Tỉnh Hưng Yên là tỉnh đất chật, người đông, bình quân diện tích canh tác bình quân đầu người thấp, nhiều nhà máy, xí nghiệp mọc lên, chiếm nhiều diện tích canh tác, trong khi số lao động bị mất đất canh tác không được các nhà máy xí nghiệp chấp nhận vào làm vì không đáp ứng nhu cầu về chuyên môn, do vậy số lao động này không có công ăn, việc làm là nguy cơ tiềm ẩn các tệ nạn xã hội. Đây là bài toán khó, chưa có lời giải cho các nhà lãnh đạo. Đây cũng là thách thức không nhỏ của ngành dân số, vì số lao động dư thừa này sẽ tính đến chuyện di cư đi các vùng miền núi, các tỉnh miền nam để tìm kiếm công ăn việc làm tăng thu nhập cho gia đình, chính vì vậy, việc quản lý về công tác dân số – KHHGĐ đối với họ là rất khó.
Một số người dân còn mang nặng hủ tục nho giáo, trọng nam, khinh nữ. muốn có con trai để nối dõi tông đường. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng dân số hàng năm, tỷ lệ giới tính chênh lệch (nam cao hơn nữ), làm cho cơ cấu dân số thay đổi đáng kể.
Tỷ lệ các biện pháp tránh thai cao nhưng cơ cấu chưa đồng đều. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có thời điểm gia tăng. Hiện tượng mất cân bằng giới ở trẻ sơ sinh đã xuất hiện và có chiều hướng gia tăng. Các hoạt động về nâng cao chất lượng dân số chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có điều kiện tổ chức chương trình, dự án hoặc các nghiên cứu về sàng lọc dị tật bẩm sinh của trẻ sơ sinh. Nhận thức của vị thành niên, thanh niên về chăm sóc sức khoẻ sinh sản còn hạn chế.
- Tồn tại:
Từ khi Nhà nước thực hiện lộ trình cải cách hành chính, việc chia tách, sáp nhập đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới đội ngũ làm công tác dân số, nhất là cán bộ cơ sở, họ tâm huyết với nghề, khi giải thể họ chưa biết về đâu, do vậy từ tháng 7/2007 đến tháng 4/2008, công tác dân số của tỉnh nói chung bị hạn chế, có khả năng không hoàn thành nhiệm vụ năm 2008, nhưng đến nay công tác tổ chức đã tương đối ổn định, đang đi vào hoạt động nhưng phải hết năm 2008 thì tổ chức bộ máy dân số xã mới ổn định.
50 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của việc chia tách đến công tác dân số kế hoạch hóa gia đình tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mỗi người dân. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được với một qui mô, tốc độ tăng trưởng, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực phù hợp với nền kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia.
Năm 1957 Đại hội đồng liên hợp quốc nhất trí thông qua nghị quyết về các vấn đề dân số, trong đố kêu gọi các nước thành viên tính đến mối quan hệ tương hỗ giữa phát triển kinh tế và biến đổi dân số và cổ vũ các chính phủ đi theo con đường “Kế hoạch hoá gia đình” để giảm bớt sự gia tăng dân số quá nhanh. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển (chiếm 67% dân số thế giới vào năm 1950), chịu ảnh hưởng trầm trọng của vấn đề bùng nổ dân số đã ngày càng quan tâm đến chương trình kiểm soát sinh. Ngày nay hơn một nửa các cặp vợ chồng trên thế giới đã tích cực sử dụng các biện pháp tránh thai và họ đã có ít con hơn so với cha mẹ mình vài chục năm trước đây. Mặc dù vậy, số trẻ sinh ra hàng năm vẫn ở mức cao bởi số người bước vào độ tuổi sinh đẻ vẫn lớn hơn nhiều so với số người bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ. Các nhà khoa học, các nhà quản lý của nhiều các quốc gia trên thế giới nhận thấy rằng, tăng dân số nhanh có tác động hạn chế đến quá trình phát triển của từng quốc gia và cả thế giới. Gia tăng dân số nhanh cũng góp phần làm căng thẳng thêm các vấn đề toàn cầu như: cạn kiệt nguồn tài nguyên, suy thoái môi trường, hiện tượng nóng lên của khí hậu toàn cầu, quá tải dân cư ở các khu đô thị lớn….Chính các hiện tượng này, cùng với các nhu cầu sống cơ bản của người dân không được đáp ứng đầy đủ như lương thực, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nhà ở…sự phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong hưởng thụ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột, cạnh tranh… là những yếu tố làm cản trở các nỗ lực ổn định dân số ở mỗi quốc gia.
ở Việt Nam từ thập kỷ 60 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm mức sinh ở Việt Nam ra đời hơn 40 năm, được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26-12-1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này dân số nước ta mới khoảng 30-31 triệu người. Điều đó chứng tỏ Nhà nước ta đẫ sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh và hơn nữa có tầm nhìn chiến lược đối với công tác này khi xác định mục tiêu của sinh đẻ có hướng dẫn không chỉ đơn thuần là hạn chế qui mô dân số mà mục đích quan trọng của nó là “Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và sự hoà thuận của gia đình, để cho việc nuội dạy con cái được tốt…”
Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (năm 1993) nhận định: “Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế – xã hội. Gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt trí tuệ, văn hoá thể lực của nòi giống. Nếu xu thế này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xã thì nước ta đứng trước khó khăn rất lớn, thậm trí những nguy cơ nhiều mặt”. Nghị quyết đã nêu lên quan điểm về mối quan hệ giữa dân số và phát triển, vị trí của công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình: “Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của từng người, từng gia đình và toàn xã hội”
Chiến lược dân số - kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/3/1993 đã thể chế hoá một giai đoạn thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) tạo nên bước ngoặt có tính quyết định thành công của chương trình dân số Việt Nam.
Mức giảm sinh nhanh hơn so với kế hoạch đề tạo ra đã tạo diều kiện thuận lợi để đạt được mục tiêu hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 2,1% (năm 1992) xuống còn trên 1,3% (năm 2002), qui mô dân số 79,7 triệu người (năm 2002), số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2,28 con. Đây là tiến bộ vượt bậc của chiến lược dân số – KHHGĐ dến năm 2000. Như vậy đạt mức sinh thay thế vào năm 2025 chúng ta sẽ đạt sớm hơn 10 năm. Theo tính toán của Tổng cục Thống kê và dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở (1999) đáng lẽ dân số nước ta là 80 triệu người vào năm 1999 thì đến năm 2002 chúng ta mới đạt con số này, như vậy lùi được 3 năm. Kết quả này đã góp phần chi ngân sách nhà nước cho dịch vụ phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế… trực tiếp góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho những gia đình thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình.
Suy cho cùng tăng trưởng kinh tế nhằm đạt mục tiêu phát triển, chỉ tiêu thích hợp này được thể hiện qua tỷ lệ tăng thu nhập bình quân đầu người (GDP). Tỷ lệ tăng GDP đầu người phụ thuộc vào tỷ lệ tăng tổng sản lượng quốc nội và tỷ lệ tăng dân số, trong đó tỷ lệ tăng sản phẩm quốc nội là tử số và tỷ lện tăng dân số là mẫu số. Để tăng được GDP bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc nội phải tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số. Việc hạ thấp tỷ lệ tăng dân số vừa góp phần làm tăng GDP thông qua việc tăng số lượng và chất lượng lao động và tăng tiết kiệm chi tiêu, dùng để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng được thấy rõ hơn là tăng GDP bình quân đầu người, đặc biệt khi xem xét kết quả của chương trình DS-KHHGĐ làm tăng GDP bình quân đầu người được thấy đậm nét trong giai đoạn dài.
