Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của Chính sách tiền tệ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các chủ thể có liên quan nhằm tác động trực tiếp tới lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn. Để nghiệp vụ thị trường mở thực sự phát huy hiệu quả thì cần phải có các yếu tố cần thiết như số lượng và chất lượng các giấy tờ có giá, các thành viên tham gia thị trường, cơ chế giao dịch, sự phối kết hợp giữa các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như giữa các thị trường và các tổ chức có liên quan
33 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột khối lượng tiền dự trữ tương ứng (nếu các nhân tố khác không đổi) dù người mua là NHTM hay khách hàng của nó, số tiền thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Trong trường hợp người mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua chứng khoán sẽ làm giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và vì thế giảm khối lượng tiền cung ứng. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
NHTW bán tín phiếu kho bạc -- dự trữ ngân hàng -- dự trữ để mở rộng cho vay -- khối lượng tín dụng -- MS
2. Tác động qua lãi suất.
Hoạt động mua bán trên thị trường của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất, khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng nó tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất được thị trường xác định.
Thứ hai, việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của nó cũng thay đổi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì sụ thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại tới lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng.
Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc.
Cung TPKB ư ------- Giá TPKB ư ------- Lãi suất thị trường ư
ờ ờ
NHTW Đầu ư
Bán TPKB tư
ờ ờ
Dự trữ ¯ -- Cung vốn NHTW ¯ -- LS ngắn hạnư-- LS thị trường ư
III. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
1. Các nghiệp vụ thị trường mở.
Trong nghiệp cụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Một NHTM này bán chứng khoán cho NHTM khác, xét trong toàn cục chỉ là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị tgrường mở thụ động nhằm bù lại những vận động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW thường được thực hiện theo hai cách chủ yếu: Các giao dịch không hoàn lại và các giao dịch có hoàn lại.
a. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua đứt):
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoáncủa NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng là dài hạn.
b. Các giao dịch có hoàn lại (hay giao dịch có kỳ hạn):
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp cụ thị trường mở vì những lý do sau: Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đêns dự trữ của các ngân hàng; Chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục; Làm giảm thời gian thông báo, do đó giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ.
2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở:
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu. Có hai loại đấu thầu: đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.
a. Đấu thầu khối lượng.
NHTW niêm yết trước mức lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng kí số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước. Việc phân phối thầu đối với một phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: trước hết toàn bộ số đăng kí đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn số lượng được phân phối thì toàn bộ các đơn đặt thầu đều được phân phối.
b. Đấu thầu lãi suất.
Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng kí số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do chính mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết.
Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá( phương thức Hà lan) hoặc nhiều giá( phương thức Mỹ).
3. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở.
a. Tín phiếu kho bạc:
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước, vì:
Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
Được phát hành định kì với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ Tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của Chính phủ và sự hạn chế tốc độ taưng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
b. Chứng chỉ tiền gửi:
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các chế định tài chíng phi ngân hàng, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng; chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là đảm bảo sự lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở.
c. Thương phiếu:
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung vốn ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của khach hàng tại NHTM.
d. Trái phiếu chính phủ:
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
e. Trái phiếu chính quyền địa phương:
Tương tự như trái phiếu chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
f. Các hợp đồng mua lại:
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá. Điều này phụ thuộc vào:
Một là: Do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: thời hạn, mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
4. Những người tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.
a. Các ngân hàng thương mại:
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời thông qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì: NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn tiền gửi và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng:
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, các hội tiết kiệm... Các tổ chức này coi thị trường mở như là một nơi kiếm thu nhập qua việc sử dịng vố nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá ngắn hạn hoặc dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng các chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở.
c. Các doanh nghiệp sản xuất – kinh doang lớn:
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán các chứng khoán để đổi ra tiền mặt hay để kiếm lời trong thời gian ngắn nhất, khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... để kiếm lời.
d. Các hộ gia đình:
Hộ gia đình tham gia thị trường mở: như họ phải chuyển các chứng khoán ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất; họ mua các chứng khoán phòng ngừa những rủi ro bất ngờ; đầu tư vào các giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi về lãi suất dự đoán
e. Các nhà giao dịch chuyên nghiệp:
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất, kinh doanh, các nhà đầu tư tư nhân, các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giá mua bán. ở hầu hết các nước có thị trường mở phát triển thì 70% giao thông qua vai trò người giao dịch. Những người giao dịch thường là những công ty chứng khoán chuyên nghiệp.
f. Ngân hàng trung ương:
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
NHTW sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng, kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó.
g. Kho bạc nhà nước:
Kho bạc nhà nước cung ứng hàng hóa cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong các hoạt động của thị trường mở.
IV. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ:
Để chính sách tiền tệ có hiệu quả cao thì NHTW phải phối hợp các công cụ tiền tệ một cách hợp lý. Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ ra đời muộn hơn các công cụ khác. Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở lại là một công cụ hết sức linh hoạt và hiệu quả.
