp sức cùng nền văn hoá Việt Nam cổ ngăn chặn sự đồng hoá của văn minh trung hoa, nó hội nhập và làm giàu làm nên cái khác của văn hoá việt với văn hoá trung hoa.
Ví dụ: Như ở thăng long thời lý: Hoàng thành Long Phượng mở bốn cửa nếu cửa phía bắc thờ thành trần vũ – trần võ là một vị thần linh trung hoa được nhập nội vào đất việt, thì của tây long thành được mang tên “quảng phúc môn “ mở ra phía tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa của Đức Phật ở Tây Thiên
Cũng vậy, Đạo Phật từ Ấn Độ được truyền bá vào đất Việt ở buổi đầu thời kỳ Bắc thuộc về khách quan mà nói là một đối tượng của Nho giáo. Đạo nho cũng bắt đầu phát huy ảnh hưởng ở đất Việt từ buổi đầu công nguyên với việc mở trường nhằm “ giáo lễ nghĩa Trung Hoa” cho người Việt. Ta không thể phủ nhận các mặt tích cực của Nho giáo, góp phần làm tăng tri thức người dân, nhấn mạnh vào Nhân, Nghĩa, Ái. Nhưng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là một công cụ của tầng lớp thống trị Trung Hoa nhằm nô dịch người nông dân Trung Quốc và các dân tộc vùng ngoại vi để chế Trung Hoa lấn áp. Sao chăng nữa, dù có đề cao Nhân, Trí, Dũng là những giá trị con người muôn thưở thì Nho giáo vẫn đặt cược cơ bản vào Lễ, mà Lễ là gì nếu không phải thực chất là trật tự “ Tiên học lễ hậu học văn”, nghĩa là trước hết và trên hết phải học tập để tôn trọng và duy trì trật tự đẳng cấp, trật tự trên dưới: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ ( tam cương). Nếu hoàn toàn chấp nhận Nho giáo trong thời Bắc thuộc thì nói chung chẳng còn gì là chống Bắc thuộc cả. Hãy cúi mình trước thiện mệnh trìu tượng và thiên tử Trung hoa cụ thể:
Song người Việt cổ, tổ tiên chúng ta vốn có một nội lực tự sinh quật cường, bất khuất, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời Bắc thuộc, một lối sống không quá ngăn cách giữa vua và dân, một lối sống khá bình đẳng giữa cha và con, bình đẳng giữa vợ và chồng. Bởi vậy người Việt cổ khó lòng chấp nhận nổi trật tự “ Cương thường “ của Nho gia. Nhưng người Việt bình dân cũng khó lòng “ cãi lý” nổi với những nho sĩ, Nho gia “Bụng đầy chữ nghĩa”. Họ chỉ còn biết dựa vào các sư sãi vừa có chữ nghĩa vừa bảo vệ họ, Sao chăng nữa, đạo Phật đã chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng trước Phật. Nếu như Nho giáo Việt Nam dựng ra cái Đình ở làng quê với một “ tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ thì dân quê Việt Nam dựng và bảo vệ chùa, chùa làng của dân gian và trước hết là giới đàn bà được loại khỏi sinh hoạt ở Đình có thể sinh hoạt thậm chí trở thành lực lượng quan trọng trong sinh hoạt chùa làng.
Mặt khác, điều kiện xã hội con người xưa kia cũng mở rộng cho Phật giáo dễ dàng du nhập so với Trung Quốc. Phật giáo khi du nhập Trung Quốc đã bị phản ứng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam tương đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu như không bị phản ứng sâu sắc trừ một số ít Nho sỹ thời Trần, Hồ. Xã hội Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo từ ấn Độ hay Trung Quốc sang chưa có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối quan hệ của Tông tộc gia đình chưa chịu ảnh hưởng của lý thuyết Tam cương nặng nề. Điều này khiến Phật giáo khi thâm nhập không bị phản đối. Song lý do chính có lẽ là do Phật gia khi vào đây chưa gây một đảo lộn, một biến cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần, phong tục tập quán của từng người, từng gia đình, của xã hội. Vì vậy người Việt bình dân đã khá dễ dàng hấp thụ cái triết lý nhân sinh quan của Đạo Phật, không biết có quá không nhưng một nhà Phật học của Việt Nam đã nói có phần đúng rằng ở thời Bắc thuộc Đạo Phật đã thấm vào lòng người dân Việt như nước thấm vào lòng đất.
Dòng Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền Tông. Thiền Tông có một số đặc điểm mà dân gian dễ chấp nhận.
+ Phật giáo Thiền Tông ít bàn về lý luận mà chuyển sang tông phong phong cách tu hành. Thiền Tông chủ trương “ Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật, tức tâm thị Phật”. Như vậy chủ chương của Thiền tông là lôi kéo thế giới Tây Phương cực lạc về trần thế, đặt nó trong lòng con người, tâm thị Phật.
+ Thiền tông chủ trương lao động theo thanh qui của Bách Trượng ( 720-814) : “ Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” ( một ngày không làm, một ngày không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm điều kiện tu hành. Điều này khiến cho các tăng nhân không phải là một tầng lớn ăn bám xã hội.
Thiền tông lại chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu đựng bần khổ cũng là cách tu hành.