Tăng trưởng kinh tế và gia tăng dân số Việt Nam 1976-2002 (Đơn vị tính:%)
Giai đoạn
Tỷ lệ gia tăng GDP
Tỷ lệ tăng dân số
Tỷ lệ tăng GDP/người
1976 - 1980
0,4
2,47
2,07
1981 - 1985
6,4
2,52
3,88
1986 - 1990
3,9
2,1
1,8
1991 - 2000
7,56
1,7
5,86
2001
6,89
1,4
5,49
2002
7,04
1,3
5,74
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước đang phát triển có sự phát triển nhẩy vọt về kinh tế trước đó đã thực hiện có kết quả cao về DS-KHHGĐ, các nhà kinh tế học đã thừa nhận, việc giảm sinh trong 3 thập kỷ qua đã góp phần lớn vào tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan… đối với Việt Nam, Liên hợp quốc dự báo rằng, nếu thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ thì qui mô dân số sẽ ổn định ở mức 120 triệu người năm 2035, GDP bình quân đầu người bằng 31,2 lần GDP bình quân đầu người năm 1990. Và ngược lại, nếu không thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ thì qui mô dân số sẽ ổn định ở mức 160 triệu người năm 2035, GDP bình quân đầu người chỉ bằng 25 lần GDP bình quân đầu người năm 1990.
Như vậy chúng ta thấy trong thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam vào khoảng7,56% nhưng nếu tỷ lệ tăng dân số không giảm xuống mức 1,7% mà vẫn tăng ở mức 2,4-2,55% như những năm đầu thập kỷ 80 thì tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người sẽ giảm 1%. Vì vậy việc thực hiện thành công mục tiêu chương trình DS-KHHGĐ trong những thập kỷ 90 đã góp phần làm tăng GDP bình quân đầu người mỗi năm. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng nhờ thực hiện tốt chương trình DS-KHHGĐ nên tỷ lệ tăng GDP bình quân đầu người vẫn đạt ở mức cao.
1.2- Các giải pháp của Nhà nước ta
Nhằm tiếp tục phát huy thành quả của chương trình Dân số đã đạt được góp phần xây dựng đất nước phát triển, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành đánh giá tổng kết 10 thực hiện Nghị quyết Ban chhấp hành Trung ương lần thứ 4 khoá VII (1993-2003). Qua tổng kết sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là những yếu kém cần khắc phục để có giải pháp thực hiện tốt hơn những mục tiêu đặt ra trong Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010.
Xây dựng Chiến lược Dân số 2001-2010 nhằm giải quyết đồng bộ vấn đề dân số trên cả mặt qui mô, chất lượng, cơ cấu, phân bổ dân cư tiến tới ổn định qui mô dân số nước ta vào thế kỷ 21. Tiếp tục nâng cao nhận thức tiến tới chuyển đổi hành vi của mỗi cặp vợ chồng thực hiện KHHGĐ xây dựng gia đình ít con (1 hoặc 2 con) khoẻ mạnh, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đến nay công tác DS-KHHGĐ đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng để đạt được mức sinh thay thế, dân số ổn định thì cần phải có thời gian, cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp từ Trung ương đến địa phương.
ý thức được tầm quan trọng của công tác dân số - KHHGĐ do vậy tôi chọn “ Triển khai công tác dân số - KHHGĐ tỉnh Hưng Yên gia đoạn 2003 - 2007” làm đề tài nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu:
Công tác dân số – KHHGĐ, tác động của sự gia tăng dân số đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, giai đoạn từ năm 2003 – 2007.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Công tác dân số – KHHGĐ trên phạm vi toàn tỉnh Hưng Yên, nghiên cứu về tổ chức bộ máy từ tỉnh đến cơ sở, tỷ lệ tăng dân số của những năm gần đây, tỷ lệ con thứ 3 trở lên, tỷ số giới tính, chất lượng dân số. Công tác điều hành theo ngành dọc, sự chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp về công tác dân số – KHHGĐ.
- Sự tác động của gia tăng dân số đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Nghiên cứu công tác dân số – KHHGĐ từ năm 2003 đến năm 2007, những ý kiến đề xuất, kiến nghị về công tác dân số – KHHGĐ những năm tiếp theo.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin;
- Phương pháp xử lý tư liệu rhứ cấp;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu báo cáo
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo, các Văn bản đã được ban hành như các chỉ thị, nghị quyết, các quyết định có liên quan đến ngành DS-KHHGĐ, báo cáo còn được cấu trúc làm III phần (theo mục lục).
Tóm tăt quá trình thực tập:
Trình Công văn số: 457/HVHC-ĐTBD ngày 22 tháng 7 năm 2008 của của Học viện Hành chính V/v tiếp nhận sinh viên lớp đại học hành chính KH5 – TC25 thực tập với Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Hưng Yên, tham gia thực tập theo nội qui, qui chế của cơ quan, thực hiện đúng theo nội dung, kế hoạch thực tập số: 456/HVHC-ĐTBD của Học viện Hành chính, tiến hành thực tập từng phần theo nội dung, kế hoạch.
b.Triển khai công tác dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Hưng Yên, gia đoạn 2003 – 2007, những thành tựu ngành dân số đã đạt được, quá trình thực hiện các văn bản của Trung ương, của tỉnh về công tác dân số – KHHGĐ, đánh giá thực trạng tại địa phương, những khó khăn, thách thức và các kiến nghị về giải pháp trong thời gian tới.
Phần nội dung
I. Tóm tăt quá trình thực tập
1. Tim hiểu vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Chi cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình tỉnh Hưng Yên.
- Vị trí pháp lý:
Thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Chính phủ, qui định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chi cục Dân số – KHHGĐ (DS-KHHGĐ) được tách ra từ Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (Dân số – GĐTE) trước kia, được thành lập theo Quyết định số 16/2008/QĐ-UBND ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chỉ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Chi cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình.
- Chức năng, nhiệm vụ:
Chi cục DS-KHHGĐ thuộc Sở Y tế, thực hiện chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở Y tế quản lý nhà nước về dân số - KHHGĐ, bao gồm các lĩnh vực như qui mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số; chỉ đạo và tổ chức các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh. Chi cục DS-KHHGĐ chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Y tế; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn nghiệp vụ của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình- Bộ Y yế. Chi cục có tư cách pháp nhân, có con dấu và được mở tài khoản theo qui định của pháp luật. Có trụ sở số: 170 Đường Nguyễn Văn Linh – Phường An Tảo – thị xã Hưng Yên- tỉnh Hưng Yên.
Chi cục Dân số - KHHGĐ than mưu giúp Sở Y tế trình cấp có thẩm quyền ban hành các quyết định, chỉ thị cá biệt, và chương trình, giải pháp huy động,phối hợp liên ngành trong lĩnh vực DS-KHHGĐ. Giúp Sở Y tế kiểm tra, đánh giá và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, kế hoạch các chương trình mục tiêu, chương trình hành động, các dự án về DS-KHHGĐ sau khi được phê duyệt; Xây dựng các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ trình cấp có thẩm quyền hoặc ban hành theo thẩm quyền.
Theo dõi, quản lý biến động tăng, giảm dân số, đề xuất các gải pháp điều chỉnh mức sinh và tỷ lệ phát triển dân số trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện qui định của pháp luật đối với các hoạt động dịch vụ tư vấn KHHGĐ và quản lý các phương tiện tránh thai; Theo dõi, tổng hợp về cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi trên địa bàn tỉnh.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông, vận động, giáo dục, cung cấp dịch vụ, tư vấn về các lĩnh vực DS-KHHGĐ, sức khoẻ tình dục, sức khoẻ sinh sản vị thành niên và thanh niên; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ cho cán bộ chuyên trách Dân số - KHHGĐ và cộng tác viên thôn; Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính, tài sản được giao, quản lý các tổ chức sự nghiệp thuộc Chi cục, thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật theo qui định của pháp luật và phân cấp quản lý của Sở Y tế;
Kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong lĩnh vực DS-KHHGĐ theo thẩm quyền.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Y tế giao.