Công cụ tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở đều nhằm mục đích tái cấp vốn khả dụng cho các NHTM. Không những thế, nghiệp vụ thị trường mở còn có thể rút vốn khả dụng của NHTM ra khỏi thị trường tiền tệ bằng việc nâng cao các lãi suất của các giấy tờ có giá. Điều này giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng của các ngân hàng và lãi suất trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, các NHTM đều biết trước lãi suất tái chiết khấu, còn lãi suất trên thị trường mở luôn biến động, nên NHTM khó dự đoán được. Chính sự linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở đã khắc phục được những hạn chế của công cụ tái chiết khấu. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hỗ trợ cho công cụ tái chiết khấu vì công cụ tái chiết khấu chỉ có hiệu lực khi các NHTM phụ thuộc NHTW về vốn khả dụng.
Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở được tién hành đồng thời, nó cho phép NHTW chủ động điều tiết dự trữ của hệ thống ngân hàng. Dự trữ bắt buộc được sử dụng để làm tăng hoặc giảm nhu cầu về vốn khả dụng của NHTM dẫn tới việc mua, bán các giấy tờ có giá cho NHTW.
Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng nhiều công cụ đa dạng trong đó có công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng linh hoạt trong bất cứ chính sách tiền tệ nào. Nó tạo ra sự cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh tế – xã hội, nó có khả năng tác động trực tiếp vào cơ số tiền và khả năng thanh toán vừa phù hợp với khả năng thanh toán vừa phù hợp với thị trường cả về xu hướng tăng hoặc giảm tiền tệ. Chính vì vậy mà công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam bắt đầu từ ngày 12/07/2000.
Chương 2
Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong
điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
I. Thực trạng của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua:
1. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua.
Sau khi pháp lệnh ngân hàng nhà nước được ban hành năm 1990, NHNN đã thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hạn mức tín dụng, trần lãi suất cho vay và tỉ giá ngoại tệ. Trừ công cụ tái cấp vốn, các công cụ còn lại đều tác động trực tiếp đến mục tiêu trung gian là tổng phương tiện thanh toán M2
a. Các công cụ dự trữ bắt buộc:
Cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc đã thay đổi đáng kể từ năm 1995 nhăm tăng hiệu quả của dự trữ bắt buộc với tư cách là công cụ điều tiết số dự trữ vượt mức của các tín dụng.
Theo quyết định số 260 và 261/QĐ - NH1 ngày 19/9/1995 cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thay đổi cơ bản như sau:
Tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc được thống nhất vào một tài khoản.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng thống nhất cho các loại tiền gửi dưới 1 năm( tỷ lệ này thay đổi thường xuyên từ năm 1999), với cơcấu 70% phải gửi tại NHTW và 30% là tiền mặt, ngân phiếu thanh toán còn giá trị lưu hành tòn quỹ tại tổ chức tín dụng.
Kỳ tính dự trữ bắt buộc là 15 ngày 1 kỳ, về sau đổi thành một tháng theo quyết định 51/1999 QĐ - NHNN 1 tháng /1999. Mức tiền dự trữ bắt buộc hàng kỳ được tính trên cơ sở tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc quy định đối với toàn bộ số dư tiền gửi bình quân phải dự trữ bắt buộc trong kỳ trước của tổ chức tín dụng.
Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bứt buộc phải gửi tại NHNN – tức là dự trữ bắt buộc theo ngày.
Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm: phát huy được hiệu quả của nó khi các tổ chức tín dụng phai quan tâm hơn đến tình trạng vốn khả dụng để đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc. Việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc liên tục trong năm 1999 chứng tỏ tính tích cực trong việc sử dụng công cụ này nhằm mở rộng khả năng cho vay và giảm chi phí vốn cho các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là làm tăng khả năng kiểm soát của NHNN với M1
Tuy nhiên công cụ dự trữ bắt buộc cũng có những hạn chế:
Do quy định dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với các loại tiền gửi dưới 12 tháng nên khả năng kiểm soát lượng tiền M2 còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt không khuyến khích cho các NHTM sử dụng tối đa nguồn vốn dẫn đến tình trạng dự trữ vượt nhiều, hạn chế các hoạt động cho vay.
Dự trữ bắt buộc được quản lý theo phương pháp bình quân ngày trong tháng, trong điều kiện số dư tiền gửi biến động mạnh và có xu hướng ngày càng tăng trong thời gian qua thì phương pháp quản lý này dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa lượng tiền gửi thực tế và tiền gửi của thời kì xác định làm giảm hiệu lực điều tiêt dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra các tổ chức tíndụng không tôn trọng nghiêm ngặt yêu cầu dự trữ bắt buộc do trình độ quản lý của tổ chức tín dụng và việc xử phạt không nghiêm của NHNN đối với các trường hợp vi phạm.
b. Công cụ tái cấp vốn:
Theo quyết định 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc NHNN, công cụ tái cấp vốn được thực hiện qua các hình thức: cho vay theo mục tiêu chỉ định của chính phủ, cho vay thế chấpchứng từ, ngày 24/12/1997 Thống đốc NHNN đã có quyết định số 431 – 1997/QĐ - NH14 bổ sung hình thức cho vay có thể thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN để đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM, thời hạn cho vay tối đa là 6 tháng. Đối tượng tái cấp vốn là các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, nhưng trên thực tế chủ yếu các khoản tái cấp vốn được tập trung ở NHTM quốc doanh, rất ít các NHTM cổ phần được tái cấp vốn.