Chấp nhận bần khổ và lao động là điều khiến Thiền Tông dễ đi vào nông thôn, dễ bám vào làng xã, đứng được trong làng quê.
+ Thiền tông có khi còn đi xa hơn nữa, cho phép sát sinh, giết người, giết một người mà cứu được muôn người quả là điều phúc. Phật tử không hoàn toàn là người bị động mà có thể vùng lên chống áp bức bóc lột. Do vậy ở Việt Nam thời phong kiến cũng có nhiều cuộc nổi dậy giành chính quyền do nhà sư lãnh đạo.
Phật giáo lại biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngôi chùa có vai trò quan trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngoài thờ Phật, chùa còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với nước. Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm. Bao nhiêu câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi không hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc sống hồn nhiên của làng xã.
Do Phật giáo bám sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào thời kỳ Lý Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã vững vàng.
Phật giáo Việt Nam đã trải qua một vận mệnh thịnh suy, Nhà Phật đâu có sợ “ thịnh suy” mà “thịnh” theo cái nghĩa được nhà nước quân chủ Lý Trần nâng đỡ bảo trợ .... Cũng chính vì nó Phật gia được chính quyền quá ưu ái mà sinh hoạt nhà chùa trở nên xa hoa, sa đoạ, trái ngược với đời sống Đức Phật chối bỏ sinh hoạt cung đình, trái ngược với giới luât Bách Trượng tự lao động mà sinh sống giản dị để dự bị giờ phút “ đến ngộ thành Phật”. “Suy” theo nghĩa cơ bản mất sự ủng hộ của chính quyền. Nhưng suy ở thượng tầng thì lại toả ra dân chúng ở làng quê ở các cơ sở hạ tầng, nếu đừng quá khắt khe và cứng độ trong nguyên lý thì có thể khái quát rằng Phật giáo Lý Trần là Phật giáo quý tộc, còn Phật giáo Lê - Nguyên về sau là Phật giáo dân gian. Từ chỗ trở thành dân tộc từ trước, sau thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam đã trở thành dân gian, nhân gian - hay là đã được dân gian hoá sau thế kỷ XV.
Đạo phật có thể mất đi, như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh tuý của văn hoá Phật giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.
2. Phật giáo với đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày nay.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam. Nhìn vào đời sống văn hóa xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Thời đại ngày nay, là thời đại hội nhập và phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có những người có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở rộng sáng tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật ... Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
3. Ảnh hưởng đối với truyền thống văn hóa dân tộc:
Đất nước Việt nam, một đất nước vốn mang truyền thống đạo đức dân tộc, một truyền thống gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Trãi qua mấy nghìn năm lịch sử, nền văn hóa của dân tộc Việt nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ suối nguồn đạo lý Phật Giáo. Phật giáo đã góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết dân tộc, một trong những sức mạnh đóng vai trò quyết định trong công cuộc giữ vững nền độc lập đất nước. Ý thức được giá trị của tự thân, vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong xã hội, dân tộc Việt nam đã liên kết cùng nhau xây dựng thành một khối đại đoàn kết vững mạnh. Giáo lý phật giáo đã dạy cho con người Việt nam thấy rằng muốn giữ vững nền hòa bình độc lập của đất nước thì tự thân mỗi cá nhân trong xã hội phải nổ lực phấn đấu, không ngồi đó trông chờ hạnh phúc. Một đất nước tuy nhỏ, một nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu nhưng không vì thế mà dân tộc Việt Nam cảm thấy tự ti mặc cảm, hay chấp nhận một quá khứ đau thương như là định mệnh. Trong hoàn cảnh ấy, mỗi con người Việt nam càng ý thức vai trò và trách nhiệm thiêng liêng trọng đại của mình, để cùng nhau góp phần kiến tạo một đất nước giàu mạnh trong tinh thần đoàn kết dưới sự soi sáng của giáo lý phật giáo. Đoàn kết ở đây không có nghĩa là kích động chiến tranh hận thù mà chính là kêu gọi hòa bình nhân ái. Giá trị to lớn của giáo lý phật giáo là hướng dẫn con người sống sao cho tốt, hành động sao cho thiết thực và có ý nghĩa đối với tự thân, với gia đình và xã hội. Theo tinh thần của Đạo Phật, đoàn kết còn mang một ý nghĩa cao đẹp và rộng mở hơn đó là xa lìa lối sống vị kỷ hẹp hòi.