2. Tình hình cán bộ, công chức, viên chức của Chi cục DS-KHHGĐ:
Sau khi chia tách, từ Uỷ ban Dân số - GĐTE đến nay Chi cục Dân số KHHGĐ còn 12 biên chế (chưa kể bảo vệ, lái xe), trong đó có 07 cán bộ nữ, 05 cán bộ nam; 06 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, 06 cán bộ có trình trung cấp.
a. Lãnh đạo Chi cục gồm: Chi cục Trưởng bà Hoàng Thị Khuyên – Phó Giám đốc Sở Y tế kiêm Chi cục Trưởng; hiện nay chi cục đang làm qui trình bổ nhiệm 01 Chi cục phó – Chờ Quyết định.
b. Các phòng chức năng:
+ Phòng Tổ chức – Hành chính – Kế hoạch và Tài vụ gồm 06 cán bộ.
+ Phòng Dân số – KHHGĐ gồm 02 cán bộ.
+ Phòng truyền thông – Giáo dục gồm 03 cán bộ.
c. Các đơn vị trực thuộc gồm: các Trung tâm Dân số các huyện, thị xã trong tỉnh.
Theo Thông tư số: 05/2008/TT-BYT ngày 14 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế V/v hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy dân số – Kế hoạch hoá gia đình ở địa phương thì Chi cục Dân số – KHHGĐ tỉnh được biên chế 01 Chi cục Trưởng và không quá 02 Chi cục phó, số cán bộ công chức ít nhất là 20 biên chế (không kể lái xe, bảo vệ, tạp vụ theo hợp đồng)
Cũng theo Thông tư hướng dẫn này, số cán bộ của Trung tâm Dân số – Kế hoạch hoá gia đình các huyện, thị xã ít nhất là 06 cán bộ (không kể bảo vệ, lái xe và tạp vụ làm việc theo hợp đồng). Trung tâm Dân số các huyện, thị xã có Giám đốc và không quá 02 Phó Giám đốc. Trung tâm DS – KHHGĐ các huyện, thị xã có 02 ban là Ban Hành chính tổng hợp; ban truyền thông và dịch vụ DS- KHHGĐ.
ở tuyến xã có chuyên trách xã đảm đương mọi công việc về DS-KHHGĐ của xã như thu thập thông tin từ các thôn, chỉ đạo cộng tác viên hoạt động theo yêu cầu của ngành.
ở các thôn, có các Cộng tác viên thôn có chức năng nắm bắt các thông tin dân số như: Số sinh, số tử, di dân, các biến động dân số để báo cáo với chuyên trách xã. Cả tỉnh Hưng Yên hiện nay có 162 Chuyên trách xã và 1440 Cộng tác viên thôn.
3. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của các phòng và đơn vị trực thuộc.
- Phòng Tổ chức – Hành chính – Kế hoạch và Tài vụ:
Có chức năng tham mưu, giúp Chi cục trưởng quản lý nội vụ cơ quan, quản lý tài sản, mua sắm các thiết bị phục vụ công việc của cơ quan; quản lý, chuyển công văn đến, in ấn và ban hành các công văn đã được Thủ trưởng phê duyệt; tổ chức quản lý hồ sơ lưu trữ, con dấu và đóng dấu theo qui định; giúp Thủ trưởng quản lý hồ sơ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở, thực hiện chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kiến nghị kỷ luật cá nhân, tập thể vi phạm chính sách DS –KHHGĐ; lập dụ trù kinh phí hàng năm, thanh quyết toán các khoản chi tiêu theo chế độ, chính sách hiện hành.
- Phòng Dân số – Kế hoạch hoá gia đình:
Tham mưu giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý công tác dân số – KHHGĐ trên phạm vi toàn tỉnh như: Xây dựng các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ, theo dõi, quản lý biến động tăng, giảm dân số, đề xuất các giải pháp điều chỉnh mức sinh và tỷ lệ phát triển dân số trên địa bàn tỉnh; theo dõi tổng hợp, báo cáo về cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi, chất lượng dân số, thực trạng dân số của địa phương; tham gia đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về DS-KHHGĐ cho cán bộ chuyên trách xã và đội ngũ cộng tác viên thôn; cung cấp các dịch vụ và phương tiện tránh thai cho các đối tượng có nhu cầu trên phạm vi toàn tỉnh.
Phòng Truyền thông – Giáo dục:
Phòng truyền thông – GD có nhiệm vụ thâm mưu giúp Thủ trưởng đơn vị quản lý công tác truyền thông – GD về Dân số - KHHGĐ trên phạm vi toàn tỉnh, đề xuất các giải pháp về truyền thông - GD; quản lý trang thiết bị truyền thông, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, mua sắm trang thiết bị truyền thông – GD từ tỉnh đến cơ sở, liên hệ với các cơ quan thông tin đại chúng để truyên truyền về DS-KHHGĐ; biên soạn phát hành các tài liệu về DS-KHHGĐ, tổ chức các buổi toạ đàm, giao lưu, tuyên truyền, cổ động, tập huấn về DS-KHHGĐ theo kế hoạch đã được phê duyệt.
II. Nội dung báo cáo đề tài “ Triển khai công tác dân số – kế hoạch hoá gia đình tỉnh hưng yên giai đoạn 2003 – 2007”
Những đặc điểm chung
Tỉnh Hưng Yên được tái lập năm 1997, là tỉnh thuộc đồng băng Sông Hồng không có lợi thế về tài nguyên, thiên nhiên, diện tích là 923,5 km2, dân số trên 1.153.000 người, mật độ dân số xấp xỉ 1.252 người/Km2 (là tỉnh có mật độ dân số lớn thứ 3 sau Hà Nội (cũ) và Thành phố Hồ Chí Minh) với 09 huyện, và 01 thị xã. Hưng Yên là tỉnh đất chật, người đông, mặc dù nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp nhưng với chiến lược phát triển kinh tế và địa thế thuận lợi, những năm gần đây, kinh tế Hưng Yên có những bước phát triển đáng kể, tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 12,28%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nhiều khu công nghiệp, nhà máy xí nghiệp được xây dựng, thu hút nhiều lao động, giải quyết cơ bản về vấn đề việc làm, đây là tín hiệu đáng mừng trong trương trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tình hình chia tách, sáp nhập cơ quan Dân số – KHHGĐ tỉnh Hưng Yên
Ngay từ khi tái lập, tỉnh Hưng Yên đã thành lập Uỷ ban DS-KHHGĐ, là đơn vị trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác Dân số - KHHGĐ trên phạm vi toàn tỉnh.
Đến năm 2002, Uỷ ban DS-KHHGĐ được sáp nhập với Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em thành Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hưng Yên.
Đến ngày 30 tháng 5 năm 2008 sau khi chia tách, một bộ phận về Sở Văn hoá, một bộ phận về Sở Lao động – Thương binh – Xã hội, chi cục Dân số KHHGĐ được thành lập, là đơn vị độc lập, trực thuộc sở Y tế, quản lý công tác dân số- KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở.
Năm 2003 Uỷ ban dân số, Gia đình và Trẻ em (trước kia) vừa quản lý lĩnh vực DS-KHHGĐ vừa quản lý công tác gia đình và trẻ em, nhưng công tác dân số KHHGĐ vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn, các phòng chuyên môn được thành lập như: Phòng Dân số – KHHGĐ; Phòng Thanh tra; Phòng Truyền thông – GD, Phòng gia đình và trẻ em.
