Đề tài Ảnh hưởng của vấn đề lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Một số giải pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng trong thời gian sắp tớ

Lạm phát và tăng trường kinh tế là 2 vấn đề có quan hệ chế ước lẫn nhau rất chặt chẽ, phức tạp.Vì vậy giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải cần được coi là nền tảng trong sự phát triển ổn định, liên tục và lâu dài củaViệt Nam trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường. Nếu xem nhẹ vấn đề này sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát chỉ đem lại những kết quả hết sức hạn chế, thậm chí là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng

doc31 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của vấn đề lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Một số giải pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng trong thời gian sắp tớ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t câu nói nổi tiếng “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Friedman ước định rằng nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỷ lệ tăng trưởng cao của cung tiền tệ đơn giản bằng cách giảm tỉ lệ tăng trưởng cung tiền tệ đến mức thấp nhất thì có thể ngăn chặn được lạm phát. Trong thực tế có những giai đoạn lịch sử mà một tỷ lệ lạm phát cao cho một thời kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức của tăng trưởng ví dụ điển hình nhất là siêu lạm phát của Đức trong những năm qua 1921-1923 với tỷ lệ lạm phát trong năm 1923 vượt quá 1.000.000%. Gần đây đó là lạm phát ở Mỹ La Tinh từ 1980 đến 1990 trong đó Argentina có tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao nhất và tỷ lệ lạm phát bình quân cao nhất trên 10.000%. Việc tỷ lệ lạm phát cao trong mọi trường hợp trong đó tỷ lệ tăng trưởng tiền cao có thể được coi là một sự kiện ngoại sinh là một chứng cứ vững chắc rằng tăng trưởng tiền tệ cao gây nên lạm phát cao. Tuy nhiên ý kiến của Friedman thực tế cho rằng những biến động tăng lên trong mức giá cả là một hiện tượng tiền tệ chỉ khi nào những biến động tăng lên đó từ một quá trình kéo dài với định nghĩa lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài thì đa số các nhà kinh tế phái tiền tệ hay phái Keynes đều đồng ý với ý kiến của Friedman. c. Phái tiền tệ. Phái tiền tệ tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài không thể là do bất kỳ nguyên nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên.Trong cách phân tích của phái tiền tệ, cung tiền tệ được coi là nguyên nhân duy nhất làm dịch chuyển đường tổng cầu, cũng chính là nguyên nhân làm nền kinh tế chuyển dịch. Y’ 3’ 1’ 2 3 4 2’ 1 AS1 AS2 AS3 AS4 AD4 AD3 AD2 AD1 Yn Tổng sản phẩm Y P4 P3 P2 P1 Tổng mức giá cả P Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1 với sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên, giá cả tại P1. Nếu cung tiền tệ tăng lên đều đặn dần dần trong suốt cả năm thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD2. Trước tiên trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1’, sản phẩm có thể tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên Y’. Nhưng kết quả giảm thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm lượng tăng lên, đường tổng cung nhanh chóng di chuyển vào. Nó sẽ dừng di chuyển khi nào đạt đến AS2. Tại đó nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn. Tại điểm thăng bằng nối (điểm 2), mức gia tăng từ P1 lên P2. Nếu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên, đường tổng cầu sẽ lại di chuyển sang phải đến AD3, đường tổng cung di chuyển vào từ AS2 đến AS3, nền kinh tế sẽ chuyển động sang điểm 2’ sau đó sang 3, mức gia tăng lên P3. Cứ như vậy nếu cung tiền tệ tiếp tục tăng thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến những mức giá càng cao hơn nữa. Khi cung tiền tệ còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ xảy ra. Như vậy cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh là do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy. d. Quan điểm của phái Keynes: Giống như kết luận của phái tiền tệ, phái Keynes cho rằng việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao do vậy gây nên lạm phát. Cách phân tích của phái Keynes chỉ ra rằng cung tiền tệ kéo dài sẽ có ảnh hưởng như nhau đối với đường tổng cầu và tổng cung. Phái Keynes cũng không cho rằng có nhân tố nào khác ngoài tiền tệ có thể gây nên lạm phát mặc dù Keynes cho phép những nhân tố khác ngoài những thay đổi trong cung tiền tệ ảnh hưởng đến đường tổng cầu và tổng cung như chính sách tài chính và các cú sốc cung tiền tệ. Trong cách phân tích của Keynes, chính sách tài chính tự nó không thể gây nên lạm phát. Yn AD2 AS1 AS2 Y’1 Tổng s.p Y Tổng mức giá cả P P1 P2 1 2 1’ ảnh hưởng của việc tăng thường xuyên từng đợt trong chi tiêu của chính phủ đối với tổng sản phẩm và mức giá cả: Lúc đầu ở điểm 1, tại đó sản phẩm ở mức tỷ lệ tự nhiên và mức giá cả P1. Đường tổng cầu di chuyển đến AD2 khi tăng lên trong chi tiêu của chính phủ làm chuyển đến điểm 1’. Tại đó sản phẩm ở trên mức tỷ lệ tự nhiên tại Y1. Đường tổng cung di chuyển vào đến A2. ở đó sản phẩm lại ở mức tỷ lệ tự nhiên và mức giá cả tăng lên P2. Kết quả ròng của việc tăng thường xuyên trong chỉ tiêu chính phủ là việc tăng thường xuyên từng đợt của mức giá cả. Tuy nhiên với tỷ lệ lạm phát, khi ta chuyển từ điểm 1 đến 1’ rồi đến 2, mức giá cả tăng và ta có tỷ lệ lạm phát dương. Nhưng khi tới điểm 2 thì tỷ lệ lạm phát lại quay về số 0. Như vậy việc tăng từng đợt trong chi tiêu của chính phủ chỉ đưa đến sự tăng tạm thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là mức lạm phát mà trong đó mức giá cả tăng kéo dài. Tuy nhiên nếu chi tiêu của chính phủ tăng kéo dài thì có thể có mức giá cả tăng kéo dài. Nó thể hiện rằng cách phân tích của phái Keynes có thể bác bỏ ý kiến của Fridman rằng lạm phát lúc nào cũng là một hiện tượng tiền tệ. Nhưng vấn đề là ở chỗ việc chi tiêu của chính phủ tăng lên kéo dài không phải là một chính sách có thể thực hiện được bởi có một giới hạn đối với tổng số tiền chính phủ có thể chi. Chính phủ không thể chi hơn 