Trên tinh thần đoàn kết, Đạo Phật xây dựng cho dân tộc Việt nam một truyền thống rất đẹp đó là tính chan hòa yêu thương, mở rộng cõi lòng. Nói khác hơn là truyền thống tương thân tương ái. Một truyền thống thật gần gũi và gắn liền với con người Việt nam, dân tộc Việt nam, một dân tộc xưa nay vốn hiền hòa, thân thiện và dễ mến. Đặc tính yêu thương, mở rộng cõi lòng được thể hiện rõ nhất qua những việc làm nhân nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương châm “Nhường cơm xẻ áo”, “ Lá lành đùm lá rách”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Những việc làm ấy phần nào phản ánh được phẩm chất cao đẹp của con người Việt nam. Thật đúng như lời của cố Hòa Thượng Thích Đức Nhuận đã nói: “Hãy tỏ ra mình có đức hạnh, can đảm và hết lòng. Cố gắng thương yêu mọi loài. Con người chỉ xứng danh với danh nghĩa của nó chừng nào làm chủ được ý nghĩ, lời nói và hành động của mình về cả nội giới và ngoại giới. Chinh phục được ngoại là một công trình to lớn, nhưng điều đáng ca ngợi hơn hết vẫn là sự điều ngự được chính mình. Do đó, về phương diện luân lý, Đạo Phật đặt trọng tâm vào sự thiện ác vào tội phúc báo ứng phân minh và vào luật nhân quả, vì biết rằng: làm lành được sung sướng. Làm ác chịu khổ sở. Nhân nào quả nấy. Hành động của chúng ta hiện nay ra sao thì kết trong ngày mai cũng lại y như thế. một hành động tốt hoặc xấu của cá nhân sẽ có ảnh hưởng đến toàn thể không ít … Người có đạo đức luân lý là một con người hoàn toàn sung sướng nhất trên đời, khác nào như bông hoa nở đẹp, làm thơm cho cuộc thế”.
Qua những lời phát biểu trên, chúng ta không còn mơ hồ gì đối với giáo lý phật giáo. một triết lý xây dựng cho con người nhận biết trách nhiệm cá nhân để tự hoàn thiện cho mình một phong cách sống lành mạnh và có ý nghĩa nhất. Đặc biệt xây dựng mối quan hệ tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với đất nước, với dân tộc.
Ngoài tính nhân văn khẳng định và đề cao giá trị con người cũng như xây dựng truyền thống tương thân tương ái, triết lý phật giáo còn xây dựng cho dân tộc Việt nam một truyền thống luân lý đạo đức mang tính chất đặc trưng của văn hóa Việt nam. Truyền thống tôn vinh “ Đạo đức”, đó còn là quan niệm “Tích đức” vốn mang tính chất dân tộc tính rất cao. Nó thể hiện ý nghĩa giáo dục đạo đức làm người không chỉ trong hiện tại mà còn lưu lại ở mai sau. Hai chữ “tích đức” nghe qua sao thật bình dị đời thường nhưng ẩn chứa bên trong một giá trị nhân văn rất lớn. Quan niệm ấy vốn được hun đúc sâu xa từ tính chất nhân sinh quang của Đạo Phật và đã ăn sâu vào lòng dân tộc Việt nam. Tích đức bao hàm ý nghĩa khuyên răn con người sống ở đời phải biết lấy nhân đức làm trọng, tránh xa các điều ác, nổ lực làm các việc lành với một tâm nguyện cao đẹp là để lại cái “Đức” cho con cháu mai sau. Như ông cha ta thường nói:
“Cây xanh thì lá cũng xanh,
Tu nhân tích đức để dành cho con.”
Hay : “Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.”
Để lại cho con cháu cái danh thơm tiếng tốt là một quá trình ông cha ta đã sống tốt sống đẹp (tu nhân tích đức) mà có được. Truyền thống ấy được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Không những thế, trong quan hệ qua lại của xóm giềng, trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội, người dân việt nam luôn luôn khuyên răn nhắc nhỡ lẫn nhau sống sao cho tốt đẹp không chỉ cho hôm nay mà còn lưu lại tiếng tốt cho mai sau. Quan niệm và ý thức về hành động “Tích đức” luôn được người Việt nam coi trọng và lưu truyền cho nhau qua câu nói thật nhẹ nhàng mà sâu lắng “Ăn ở có đức mặc sức mà ăn”. Quan niệm ấy được xem như một lẽ sống tự nhiên không thể thiếu trong mỗi gia đình người Việt nam.
Dưới ảnh hưởng của phật giáo, truyền thống ấy dần dần đã trở thành một nếp sống tự nhiên của dân tộc Việt nam. Như lời Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã nói : “Tích đức cho thế hệ sau là để lại gia sản thiêng liêng và vô giá nhất. Từ nhận thức với những mức độ khác nhau và từ phép ứng dụng thiết thực thuyết nhân quả vào cuộc sống, đạo đức làm người được tôn vinh, vượt lên trên tất cả những giá trị vật chất khác”
4. Phật giáo với lễ hội:
Vấn đề lễ hội trong Phật giáo ta thường thấy bản thân Phật giáo không có hội mà chỉ có lễ. Thế nhưng có hai lý do, một là thời Lý – Trần mọi sinh hoạt văn hóa được diễn ra ở ngôi chùa, cho nên lễ hội diễn ra ở chùa được duy trì kéo dài mãi cho đến ngày nay. Hai là ở Phật giáo ngôi chùa đã hỗn dung tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu vào trong đó nên lễ hội diễn ra ở ngôi chùa. Cả hai khía cạnh hội chùa mang tính chất là hội làng. Trong khuôn khổ bài viết này bản thân chỉ nêu một vài lể hội để làm nổi bật sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa xã hội ở nước ta.
4.1. Lễ hội Quan Thế Âm:
Tín Ngưỡng Quan Âm ở nước ta đã có từ thời Lý với câu chuyện vua Lý Thánh Tông nằm mơ thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên đài sen, giơ tay đón mình lên và ngày nay chùa Một Cột ở Hà nội có liên quan đến tích ấy.