Cho đến năm 1997, lãi suất tái cấp vốn theo tỷ lệ phần trăm lãi suất cho vay trên dự án cho vay của các tổ chức tín dụng bằng từ 60% đến 100% lãi suất cho vay trên khế ước. Trong thực tế, mức lãi suất tái cấp vốn giảm liên tục từ 1,1% trong tháng cuối năm 1998 xuống 0,5% trong tháng cuối năm 1999.
Bên cạnh việc cho vay tái cấp vốn theo quyết định số 285/QĐ - NH14, NHNN còn thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, thực chất đây là hình thức tái cấp vốn ngắn hạn của NHNN đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt tạm thời. Thời hạn cho vay thanh toán bù trừ tối đa không quá 10 ngày. Lãi suất cho vay thanh toán bù trừ hiện nay của NHNN đối với các NHTM là 0,06%/ngày đối với thời hạn từ 1 ngày đến 5 ngày và 0.09%/ngày đối với thời hạn từ 6 ngày đến 10 ngày. So với mức lãi suất tái cấp vốn hiện hành, mức lãi suất cho vay thanh toán bù trừ nêu trên là mức tương đối cao, khiến cho các NHTM phải bù đắp nhanh số vốn thiếu hụt trong thanh toán.
Công cụ tái cấp vốn đã bước đầu hình thành cơ chế cho vay các NHTM trên cơ sở bù đắp thiếu hụt thanh toán, đáp ứng nhu cầu thiếu vốn cho của các NHTM nền kinh tế. Nó tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN, qua đó NHNN có thể kiểm soát được lạm phát. Việc cho vay thanh toán bù trừ đã hỗ trợ việc phát triển hệ thống thanh toán giữa các tổ chức tín dụng. Nhưng, công cụ tái cấp vốn còn chưa được thực hiện phổ biến mà chỉ sử dụng cho 4 NHTM quốc doanh. Trong đó, hơn 70% hoạt động tái cấp vốn là dành cho mục tiêu chỉ định của Chính phủ mà không xuất phát từ nhu cầu bổ sung vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, điều này đã phần nào gây hạn chế tính năng động của công cụ tái cấp vốn. Hiệu jực tác động của công cụ tái cấp vốn thấp, không có tác dụng kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ của các tổ chức tín dụng và cũng không có khả năng chi phối lãi suất của thị trường tiền tệ.
c. Hạn mức tín dụng:
Việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong thời gian qua đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán của NHNN, góp phần hạn chế lạm phát ở mức thấp và nâng cao chất lượng tín dụng. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp như thị trường mở, để kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán thì việc sử dụng công cụ này nhằm hạn chế hệ số nhân tiền tệ, nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết. Tuy nhiên công cụ này cũng có những hạn chế: Hạn mức tín dụng mới chỉ được phân bổ đối với một số NHTM làm hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Công cụ này chưa được điều chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, Phần nào làm ảnh hưởng đến việc đấp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, đến kinh doanh của các NHTM. Chính vì những hạn chế này, đến quý 2 năm 1998, NHNN đã không sử dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên mà chỉ sử dụng khi hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng.
d. Công cụ lãi suất:
Công cụ lãi suất được sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua về cơ bản đã thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, với cơ chế trần lãi suất cho vay vẫn còn những nhược điểm không còn phù hợp với diễn biến thị trường và làm giảm hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Trước hết, chính sách lãi suất hiện nay không còn làm cho lãi suất thực sự trở thành công cụ để NHNN kiểm soát khối lượng tiền tệ. Với cơ chế này, lãi suất chưa thực sự gắn liền với cung cầu vốn trên thị trường, cũng không phản ánh mức độ rủi ro của món vay và trong một chừng mực nhất định hạn chế khả năng kinh doanh của các NHTM, sự phát triển của hệ thống NHTM và cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ
Thứ hai, mặt bằng lãi suất đã ở mức quá thấp gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn, đặc biệt là vốn dài hạn.
Vào năm 1999, lãi suất danh nghĩa thấp nhưng lãi suất thực cao, do vậy xác định mức trần lãi suất cao hay thấp đều không đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Nếu lãi suất trần quy định đảm bảo lãi suất thực không cao thì có lợi cho doanh nghiệp, nhưng các NHTM sẽ rất khó khăn trong hoạt động. Nếu đưa mức lãi suất đảm bảo cho các NHTM hoạt động bớt khó khăn thì mức lãi suất thực cao, điều đó sẽ gây khó khăn cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp và việc mở rộng đầu tư tín dụng vốn đã khó khăn lại càng khó khăn.
2. Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ trong thập kỷ qua đã đem lại những thành công đáng kể khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô: tỷ lệ lạm phát ở mức độ một con số và tốc độ tăng trưỏng kinh tế đạt bình quân 8,6% /năm trong cùng thời kì. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện cụ thể về kinh tế, quản lý, khả năng và nhu cầu về vốn. Thế nhưng, nếu quan niệm: mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời gian qua, mục tiêu này vẫn chưa được thực hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán gây nên sự phân phối lại trong nền kinh tế. Trong năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng chỉ số giá cả CPI có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và cả trong năm 1999. Điều này chứng tỏ sự hạn chế trong hiệu quả tác động của các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp, thể hiện ở sự thiếu chủ động, linh hoạt và khả năng truyền dẫn tác động chậm chạp.