100% GDP. Mặt khác của chính sách tài chính: đó là thuế. Việc kéo dài cắt giảm thuế cũng không thể đưa đến lạm phát. Tương tự như trên sẽ có một sự tăng duy nhất một lần trong mức giá cả nhưng sự tăng lên trong tỷ lệ lạm phát sẽ chỉ là tạm thời. Ta có thể tăng mức giá cả bằng cách cắt giảm thuế hơn nữa, nhưng quá trình này phải dừng lại khi thuế ở mức số không, khi đó không thể giảm thuế được nữa. Hiện tượng về phía cung tự nó cũng không thể gây ra lạm phát. Yn AS1 AS2 Y1 Tổng s.p Y Tổng mức giá cả P P1 P2 1’ 1 Giả sử có một cú sốc tiêu cực của cung như cấm vận dầu mỏ làm tăng giá dầu hay công nhân đòi tăng lương thắng lợi làm đường tổng cung di chuyển vào từ AS1 đến AS2. Nếu cung tiền tệ không thay đổi để cho đường tổng cầu ở tại AD1 thì nền kinh tế ở tại điểm 1’ tại đó sản phẩm ở dưới mức tỷ lệ tự nhiên Y1 và mức giá cả là cao hơn P2. Đường tổng cung sẽ di chuyển trở lại AS1 bởi thất nghiệp là trên tỷ lệ tự nhiên, nên kinh tế chuyển từ điểm 1’ xuống điểm 1. Kết quả của cú sốc cung là quay trở lại tình trạng công ăn việc làm đầy đủ ở mức giá cả ban đầu và không xảy ra lạm phát mặc dù có thể có mức giá cả tạm thời tăng. Như vậy việc phân tích tổng cung và tổng cầu cho thấy các quan điểm của phái Keynes và phái tiền tệ về quá trình lạm phát không khác nhau lắm. Thừa nhận lạm phát là một sự tăng kéo dài của mức giá cả với tỷ lệ nhanh, đại đa số các nhà kinh tế đều đồng ý với Milton Friedman rằng “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. 2. Các nguyên nhân của lạm phát: a. Lạm phát cầu kéo: Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao. Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh. Tổng mức giá cả P1 P2 P3 P4 1’ 2 3 4 Tổng sản phẩm Y Yn AD1 AD2 AD3 AD4 AS4 AS3 AS2 AS1 Y’ 1 2’ 3’ Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử 4%) thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt được một chỉ tiêu sản phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1. Giả sử ban đầu ở điểm 1, nền kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm nhưng dưới mức chỉ tiêu sản phẩm Y1. Để đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các chinh sách để tăng tổng cầu làm đường tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’, sản phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1 tỷ lệ 4% thất nghiệp là dưới mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền kinh tế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2’, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát. b. Lạm phát chi phí đẩy: Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”. Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế... Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên. Tổng mức giá cả Tổng sản phẩm Y AS1 AS2 AS3 AS4 AD4 AD3 AD2 AD1 4 3 2 1 P1 P2 P3 P4 2’ 3’ 1’ Yn Y’ Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương do họ muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lương để khớp với mức lạm phát. ảnh hưởng của việc tăng đó tương tự như một cú sốc cung tiêu cực làm đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên trong khi giá cả tăng lên. Khi đó do sản phẩm giảm, thất nghiệp tăng, các nhà hoạch định chính sách sẽ thức hiện chính sách nhằm tăng đường tổng cầu đến AD2, quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 và mức giá cả P2. Nếu việc tăng lương lại tiếp tục thì đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại phát triển khi chuyển đến điểm 2’, các chính sách năng động lại được sử dụng để di chuyển đường tổng cầu đến AD3 và đưa nền kinh tế trở lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, nghĩa là gây lạm phát. Nếu lạm phát cầu kéo đi liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp hơn mức tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát chi phí đấy lại lại đi liền với những thời kỳ mà thất nghiệp cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Khi lạm phát cầu kéo gây nên tỷ lệ lạm phát cao hơn thì lạm phát dự tính cuối cùng sẽ tăng lên làm cho công nhân đòi tăng lương, nên tiền lương thực tế của họ không giảm xuống. Vì vậy cuối cùng lạm phát cầu kéo có thể gây nên lạm phát phí đẩy. c. Lam phát do thâm hụt Ngân sách: Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng cách bán trái khoản cho công chúng hoặc tạo ra tiền tệ (hay in tiền). Bán trái khoán cho công chúng không có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tiền tệ và do đó đến cung tiền tệ, vì vậy nó sẽ không có ảnh hưởng rõ ràng đến tổng cầu và sẽ không có lạm phát. Ngược lại việc tạo ra tiền tệ có ảnh hưởng đến tổng cầu và có thể gây ra lạm phát. Thâm hụt ngân sách được trang trải bằng in tiền sẽ gây ra lạm phát nếu ngân sách thâm hụt trong một thời kỳ khá dài. Trong thời kỳ đầu nếu thiếu hụt được trang trải bằng tạo ra tiền tệ thì cung tiền tệ sẽ tăng làm đường tổng cầu dịch sang phải và mức giá cả tăng lên. Nếu thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra trong thời kỳ sau, cung tiền tệ sẽ lại tăng lên và đường tổng cầu lại di chuyển sang phải làm mức giá cả tăng hơn nữa. Khi thâm hụt còn dai dẳng và chính phủ phải tin tiền để trang trải thâm hụt đó thì quá trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo dài. Tuy nhiên nếu là thâm hụt tạm thời thì nó sẽ không gây nên lạm phát trong thời kỳ thâm hụt xảy ra, tiền tệ sẽ tăng lên để trang trải thâm hụt. Việc di chuyển ra của đường cầu sẽ làm mức giá cả tăng lên trong thời kỳ sau không còn thâm hụt thì không còn nhu cầu in tiền nữa. Đường tổng cầu sẽ không di chuyển nữa, mức giá cả sẽ không tiếp tục tăng. Như vậy sự tăng lên một đợt trong cung tiền tệ do thâm hụt tạm thời chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả và lạm phát không mở rộng. Mặc dù kết quả là lạm phát nhưng chính phủ vẫn thường xuyên trang trải thâm hụt dai dẳng bằng tạo thêm tiền. Nếu các nước đang phát triển bị thâm hụt ngân sách, họ không thể trang trải bằng phát hành trái khoán do không có một thị trường vốn phát triển nên phải dùng đến cách in tiền. Kết quả là khi bị thâm hụt nghiêm trọng so với GNP của họ thì cung tiền tệ tăng trưởng với tỷ lệ cao và gây nên lạm phát. Ngược lại ở những nước phát triển đặc biệt là Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt. Tuy nhiên không phải thâm hụt tại Mỹ không có nguy cơ lạm phát bởi Fed có thể có mục tiêu ngăn chặn lãi suất cao. Khi chính phủ phát hành trái khoán để tài trợ thâm hụt có thể gây nên áp lực với lãi suất. Khi đó Fed có thể mua trái khoán để nâng giá trái khoán và ngăn chặn lãi suất tăng, kết quả là cung tiền tăng lên và gây phát sinh lạm phát. 3. ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế. Giữa tăng trưởng kinh tế và lam phát thường tồn tại một quan hệ tỷ lệ chế ước lẫn nhau. Lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một trong nhiều mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết, nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát được thì nền kinh tế có thể tránh được mọi hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra những hậu quả như: - Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo tài nguyên, nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết cục là tăng trưởng chậm. - Lạm phát là kẻ thù của tăng trường và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lại, kéo theo không biết lãi suất thực thì không ai dám liều lĩnh đầu tư nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ đẩy lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho mức rủi ro lớn. Lãi suất cao kìm hãm đầu tư do đó làm chậm tốc độ tăng trưởng. - Lạm phát cao khuyến khích mọi người quan tâm đến lợi ích trước mắt. - Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi ngân sách nhà nước. Những nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị méo mó, biến dạng nghiệm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí ghê gớm tiềm lực trong sản xuất. Mặt khác từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi kiểm soát được lạm phát đòi hỏi một phí tổn rất lns cho nền kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là sự biểu hiện tập trung nhất về các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế... Nếu một trong những cân đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cấn đối vĩ mô của nền kinh tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Khi đó hoặc: Một là: lạm phát gia tăng. Hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả thấp, lãng phí vốn, giá cả tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút, tốc độ sản xuất chậm lại, thất nghiệp nảy sinh. Hai là: lạm phát quá thấp (thiểu phát) khi đầu tư trong nước giảm sút, một phần vốn đáng kể di chuyển ra ngoài hoặc rút về tích trữ, sản xuất và lưu thông đình trệ, thất nghiệp gia tăng. Cả hai trường hợp trên đều ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Về vấn đề ảnh hưởng của lạm phát đối với vấn đề tăng trưởng kinh tế tồn tại 2 hệ quan điểm cơ bản. Quan điểm thứ nhất cho sự ổn định về giá cả (lạm phát bị kiềm chế giữ vững ở mức 0%) là nền tảng tốt nhất cho sự tăng trưởng nhanh. Những nhà chính trị và kinh tế theo quan điểm này cho rằng sự ổn định giá trị tiền tệ là vấn đề cần phải bảo vệ và duy trì. Họ đã đưa ra các lý lẽ tác hại của lạm phát đối với toàn bộ nền kinh tế và cho rằng chỉ có sự ổn định như vậy mới thúc đẩy sự tăng trưởng cao và bền vững. Quan điểm thứ 2 với tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những người theo quan điểm này cho rằng suy thoái kinh tế còn gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với vấn đề lạm phát. ở một mức độ vừa phải, lạm phát cũng cần cho nền kinh tế để giảm bớt gánh nặng nợ nần và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại. Họ lập luận rằng lạm phát vừa phải đóng vai trò như chất bôi trơn, đó là điều lành mạnh giúp kinh tế phát triển. Hơn nữa cái giá phải trả để giảm lạm phát xuống gần số 0 còn lớn hơn cái giá phải trả cho việc chấp nhận một ít lạm phát. Trên thực tế ngày nay chính phủ các nước hầu hết đều công nhận lạm phát thấp là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng. Họ cho rằng lạm phát một chút và giảm một chút thất nghiệp có thể chấp nhận được trong ngắn hạn. Tuy nhiên áp dụng giải phát này trong dài hạn là không thể chấp nhận được, nó chỉ làm cho lạm phát ngày càng tăng.Do vậy chỉ còn cách giữa lạm phát ở mức thấp. Chẳng hạn New Zealand đã đề ra mục tiêu lạm phát từ 0 đến 2% vào năm 1993, Canada 2% năm 1995, Anh từ 1 đến 4%. Đối với các nước đang phát triển do xem tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu nên họ hầu như không đưa ra mục tiêu duy trì lạm phát thấp như ở các nước phát triển. Mục tiêu lạm phát của Trung Quốc là dưới 40%/năm, của các nước NIC và ASEAN là 5 đến 10%, Hàn Quốc trong giai đoạn 1988 – 1993 từ 4,5 đến 9,3%. Do đó mức lạm phát vừa phải trên thực tế là tùy hoàn cảnh, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi nước. Nhưng xu thế phổ biến vẫn là ổn định mức lạm phát. Tuy nhiên một câu hỏi cần đặt ra là các nước có mức lạm phát cao sẽ có sự tăng trường kinh tế nhanh hơn hay chậm hơn so với các nước có mức lạm phát thấp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 1955 – 1973 (lạm phát vừa), sự tăng trưởng kinh tế gần như cùng chiều với lạm phát đặc biệt là Nhật Bản. Những giai đoạn sau thì ngược lại, các quốc gia có mức lạm phát thấp có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn. Nhóm các nước có mức lạm phát trung bình dưới 6%/năm thì mức tăng GDP/đàu người trung bình là 2,1%/năm, các nước có lạm phát từ 6 – 10%/năm thì mức tăng trưởng GDP/đàu người là 1,9%, còn những nước có mức lạm phát trên 10%/năm thì mức tăng trưởng GDP/đầu người là dưới 1%. Qua phân tích các nước phát triển cho thấy mối liên hệ giữa tăng trưởng và lạm phát trên phương diện chỉ số là không vững chắc và không trở thành quy luật chung cho các nước. Lạm phát và tăng trưởng của các nước công nghiệp phát triển. a. Giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) (%). 1991 1992 1993 1994 1995 - Mỹ - Nhật Bản - Đức - Pháp - Italia - Anh - Canada - G7 - Các nước OECD ở Châu Âu - Các nước toàn bộ OECD - 1,2 4,0 3,7 0,7 1,3 - 2,2 - 1,7 0,8 1,3 0,8 2,1 1,3 2,0 1,4 0,9 - 0,5 0,7 1,8 1,1 1,7 2,8 - 0,5 - 1,5 - 0,9 - 0,1 2,0 2,5 1,2 - 0,2 1,1 3,1 0,5 0,8 1,1 1,7 2,0 3,7 2,1 1,5 2,1 2,7 2,3 2,2 2,7 2,3 2,9 4,1 2,0 2,6 2,7 b. Tỷ lệ lạm phát (%). 