Tín ngưỡng Quan Thế Âm ở chùa Hương bắt nguồn từ chuyện Nam Hải Quan Âm của một nhà sư Trung Quốc thời Nguyên du nhập vào nước ta và đã được Việt hóa vào thế kỷ thứ XV.
Ngày nay, lễ hội Quan Thế Âm được tổ chức vào ngày 19 tháng 2; 19 tháng 6; và 19 tháng 9 mỗi năm để kỷ niệm ngày hiển linh của Bồ tát. Sau đó, năm 1962 lễ hội được tổ chức tại động Quan Âm, sau ngày hoàn toàn thống nhất đất nước, từ năm 1991 lễ hội được tổ chức lại với quy mô lớn hơn, nội dung phong phú hơn và kéo dài trong ba ngày bao gồm hai phần: lễ và hội.
Phần lễ: Mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung:
Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày 18, gồm rước đuốc, rước kiệu, múa lân, múa rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, mà trong phật giáo ánh sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ làm nhiều việc thiện.
Lễ khai kinh: Lễ được tổ chức vào sáng sớm ngày 19, đây là lễ cầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh an lạc.
Lễ trai đàn chẩn tế: lễ này cũng được tổ chức vào sáng ngày 19 để cầu siêu, cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. Trong lễ này phải mời người có giới phẩm đứng ra làm lễ.
Lễ thuyết giảng về Bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc: lễ cúng được tổ chức vào sáng ngày 19, ngợi ca lòng từ bi bác ái của đức Phật Bồ Tát Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc an bình, thịnh vượng.
Lễ rước tượng Quán Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng 10 giờ sáng ngày 19, sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu trên có tượng Phật bà đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau, kiệu được khiêng từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên Sông Cầu Biện (nhánh của sông Cổ Cò), sau đó cho thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào, chúng sinh đi biển, đi làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an. Ngoài các nghi lễ trên, còn có lễ tế xuân (cúng sơn thủy, thổ thần) để cầu quốc thái dân an. Lễ thường được tổ chức vào đêm ngày 18. Trong ngày lễ này các bô lão của các phường Hòa Hải, Hòa Quý khăn áo chỉnh tề, tay cầm cờ lọng, đuốc, lồng đèn, có đội nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi làm lễ và đọc văn tế, đoàn bô lão sẽ dẫn đầu đoàn rước cộ xuống bờ sông Cầu Biện để mở hội hoa đăng, rồi từ chùa Quán Thế Âm đi quanh các khu phố qua các làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du lịch Non Nước và trở về lại lễ đài với lộ trình dài hơn 2km.
Phần hội: Diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát dân ca, thi cờ, nhạc, hoạ, điêu khắc, múa tứ linh, thả đèn trên sông, hát tuồng... các hoạt động văn hóa như triển lãm thư pháp và tranh thủy mặc, hội thi thuyết minh về danh thắng Ngũ Hành Sơn, hội thi nấu ăn chay...
Với nhiều hoạt động văn hóa - thể thao mang đậm tính dân tộc, lễ hội Quán Thế Âm tuy mang màu sắc tôn giáo nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc, góp phần phục hồi và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Quán Thế Âm là một lời cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn
4.2. Lễ cầu an:
Theo dòng thời gian, Phật giáo cùng tồn tại trên cuộc đời này, và trong suốt thời gian đó những giáo lý, những kinh điển của Phật giáo đã thấm sâu vào máu tủy của mỗi người khiến mọi người đều ý thức được rằng mình là chủ nhân ông của nghiệp mà mình đã tạo, không ai có thể thay thế hay gánh chịu giúp mình được. Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, ngọn đuốc ta đã sắm sẵn rồi, các ngươi hãy thắp lên và đi theo lý tưởng của mình”. Trong cuộc sống hiện tại, mọi người đều hay gọi là cầu an mỗi khi gia đình có người đau ốm, bệnh tật, hay những chuyện bất như ý thì đều đến xin cầu an. Họ cho rằng cầu an là cầu cho người bệnh được khỏe mạnh, được an ổn, sống lâu v.v…nên họ luôn đặt hy vọng vào những vị sư đến cầu an. Điều mà người viết muốn nhấn mạnh ở đây là mỗi người xuất gia, nhiệm vụ cao cả của mình là “ Thừa như lai sứ, hành như lai sự” vì vậy khi được Phật tử mời đi cầu an thì phải làm sao chỉ cho họ thấy được mục đích của sự cầu an, chúng ta cũng không thể từ chối những khi được thỉnh mời như vậy. Đức Phật dạy: “ Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” và như vậy, từ những dịp cầu an đó, ta tiếp xúc với họ, gần gũi, khuyên răn, chỉ rõ cho họ biếi rằng cầu an này chỉ là sự trợ duyên mà thôi, không phải là hoàn toàn dựa vào sự cầu an đó mà được an ổn, an hay không an là do chính nơi hành động, việc làm, cách sống và cư xử hàng ngày của mình. ví như một người chuyên đi trộm cướp, giết người thử hỏi mời quý sư về để cầu an cho người đó thì người đó có được an hay không? Lại như một người chuyên đi làm phước, giúp đỡ mọi người, luôn sống trong sự bình thản thì cho dù không cầu an thì vị ấy vẫn luôn cảm thấy an lạc, hạnh phúc không sợ phải bất an. Vậy cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc cầu cho người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi như nhiều người đã hiểu lầm. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, theo Đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ chánh niệm và tỉnh thức trong từng giây phút hiện tại, không hoài vọng về quá khứ để thoát khỏi thế giới đau thương, không hoài vọng về tương lai để không lo âu sợ sệt, sống một cách sáng suốt bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy thì lúc nào cũng an, lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc không cần cầu nguyện và mong mỏi. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, rơi vào con đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện, cầu an bao nhiêu đi chăng nữa thì cũng không thể an ổn được. Như vậy, vấn đề cầu an trong Phật giáo là nhấn mạnh đến sự an trú trong giây phút hiện tại, từng cử chỉ, từng hành động của mình được ý thức, được chọn lọc, được cảnh tỉnh thì tâm mình luôn được an lạc.