Các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đén nay làm cho các NHTM phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn, đồng thời làm giảm hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ, đặc biệt là hiệu lực của công cụ tái cấp vốn.
Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này được thể hiện trong các năm 1998,1999 khi trần lãi suất cho vay_ công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ_ giảm liên tục nhưng khối lượng tín dụng không tăng tương ứng, đồng thời giá cả và sản lượng giảm xuống liên tục. Các quyết định giảm trần lãi suất cho cay thường là bị động nhằm mục đích điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường và do đó chúng có tác dungj khẳng định xu hướng của thị trường hơn là hướng dẫn và dự báo xu hướng đó.
Hiệu quả của chính sách tiền tệ thấp còn bởi vì nó chỉ sử dụng được kênh dẫn truyền duy nhất là qua NHTM_kênh tín dụng. Các kênh tác động khác qua lãi suất và thị trường tài chính chưa phát huy được là do thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chưa phát triển. Vì vậy tác động chủ yếu của chính sách tiền tệ vừa qua chủ yếu là thông qua tác động về khối lượng.
Để khắc phục hạn chế này, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các công cụ hiện có, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết. Công cụ này cho phép NHNN có thể điều tiết nhanh, linh hoạt và chủ động khối lượng tiền trung ương, từ đó tác động đến các khối tiền cung ứng khác. Vì vậy, hình thành thị trường mở trở thành mục tiêu của nhiều NHTW cũng như NHTW Việt Nam trong việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ.
3. Tác dụng của thị trường mở.
a. Đối với chính phủ.
Thị trường mở giúp Chính phủ thực thi chính sách tài chính quốc gia có hiệu quả. Các quyết định của Chính phủ về quản lý nợ và cân đối tiền có ảnh hưởng quan trọng tới nghiệp vụ thị trường mở. Kho bạc nhà nước thường đưa ra quyết định quản lý nợ còn NHTW lại liên quan đến dự trữ nhân hàng. Giữa hai bộ này thường có quan hệ với nhau tuỳ theo đặc điểm và hoạt động tài chính của mỗi nước khi NSNN bội chi, Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp phần bội chi. Để duy trì sự rõ ràng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, các khoản nợ này thường được kho bạc bán ra dưới hình thức đấu giá tự do giups cho thị trường cạnh tranh có hiệu quả. Thông thường NHTW không có quyền xử lý tiền gửi của Chính phủ, nhưng ở hầu hết các nước, các quy định về quản lý nợ được dựa vào số liệu đầu vào chính thức và không chính thức của NHTW. Vì vậy, nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam sẽ giúp cho mối quan hệ giữa NHNN và Bộ tài chính được thống nhất, có hiệu quả, giúp thực hiện các chính sách kinh tế có hiệu quả.
b. Đối với các tổ chức tín dụng.
Nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản có của các ngân hàng khi tạo nên thị trường thứ cấp cho các tài sản tài chính mà nó nắm giữ. Điều này sẽ làm tăng dự trữ tiền mặt và tăng khả năng sinh lời của ngân hàng, góp phần cải thiện tình hình tài chính cho các ngân hàng. Mặt khác, yêu cầu về chủng loại và chất lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư vào các giấy tờ có giá của các ngân hàng, từ đó mà cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, giảm bớt dự trữ không sinh lời và cải tạo bảng tổng kết tài sản.
Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở có ý nghĩa vô cùng quan trọng và công cụ trên thị trường mở cũng là vấn đề rất đáng quan tâm.
II. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn hiện nay ở Việt Nam.
1. Sự phát triển các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam:
Cho đến nay các công cụ ngắn hạn ở Việt Nam còn rất đơn giản, đang còn ở giai đoạn đầu và chưa thể hiện tính chất đầy đủ vốn có của nó. Nổi trội hơn là các loại tín phiếu, trái phiếu kho bạc mà Kho bạc Nhà nước đã phát hành trong những năm qua.
a. Tín phiếu kho bạc:
Tín phiếu kho bạc là giấy vay nợ nhắn hạn của Kho bạc Nhà nước nhằm bù đăps bội chi Ngân sách Nhà nước. Thời gian của tín phiếu kho bạc thường là dưới 1 năm. Trong giai đoạn 1991 đến 1998, việc huy động vốn trong nước chủ yếu là dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ có thể được phát hành thông qua hình thức trực tiếp cho công chúng thông qua đấu thầu hay qua đại lý.
Bắt đầu từ 08/06/1995 trái phiếu Chính phủ được phát hành qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước. Cho đến hết năm 1999, số lượng trái phiếu Chính phủ được phát hành qua đấu thầu lên tới 10718,1 tỉ đồng. Lãi suất đấu thầu trái phiếu thường thấp hơn lãi suất do kho bạc Nhà nước phát hành từ 2-3%.