Ngoài các phòng ban trên, Uỷ ban Dân số, Gia đình TE còn có các đơn vị trực thuộc là Quĩ Bảo trợ trẻ em và Trung tâm tư vấn dịch vụ - KHHGĐ.
Hoạt động dân số – KHHGĐ dựa trên các Chỉ thị, Nghị quyết, các Văn bản của Trung ương, của tỉnh ban hành như: Pháp lệnh Dân số, Nghị định 104/2003/NĐ-CP và một số Văn bản qui phạm pháp luật khác.
3. Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
3.1 – Những thuận lợi:
- Ngành Dân số KHHGĐ tỉnh Hưng Yên luôn luôn được sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, sự đồng thuận từ tỉnh đến cơ sở, được các cấp các ngành quan tâm, hỗ trợ, đội ngũ cán bộ tận tình công tác, giầu kinh nghiệm, có chuyên môn giỏi.
- Là tỉnh đồng bằng, địa bàn nhỏ gọn dễ quản lý, hệ thống thông tin truyền thanh phủ rộng khắp tỉnh, giao thông thuận tiện, nhận thức của người dân có nhiều chuyển biến.
- Các chính sách đãi ngộ cho cán bộ làm công tác dân số cơ sở được các cấp chính quyền quan tâm, ngoài phần kinh phí của Nhà nước, tỉnh còn đầu tư thêm kinh phí đối ứng của địa phương cho công tác này.
- Lãnh đạo ngành năng động, sáng tạo, tranh thủ nhiều nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, từ tỉnh và các tổ chức nước ngoài thông qua các dự án, góp phần thúc đẩy công tác dân số – KHHGĐ đạt được những mục tiêu đề ra.
3.2- Quá trình thực hiện công tác dân số – KHHGĐ.
* Công tác phổ biến, giáo dục công tác truyền thông Pháp lệnh dân số:
Năm 2003 là năm đánh dấu mốc quan trọng của công tác dân số – KHHGĐ, là năm Đảng, Nhà nước có nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, các Chỉ thị, Nghị quyết mang tính cấp thiết tác động làm cho công tác DS-KHHGĐ ở mỗi địa phương mang lại những thành tựu đáng kể, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi địa phương, đặc biệt là Pháp lệnh dân số số 06/2003/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngay sau khi Pháp lệnh dân số được Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, Uỷ ban DS GĐTE đã chủ động phối hợp với một số ban ngành đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Pháp lệnh dân số. Đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc (điều 2), quyền và nghĩa vụ của công dân, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân (Điều 4,điều 10), các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7) … theo quan điểm mục tiêu của chiến lược dân số, thực hiện qui mô gia đình ít con (1 hoặc 2 con). Công tác tuyên truyền, giáo dục tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh khi có Nghị định 104 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh dân số.
Tháng 9/2003, Uỷ ban Dân số - GĐTE tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển khai Chiến dịch tuyên truyền về Pháp lệnh dân số; thành lập Ban chỉ đạo với thành phần gồm lãnh đạo Uỷ ban DSGĐTE và một số ngành, đơn vị có liên quan; chủ trì phối hợp với các ngành, đoàn thể, đơn vị tổ chức các hoạt động sau:
- Tổ chức các hội nghị triển khai kế hoạch tuyên truyền về Pháp lệnh dân số tới các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh, các cơ quan thông tin đại chúng, một số cơ sở y tế tư nhân và hệ thống DSGĐTE tỉnh và 10 huyện, thị xã (từ ngày 25-27/11/2003).
- Tổ chức biên soạn, in ấn tài liệu phục vụ cho công tác truyền thông, các bài giảng tập huấn; tài liệu Pháp lệnh dân số và Nghị định 104/2003/NĐ-CP về hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh dân số; tờ rời “Chấp hành Pháp lệnh dân số là nghĩa vụ của toàn nhân dân”
- Phối hợp với Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ mở hội nghị cho các báo cáo viên về côntg tác tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh dân số. Đồng thời cho in ấn, gửi văn bản tới các cơ sở.
- Phối hợp với các huyện, thị tổ chức hội nghị triển khai tại 10/10 huyện, thị, tới lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền các huyện/thị, lãnh đạo và cán bộ chuyên trách DSGĐTE của 161/161 xã, phường, thị trấn trong tỉnh; tổ chức quán triệt các nội dung này tới từng Chi bộ. Đồng thời chỉ đạo hệ thống cán bộ, cộng tác viên DSGĐTE tích cực triển khai tuyên tuyền, phổ biến trên địa bàn quản lý, đặc biệt tuyên truyền trong dịp triển khai Chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản – KHHGĐ.
- Toạ đàm về thực hiện Pháp lệnh dân số và Nghị định 104/2003/NĐ-CP của Thủ tướng chính phủ tại trường quay Đài PT-TH tỉnh.
- Tổ chức hội nghị truyền thông về Pháp lệnh dân số tại các huyện, thị và một số xã có tỷ lệ sinh con thứ ba cao.
- Phối hợp với Liên đoàn lao động tỉnh tổ chức tập huấn tới 100% các đồng chí là Trưởng ban nữ công của các ngành thuộc huyện, thị xã; phối hợp với ngành Giáo dục tổ chức truyền thông về Pháp lệnh dân số.
- Lồng ghép nội dung tuyên truyền Pháp lệnh dân số và Nghị định 104 của Chính phủ trong các chiến dịch tăng cường truyền thông lồng ghép dịch vụ KHHGĐ tại 10 huyện, thị xã.
- Song song với việc triển khai nội dung các văn bản trên hội nghị, Uỷ ban DSGĐTE tỉnh đã tiến hành tổ chức nhiều hoạt động truyền thông để phổ biến đầy đủ, chính xác tinh thần cơ bản của pháp lệnh dân số tới đông đảo nhân dân. Cụ thể, mỗi tháng xây dựng 02 chuyên mục trên Đài PT- TH tỉnh, 02 chuyên mục trên Báo Hưng Yên và nhiều bài viết trên Tạp chí DSGĐTE Hưng Yên, Đặc san Người làm báo Hưng Yên…phổ biến Pháp lệnh dân số và các chính sách của Trung ương, các qui định của tỉnh về công tác DSGĐTE.
* Các văn bản chỉ đạo của địa phương đã ban hành:
- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số: 47/CT-TU ngày 25/7/2005 về tiếp rục đẩy mạnh công tác DSGĐ Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Nghị quuyết số 12/NQ-TU về chương trình DSGĐTE giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015;
- Quyết định số 871/QĐ-UBND về phê duyệt Chương trình DSGĐTE giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015
- Tham mưu với UBND tỉnh ban hành văn bản số 07/CV-UB ngày 10/10/2005 về việc tăng cường công tác DSG ĐTE, trên cơ sở đó hướng dẫn các cở, ngành và UBND các huyện, thị xã tập trung chỉ đạo công tác dân số và xử lý những trường hợp vi phạm chính sách dân số.
- Xây dựng Chương trình hành động về công tác DSKHHGĐ của tỉnh;
- Xây dựng văn bản số: 27/DSGĐTE ngày 19/10/2005 trình UBND tỉnh về một số chế độ, chính sách thuộc lĩnh vực DSGĐTE trong đố đề nghị kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ ngành DSGĐTE, chế độ, chính sách cho cán bộ, Cộng tác viên và khuyến khích những đối tượng thực hiện tốt công tác DSGĐTE.
- Kế hoạch số 399/KH-DSGĐTE ngày 02/10/2003 về việc triển khai chiến dịch tuyên truyền Pháp lệnh dân số và Nghị định 104 của Chính phủ.
- Công văn số 499/CV-DSGĐTE ngày 17/12/2003 V/v tăng cường hoạt động tuyên truyền Pháp lệnh dân số và tổ chức các ngày kỷ niệm của ngành.