4.3. Lễ cầu siêu:
Cầu siêu là cầu mong cho vong hồn người chết được sớm siêu thoát hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó chữ “cầu siêu” có thể là hình thức viết ngắn của từ “cầu siêu độ” hay “cầu siêu sanh” hay đầy đủ hơn là “cầu siêu sanh tịnh độ”. Như vậy cầu siêu là nguyện vọng, là ước muốn nhắm tới chủ yếu là người quá cố.
Sau khi người thân qua đời, con cháu làm lễ cầu siêu cho Ông Bà, Cha Mẹ trong mỗi tuần thất, tiểu tường, đại tường hoặc lễ Trung nguyên bằng hình thức lập đàn cầu siêu tại chùa, hoặc thỉnh chư Tăng, Ni về gia đường tụng kinh chú nguyện, chủ yếu là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm Phật “nhất tâm bất loạn” như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh tịnh độ, để hương linh nương theo đó niệm Phật mà vãng sanh. Các kinh thường tụng trong dịp cầu siêu như: Kinh A Di Đà, Kinh Địa Tạng, Kinh Vu Lan. Chư tăng ni tụng kinh nhằm nhắc nhở cho con cháu của người quá vãng trau dồi tâm tánh cho thuần thục và noi theo gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố mà hơn hết là nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương pháp tu tập và làm nhiều điều phước thiện.
Song theo đạo Phật không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai cả, chỉ có mình tạo nghiệp lành hay dữ mà đến khi mạng chung chiêu cảm quả báo thiện ác, chứ không phải lúc sanh tiền tạo bao nghiệp ác rồi đợi sau khi chết người thân cầu siêu để được vãng sanh thì không thể được. Chính vì lẽ đó, nên người phật tử phải ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin, chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau khổ của nó. Không ai có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho thấy rõ điều đó: “ nếu ai làm mười nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, làm mười nghiệp ác phải rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước, rồi nhiều người đến cầu khẩn, van xin cho tảng đá ấy được nổi lên, sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, tạo mười nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ”. Ở đây, lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiện là nguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã tạo ra nó phải gánh chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau.
Như vậy, sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ơn đối với người quá cố, và ở phương diện khác nhằm nhắc cho người quá cố biết về quy luật sanh tử mà không quyến luyến thế gian, dễ dàng ra đi hay tái sanh.
Tóm lại, để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành trang đạo đức khi còn mạnh khỏe, làm lành lánh dữ, bố thí cúng dường, tạo mọi phước đức, để khi thình lình cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sanh về cảnh giới tốt hay vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Không nên cầu mong vào tha lực, tất cả tùy thuộc vào đời sống đạo đức, trí tuệ và thái độ sáng suốt của chúng ta.
Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời sống hằng ngày của người Việt.
5.1. Ảnh hưởng phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã trở về với phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Điều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. Để đạt được mục đích đó, người phật tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29), có người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày 1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày 27,28,29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng bảy và tháng mười) hay cả năm, đôi khi có một số người đi phát nguyện ăn trường trai giống như những người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ Soteylo, và bác sĩ Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hiểm cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời việt nam dù không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ đạo thờ phật đã đành, nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
5.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.
6. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của người Khmer khu vực ĐBSCL nói riêng và Trà Vinh nói chung
Trong lịch sử phát triển của các dân tộc, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng mang tính cộng đồng như là một đặc trưng văn hóa tộc người, chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: địa lý tự nhiên, môi trường lịch sử - xã hội, sự cố kết cộng đồng dân cư. Đối với người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long hình thức sinh hoạt cộng đồng là một hình thức phổ biến, mang tính truyền thống đặc sắc của cư dân miền sông nước. Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng rộng lớn và màu mỡ bậc thất của Việt Nam, với diện tích khoảng 40.000 km2, bao gồm 12 tỉnh, thành phố thuộc miền Tây Nam Bộ. Đồng bằng sông Cửu Long được hình thành trong quá trình địa chất lâu dài, chủ yếu do sự bồi đắp phù sa của hệ thống sông Mêkông. Đặc biệt, Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nên sự điều hòa nguồn nước và giao thông đường thủy thuận tiện. Nơi đây là vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết trong năm có hai mùa rõ rệt, là nơi cư trú của cư dân các dân tộc Khmer, Việt, Hoa, Chăm... Với những đặc điểm về địa lý, môi sinh như vậy, đây được coi là một trong những vùng trọng điểm về sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất của cả nước. Ờ Đồng bằng sông Cửu Long người Khmer là tộc người cư trú lâu đời nhất, trước khi có người Việt, Hoa và Chăm, các dân tộc hiện nay sống xen kẽ với nhau trong vùng, đồng thời mỗi dân tộc thường tập trung ở một địa bàn cư trú riêng. Người Khmer tập trung cư trú chủ yếu ở các vùng Trà Vinh, một phần Vinh Long, vùng ven biển Sóc Trăng và vùng biên giới Châu Đốc kéo dài tới tận Rạch Giá. Mặc dù ở mỗi vùng điều kiện môi sinh khác nhau, các dân tộc sống xen kẽ nhau, nhưng người Khmer vẫn bảo lưu, gìn giữ được truyền thống văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Có thể nói trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt Phật giáo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là chất men kết dính cộng đồng dân cư bền chặt nhất, đây là nét đặc thù nổi bật nhất của xã hội Khmer truyền thống, cho dù Phật giáo Tiểu thừa chỉ mới du nhập vào Đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng thếkỷ XII, nhưng nó đã chi phối khá sâu sắc đời sống nông thôn Khmer. Điều này được thể hiện qua việc phân bố các ngôi chùa trên địa bàn của đồng bào Khmer cư trú, (trên toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng hơn 400 ngôi chùa), xung quanh mỗi chùa bình quân khoảng l.600 người cư trú. Chùa Khmer thường tọa lạc trên một khu đất rộng, xung quanh chùa thường được trồng các loại cây to như dầu, sao, thốt nốt tạo thành một khu rừng nhỏ trông rất cổ kính và tĩnh lặng, toàn cảnh chùa là một không gian tâm linh khoáng đạt và trầm mặc. Khác với nhiều tôn giáo khác, Phật giáo Khmer không chỉ đảm nhận chức năng tôn giáo mà còn đảm nhận các chức năng văn hóa, xã hội, đạo đức...với từng cá nhân và cả cộng đồng. Chính vì thế ngôi chùa của người Khmer được xây dựng không chỉ đáp ứng nhu cầu của hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng mà bên cạnh đó còn có nhu cầu của giáo dục và các sinh hoạt văn hóa xã hội của cư dân. Như vậy, việc tham gia vào sinh hoạt, lễ nghi tôn giáo một cách thường xuyên và những hoạt động mang tính tôn giáo đã giúp các cá nhân có cơ hội hòa hợp, gần gũi cùng nhau, hiểu biết lẫn nhau hơn. Đây là cơ sở làm cho cộng đồng ngày càng phát triển. Một nét đẹp về văn hoá của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là tất cả nam công dân đều biết chữ. Theo tập quán truyền thống, người con trai khi lớn lên phải vào chùa đi tu, đi tu là hình thức vừa học chữ vừa học đạo, tu để trở thành người có nhân cách, có văn hoá và là một hình thức để báo hiếu cha mẹ đã có công dưỡng dục, sinh thành. Theo quan niệm của người Khmer, nhà có con trai mà không đi tu là gia đình mang tiếng xấu, khi người con trai đã vào chùa tu rồi thì trở thành thành viên trong tam bảo là phật, pháp, tăng mà mọi người thường gọi là “lục”, hàng ngày cha mẹ, chị em phải dâng cơm cho “lục” gặp con cha mẹ cũng phải sùng kính thi lễ, quỳ lạy như gặp “lục cả”. Trong sách dạy làm người của người Khmer có câu “ri neak minh ban buốt tu, chia tôn không sao sơ mai” (người không được tu hành trong chùa là người nhiều tội lỗi trong cuộc sống), câu nói này thể hiện tầm quan trọng của cuộc sống tu hành đối với người con trai Khmer. Vì thế, nhà trường được coi là trường học giáo dục về tri thức và đạo lý mà các bậc sư sãi, cao tăng là những người chăm lo cuộc sống ấy. Đối với đông đảo tín đồ Khmer, công việc giáo dục của nhà chùa chủ yếu thông qua hình thức thuyết pháp và tu thiền. Điều này được phản ánh trong mọi lễ hội phật giáo, như lễ Phật đản, Nhập hạ, Xuất hạ, ban hành giáo lý... Cũng như một số lễ hội được tổ chức tại chùa hay các tiểu lễ tổ chức ở các gia đình đều có sự tham dự của các vị sư trong các chùa, đặc biệt là các ông Acha, Amaha. Trong những dịp được mời đến dự như thế, các vị sư sẽ đọc kinh, thuyết pháp. Nội dung của bài thuyết pháp thường là nói về đạo đức làm người, lòng từ thiện, lòng yêu thương con người, quy tắc ứng xử trong xã hội được rút ra từ những phật thoại, phật sử hay các câu truyện ngụ ngôn... Tùy theo từng hoàn cảnh, tính chất buổi lễ mà nội dung bài thuyết pháp được lựa chọn sao cho phù hợp. Cũng chính trong khoảng thời gian và không gian của các buổi lễ đó mà tinh tthần của những bài thuyết pháp đã đi vào lòng người một cách rất tự nhiên, được đón nhận một cách tự giác nhất. Phải chăng, cũng nhờ vậy mà trong cộng đồng phum, sóc của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long cuộc sống khá yên bình, lành mạnh. Ở đó chúng ta thấy ít khi xảy ra những tệ nạn xã hội, mọi người đối xử với nhau rất bình đẳng, thân mật và trọng đức hạnh. Mọi thành viên trong cộng đồng đều hết sức thương yêu nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau, ngược lại mỗi cá nhân được toàn thể cộng đồng đánh giá, qúy trọng thông qua những nghĩa cử ấy. Trong gia đình cũng vậy, giáo dục Phật giáo đã góp phần tạo nên bầu không khí tốt đẹp trong cuộc sống gia đình. Vì vậy, người Khmer ít khi li dị, hiện tượng đa thê cũng ít gặp. Phật giáo Khmer ở ĐBSCL được sùng kính và được bảo vệ vững chắc không phải vì sự hấp dẫn của giáo lý nhà Phật đã đem lại lợi ích vật chất thiết thực trong đởi sống, mà điều chính yếu là những hành động tôn giáo lưu truyền qua các thế hệ của người Khmer đã trở thành nếp sống, quy tắc ứng xử, mỗi thành viên trong phum, sóc mặc nhiên phải tuân theo.