Thời hạn các trái phiếu là ngắn hạn, thường là 1,2,3 năm. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ từng bước được hạ dần cho phù hợp với lãi suất thị trường, góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên mức lãi suất chưa thật hợp lý nên nhiều khi lượng đăng ký dự thầu cao nhưng lượng trúng thầu thấp hơn nhiều so với dự kiến phát hành số lượng tín phiếu, trái phiếu kho bạc phts hành còn quá nhỏ bé chưa tương xứng với nhu cầu sử dụng vốn và tiềm năng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thị trường. Thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc thường là các tổ chức tín dụng lớn như Ngân hàng thương mại quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm quỹ đầu tư. Năm 1995: số thành viên tham gia đấu thầu là 36 tổ chức; năm 1996 là 44; năm 1997 là 47; năm 1998 là 48; năm 1999 là 48.
Thị trường tín phiếu kho bạc hiện có là thị trường sơ cấp, chưa phải là thị trường thứ cấp phục vụ đông đảo cho các tầng lớp dân cư. Trái phiếu kho bạc được phát hành trực tiếp cho dân cư ít được chiết khấu và chuyển nhượng. Phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ đã được cải thiện từng phần như thanh toán một phần cả gốc và lãi khi đến hạn, thanh toán định kỳ 6 tháng 1 lần, thanh toán lãi trước... Tuy nhiên, các thành viên tham gia vào thị trường mua bán tín phiếu, trái phiều kho bạc còn hạn chế. Mặt khác, nguồn vốn huy động của các NHTM Việt Nam chủ yếu là nguồn vón ngắn hạn nên khả năng mua trái phiếu có thời hạn bị hạn chế.
b. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước:
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước là giấy nhận nợ nhắn hạn, có lãi suất do Ngân hàng Nhà nước phát hành nhằm tạo ra công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chíh sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đây là chính sách chiết khấu được Ngân hàng Nhà nước bán với giá thấp hơn mệnh giá, giá bán được hình thành theo quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Thời hạn của tín phiếu được xac định là 1,3,6 hoặc 9 tháng; mệnh giá có nhiều loại mà tối thiểu là 500 triệu VND, tối đa là 10.000 triệu VND. Tổng giá trị phát hành từng đợt và mệnh giá cụ thể do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố trước mỗi đợt phát hành. Các tín phiếu được bán dưới hình thức đấu giá theo 1 trong 2 phương thức: đấu giá khối lượng và đấu giá giá bán. Người mua tín phiếu là các tổ chức tín dụng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hành Nhà nước đã tổ chức được 3 đợt đấu thầu tín phiếu vào cuối năm 1995 và đầu 1996 vớ tổng số phát hành là 1565,5 tỷ VND, thời hạn từ 1 đến 3 tháng, lãi suất 0,7%/tháng trả trước. Đến tháng 1/1999, NHNN phát hành lượng tín phiếu NHNN với tổng giá trị là 600 tỷ đồng; thời hạn 3 tháng, lãi suất 0,9%/ tháng. Ngày 28/04/1999, NHNN đã phát hành 700 tỷ VND tín phiếu NHNN với phương thức bắt buộc.
Trong những năm qua, số lượng tín phiếu NHNN được phát hành rất ít, phát hành không thường xuyên. Các tổ chức tín dụng tham gia mua tín phiếu chủ yếu là NHTM quốc doanh thời hạn tín phiếu rất ngắn thường là 3 tháng. Để trở thành công cụ điều hành thị trường tiền tệ có hiệu quả thì tín phiếu NHNN phải đáp ứng hơn nữa cả về số lượng và chất lượng.
Theo quy chế phát hành tín phiếu NHNN số 362/1999 QĐ-NHNN1 ngày 08/19/1999 thì tín phiếu được tự do mua bán, chuyển nhượng, cầm cố giữa các tổ chức tín dụng, được cầm cố để vay vốn hoặc chiết khấu giưa các NHNN, được sử dụng làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Thời hạn tín phiếu là dưới 1 năm, mệnh giá tối thiểu là 100 triệu đồng và các mức mệnh giá bằng bội số của 100 triệu đồng.
c. Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng:
Từ năm 1992 cho đến nay, các NHTMmà chủ yếu là các NHTM quốc doanh đã phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng ngắn hạn của mình. Các NHTM cổ phần và công ty tài chính cũng đã phát hành các loại giấy tờ có giá, các trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng này có mục đích là một loại giấy nhận nợ của nhân hàng nhằm huy động vốn trong dân cư, đáp ứng cho một dự án kinh tế nhất định, chúng có lãi suất in sẵn, có thể được trả lãi trước khi mua kỳ phiếu.
Hiện nay số lượng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng được phát hành ra với số lượng ngày càng tăng. Điều này đã tạo thói quen đầu tư kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng trong dân chúng, mở ra một hình thức đầu tư mới bên cạnh việc gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Tuy nhiên các kỳ phiếu, trái phiếu vẫn còn mọt số điểm hạn chế.
Thời hạn của kỳ phiếu, trái phiếu thông thường là 3 thàng hoặc 6 tháng và tối đa là một năm. Do đó để đảm bảo cho kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng giữa những người đầu tư (trong điều kiện thị trường còn rất hạn hẹp) thị trời hạn của kỳ phiếu, trái phiếu cần đa dạng hơn.