1991 1992 1993 1994 1995 - Mỹ - Nhật Bản - Đức - Pháp - Italia - Anh - Canada - G7 - Các nước OECD ở Châu Âu - Các nước toàn bộ OECD 2,6 2,1 3,9 3,0 7,4 6,6 2,5 3,9 5,3 4,8 2,9 1,9 5,4 2,3 4,7 4,4 1,1 3,1 4,4 4,0 2,8 1,0 4,0 2,3 3,8 2,0 1,0 2,4 3,2 3,3 2,4 0,7 2,9 1,9 4,1 3,0 1,8 2,2 3,0 3,2 2,8 0,7 2,0 1,6 2,9 3,0 1,9 2,1 2,5 3,1 Trong thực tế cũng có trường hợp: - Khi kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu tài chính mở rộng kéo theo chỉ số giá tăng. Chỉ số giá ở đây là hệ quả chứ không phải là động lực. - Khi lạm phát cao buộc phải thu hẹp tín dụng thì lạm phát giảm, mức tăng GDP danh nghĩa có xu hướng chậm lại làm mức tăng GDP danh nghĩa gắn với mức tăng thực tế. Mặc dù còn nhiều điểm chưa thống nhất nhưng các nhà kinh tế đều thừa nhận sự thành công về sự tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn dài là việc tạo ra môi trường kinh tế – tài chính ổn định, thuận lợi, trong đó duy trì mức lạm phát trung bình 8%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 18% ở các nước đang phát triển khác trong 30 năm qua. Thực tế trong mấy thập kỷ qua cho thấy nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn tốc độ tăng trưởng thì nền kinh tế không phát triển được, điển hình là Philippin. Ngược lại những nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Malaysia luôn kiểm soát được lạm phát và giữ tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ lạm phát nên đã phát triển nhanh chóng. Phần II. Lạm phát với tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn kinh tế ở Việt Nam 1. Lạm phát và trăng trưởng kinh tế trong những năm qua. Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một gian đoạn mới, đó là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi, khống chế ở mức hợp lý. Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7 – 8%. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %) Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tăng trưởng 5,1 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,8 9,5 Lạm phát 410,9 34,8 67,2 67,4 17,2 5,2 14,4 12,7 Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những vấn đề: Nối lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các quyết định về kinh tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu đồng thời thi hành một chính sách lãi suất thực dương, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp lúc đầu được tiếp nối với sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã nhanh chóng đem lại nhiều thành quả đáng khích lệ trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ thể: - Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền Việt Nam đã từng bước được khôi phục. Tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tăng nhanh. Tích lũy đầu tư của cả nước năm 1993 bằng 17,6% GDP, tăng đáng kể so với tỷ lệ tích lũy 11 – 12% những năm trước. Năm GDP/người (Tr đồng) Tốc độ tăng GDP (%) Tốc độ tăng tiêu dùng (%) Tỷ lệ tích lũy/GDP (%) Tỷ lệ để dành/GDP (%) 1989 1990 1991 1992 1993 95 98 109 131 163 8,0 5,1 6,0 8,6 8,1 8,1 8,3 3,6 5,4 4,4 11,6 12,6 15,0 17,6 20,5 7,2 - - 6,9 15,0 Nguồn: Tổng cục thống kê 1994 - Trong tổng số tích lũy năm 1993, tích lũy Nhà nước chiếm 43%, đầu tư trực tiếp nước ngoài 40%. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài này tương đương tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Singapo một nền kinh tế được coi là mở cửa rộng nhất ở Châu á hiện nay. - Tỷ lệ tiền để dành của cả nền kinh tế trên GDP năm 1992 là 6,9%, năm 1993 là 15% GDP. Đây là một bước ngoặt lớn về tích lũy so với trước đây. - Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung hóa và giá nông sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác, chỉ trong vòng 1 năm Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuất khẩu gạo, thu nhập của nông dân tăng lên. - Công cuộc chống lạm phát và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã được tạo điều kiện hết sức thuận lợi qua việc môi trường pháp lý đã từng bước được kiện toàn, đầu tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh số doanh nghiệp làm ăn thu lỗ đã giảm hơn, tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế nhà nước không ngừng được nâng cao. Mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế ở mức hợp lý. Điều này trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm phát thường làm kinh tế suy thoái. Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn mới: - Lạm phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu là vay nợ) đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một số đồng tiền khác, ảnh hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong khi đó sản xuất trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh bời hàng nhập đặc biệt là hàng nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập lên tới 63,7%, tỷ lệ sản phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới 25%. Cán cân thương mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ kích thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc duy trì thành quả đạt được. Do đó giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải được tiếp tục. Năm 1994, mức lạm phát do quốc hội thông qua là 10% nhưng do một số nguyên nhân khách quan như giá cả thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến trong nước, thiên tai, bội chi ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức dự kiến 14,4%. Pphân tích đã chỉ ra rằng năm 1994 lạm phát tăng chủ yếu thuộc về khâu cung ứng hàng hóa, trong đó lương thực chiếm phần quan trọng. Trong một thời gian dài giá lương thực đã đứng mở mức thấp so với giá cả các mặt hàng khác nên gía lương thực tăng lên ở chừng mực nhất định là hợp lý và phản ánh đúng thực tế. Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi gắn với nhiều bất ổn nên mức lạm phát có thể vượt quá so với mức dự kiến hàng năm. Mức lạm phát năm 1994 tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có thể chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho rằng phải kiềm chế lạm phát thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ thấp nhưng ổn định lâu dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng khuyến khích lạm phát mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các nước khác nên để tránh khỏi tụt hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm phát vài năm đầu cao hơn mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống những năm sau. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn toàn lạm phát. Tỷ lệ lạm phát ở mức dự tính hợp lý và có khả năng kiểm soát được để làm cơ sở cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ hàng năm nhằm giải quyết cùng lúc 2 mục tiêu là ổn định tiền tệ và đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài. 2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với tăng trưởng kinh tế: a. Thực trạng vấn đề giảm phát: Một điều có vẻ không bình thường là trong khi đang là giai đoạn phục hồi của các nền kinh tế bị khủng hoảng nặng ở Châu á thì kinh tế Việt Nam lại đang trên đà đi xuống. Việc đi xuống này rất khó hãm lại và việc đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng dù chỉ ở mức trên dưới 6% đã rất khó khăn. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt 4,3 % trong khi chỉ số giá giảm liên tục. Mức lạm phát 9 tháng chỉ là 0,2% trong 6 tháng đầu năm 1999, trừ 2 tháng 1 và 2 là hai tháng giáp tết, giá cả diễn biến hợp quy luật, 4 tháng còn lại chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tiếp mang dấu âm. Tình hình 6 tháng cuối năm cũng không khả quan hơn. Tháng 1: 1,7%, tháng 2: 1,9%; tháng 3: - 0,7%; tháng 4: - 0,6%, tháng 5: - 0,4%, tháng 6: - 0,3%. Mức lạm phát 6 tháng đầu năm 1999 là 1,6% thấp hơn nhiều cùng kỳ năm 1998 (6%). Giảm phát xuất hiện đã gây thêm khó khăn cho nền kinh tế vốn đang trì trệ. Trong khoảng 7/99, các hoạt động kinh tế chưa có sự chuyển biến tích cực. Chỉ số giá cả tháng 7 tiếp tục giảm 0,4% làm cho tỷ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức 1,2%. Trong 10 nhóm hàng hóa hình thành CPI thì giá hầu hết các mặt hàng đều giảm, giảm mạnh nhất là lương thực. Đây là nguyên nhân cơ bản làm giảm mức thu nhập bằng tiền do đó làm giảm sức mua của 76,5% dân số là nông dân là 1 trong những nguyên nhân gây giảm phát. Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm sản xuất – phân phối – trao đổi, tiêu dùng đều ở trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng, sản phẩm làm ra ứ đọng, sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt, hoạt động xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Nhiều nước trong khu vực phá giá đồng tiền tung ra thị trường khối lượng lớn hàng hóa rẻ gây cạnh tranh gay gắt về giá và chất lượng với hàng sản xuất trong nước. Trong nội địa sức mua xã hội dường như bão hòa trong khi tại các cửa khẩu biên giới hàng lậu đươcj tuôn vào tràn lan với giả rẻ. Giảm phát sẽ gây ra nguy hại cho nền kinh tế nếu nguyên nhân do mức cầu giảm năng lực sản xuất dư thừa và mức cung ứng tiền thu hẹp. Khi ấy giảm phát sẽ gây ra những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý này sẽ làm giảm mức cầu xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên tục giảm giá hàng. Nếu kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng kéo ngân hàng đến bờ phá sản. Nó còn làm các khoản thu ngân sách giảm sút, kìm hãm tốc độ trăng trưởng kinh tế. Nguy hại hơn là giảm phát có thể vô hiệu quá chính sách lãi suất một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. b. Nguyên nhân giảm phát. Giảm phát là hiện tượng thị trường bị chi phối bởi hai yếu tố cung và cầu. Thực chất của nó trong trường hợp Việt Nam tại thời điểm năm 1999 là tình trạng cung ngày càng vượt xa cầu. * Các nguyên nhân về phía cung: Trước hết cần khẳng định rẳng không hề có sự dư thừa cung nói chung mà chỉ là sự dư thừa cung trong cơ cấu. Tình trạng ứ đọng sản phẩm sản xuất cầm chừng không xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, với tất cả các ngnàh, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi khu vực mà chỉ xảy ra cho một số sản phẩm, một số ngành hẹp và tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc một vài khu vực nhất định. Khi bị đẩy tới mức nghiêm trọng thì hiệu ứng của nó lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế khi đó nó gaay ra cảm giác dư thừa cung toàn bộ. Cụ thể nhiều sản phẩm bị tồn kho nhiều nhât chính là những ngành được ưu tiên phát triển trong những năm gần đây như xi măng, đường, thép, gạch ốp lát. Những ngành sản phẩm bắt đầu bị ứ đọng từ năm 1988 thì sang 1999 duy trì mức tăng trưởng thuộc loaị cao nhất, làm cho cung cầu thị trường đối với chúng trở nên gay gắt hơn. Hầu hết những doanh nghiệp chịu hậu quả nặng nền nhất thuộc khu vực kinh tế nhà nước. HIện tượng “thừa cung” trong lĩnh vực dịch vụ là hậu quả trực tiếp của tình trạng “thiếu cầu” do mức thu nhập dân cư trong nước giảm và do tác động của khủng hoảng. Như vậy nguyên nhân ách tắc thị trường năm 1999 là do sự mất cân đối mang tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không phù hợp, phản ứng chính sách chưa kịp thời vẫn tiếp tục duy trì mức đầu tư, tăng trưởng cao cho những sản phẩm khó tiêu thụ, làm gia tăng thêm tình trạng mất cân đối cung cầu. Ngoài ra cũng có những nguyên nhân bên ngoài như xu hướng giảm giá toàn cầu trong đó có giá các sản phẩm xuất khẩu và thay thế nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng giảm phát của nước ta trong năm 1999. * Các nguyên nhân về phía cầu: Tổng cầu suy giảm là nguyên nhân làm tăng thêm tình trạng mất cân đối thị trường. Nó bắt nguồn từ một số lý do. Thứ nhất: số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng nhanh là yếu tố quan trọng hàng đầu làm giảm thu nhập dân cư đặc biệt là trong ngành than (8 vạn lao động không đủ việc làm) và ngành mía đường (40 vạn lao động bị ảnh hưởng về việc làm và thu nhập ). Thứ hai: mức giá nông sản nội địa giảm nhan hơn mức tăng sản lượng làm chi phí sản xuất của nông dân tăng nhanh hơn thu nhập. Cả tổng thu nhập và hiệu quả hoạt động trong nông dân đều giảm. Thứ ba: sự giảm sút