- Kế hoạch số 22/KH- DSGĐTE ngày 20 tháng 4 năm 2005 V/v đưa chính sách DSGĐTE vào hương ước thôn, làng.
* Điều chỉnh qui mô dân số:
- Hàng năm, Uỷ ban DSGĐTE xây dựng kế hoạch đề ra các chỉ tiêu và phân các chỉ tiêu cho các địa phương, hướng dẫn các địa phương tổ chức hoạt động nhằm giảm mức sinh, Uỷ ban DSGĐTE các cấp tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền đưa các chỉ tiêu phát triển dân số vào các nghị quyết của Đảng, chính quyền, làm cơ sở xây dựng các chương trình kinh tế – xã hội của địa phương. Việc quản lý mức sinh được thực hiện trên cơ sở yêu cầu các cán bộ, cộng tác viên cơ sở nắm chắc các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, đối tượng sinh con một bề; dự báo mức sinh hàng năm , hành tháng vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai; tuyên truyền, vận động người dân thực hiện qui mô gia đình ít con, Uỷ ban DSGĐTE các cấp thực hiện nghiêm túc chế độ giao ban, báo cáo để nắm bắt kịp thời các diễn biến để có biện pháp can thiệp.
Kết quả giảm sinh
Năm
chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2006
Năm 2007
Tỷ suất sinh thô (%o)
15,42
15,19
14,45
14,21
Tỷ lệ con thứ 3 trở lên (%)
8,87
8,56
9,26
8,75
* Công tác tuyên truyền tư vấn thực hiện KHHGĐ
- Ngành DSGĐTE phối hợp với Báo Hưng Yên, Đài PT- TH xây dựng 02 chuyên mục/tháng và các số chuyên đề; phối hợp với một số ban ngành, đoàn thể cùng cấp: Hội Phụ nữ, Liên đoàn lao động, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân… xây dựng các mô hình câu lạc bộ và tổ chức truyền thông đến mọi người dân, nhất là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ về chăm sóc SKSS/KHHGĐ, nhiều mô hình hoạt động rất hiệu quả như: CLB phụ nữ không có người sinh con thứ ba, câu lạc bộ tiền hôn nhân , CLB gia đình nông dân phát triển bền vững…Tổ chức và hướng dẫn đội ngũ cán bộ, cộng tác viên tuyên truyền tư vấn cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai, phát tờ rời, sách mỏng giới thiệu lợi ích của KHHGĐ, các biện pháp tránh thai, các điểm cung cấp dịch vụ…
- Hàng năm, ngành DSGĐTE phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Y tế của 10 huyện, thị chuẩn bị đầy đủ thuốc thiết yếu, vật tư tiêu hao, kinh phí và các phương tiện tránh thai lâm sàng, phi lâm sàng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai của các đối tượng, Uỷ ban DSGĐTE tỉnh cung cấp các phương tiện tránh thai và kinh phí cho các huyện, thị trên cơ sở báo cáo tình hình sử dụng các biện pháp tránh thai, nhu cầu, phương tiện tránh thai trong tháng, quí tiếp theo của Trung tâm Y tế huyện, cung cấp bổ sung, hỗ trợ các dụng cụ y tế thực hiện dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho đội KHHGĐ các huyện, thị xã.
- Đa dạng hoá các biện pháp tránh thai, công tác tiếp thị , giới thiệu các biện pháp tránh thai mới: thuốc tránh thai (thuốc uống, thuốc cấy), bao cao su…được đẩy mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền về vai trò của người chồng trong việc chia sẻ trách nhiệm KHHGĐ.
- Uỷ ban DSGĐTE tỉnh giao chỉ tiêu đối với mỗi loại biện pháp tránh thai tới các cơ sở theo kế hoạch hành năm và các chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ. Năm 2006, cơ cấu các biện pháp tránh thai là vòng tránh thai: 61,18%; triệt sản: 0,59%, thuốc uống tránh thai: 17,11%, thuốc tiêm tránh thai: 0,80%, cấy tránh thai: 0,18%, bao cao su: 20,14%. Bên cạnh đó tỉnh tổ chức đào tạo, hướng dẫn các cán bộ cung cấp dịch vụ về kỹ thuật tư vấn chăm sóc sức khoẻ SS/KHHGĐ, các biện pháp tránh thai mới, bảng kiểm phương tiện tránh thai…để họ tuyên truyền, tư vấn cho đối tượng.
- Thực hiện chế độ khen thưởng khuyến khích các địa phương thực hiện tốt các chỉ tiêu và có số người sử dụng các biện pháp tránh thai vượt chỉ tiêu, giảm tỷ lệ nạo hút thai với mức là 2 triệu đồng/xã, tối đa là 10 xã/năm; kinh phí hỗ trợ thực hiện công tác thi đua , khen thưởng 4 triệu đồng/huyện. Việc khuyến khích các đối tượng thực hiện các biện pháp tránh thai được thực hiện nghiêm theo chính sách của Trung ương: bồi dưỡng cho người triệt sản ở mức 150.000đ/một trường hợp và cấp thẻ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người tự nguyện triệt sản trong 2 năm (theo hướng dẫn tại vă bản số: 01/LN-DSĐTE-BNV ngày 07/02/2007); chi tổ chức, vận động thực hiện triệt sản 50.000đ/trường hợp. Ngoài các chế độ, chính sách của W, Uỷ ban dân số GĐTE tỉnh hướng dẫn Uỷ ban dân số GĐTE các huyện, thị và Ban dân số GĐTE các xã, phường, thị trấn tham mưu với cấp uỷ, chính quyền xây dựng các chính sách khuyến khích các đối tượng sử dụng biện pháp tránh thai và vận động từ nguồn kinh phí địa phương.
Kết quả các biện pháp tránh thai
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại (%)
77,4
78,9
79,8
80
81,5
Số người mới sử dụng BPTT các năm (người)
60.034
59.363
61.539
63.817
65.27
* Điều chỉnh cơ cấu dân số:
Mặc dù Pháp lệnh dân số và Nghị định 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ đã có một số qui định về cơ cấu dân số nhưng chưa thực sự cụ thể. Về vấn đề cơ cấu dân số tại Hưng Yên, ở một số khía cạnh như: Trình độ học vấn, ngành nghề, người cao tuổi…đã được quan tâm giải quyết trong chương trình kinh tế – xã hội của tỉnh và mỗi địa phương, ghi rõ trong các Nghị quyết của cấp uỷ, chính quyền và trong các kế hoạch hoạt động ở từng lĩnh vực. Uỷ ban Dân số – GĐTE đã tham mưu để đưa khoản 2 Điều 7 và Điều 14, điều 10 Nghị định 104 vào chỉ thị số 47/2005/CT-TU và Nghị quyết số 12/2007/NQ-TU của Tỉnh uỷ, đồng thời phối hợp với ngành Y tế phổ biến những qui định này và tăng cường kiểm tra các cơ sở Y tế có trang thiết bị y tế phát hiện giới tính thai nhi nhằm giảm sự chênh lệch giới tính khi sinh.
* Phân bổ dân cư:
Hưng Yên là tỉnh mới tái lập, Vấn đề qui hoạch, phân bổ dân cư đang được quan tâm chú trọng, được đưa vào nghị quyết đại hội của cấp uỷ đảng, được cụ thể hoá bằng các chương trình, dự án hàng năm và từng giai đoạng của chính quyền cũng như các ngành, các địa phương. Căn cứ vào những qui định của Pháp lệnh dân số, việc qui hoạch đất đai, phát triển kinh tế – xã hội theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng với mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 trở thành tỉnh khá, tạo cơ sở để trở thành tỉnh công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, nông nghiệp nông thôn phát triển theo hướng chuyển dịch cơ kinh tế nông nghiệp nông thôn. Hình thành các cơ sở sản xuất công nghiệp công nghệ cao, tạo ra vùng chuyên canh, thâm canh hàng hoá chất lượng cao. Khuyến khích phát triển dịch vụ nông nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu đô thị, khu du lịch dịch vụ tại huyện Văn Giang, Văn Lâm, khu vực Phố Nối trở thành thị xã công nghiệp. Luôn quán triệt sâu sắc nhiệm vụ xây dựng , phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với an ninh – quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc.