Các NHTM không phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng một cách thường xuyên. Thông thường, khi nào các ngân hàng cần vốn đầu tư ngắn hạn thì các ngân hàng mới phát hành kỳ phiếu. Vì lẽ đó, lượng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng trong nền kinh tế không nhiều, chưa đủ sức tạo ra một thị trường thứ cấp về kỳ phiếu ngân hàng. Các kỳ phiếu, trái phiếu phát hành trong những năm qua thực chất như một loại sổ tiết kiệm có lãi suất cố định, tính chuyển nhượng rất thấp. Tỷ lệ vốn huy động trong việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của họ. Điều này có thể cho thấy là các NHTM chưa thực sự chú trọng đến việc huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Do đó các NHTM chưa thu hút được triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng ngắn hạn mới chủ yếu là hoạt động của các NHTM quốc doanh. NHTM cổ phần gần như chưa huy động vốn dưới hình thức này, không phải các NHTM cổ phần không có nhu cầu vốn đầu tư mà là các ngân hàng này chưa tạo được niềm tin cho dân chúng, tình hình tài chính chưa thật sự lành mạnh, niềm tin đối với người đầu tư chưa cao. Các ngân hàng liên doanh và chi nhánh NHNN cũng ít khi và hầu như không huy động vốn dưới hình thức này.
d. Thương phiếu:
Thương phiếu là một công cụ nợ ngắn hạn do các doanh nghiệp phát hành trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá. Từ khi có các luật liên quan đến thương phiều như Luật thương mại (có hiệu lực ngày 1/1/1999); Luật các tổ chức tín dụng và Luật NHNN (có hiệu lực ngày 1/1/1999); Pháp lệnh thương phiếu... các NHTM đã tiến hành hoạt động giao dịch về thương phiếu như chiết khấu và tái chiết khấu. Cho đến nay, thương phiếu ngày càng có ý nghiã to lớn đối với các doanh nghiêpj và hệ thống tài chính.
Quan hệ thanh toán công cụ nợ giữa các doanh nghiệp ngày càng gia tăng. Từ 30/4/1997 trở về trước, nợ dây dưa trong các doanh nghiệp nhà nước chưa được xử lý là 16000 tỷ VND, ở các doanh nghiệp nhà nước TW và Bộ nghành nợ 4.966 tỷ VND. Nợ của các DNNN đến cuối năm 1997 là rất lớn, xét bình quân nợ lớn hơn vốn tự có. Việc các DNNN không có khả năng giải quyết vấn đề này là một trong những nguyên nhân làm cho thâm hụt NSNN tăng lên. Vì vậy, việc tìm kiếm những phương tiện lưu thông và thanh toán mới để góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, giao dịch thương mại là một đòi hỏi bức thiết. Thương phiếu là một trong những giải pháp đó. Mặt khác để thực hiện chính sách tiền tệ thành công, NHNN Việt Nam cần thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, đa dạng. Để làm được điều này, việc tạo ra các giấy tờ có giá ngắn hạn để NHNN thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả, góp phần tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường là rất cần thiết. Thương phiếu là một trong những công cụ nợ ngắn hạn tích cực và điển hình mà chúng ta cần phải xây dựng và hoàn thiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân.
2. Mức độ thị trường hoá của các công cụ ngắn hạn hiện có.
Thị trường vốn ngắn hạn bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Cho đến nay, thị trường sơ cấp đã hình thành nhưng đang còn ở mức sơ khai, chưa hoạt động xuyên, chưa có định hướng rõ ràng. Các công cụ nợ ngắn hạn hiện có là rất ít ỏi, chủ yếu là tín phiếu, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu, tín phiếu NHNN. Đa số các công cụ này đã hết thời hạn thanh toán.
Thị trường thứ cấp về công cụ nợ ngắn hạn ở Việt Nam đã hình thành nhưng ở mức độ nhỏ bé, hạn chế. Điều nầy thể hiện ở một số nội dung hoạt động như:
Chiết khấu giấy tờ có giá: Trong những năm gần đây, một số NHTM cổ phần đã chiết khấu các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của những khách hàng có quan hệ thường xuyên với mình. Khách hàng đã chiết khấu giấy tờ có giá tại NHTM thường là các công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công ty tư nhân, công ty TNHH, trong đó các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài có nhu cầu chiết khấu nhiều nhất. Các NHTM quốc doanh hầu như chưa tham gia vào nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá. Cho đến nay, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá mới chỉ thực hiện ở thị trường sơ cấp đốivới tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu NHTM.
Đầu tư vào các giấy tờ có giá: Trong thời gian qua các NHTM đã đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu kho bạc hay trái phiếu của các NHTM khác bằng việc tham gia đấu thầu mua lại từ các tổ chức trúng thầu hay mua trực tiếp. Việc đầu tư này có ý nghĩa như là việc dự trữ giá trị hơn là mục đích sinh lời. Chiếm vị trí đầu tư lớn nhất vào các giấy tờ có giá vẫn là cNHTM quốc doanh vào một số NHTM lớn.
Dùng giấy tờ có giá làm dảm bảo tiền vay: Các NHTM ít sử dụng giấy tờ có giá vào mục đích này, tuy khách hàng có nhu cầu, vì số lượng giấy tờ có giá còn ít ỏi, quy chế chưa thật đầy đủ, sự hiểu biết của khách hàng và ngân hàng về giấy tờ có giá còn chưa hoàn chỉnh.