thu nhập làm cho việc chi tiêu của dân cư có xu hướng tăng tỷ phần chi tiêu vào các mặt hàng tiêu dùng tối thiểu với giá rẻ, chất lượng phải chăng làm giảm sức mua đối với các sản phẩm cao cấp hoặc mang tính đầu tư, mua hàng nhập lậu tăng. Thứ tư: trong điều kiện thu nhập giảm người dân vẫn giữ tiền tiết kiệm vào các ngân hàng hơn là giữ lại ddể chi tiêu. Do lòng tin vào triển vọng kinh tế ít sáng sủa trong thời gian tới thúc đẩy dân cư gửi tiền như các bảo đảm cho tương lai hơn là mua hàng để tiêu dùng hiện tại. Ngoài những nguyên nhân kể trên, một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là việc đề ra và thực hiện các giải pháp để đối phó với tình trạng giảm phát nêu trên thường ít chú ý đến tính hệ thống và phản ứng daay chuyền, dễ triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy tình hình không được khắc phục mà tiếp diễn trong suốt thời gian khá dài. Điểm này sẽ được xem xét kỹ hơn trong mục tiếp theo: “Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng”. c. Các giải pháp “kích cầu” và hiệu quả áp dụng: Trong năm 1999, nỗ lực chính sách lớn nhất là áp dụng các giải pháp “kích cầu” nhằm khắc phục tình trạng giảm phát. Những giải pháp được coi là mạnh nhất trong số đó là 4 lần giảm lãi suất, tăng đầu tư nhà nước, tưang lương cho người lao động trong khu vực nhà nước bằng cách giảm ngày làm việc. Tuy nhiên thực tế cho thấy hiệu quả áp dụng các giải pháp này là rất thấp. Thị trtường hầu như không có phản ứng gì tích cực đối với các giải pháp vốn được coi là hết sức nhạy cảm trong điều kiện bình thường của kinh tế thị trường. * Giải pháp hạ lãi suất: Năm 1999, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất trần 4 lần và nới lỏng các điều kiện tín dụng. Mục đích của hành động này về cơ bản là xuất phát từ động cơ kích cầu (khuyến khích vay để chi tiêu và đầu tư). Mặt khác hạ lãi suất trước hết là phản ứng thuần túy thị trường khi mức lạm phát giảm mạnh. Vì vậy việc hạ lãi suất bị động cơ khách quan (giảm mức lạm phát) triệt tiêu sức kích thích của động cơ chủ quan (khuyến khích vay). Đây là lý do đầu tiên giải thích tại sao sau những lần hạ lãi suất kết luận vay ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng, vốn vẫn ùn đọng trong hệ thống ngân hàng, dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng. Về phía các doanh nghiệp đa số doanh nghiệp đang thực sự thiếu cơ hội đầu tư hơn là thiếu vốn. Sự ách tắc thị trường đã đến mức làm triệt tiêu đáng kể cơ hội và mong muốn gia tăng đầu tư để thoát khỏi tình thế bế tắc trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy điều cần suy nghĩ là giảm lãi suất có phải là một công cụ mạnh để tăng cơ hội đầu tư của doanh nghiệp hay không. Việc ngân hàng hạ lãi suất trần 4 lần song kết quả vẫn chưa thu được là bao chứng tỏ nguyên nhân không phải ở lĩnh vực tiền tệ, do đó công cụ lãi suất hoạt động không có hiệu quả. Về phía các ngân hàng, một mặt gánh nặng nợ quá hạn đã đạt đến con số khổng lồ làm các ngân hàng phải chịu rủi ro rất lơns do không thu hồi được vốn (chương trình mía đường nợ 4500 tỷ đồng, ngành xi măng và cao su mỗi ngành nợ 3000 tỷ đồng, chương trình nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình khắc phục hậu quả cơn bão số 5... nợ hơn 4000 tỷ...). Mặt khác dường như các ngân hàng đang lâm vào tình trạng bội thực về vốn: huy động vốn tiết kiệm nhiều nhưng ngân hàng lại không thể cho vay (vì nhiều doanh nghiệp không dám) và không dám cho vay (vì rất nhiều doanh nghiệp muốn vay là doanh nghiệp thua lỗ và có nguy cơ phá sản). Tình hình kinh tế đã trở nên trì trệ đến mức giảm lãi suất hầu như không có tác dụng kích thích đầu tư. Tuy nhiên nguyên nhân sâu sa của vấn đề lại là tình trạng cơ cấu bởi đối tượng cho vay chính của các ngân hàng hiện nay vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, nhiều trường hợp được vay theo chỉ định. Vì vậy hạ lãi suất không chỉ nhằm mục tiêp kích cầu mà còn chủ yếu nhừam tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Việc giảm lãi suất nhằm vào những mục tiêu không hoàn toàn đồng hướng với nhau vì thế tạo ra xu hướng triệt tiêu tác dụng, làm cho công cụ phát huy được hiệu quả thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định. * Giải pháp chi tiêu và đầu tư ngân sách nhà nước: Trong lĩnh vực ngân sách có 2 giải pháp quan trọng đã được áp dụng trong năm 1999 là thuế VAT và phát hành công trái với khối lượng 4000 tỷ đồng. - Về giải pháp VAT: Về nguyên tắc việc áp dụng thuế VAT là một bước đi đúng đắn hướng tới hình thành một môi trường kinh doanh lành mạnh rõ ràng hơn trong nền kinh tế và trong cơ chế vận hành ngân sách. Nó là một khâu quan trọng trong chương trình cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên việc triển khai VAT một phần do chuẩn bị chưa hoàn toàn chu đáo, bước đi chưa thật đồng bộ với sự thay đổi trong toàn bộ hệ thống thuế nhưng các doanh nghiệp phản ứng khá mạnh. Trong thực tế việc áp dụng VAT 10% là cao làm tổng mức đóng góp ngân sách của nhiêù doanh nghiệp tăng lên trong khi dknh doanh gặp nhiều khó khăn thì việc áp dụng VAT như vậy không góp gì vào việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như mục tiêu nỗ lực kích cầu của chính phủ. Mặt khác điều chỉnh mức VAT lại giải quyết theo từng trường hợp có khả năng làm phục hồi cơ chế xin – cho trong quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp, gây thêm trở ngại thể chế chứ không phải đẩy mạnh cải cách theo cơ chế thị trường. - Về việc phát hành công trái: mục tiêu là nhà nước vay tiền nhàn rỗi của dân cư để tài trợ cho các chương trình đầu tư. Nhưng mua công trái chính phủ có nghĩa là thu hẹp chi tiêu dân cư. Điều này là một giải pháp đi ngược với nỗ lực kích cầu của chính phủ. Trên thực tế kết quả của công việc này cũng cho thấy tuyệt đại bộ phận vốn huy động qua phát hành công trái là từ khu vực doanh nghiệp (trong đó đa số là doanh nghiệp nhà nước) và các tổ chức. Như vậy một mặt huy động công trái lần này thực chất chỉ là hình thức chuyển vốn từ “túi” này của nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) sang “túi” khác của nhà nước (ngân sách) và