Sau khi tái lập tỉnh, tỉnh đã thực hiện chia tách một số huyện nhằm toạ điều kiện cho các địa phương chủ động phát huy thế mạnh. Hiện nay toàn tỉnh có 9 huyện, 01 thị xã, 03 khu công nghiệp (Phố Nối A, Phố Nối B, khu công nghiệp Như Quỳnh). Phát huy lợi thế gián tiếp với thủ đô Hà Nội và quốc lộ 5 chạy qua , tỉnh có chính sách thu hút các dự án đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ, ưu tiên thu hút các dự án chế biến nông sản, bên cạnh đó giảm diện tích cây trồng lương thực, tăng giá trị cây công nghiệp , rau quả và chăn nuôi đáp ứng nhu cầu người dân trong tỉnh và phục vụ thị trường thủ đô Hà Nội . Tại những vùng có quỹ đất dành cho dự án công nghiệp, thực hiện cam kết tuyển người dân địa phương vào làm việc nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm cho nhân lực trong tỉnh, đồng thời tránh được tăng dân số cơ học. Một số vùng thuần nông, vùng sâu, vùng xa, tập trung chỉ đạo các chương trình, dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển sản xuất, lao động, việc làm, khôi phục các nghề truyền thống và qui hoạch các làng nghề, phát triển kinh tế theo hướng trang trại, giảm dần số xã khó khăn trong tỉnh. Từ năm 2001-2005, về công nghiệp tiếp nhận 500 dự án đầu tư, tổng số vốn tương đương 1,223 triệu USD, trên 200 dự án đi vào hoạt động, giá trị hàng hoá tăng hàng ngàn tỷ đồng/năm, tạo việc làm thường xuyên cho trên 4 vạn lao động; Về nông nghiệp, giá trị sản xuất tăng bình quân 5,2%/năm. Đời sống của nhân dân giữa các vùng trong tỉnh đồng đều (năm 2006 có 13% số hộ nghèo – theo tiêu chí mới). Các nhu cầu ăn, ở, đi lại , học hành, chữa bệnh, điện nước và hưởng thụ văn hoá của nhân dân mọi nơi trong tỉnh đều được đáp ứng tốt nên chưa có hiện tượng di cư nội tỉnh. Mật độ dân số tương đối đồng đều giữa các huyện thị trong tỉnh. Tuy nhiên vài năm trở lại đây xuất hiện hiện tượng một số bà con ở nông thôn tranh thủ lúc nông nhàn lên thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác kiếm sống bằng các nghề buôn bán nhỏ và làm thuê nhưng chỉ mang tính chất tạm thời.
Dân số trung bình chia theo khu vực thành thị và nông thôn
Năm
Tổng số
DS thành thị
DS nông thôn
2003
1.113.489
116.840
996.649
2004
1.120.294
123.289
997.005
2005
1.134.119
126.029
1.008.090
2006
1.143.638
128.095
1.015.543
2007
1.152.531
129.785
1.022.746
* Chất lượng dân số
Để nâng cao nhận thức cho người dân, nhất là nam nữ khi kết hôn, từ năm 2003 tại tỉnh Hưng Yên đã triển khai mô hình “khám tư vấn sức khoẻ tiền hôn nhân” tại 6 xã trong năm 2007 tiếp tục triển khai thêm ở 4 xã tại 2 huyện trong tỉnh. Qua đó giúp cho các đối tượng thanh niên từ 15-24 được khám và phát hiện bệnh, nâng cao nhận thức về chăm sóc sức khoẻ sinh sản/KHHGĐ; thấy rõ trách nhiệm và lợi ích của kiểm tra sức khoẻ, phát hiện bệnh trước kết hôn và sinh con. Mô hình thực hiện khá hiệu quả nhưng kinh phí còn hạn hẹp nên chưa triển khai trên diện rộng.
Để phát hiện sớm dị tật bẩm sinh của thai nhi, ở Hưng Yên, biện pháp hàng đầu được thực hiện là tuyên truyền, giáo dục cho người dân, nhất là các bà mẹ. Hoạt động này được phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, ban, ngành, đặc biệt là ngành y tế, Uỷ ban Dân số – GĐTE, Hội phụ nữ các cấp. Công tác tuyên truyền làm mẹ an toàn được thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua các hội nghị truyền thông xuống cơ sở, qua sinh hoạt tổ, hội phụ nữ và các câu lạc bộ, nhất là hoạt động tuyên truyền của các trạm y tế cơ sở… làm mẹ an toàn cũng là một trong 3 gói dịch vụ trong chiến dịch truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khoẻ SS/KHHGĐ hàng năm. Nhận rhức của người dân về chăm sóc thai nghén, thăm khám thai kiểm tra sự phát triển của thai nhi được nâng lên rõ rệt. Năm 2006 trên 90% bà mẹ có thai được khám thai 3 lần trở lên. Các dịch vụ sản khoa và siêu âm thai có ở 10/10 huyện, thị, hết sức thuận tiện, chi phí hợp lý nên hầu hết các bà mẹ được khám và được phát hiện các dị tật bẩm sinh (chủ yếu được phát hiện bằng siêu âm và xét nghiệm từ tuyến Trung ương) nhờ đó đã phát hiện được nhiều trường hợp thai nhi bị dị tật bẩm sinh và tư vấn cho các gia đình hướng xử lý. Hiện nay tỉnh Hưng Yên đang trình dự án sàng lọc phát hiện các dị tật bẩm sinh của thai nhi, dự kiến khoảng cuối năm 2008 sẽ thực hiện.
Tuy nhiên, hiện nay các máy siêu âm ở tuyến tỉnh hầu hết là máy siêu âm đen trắng; kinh nghiệm của các kỹ thuật viên chưa đồng đều, nhiều dị tật khó có thể phát hiện. Những phương tiện siêu âm có chất lượng cao cho kết quả rõ ràng hơn nhưng chi phí còn cao: từ 90.000- 160.000đồng/ ca siêu âm nên được rất ít bà mẹ lựa chọn. Bên cạnh đó, nhiều bà mẹ chưa biết rõ thời điểm hợp lý để phát hiện dị tật của thai nhi để dễ dàng xử lý nếu thai có dị tật nên vẫn còn một tỷ lệ nhỏ trẻ sơ sinh bị di tật. Chưa khảo sát được tỷ lệ trẻ em sơ sinh bị dị tật của tỉnh nhưng tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 1 tuổi giảm từ 2/%o xuống còn 16,6%o, tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 5 tuổi giảm từ 23/%o xuống còn 17,6%o, tỷ lệ bà mẹ chết liên quan đến thai sản giảm từ 34/100.000 xuống còn 25/100.000.
Việc khuyến khích gia đình nhiều thế hệ cũng được tỉnh quan tâm. Trong điều kiện của tỉnh đồng bằng với gần 90% sống ở nông thôn nên người dân Hưng Yên cơ bản vẫn giữ được truyền thống đạo lý của gia đình Việt Nam, sống theo mô hình đại gia đình, cha mẹ già sống cùng với một trong số các con. Nhiều gia đình tứ đại đồng đường nhưng vẫn giữ được mối quan hệ trong ấm, ngoài êm. Công tác truyền thông giáo dục vai trò, chức năng của gia đình, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, tuyền thống gia đình, kỹ năng tổ chức đời sống gia đình …được đẩy mạnh, Ngày gia đình Việt Nam hàng năm được tỉnh tổ chức với nhiều hoạt động nhằm tôn vinh những gia đình gương mẫu, tiêu biểu trong công tác dân số, đã tác động đến nhận thức và tình cảm của mội người, góp phần củng cố thêm mối quan hệ trong các gia đình.