III. Thực trạng của hoạt động thị trường mở_giải pháp và kiến nghị.
1. Thực trạng của hoạt động thị trường mở ở Việt Nam.
Nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu vận hành vào 12/7/2000, ghi nhận việc chuyển điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHNN Việt Nam. Quy chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở được ban hành theo quyết định số 85/2000/QĐ_NHNN14 ngày 9/3/2000. Qua gần nửa năm hoạt động, ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở đã có những chỉ đạo sát sao đối với hoạt động của thị trường do đó đã khắc phục được phần nào khó khăn trong thời gian đầu vận hành. Thành viên tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các tổ chức tín dụng, NHNN bao gồm 15 thành viên là Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng Chinfon, NHTM cổ phần Sài Gòn Thương tín, NHTM cổ phần các doanh nghiệp, NHTM cổ phần Phương Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ phần quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRD Bank, Công ty tài chính bưu điện.
Tuy chưa phải số nhiều, song số lượng các tổ chức tín dụng này đã đại diện cho các tổ chức tín dụng hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên. Trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các tổ chức tín dụng khác hầu như chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở từ 12/7/2000 đến 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ đồng; của Ngân hàng NN & PTNTlà 16,670 tỷ đồng; Ngân hàng ngoại thương Việt Nam là 228,390 tỷ đồng; Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN được mua bán nhiều nhất với số lượng 1070 tỷ/ 1.448,500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá thị đến hạn thanh toán. Như vậy, hàng hoá thị trường mở là khá đơn điệu và chỉ tập ở các NHTM quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương pháp mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi. Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu thầu lãi suất.
Như vậy, qua gần 1 năm hoạt động thị trường mở vẫn chưa thực sự xứng đáng với tầm quan trọng của nó. Số thành viên đăng ký giao dịch là 20 nhưng mới chỉ có 6 thành viên chính thức giao dịch. Các tổ chức tín dụng chưa thường xuyên tham gia vào các phiên giao dịch cách nhau 10 ngày/lần, tạo quang cảnh khá buồn tẻ ở từng phiên giao dịch. Hàng hoá giao dịch ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có giá ngắn hạn và tâpj trung vào hai loại tín phiếu là tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc. Phương thức giao dịch chỉ là mua bán hẳn, chưa áp dụng mua bán có kỳ hạn. Về khối lượng giao dịch, bình quân mỗi phiên đạt gần 100 tỷ VND. Nếu so sánh khối lượng bình quân của từng phiên giao dịch với một vài chỉ tiêu kinh tế khác ta sẽ thấy được ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đối với nền kinh tế. Thật vậy, tính đến cuối năm 2000,tổng phương tiện thanh toán đạt 178.000 tỷ VND; tổng dự trữ tín dụng của hệ thống ngân hàng đạt khoảng 104.000 tỷ VND. Như vậy, khối lượng mỗi phiên giao dịch trên thị trường mở là quá nhỏ bé nếu không muốn nói là không đáng kể so với tổng lượng tiền tệ, tín dụng nền kinh tế. Vì vậy những tác động và iệu quả của nghiệp vụ thị trường mở tới chính sách tiền tệ chưa sâu rộng và thiết thực. Vậy cần làm thế nào để nâng cao hiệu quả tác động của nghiệp vụ thị trường mở tới chính sách kinh tế.
2. Giải pháp và kiến nghị.
a. Nghiệp vụ thị trường mở thực chất là hoạt động của NHTW trên thị trường mở để tác động đến lượng tiền cung ứng trong từng thời kì. ở giai đoạn đầu, thành viên thị trường mở chủ yếu là các tổ chức tín dụng là phù hợp. Tuy nhiên, các tổ chức này chưa thực sự cần đến thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng của mình và NHNN cũng chưa có biện pháp thích hợp chỉ huy nghiệp vụ này. Các tổ chức tín dụng chưa đầu tư nhiều vào các giấy tờ có giá ngắn hạn. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng, tạo sự phân biệt đáng kể trên thị trường. Như thế, để cho các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh tham gia vào thị trường mở một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sự bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại.
b. Đa dạng hoá trên thị trường:
Hàng hoá trên thị trường mở hiện nay còn rất ít ỏi và khan hiếm. Cần phải có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng, đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ thị trường mở nhanh, chính xác. Cần bổ sung vào cơ cấu hàng hoá các tín phiếu kho bạc có thời hạn dưới một năm, các loại chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng... Tuy nhiên, về lâu dài có thể mở rộng thị trường không chỉ gồm giấy tờ ngắn hạn mà có cả những giấy tờ có giá trung và dài hạn miễn là chúng có độ thanh khoản cao. Nghiệp vụ thị trường mở phải được sự hỗ trợ tích cực của thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng của chứng khoán trên thị trường, kích thích đầu cơ chứng khoán. Tình trạng đầu cơ chứng khoán vừa làm thay đổi dự trữ chứng khoán của các chủ thể kinh tế, vừa làm biến động vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Trong điều kiện biến động vốn khả dụng như vậy các ngân hàng buộc phải tìm đến thị trương mở để duy trì thanh khoản và nghiệp vụ thị trường mở sẽ sôi động hơn.
c. Về phương thức giao dịch:
Phương thức giao dịch phù hợp nhất với nghiệp vụ thị trường mở là mua bán có kỳ hạn, mà NHTW là người chủ động quyết định mua bán với số lượng bao nhiêu , thời gian nào, theo phương thức nào tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kì. Việc đấu thầu lãi suâts hay khối lượng phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ. NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì đấu thầu khối lượng khi báo dự trữ không thay đổi, biểu hiện có sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá. Ngoài nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn dễ dàng cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch. Nếu dự báo cho thấy dự trữ thay đổi thất thường, để hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng có thể là mua bán có kì hạn nhằm làm tăng hoặc giảm tạm thời một lượng tiền nhất định trong một thời gian mua bán.