nhà nước lại phải trả lãi suất cao cho chính nguồn vốn của mình. Mặt khác phát hành công trái là để có vốn cho chương trình đầu tư cho 1000 xã đói nghèo. Tuy nhiên trên độ giải ngân rất chậm làm giảm hiệu quả của vốn vay. Nhìn chung các giải pháp tài chính trong năm 1999 đã hướng vào nhiều mục tiêu, nếu xét tách biệt thì chúng đều tích cực nhưng khi đặt trong tổ hợp thì chúng lại hạn chế, triệt tiêu lẫn nhau, vì vậy đã không đạt được kết quả mong muốn. Phần III. Một số giải pháp. 1. Những giải pháp chung để kiểm soát lạm phát, ổn định tăng trưởng kinh tế trong những năm sắp tới: a. Nhóm những giải pháp cấp bách: a1. Về tiền tệ tín dụng: - Tiếp tục phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và triển khai thị trường mua bán tín phiếu đó. -Tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng tối đa không vượt quá mức cung ứng dành chyo mục tiêu tăngphương tiện thanh toán đã dự kiến. Lãi suất tái cấp vốn xần thực hiện theo hướng thắt chặt tín dụng. NHTW phải triệt để thu nợ đến hạn và quá hạn của các tổ chức tín dụng. - Tiếp tục khống chế hạn mức tín dụng đối với các NHTM trên cơ sở vừa đáp ứng nhu cầu tín dụng cho tăngtrưởng kinh tế, vừa kiếm chế lạm phát. Tổ chức kiểm tra, thanh tra các hàng hoá tín dụng của các NHTM để nâng cao hiệu quả tín dụng, thu hồi vốn và lãi suất đúng hạn, giảm tỷ trọng nợ quá hạn. Kiên quyết xử phạt đối với NHTM vi phạm hạn mức tín dụng. - Kiểm soát chặt việc chấp hành mức dự trữ bát buộc. - Tiến hành sơ kết họat động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để bổ sung quy chế nhằm nâng cao hiệu quả họat động của thị trường này. Hạn chế việc sử dụng tiền phát hành để mua ngoại tệ cho quỹ điều hoà. Khuyến khích các NHTM mua ngoại tệ bằng tiền huy động của dân cư để bán cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có nhu cầu nhập khẩu. NHTW sử dụng quỹ kinh doanh để mua ngoại tệ góp phần ổn định tỷ guía đồng Việt Nam với ngoại tệ. a2. Vể ngân sách Nhà nước. - Đổi mới quản lý tài chính doanh nghiệp theo luật donh nghiệp Nhà nước và chế độ ké toán mới, đảm bảo nguyên tắc tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động. - Không bố trí các khoản chi chưa có nguồn thu, thu không đạt kế hoạch phải giảm chi tương ứng. Việc sửa đổi bổ sung hoặc ban hành chế độ mớilàm tăng chi trong năm chỉ được thực hiện khi có nguồn thu chắc chắn. Sử dụng qũy dự phòng cho các nhu cầu chi ngoài kế hoạch phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Bảo đảm trả các khoản nợ theo kế hoạch, không vì khó khăn của ngân sách mà chuyển nợ sang năm sau. a3- Về cung ứng hàng hoá. Phải đảm bảo trên thị trường có đầy đủ hàng hoá, đáp ứng tốt nhất nhu cầu có khả năng thanh toán của các tầnglớp dân cư không chỉ trên tổng thể mà còn về cơ cấu hàng hoá nhất là các mặt hàng thiết yếu. Đối với mặt hàng quan trọng thường có những cơn sốt giá trong năm cần tính toán rà soát kỹ để xác định mức bán ra cần thiết như đối với lương thực, xi măng, sắt thép, đường, phân bón, giấy viết... a4- Về chỉ đạo điều hành: - Chính phủ các bộ ngành, địa phương, tổng công ty kinh doanh những mặt hàng quan trọng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống phải xây dựng phương án kiềm chế lạm phát. Các phương án đó phải được phê duyệt, tổ chức thanh tra kiểm tra thường xuyên. - Các công ty kinh doanh các mặt hàng trọng thiết yếu phải chịu trách nhiệm trước bộ quản lý về tình hình giá cả các mặt hàng do mình phụ trách. Bộ Thương mại, Ban vật giá chính phủ phải phối hợp chặt chẽ với các Bộ chuyên ngành trong việc ổn định tình hình giá cả trên thịt trường cả nước. - Việc chống buôn lậu phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan có liên quan (Bộ Thương mại, thuế, hải quan, công an, quân đội...) b. Nhóm những giải pháp cơ bản và lâu dài: có liên quan đến việc đổi mới các chính sách kinh tế và công tác điều hành phù hợp với cơ chế thị trường. b1. Về cơ chế chung của nền kinh tế: - Các doanh nghiệp thực sự và buộc phải cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh. Sự can thiệp hành chính làm méo mó môi trường kinh doanh phải hạn chế ở mức cần thiết. - Các biện pháp quản lý mang tính quá độ phải được thay thế bằng các công cụ kinh tế thị trường như tình trạng 2 mức lãi suất tín dụng, ngân hàng nhà nước quy định mức lãi suất. - Các loại thị trường phải được thiết lập một cách đồng bộ, kể cả thị trường tiền tệ, thị trường vốn. b2. Về doanh nghiệp nhà nước: - Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả, chống thất thoát lãng phí vốn và tài sản nhà nước. - Sửa đổi quy chế giao vốn và quản lý vốn đối với doanh nghiệp nhà nước, phân biệt doanh nghiệp kinh doanh và doanh nghiệp công ích theo luật doanh nghiệp. Thực hiện đánh giá lại tài sản doanh nghiệp nhà nước theo giá thị trường. - Sửa đổi chế độ phân phối lợi nhuận doanh nghiệp tạo điều kiện và buộc doanh nghiệp bảo toàn được vốn và dành phần lợi nhuận thích đáng để tái đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. b3. Về ngân sách nhà nước: cần sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn của ngân sách nhà nước đi đối với tiếp tục đổi mới hệ thống thuế và tổ chức thu thuế để tăng được nguồn thu. - Đấu thầu trong việc mua sắm các tài sản, vật tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. - Tiến tới chấm dứt hẳn các hoạt động bao cấp của ngân sách nhà nước cho khu vực doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cấp vốn bổ sung hoặc trợ giá, hay các bao cấp gián tiếp khác. - Đầu tư vào các công trình kinh tế phải dựa trên tính toán hiệu quả và khả năng hoàn vốn. b4. Việc chính sách tiền tệ và tín dụng: - Không phát hành tiền theo kế hoạch mà theo tín hiệu của thị trường là chủ yếu. Việc tính toán lượng tiền phát hành thêm (căn cứ vào tốc độ tăng trưởng và tốc độ lạm phát dự kiến) chỉ nên coi là một phương tiện chủ động chứ không thể là căn cứ cho chính sách tiền tệ. - Phải tiến tới tự do hóa lãi suất và thực hiện cơ chế một lãi suất thị trường. Muốn vậy cần hình thành thị trường tín dụng, khắc phục tình trạng độc quyền của các ngân hàng thương mại quốc doanh hiện