Thông tin về gia đình năm 2006
Số hộ gia đình
Số gia đình 2 thế hệ
Số gia đình 3+ thế hệ
Số gia đình văn hoá
Số gia đình chính
sách
Số gia
đình khó khăn
Số gia
đình
ly hôn
Số gia đình độc thân
290.190
194.613
60.104
189.274
20.485
24.442
3.811
6.232
* Công tác chăm sóc người già
Tỉnh Hưng Yên có tổng số người cao tuổi trên 192.600 người. Thực hiện Pháp lệnh dân số, người cao tuổi là một trong những đối tượng trong lĩnh vực chính sách xã hội ; các chế độ, chính sách đối với người cao tuổi được quan tâm thực hiện. Hiện đang có 4043 cụ thọ trên 90 tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế và trên 3.222 cụ trên 90 tuổi được trợ cấp xã hội; tỉnh phổi hợp với Viện mắt W và Viện mắt của tỉnh triển khai chương trình mổ đục thỷ tinh thể, khám miễn phí cho người cao tuổi; vận động ủng hộ Quĩ người cao tuổi, Quĩ phụ dưỡng ông bà, cha mẹ ( năm 2007 toàn tỉnh có 925 triệu đồng Quĩ người cao tuổi, 4,4 tỷ đồng Quĩ phụ dưỡng ông bà, cha mẹ); hàng năm cấp uỷ, chính quyền các địa phương và các gia đình tổ chức thăm hỏi người cao tuổi nhân các dịp lễ tết.
Hầu hết người cao tuổi sống cùng con, cháu được con cháu phụng dưỡng. Đối với những trường hợp người già cô đơn được các địa phương bố trí đất xây dựng nhà ở, thăm nom, chăm sóc hoặc gửi vào Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh. Tổ chức Hội người cao tuổi được phát triển mạnh ở 100% các xã, phường, thị trấn trong tỉnh với gần 148.200 hội viên, góp phần chăm lo đời sống tinh thần đồng thời tuyên truyền vận động người cao tuổi thực hiện phương châm sống vui, sống khoẻ, sống có ích.
* Chăm sóc người khuyết tật
Toàn tỉnh có trên 16.000 người khuyết tật, tàn tật. Hiện có 1992 người thuộc các đối tượng người tàn tật, khuyết tật không có nguồn thu nhập, không nơi nương tựa đang được hưởng trợ cấp xã hội và đang tiếp tục đề nghị trợ cấp cho 2.572 đối tượng. Hàng năm thông qua hoạt động của 2 ngành là Lao động –TBXH và ngành Dân số – GĐTE tỉnh, thực hiện chương trình phẫu thuật phục hồi chức năng đã hỗ trợ nhiều người tàn tật, khuyết tật được phẫu thuật, phục hồi chức năng, cung cấp nhiều dụng cụ hỗ trợ người tàn tật như xe lăn, xe bại não, chân, tay giả…Chỉ tính riêng ở đối tượng trẻ em, từ năm 2001-2006 đã phẫu thuật miễn phí cho 1.017 trẻ khuyết tật về mắt, sứt môi, hở hàm ếch, khuyết tật các cơ quan vận động, tim bẩm sinh và cấp xe lăn cho 259 trẻ em khuyết tật cơ quan vận động. Tỉnh có hai trường phục hồi chức năng đang hoạt động với khoảng 220 em khuyết tật với các hoạt động dậy văn hoá, ngôn ngữ giao tiếp và dạy nghề, 01 lớp cho trẻ em khiếm thị. Ngoài ra còn có một Trung tâm bảo trợ xã hội với gần 100 đối tượng là người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; 01 Trung tâm Tâm thần kinh chăm sóc những bệnh nhân tâm thần.
* Công tác quản lý dân cư
Công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu tại tỉnh được thực hiện nghiêm túc theo Nghị định số 51/CP ngày 10/5/1997, Nghị định 108/2005/NĐ-CP ngày 19/8/2005 của Chính phủ và Thông tư số 11/2005/TT-BCA ngày 7/10/2005 của Bộ Công an. Trách nhiệm đăng ký hộ khẩu của công dân được tuyên truyền phổ biến rộng rãi nên đa số nhân dân chấp hành, các thủ tục hợp lý, đảm bảo quản lý chặt chẽ các đối tượng và cũng không gây khó khăn cho người dân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người dân chưa hiểu rõ nên còn xảy ra hiện tượng đăng ký muộn so với qui định, vấn đề đăng ký, quản lý tạm trú, tạm vắng còn gặp nhiều khó khăn do người dân chưa biêt hoặc chưa tự giác thực hiện. Việc theo dõi hộ gia đình được cộng tác viên dân số của từng địa bàn, thôn, khu phố theo dõi cập nhật các biến động. Các thông tin về gia đình được các cộng tác viên thu thập căn cứ vào văn bản chính xác như: Giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn…đảm bảo độ chính xác cao.
Tại các địa phương, các cán bộ làm công tác quản lý cư trú đã có sự phối hợp chặt chẽ, đảm bảo đúng các thủ tục trong quản lý hộ khẩu, hộ tịch và hệ cơ sở dữ liệu dân cư, nhất là hộ tịch, hộ khẩu.
* Khen thưởng, xử lý các trường hợp vi phạm chính sách dân số.
Những năm trước tỉnh có chế độ thưởng cho các cá nhân, đơn vị, xã, phường không có người sinh con thứ ba trở lên. Tuy nhiên từ năm 2004, kinh phí cho việc khen thưởng này không còn được duy trì do không có kinh phí.
Việc xử lý các vi phạm trong lĩnh vực dân số đến nay đã được qui định tại Nghị định 114/2006/NĐ-CP. Tại Hưng Yên, năm 2001 ngành dân số đã tham mưu với tỉnh ban hành Hướng dẫn số 01/2001 của Tỉnh uỷ về xử lý Đảng viên vi phạm chính sách dân số, Quyết đinh số 19/2001/QĐ-UB về qui định thực hiện công tác dân số. Theo những Văn bản đó, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên sẽ bị xử lý với hình thức cao nhất là xoá tên khỏi danh sách đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức sinh con thứ 3 trở lên sẽ không bố trí vào các vị trí lãnh đạo, hạ bậc lương…(Tuy nhiên hiện nay việc thực hiện kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3 có sự thay đổi). Sau khi Pháp lệnh dân số ra đời, việc xử lý cán bộ công nhân viên chức sinh con thứ ba còn nhiều lúng túng. Điều 5 Nghị định 104 đã qui định các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện qui chế, điều lệ phù hợp với qui định của pháp luật để thực hiện mục tiêu chính sách dân số nhưng đến nay rất ít cơ quan thực hiện đầy đủ, việc xử lý các trường hợp sinh con thứ ba gặp rất nhiều khó khăn vì không có sự thống nhất chung. Đặc biệt rất khó đối với người bình thường (chiếm tỷ lệ lớn trong dân số - được qui định là xử lý theo hương ước, qui ước của địa phương). Nếu chỉ phạt tiền như một số nơi đã làm, xử phạt hành chính với khoảng 200.000-300.000 đồng thì chưa đủ mạnh, trong khi đó, theo quan điểm của Sở Văn hoá - Thông tin (trước kia) của tỉnh Hưng Yên: qui định của hương ước, qui ước làng văn hoá không thể đưa nội dung phạt tiền. Bởi theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, ở cấp xã chỉ có Chủ tịch UBND xã được phép phạt tiền tối đa là 500.000 đồng, nếu hương ước của thôn, làng nào có nội dung phạt tiền thì sẽ không được UBND phê duyệt.