Trong các dịp lễ hội, bên cạnh nghi thức cổ truyền là những hình thức sinh hoạt vui chơi, giải trí, biểu diễn văn nghệ, thể dục, thể thao...tất cả đều được tổ chức và biểu diễn tại khuôn viên chùa. Trong những dịp này các nhà sư không chỉ lo phật sự mà còn trực tiếp tham gia, tổ chức các công việc sinh hoạt văn hóa cộng đồng như: tiếp đón các nghệ nhân và khách qúy ăn nghỉ tại chùa, khuyến khích các phật tử tổ chức hay lập ra các đội văn nghệ, ca múa để phục vụ các buổi sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng. Ngoài ra, chùa của người Khmer còn là một hệ thống thiết chế văn hóa của toàn sóc, chùa là thư viện - nơi tàng trữ các bộ sách cổ, sách phật, là bảo tàng mỹ thuật và lịch sử - nơi duy nhất cất giữ và trưng bày các công trình, tác phẩm mỹ thuật của các nghệ nhân dân gian Khmer.
Đối với người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài sinh hoạt tôn giáo, tính cộng đồng còn được thể hiện rất đậm nét trong một số sinh hoạt tín ngưỡng có liên quan tới toàn cộng đồng. Ở người Khmer Nam bộ đến nay vẫn còn tồn tại một loại tín ngưỡng khá phổ biến là Neck tà mà một số nhà nghiên cứu coi đó là thần bảo hộ công xã cho các sóc người Khmer. Khi đến các sóc của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn bắt gặp rất nhiều thala (ngôi nhà nhỏ dựng ở ngã ba đường để mọi người nghỉ ngơi và tránh mưa, nắng), ở đây thường có miếu cúng Neck tà. Về nguồn gốc của loại tín ngưỡng này vẫn còn tồn tại những ý kiến khác nhau. Adlemar Leclire cho rằng Neck tà là “hồn của người chết từ lâu”, còn Monod lại cho Neck tà là “các vị thần đồng áng hay thần ở trong rừng mà người ta cần phải cầu xin mỗi khi có công việc liên quan đến khu vực này” và theo Monod thì Neck tà có nguồn gốc từ Bà-la-môn giáo, chính vì thế từ Bà-la-môn giáo cũng được L.Malleret tán đồng, lấy vị thần “Neang khmaư’ (Bà Đen) trong tín ngưỡng của người Khmer làm ví dụ và ông cho rằng chỉ là thần Durga của Bà-la-môn giáo. Theo tìm hiểu của tác giả, cho đến nay có nhiều loại miếu thờ Neck tà, loại đơn giản là miếu làm bằng tranh tre, nhà sàn hoặc nhà đất dưới một gốc cây trong khuôn viên của một phum nhỏ hay ở góc bờ ruộng, loại thứ hai thì lớn hơn và thường được xây bằng gạch nằm ở phía đông bắc của khuôn viên chùa, hay ở một địa điểm nào đó trong các sóc. Theo dân gian thì Neck tà được gọi theo tên của một vật tiêu biểu trong thiên nhiên hoặc tên của một loài thực vật, như xam rôn (cây trộm), đomchey (cây đa)...Hoặc mang tên một đặc điểm địa lý như: Neck tà Bến Đò, Neck tà bến Bình An, loại Neck tà này tiêu biểu cho vùng Trà Vinh, Vĩnh Long.(l0) Rõ ràng, qua tìm hiểu nguồn gốc, đối tượng thờ cúng và tên gọi thì Neck tà là thần bảo hộ cho công xã của người Khmer mà điển hình là Neck tà chủ xóm, chủ xứ hay những người có công dũng cảm chiến đấu, bảo vệ công xã cho đến khi Bà-la-môn giáo và tiếp theo là Phật giáo du nhập vào vùng này thì Neck tà lại đồng hoá và dân gian hóa một số vị thần trong Bà-la môn giáo thành thần bảo hộ công xã. Và, khi Phật giáo Tiểu thừa với các định chế tu trì ràng buộc đã trở thành tôn giáo chính thống chi phối đời sống tâm linh của người dân Khmer, tín ngưỡng Neck tà mặc dù đã yếu thế nhưng vẫn được duy trì sự hiện diện của mình trong khuôn viên chùa với hình ảnh Neck tà Wat (neck tà chùa). Tất nhiên, sự hiện diện này không được nhà chùa khuyến khích, mà đó chỉ là một số nhượng bộ của Phật giáo, điều đó nói lên rằng tín ngưỡng Neck tà với tư cách là thần bảo hộ các sóc có ảnh hưởng và gắn bó nhiều mặt với đời sống sản xuất, tình cảm cộng đồng của người dân Khmer. Mặc dù là những phật tử mộ đạo, người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tin tưởng ở sự gieo họa hay ban phúc của Neck tà. Khi đi qua miếu Neck tà người ta phải ngả nón tỏ ý kính trọng. Khi bệnh tật, ốm đau, hay muốn cầu xin điều gì người ta vẫn chạy đến miếu Neck tà cầu xin. Khi có những ý kiến bất đồng không thể hòa giải được thì chính Neck tà là vị quan tòa chứng giám. Khi có thiên tai hay dịch bệnh, tính mạng của các thành viên trong sóc bị uy hiếp, lúc này các thành viên họp nhau lại làm lễ “Bon ban dan neck tà” (lên đồng