Cần tăng số lượng phiên giao dịch trong tháng, từ 10 ngày 1 phiên xuống còn 7 ngày một phiên rồi 5 ngày, 3 ngày và tương lai là 1 ngày. Dù khối lượng giao dịch còn ít nhưng việc tăng cường số lượng phiên giao dịch sẽ gây sự chú ý cho các thành viên và lôi cuốn họ tham gia.
d. Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng:
Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động hiệu quả cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại. Có sự liên kết giữa NHNN và các tổ chức tín dụng thành viên nhằm đảm bảo thực hiện các giao dịch từ khi công nhận thành viên đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu... cho đến khâu thanh toán chứng khoán và thông báo các báo cáo. Mặt khác, cần phải nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn của các nhân viên ngân hàng và các tổ chức tín dụng để việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng chính xác và phổ biến hơn.
e. Cần phải xem xét các điều kiện áp dụng nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở cung với nghiệp vụ tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc tạo nên hệ thông các công cụ điều hành gián tiếp của chính sách tiền tệ. Khi áp dụng các công cụ này, điều kiện cần thiết là cầu tiền phải nhạy cảm với lãi suất. Nếu công chúng thờ ơ với mức lãi suất thì nghiệp vụ thị trường mở không đạt được kết quả.
Khi lãi suất tăng, công chúng và doanh nghiệp phản ứng nhanh với mức lãi suất mới sẽ thu hẹp cầu tiền. Họ cắt giảm các khoản vay làm giảm cung tiền từ đó vốn khả dụng của ngân hàng tăng lên, các ngân hàng buộc phải thực hiện nghiệp vụ mua. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, các ngân hàng cho vay nhiều hơn và tình trạng thiếu vốn khả dụng sẽ buộc họ phải thực hiện nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
Việc tái cấp vốn của NHNN cho các ngân hàng cần phải được lựa chọn giữa một trong hai nghiệp vụ: nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn. Nếu áp dụng cả hai nghiệp vụ cùng một lúc thì dễ dàng triệt tiêu nhau.
Kết luận
Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam là hoạt động hoàn toàn mới mẻ cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với Việt Nam. Điều kiện phát huy và điều hành nghiệp vụ thị trường mở là điều không dễ dàng. Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ tái cấp vốn của NHTW và có thể nói nó là một công cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của Chính sách tiền tệ thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các chủ thể có liên quan nhằm tác động trực tiếp tới lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn. Để nghiệp vụ thị trường mở thực sự phát huy hiệu quả thì cần phải có các yếu tố cần thiết như số lượng và chất lượng các giấy tờ có giá, các thành viên tham gia thị trường, cơ chế giao dịch, sự phối kết hợp giữa các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như giữa các thị trường và các tổ chức có liên quan. Hiên nay việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta là hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế khi xu thế hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ. Vì thị trường mở bước đầu mới đi vào hoạt động nên nó chưa thực sự sôi động và cần phải có những biện pháp hỗ trợ để nó trở thành công cụ đầy “quyền lực” của Chính sách tiền tệ.
Em hi vọng rằng trong những năm tới, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở sẽ được áp dụng rộng rãi và thu được kết quả cao. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy Đặng Ngọc Đức đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này và mong nhận đưọc ý kiến chỉ bảo của các thầy cô !
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiền tệ và hoạt động ngân hàng - Lê Vinh Danh - NXB chính trị quốc gia 1997.
Lý thuyết tiền tệ ngân hàng - Nguyễn Ngọc Hùng -1997.
Phân tích thị trường tài chính - David Blake - NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox.
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic-Smihkin.
Tạp chí ngân hàng số 6/2001.
Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 2, số 3, số 4/2001.
Thời báo ngân hàng.
Tạp chí tài chính tiền tệ.
Thời báo kinh tế.
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐH KTQD.
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chương I: cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở
3
I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
3
1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ thị trường mở
3
2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
4
II. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
5
1. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
5
2. Tác động qua lãi suất
6
III. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
6
1. Các nghiệp vụ thị trường mở
6
2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
8
3. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
8
4. Những người tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở
10
IV. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ
12
Chương II: sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
14
I. Thực trạng của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian
14
1. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua
14
2. Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua
18
3. Tác dụng của thị trường mở
19
II. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn hiện nay ở Việt Nam
20
1. Sự phát triển các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam
20
2. Mức độ thị trường hoá của các công cụ ngắn hạn hiện có
25
III. Thực trạng hoạt động của thị trường mở - giải pháp và kiến nghị
26
1. Thực trạng của hoạt động thị trường mở ở Việt Nam
26
2. Giải pháp và kiến nghị
28
Kết luận
31
Danh mục tài liệu tham khảo
32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0975.doc