- Đánh giá kết quả công tác dân số – KHHGĐ gia đoạn 2003 -2007:
Từ năm 2003 công tác dân số của tỉnh Hưng Yên đã được triển khai đồng bộ và toàn diện: về qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bổ dân cư và chất lượng dân số. Công tác dân số/KHHGĐ có sự tham gia của các cấp, các ngành. Nhận thức của người dân về vấn đề dân số, chăm sóc SKSS/KHHGĐ có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ dân số giảm dần hàng năm. Tổng tỷ suất sinh năm 2006 đạt 1,9 con, năm 2007 là 1,88 con. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản/KHHGĐ được mở rộng và nâng cao chất lượng, các chiến dịch chăm sóc sức khoẻ sinh sản/KHHGĐ được tổ chức hàng năm với mật độ dày, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ sinh sản/KHHGĐ cho các đối tượng. Chất lượng dân số được nâng lên một bước. Phân bố dân cư và các chính sách qui hoạch phát triển hợp lý các vùng trong tỉnh, tạo điều kiện nâng mức sống cho người dân.
Ngành dân số – KHHGĐ tỉnh Hưng Yên đã được Uỷ ban Quốc gia dân số và tỉnh Uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh ghi nhận là một đơn vị luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, ngành dân số Hưng Yên đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương của Đảng và Nhà nước trao tặng, đây là kết quả phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ làm công tác dân số từ tỉnh đến cơ sở.
(Một số chỉ tiêu đã đạt được)
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện
2003
Thực hiện
2004
Thực hiện
2005
Thực hiện
3006
Thực hiện 2007
A
B
1
2
3
4
5
Dân số trung bình
Người
1.113.489
1.120.294
1.134.471
1.143.638
1.155.074
Tỷ lệ giảm sinh
%
0,25
0,26
0,27
0,20
0,20
Tỷ suất sinh (CBR)
%o
15,42
15,19
14,95
14,8
14,7
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai
%
77,4
78,9
79,8
80
80
Số trẻ em sinh trong năm
Người
17.170
17.017
16.960
16.926
16.979
Tỷ lệ sinh con thứ 3+
%
8,87
8,56
9,26
8,6
8,0
Số cặp vợ chồng thực hiện các biện pháp tránh thai
Cặp
161.190
164.576
168.445
170.556
172.270
3. 4- Những khó khăn tồn tại:
- Những khó khăn:
Tỉnh Hưng Yên là tỉnh đất chật, người đông, bình quân diện tích canh tác bình quân đầu người thấp, nhiều nhà máy, xí nghiệp mọc lên, chiếm nhiều diện tích canh tác, trong khi số lao động bị mất đất canh tác không được các nhà máy xí nghiệp chấp nhận vào làm vì không đáp ứng nhu cầu về chuyên môn, do vậy số lao động này không có công ăn, việc làm là nguy cơ tiềm ẩn các tệ nạn xã hội. Đây là bài toán khó, chưa có lời giải cho các nhà lãnh đạo. Đây cũng là thách thức không nhỏ của ngành dân số, vì số lao động dư thừa này sẽ tính đến chuyện di cư đi các vùng miền núi, các tỉnh miền nam để tìm kiếm công ăn việc làm tăng thu nhập cho gia đình, chính vì vậy, việc quản lý về công tác dân số – KHHGĐ đối với họ là rất khó.
Một số người dân còn mang nặng hủ tục nho giáo, trọng nam, khinh nữ. muốn có con trai để nối dõi tông đường. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng dân số hàng năm, tỷ lệ giới tính chênh lệch (nam cao hơn nữ), làm cho cơ cấu dân số thay đổi đáng kể.
Tỷ lệ các biện pháp tránh thai cao nhưng cơ cấu chưa đồng đều. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên có thời điểm gia tăng. Hiện tượng mất cân bằng giới ở trẻ sơ sinh đã xuất hiện và có chiều hướng gia tăng. Các hoạt động về nâng cao chất lượng dân số chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có điều kiện tổ chức chương trình, dự án hoặc các nghiên cứu về sàng lọc dị tật bẩm sinh của trẻ sơ sinh. Nhận thức của vị thành niên, thanh niên về chăm sóc sức khoẻ sinh sản còn hạn chế.
- Tồn tại:
Từ khi Nhà nước thực hiện lộ trình cải cách hành chính, việc chia tách, sáp nhập đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới đội ngũ làm công tác dân số, nhất là cán bộ cơ sở, họ tâm huyết với nghề, khi giải thể họ chưa biết về đâu, do vậy từ tháng 7/2007 đến tháng 4/2008, công tác dân số của tỉnh nói chung bị hạn chế, có khả năng không hoàn thành nhiệm vụ năm 2008, nhưng đến nay công tác tổ chức đã tương đối ổn định, đang đi vào hoạt động nhưng phải hết năm 2008 thì tổ chức bộ máy dân số xã mới ổn định.
3. 5 - Bài học kinh nghiệm
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự thành công của tác dân số-KHHGĐ.
- Công tác tuyên truyền, vận động, nhất là quán triệt, tuyên truyền phổ biến chính sách của Đảng, Nhà nước và các qui định của tỉnh đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cán bộ đảng viên là điều quan trọng.
- Phát huy sức mạnh toàn xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số –KHHGĐ nhiệt tình, có năng lực trình độ là điều kiện thuận lợi để triển khai chương trình.
- Huy động nguồn lực đủ mạnh, tranh thủ nguồn lực từ các dự án và sự ủng hộ của cộng đồng để công tác dân số- KHHGĐ hoàn thành tôt nhịêm vụ.
- Công tác thi đua khen thưởng, động viên đối với các cá nhân, đơn vị, gia đình cũng như việc xử lý các vi phạm phải kịp thời là động lực quan trọng thúc đẩy công tác dân số.
III. Kết luận, kiến nghị:
- Công tác dân số đã được Đảng, Nhà nước ta khảng định là một vấn đề quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và mỗi gia đình. Với tỉnh Hưng Yên. gia tăng dân số vẫn là một sức ép ghê ghớm; việc thực hiện mục tiêu dân số liên quan đén quyền con người, quyền sinh sản, quyền tự do đi lại…nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích cá nhân khác, gia đình khác và cả xã hội. Để đảm bảo quyền, lợi ích cá nhân, của chung toàn xã hội; để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là cán bộ cơ sở, tôi xin đề xuất, kiến nghị như sau:
- Sửa đổi, bổ sung một số điều trong trong Pháp lệnh dân số cho phù hợp, hoặc xây dựng Luật dân số.
- Thông nhất bộ máy từ Trung ương đến cơ sở trong việc quản lý thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh về dân số, cùng cơ chế và tài chính trong lĩnh vực này.
- Cần ổn định hệ thống chuyên trách xã theo Thông tư 05 của Bộ Y tế để họ yên tâm công tác, phát huy năng lực, góp phần hoàn thành mục tiêu chung.
- Tung ương, tỉnh cần đầu tư kinh phí cho các hoạt động truyền thông, giáo dục để mọi người dân cập nhật thông tin, nắm bắt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân số – KHHGĐ để công tác dân số – KHHGĐ mang lại kết quả tốt, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, xã hội của cả nước.
Các tài liệu tham khảo
- Pháp lệnh dân số 2003.
- Tạp chí dân số và phát triển.
- Các báo cáo của cơ quan nơi thực tập.
- Tập hợp báo cáo thống kê từ tuyến huyện.
- Các Văn bản của tỉnh, của ngành.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24878.doc