Neck tà) để hỏi ý kiến về nguyên nhân tại sao lại có tai họa?. Ngoài ra, việc cúng Neck tà còn là yếu tố để cố kết nhân dân trong sóc, thông thường mỗi năm thần dân trong sóc cúng Neck tà một lần, bắt đầu sau lễ năm mới, trước khi mùa mưa đến. Mặc dù vậy, lễ cúng này cũng không đồng nhất ở tất cả các địa phương, ở miệt Kiên Giang, An Giang thường cúng trước hoặc sau tết, còn với vùng Sóc Trăng, Trà Vinh lại thường cúng vào tháng 5 hay tháng 6 đương lịch. Sự khác biệt này được giải thích là những cơn mưa đầu mùa bắt đầu ở vùng biển phía tây thường sớm hơn vùng nội địa một tháng, chính vì thế mới có sự không đồng nhất này. Như vậy, người Khmer là những di dân có mặt từ rất sớm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Việc quản lý xã hội truyền thống của thum, sóc Khmer theo một cơ chế khá đặc biệt, bao gồm quyền lực của cộng đồng và vai trò của tổ chức Phật giáo Tiểu thừa, khác với làng của người Việt, hay tập quán của người Trường Sơn - Tây Nguyên, ở người Khmer các quan hệ xã hội được vận hành dựa trên tập quán dân tộc truyền thống và những định chế của Phật giáo Tiểu thừa. ở đây giáo lý nhà Phật là cơ sở cho các quy tắc nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Triết lý của nhà Phật trở thành triết lý của đời sống văn hóa tư tưởng của con người và cũng chính vì thế sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng mang tính cộng đồng đã trở thành một bộ phận quan trọng nhất, không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong đời sống tâm linh của mỗi thành viên trong cộng đồng cư dân ở ĐBSCL. Sư sãi là tầng lớp được cộng đồng kính trọng. Vì vậy, đạo Phật có ảnh hưởng quan trọng và chi phối nhiều mặt đời sống xã hội của người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. Trong một chừng mực nào đó, chúng ta có thể nói rằng, tổ chức xã hội cổ truyền của người Khmer mang đậm tính tập thể, tính cộng đồng, nương dựa vào nhau trên cơ sở tổ chức nhà chùa và văn hóa Khmer. Đây là nền văn hóa mang đậm màu sắc Phật giáo và mang rõ tính đặc thù. Tính cộng đồng trong sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống xã hội của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long khác hắn với tính cộng đồng làng của người Việt và các dân tộc khác sinh sống trên địa bàn. Những sinh hoạt mang tính cộng đồng này dần dần thích nghi với cộng đồng dân tộc Việt Nam, làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc và người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn gốc ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và người dân ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng như một số tư tưởng tôn giáo khác.
Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ. Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “ sạch sẽ” hơn.
Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa truyền thống cha ông cũng như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Cần - Tinh hoa Phật giáo ( NXB thành phố HCM) - 1997
2. Thích Nữ Trí Hải dịch - Đức Phật đã dạy những gì ( con đường thoát khổ) ( NNXB Tôn giáo - 2000 )
3. PGS Nguyễn Tài Thư
- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 1997).
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1 ( NXB quốc gia - 1993)
4.Thích thiện Siêu dịch - Lời Phật dạy ( NXB Tôn giáo - 2000)
5. PTS. Phương Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học ( NXB chính trị quốc gia - 1999)
6. Lý Khôi Việt - Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.
7. Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam ( NXB khoa học xã hội Hà Nội - 1988 )
8. Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới ( 1999)
9. Thái Văn Kiểm – Đất Việt Trời Nam – Nguồn Sống Xuất Bản 1960.
10. Nguyễn Lang – Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập II) – NXBVăn Học Hà Nội 2000.
11. Lê Văn Siêu – Việt Nam Văn Minh Sử Cương – NXB Lá Bối 1967.
12. Phạm Côn Sơn – Văn Hóa Phong Tục Việt Nam ABC– NXB Văn Hóa Dân Tộc 2002.
13. Trần Ngọc Thêm – Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - - Trường Đại Học Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_phat_giao_anh_ty_1115.doc