nay. - Thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và áp dụng các công cụ của thị trường mở để điều hành lưu thông tiền tệ. - Cải tiến để mở rộng diện tính toán không dùng tiền mặt để giảm bớt chi phí giao dịch trong thanh toán bằng tiền mặt. b5. Cơ chế xuất nhập khẩu và thuế quan: Chính sách thuế quan và các chính sách thương mại khác chỉ nhằm hạn chế nhập khẩu đối với một số hàng hóa cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước (các hàng hóa sản xuất trong nước đã đáp ứng được nhu cầu, hàng hóa có nhiều tiềm năng phát triển nhanh chóng, các mặt hàng mới áp dụng công nghệ hiện đại, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách hay tạo nhiều chỗ làm việc). Còn với đa số các mặt hàng khác cần nghiên cứu xóa bỏ từng bước các hạn chế nhập khẩu hiện nay như các quy chế về hạn ngạch, các thủ tục hành chính trong việc nhập khẩu. 2. Giải pháp khắc phụ giảm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời điểm hiện nay: Như đã trình bày trong phần trước, năm 1999 nhà nước đã thực hiện một số biện pháp kích cầu để khắc phục giảm phát song vẫn không đưa lại mấy kết quả. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải đề ra được những giải pháp mới. Có thể kể đến một số giải pháp như sau: - Giảm thuế và tăng chi tiêu của chính phủ khi cần phải kích cầu. Đây không bao giờ là bài học cũ. John M.Keynes đã nói “thuế là công cụ trực tiếp nhất, mãnh liệt nhất, quan trọng nhất trong việc tăng hay giảm tiêu dùng”. Thuế tăng sẽ bóp ngặt tiêu dùng, giảm tổng cầu và kéo giá cả xuống. Điều này đúng ở mọi nơi mọi lúc. Bài học này đã được nhiều nước áp dụng và mang lại kết quả rất đáng khả quan đặc biệt là Nhật Bản và Trung Quốc. - Thực hiện việc nới lỏng chính sách tiền tệ. Vai trò hàng đầu của chính sách tiền tệ hiện nay là làm dịu bớt suy giảm tổng cầu, tạo sự an toàn về niềm tin sản xuất, tái cung ứng vốn với lãi suất tối thiểu cho hệ thống tài chính, chấp tăng một mức lạm phát nhỏ để đổi lấy tăng trưởng thực. Mặt khác, việc cắt giảm lãi suất và nới lỏng tiền tệ phải được tiến hành song song với việc cải thiện chính sách cho vay. Vì nếu không khó mà khuyến khích giới kinh doanh vay tiền. 9 tháng đầu năm 1999, cho vay từ cửa sổ ngân hàng thương mại không tăng, dư nợ quá lớn trong khi đầu tư vào nông nghiệp và tín dụng nông thôn lại thấp.Tất cả đều xuất phát từ sự chồng chéo của quy định cho vay, thế chấp, thủ tục.Vì vậy sản xuất vẫn sẽ tiếp tục đối vốn, cho dù lãi suất hạ, tiền tệ mở rộng, nếu chính sách đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại vẫn không được cải cách nhanh chóng và quyết liệt. - Chú trọng phát triển xuất khẩu sang cả thị trường có tổng cầu cao và ổn định. Kích thích tổng cầu, quan tâm đến thị trường trong nước là cách làm cơ bản và lâu dài cho sự tăng trưởng ổn định.Tuy nhiên, vì Việt Nam là một nước đang phát triển nên vẫn phải chú trọng đến thị trường bên ngoài. Thị trường khu vực hiện nay đang suy thoái. Vì vậy Bắc Mỹ vẫn là thị trường có tổng cầu cao và ổn định nhất. Phát triển được xuất khẩu vào thị trường có tổng cầu cao và ổn định có nghĩa là bảo vệ được giá xuất khẩu, chống giảm phát. Hơn thế nữa, nó còn tạo được sự ổn định cho đầu ra và công việc của lao động trong nước, gián tiếp kích thích tổng cầu nội địa. - Cải tạo cơ cấu thị trường sản phẩm nội địa. Tạo ra một thị trường có khả năng đáp ứng những nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng chính là chìa khóa để kích thích tiêu dùng nội địa, tăng tổng cầu, mở rộng GDP, chống giảm phát. Muốn vậy một mặt các doanh nghiệp phải tập trung sản xuất vào những sản phẩm trọng yếu, xây dựng nhãn hiệu và uy tín thương trường, tránh tình trạng chạy theo quy mô làm tăng nợ, giàn mỏng chuyên môn, tạo sản phẩm kém cạnh tranh. Mặt khác cần xóa bỏ nhanh chóng cơ chế độc quyền hiện nay trên thị trường. Đây là trợ lực lớn cho việc xây dựng một thị trường sản phẩm tốt vì nó làm tăng chi phí một cách giả tạo và vô lý.Tình trạng đắt giá giả tạo do độc quyền gây ra làm giảm tiêu dùng, không kích thích được cạnh tranh và phát triển sản xuất. - Cần có những định hướng cần thiết trong chính sách kinh tế quốc tế của ta. Cơ cấu phụ thuộc quốc tế buộc những chính sách vĩ mô của một nước phải được xây dựng trong sự tương quan với chính sách vĩ mô của các nước đối tác nhất là những đối tác mạnh.Đây là cơ chế của sự phối hợp quốc tế về chính sách vĩ mô.Cơ chế này tạo ra những khả năng duy trì và phát triển quyền lợi của các bên trên cơ sở của việc chấp nhận liên tục. Nếu hai nước đối tác đều không quan tâm đến chính sách của nhau, cạnh tranh kinh tế sẽ đưa đến thiệt hại cho cả hai bên.Chỉ có hợp tác tốt mới làm tăng quyền lợi lẫn nhau, làm tăng hiệu quả của chính sách nội bộ như kích cầu và tăng trưởng. Kết luận Lạm phát và tăng trường kinh tế là 2 vấn đề có quan hệ chế ước lẫn nhau rất chặt chẽ, phức tạp.Vì vậy giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải cần được coi là nền tảng trong sự phát triển ổn định, liên tục và lâu dài củaViệt Nam trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường. Nếu xem nhẹ vấn đề này sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát chỉ đem lại những kết quả hết sức hạn chế, thậm chí là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng. Bởi vậy bất cứ giải pháp nào có lợi cho tăng trưởng kinh tế cũng cần phải đi kèm với những giải pháp nhằm tránh những cú sốc do kích thích mạnh lạm phát thái quá gây bất lợi cho nền kinh tế. Tuy vậy cũng cần tránh những biện pháp cứng nhắc tuy có thể kiềm chế được lạm phát nhưng lại làm chậm đà phát triển kinh tế. Hiểu rõ và giải quyết được tốt vấn đề này sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Frederic S. Mishkin – Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – NXB Khoa học và kỹ thuật – Hà Nội – 1995. 2. Tập thể tác giả- Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam – NXB Chính trị Quốc gia – Hà nội – 1997. 3. Kinh tế vĩ mô - NXB Thống kê - Hà nội 1998. 4. Các Tạp chí : - Thị trường tài chính tiền tệ . - Phát triển kinh tế. - Phân tích kinh tế. - Tạp chí Cộng sản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0871.doc